Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

LÝ LUẬN CHUNG về VIỆC PHỐI hợp NHÀ TRƯỜNG với CỘNG ĐỒNG TRONG GIÁO dục sức KHỎE SINH sản vị THÀNH NIÊN CHO học SINH TRUNG học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.66 KB, 59 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC PHỐI HỢP NHÀ
TRƯỜNG VỚI CỘNG ĐỒNG TRONG GIÁO DỤC SỨC
KHỎE SINH SẢN VỊ THÀNH NIÊN CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ


Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Các nghiên cứu về giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành
niên
Các công trình nghiên cứu về giáo dục sức khỏe sinh sản vị
thành niên trên thế giới
Sức khỏe con người mà trong đó sức khỏe sinh sản là một
trong những mối ưu tiên hàng đầu của tất cả các quốc gia trên thế
giới. Vấn đề này được các quốc gia quan tâm và đưa vào chương
trình giáo dục từ rất sớm nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và
dân số:
A.X.Makarenco (1888 - 1939) cho rằng, thanh niên cần
“phải học tập cách yêu đương, phải học tập để hiểu biết tình yêu,
phải học tập cách sống hạnh phúc và như thể có nghĩa là học tập
để biết tự trọng, học tập để biết cái vinh hạnh được làm người”
Trong các bài giảng về giới tính và sức khỏe sinh sản ông cho
rằng: “Chúng ta phải giáo dục con em chúng ta làm sao để các em
có thái độ đối với tình yêu như đối với một tình cảm nghiêm túc
và sâu nặng, để các em được hưởng khoái cảm của mình, tình yêu
của mình, hạnh phúc của mình trong khuôn khổ gia đình” [34,
tr.12]


Năm 1933 “Hiệp hội quốc gia tình dục” ra đời tại Thụy Điển
với mục đích: Thông tin phổ biến kiến thức về giới tính, tình dục.
Sản xuất và buôn bán thuốc tránh thai, dụng cụ tránh thai. Họ coi


tình dục là quyền tự do của con người, là quyền bình đẳng giữa nam
và nữ, trách nhiệm đạo đức của công dân đối với xã hội. [3]
Từ ngày 6-12/9/1978 tại Alma-Ata, Kazakhstan Hội nghị
quốc tế về Chăm sóc Sức khỏe Ban đầu được Tổ chức y tế thế
giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc (UNICEF) bảo trợ,
với sự tham gia của 134 nước - trong đó có Việt Nam tham dự.
Tuyên ngôn Alma-Ata về chăm sóc sức khỏe ban đầu, gồm 10
điểm, là chiến lược y tế toàn cầu nhằm đạt mục tiêu “Sức khỏe
cho mọi người”. Hội nghị nhấn mạnh vấn đề chăm sóc sức khỏe
ban đầu nhằm tạo dựng một hệ thống y tế đáp ứng sự thay đổi
nhanh chóng về mô hình bệnh tật, về dân số học và về kinh tế xã hội.
Chương trình hành động của Hội nghị quốc tế về dân số và
phát triển Cai rô, Ai Cập tháng 11 năm 1994, đã nhấn mạnh tầm
quan trọng trong công tác giáo dục sức khỏe đối với việc dân số
và ổn định quy mô, cơ cấu dân số. Trong đó nội dung mới được
thừa nhận tại tại Hội nghị này đó là GDSKSS và SKSS VTN. Hội
nghị đề ra 15 nguyên tắc khẳng định con người mới là trung tâm


đối với sự phát triển bền vững. Khái niệm mới về SKSS bao gồm
tình trạng sức khỏe, quá trình sinh sản và chất lượng cuộc sống đã
được trình bày cặn kẽ trong chương trình hành động. [42]
Ông Nafit Sadik - Giám đốc điều hành Quỹ dân số Liên
Hợp quốc đã đưa ra một thông điệp với nội dung: “Giới trẻ ngày
nay có ý thức về SKSS hơn và họ biết SKSS rất quan trọng. Họ
đều muốn xử sự một cách có trách nhiệm, muốn bảo vệ sức khỏe
của chính mình và của cả người mình yêu vì họ biết rằng đây là
việc nên làm. Phần lớn trong số họ khát khao tìm hiểu, họ muốn
có thông tin về tình dục và sức khỏe tình dục. Họ muốn biết làm
thế nào để bản thân họ và người yêu họ không có thai ngoài ý

muốn, tránh được các bệnh lây truyền qua đường tình dục bao
gồm cả HIV/AIDS”. [45]
Ông Bjorn Andersson (Giám đốc khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương của quỹ dân số Liên Hợp Quốc) cho rằng: Ở khu vực
châu Á - Thái Bình Dương, mỗi năm có khoảng 10.000 trẻ em gái
VTN tử vong do các biến chứng liên quan tới thai nghén; có 5,2
triệu trường hợp mang thai ở tuổi vị thành niên. Các bằng chứng
từ các quốc gia trong khu vực cho thấy thanh niên và vị thành
niên đang bị bỏ lại phía sau, đặc biệt trong những lĩnh vực như
chăm sóc SKSS, sức khỏe tình dục. Lý do khiến họ chưa được


quan tâm thường liên quan tới những luật hoặc quy định mang
nặng tính hạn chế, ngăn cấm. Các luật và quy định này hạn chế
thanh niên và VTN tiếp cận với các thông tin, dịch vụ thiết yếu.
Chính vì thế, thực hiện quyền cho tất cả VTN thông qua việc cung
cấp các dịch vụ giáo dục, giáo dục giới tính toàn diện và các dịch
vụ chăm sóc SKSS, SKTD là một công việc cần thiết, nhằm đảm
bảo sự công bằng, đồng thời đảm bảo rằng mỗi VTN sẽ có cơ hội
xây dựng một cơ sở vững vàng làm tiền đề cho cuộc sống tương
lai của mình. [46]
Như vậy, chúng ta thấy rằng vấn đề SKSS được hầu hết tất
cả các nước trên thế giới quan tâm, chú trọng trong các mục tiêu
chương trình quốc gia. Và, các nước coi GDSKSS chính là việc
nâng cao chất lượng cuộc sống con người.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về GDSKSS VTN tại Việt
Nam:
Ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1989 đến 1992 các dự án giáo
dục dân số đã được thử nghiệm. Giai đoạn từ 1994 đến 1998 bắt
đầu đã thể chế hóa giáo dục dân số trong nhà trường. Lần đầu tiên

giáo dục dân số đưa vào chương trình tích hợp giáo dục dân số với
5 chủ đề cơ bản, trong đó có vấn đề giới. Các nội dung SKSS đã
được chính thức lồng ghép vào nội dung một số môn học trong


các bậc học và dần khẳng định vai trò trọng tâm của công tác giáo
dục dân số phải là GDSKSS cho VTN. Tháng 10 năm 1996 hội
thảo vì SKSS VTN đã nhấn mạnh tới giải quyết vấn đề SKSS
VTN là một yêu cầu quan trọng trong vấn đề phát triển đất nước.
Tuy nhiên, hội thảo vẫn chưa chú trọng tới GDSKSS là một mục
tiêu ưu tiên quốc gia. Các chương trình giáo dục phổ thông cho
giai đoạn sau 2000 mới bắt đầu quan tâm đặt ra mục tiêu và xây
dựng được nội dung GDSKSS vào các môn học, bậc học. Mục
tiêu giáo dục dân số nói riêng và GDSKSS trong giai đoạn này tập
trung chú yếu vào các nội dung như: Xây dựng chương trình tích
hợp giáo dục dân số trên tinh thần nhấn mạnh tới GDSKSS VTN;
xây dựng các tài liệu hướng dẫn giảng dạy, tài liệu tham khảo và
các tài liệu trực quan; tập huấn giáo viên… tuy nhiên, đến nay
chúng ta vẫn chưa xây dựng được các tài liệu và chương trình
GDSKSS phù hợp cho các cấp học.
Ủy ban Dân số gia đình và Trẻ em đã quan tâm GDSKSS
cho VTN, trong chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001 2010 nêu rõ: “Tạo sự chuyển đổi hành vi bền vững về dân số,
SKSS, KHHGĐ trên cơ sở cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin
với nội dung và hình thức phù hợp với từng vùng, từng khu vực
và từng nhóm đối tượng. Chú trọng hình thức tư vấn, đối thoại,


vận động trực tiếp các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, nam
giới, thanh niên và những người chưa thành niên”. [11]
Năm 2004, Ủy ban dân số gia đình và trẻ em triển khai đề án

“Mô hình cung cấp thông tin và dịch vụ SKSS/KHHGĐ cho VTN
và thanh niên” tại 10 tỉnh, thành phố. Đến năm 2016 đề án mở
rộng ra 28 tỉnh, thành phố. Đề án hướng tới mục tiêu nâng cao
nhận thức về SKSS, bao gồm: khái niệm giới, giới tính, tình dục
an toàn, phòng tránh các bệnh lây lan qua đường tình dục… góp
phần đẩy lùi tác hại đến SKSS VTN và nâng cao nhận thức cho
dưới trẻ về SKSS.
Ngoài ra, trong những năm gần đây có rất nhiều những công
trình nghiên cứu về vấn đề SKSS VTN như:
Dự án VIE/97/P13 (2001) của Bộ giáo dục - đào tạo đã sản
xuất tài liệu: Phương pháp giảng dạy các chủ đề nhạy cảm về
“SKSS” (2000); và bộ tài liệu tự học dành cho giáo viên
“GDSKSS VTN”.
Nguyễn Thế Hùng (2005): “Biện pháp bồi dưỡng năng lực
GDSKSS VTN đối với các bậc cha mẹ”
Nguyễn Ngọc Thái (2006): “Quản lý GDSKSS cho VTN
thông qua mô hình giáo dục đồng đẳng tại tỉnh Quảng Nam”


Nguyễn Thị Hải Lý (2008): “Ảnh hưởng của giáo dục nhà
trường tới nhận thức của học sinh THPT về SKSS”
Phan Hữu Dũng (2014): “Quản lý công tác giáo dục sức
khoẻ sinh sản cho học sinh THCS huyện Hoà Vang thành phố Đà
Nẵng”
Nhìn chung các công trình trên đều quan tâm nghiên cứu
thực trạng và tìm ra giải pháp trong GDSKSS cho con người nói
chung và học sinh nói riêng. Tuy nhiên, hạn chế của các công
trình này là chưa tập trung khai thác yếu tố cộng đồng tham gia
vào GDSKSS cùng với nhà trường nên hiệu quả của công tác này
còn hạn chế.

- Các nghiên cứu về phối hợp nhà trường và cộng đồng
trong GD SKSS VTN cho học sinh THCS
Giáo dục dân số hay GDSKSS VTN cho học sinh THCS
đang là vấn đề ít được quan tâm nghiên cứu. Hiện tại chỉ có một
số công trình nghiên cứu về giáo dục dân số hay SKSS như:
Nguyễn Thị Phương Nhung (2009): “Biện pháp giáo dục sức
khỏe sinh sản vị thành niên cho học sinh lớp 9 huyện Giao Thủy Tỉnh Nam Định” đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu nguyên nhân,
thực trạng giáo dục SKSS VTN cho học sinh khối 9 mà chưa đưa


ra được các biện pháp huy động các lực lượng cộng đồng cùng
tham gia với nhà trường. [31]
Võ Thị Hà (2010): “Biện pháp phối hợp nhà trường với Hội
liên hiệp phụ nữ để giáo dục sức khoẻ sinh sản cho học sinh các
trường trung học phổ thông thành phố Ninh Bình” đề tài tập trung
việc xác định các biện pháp quản lý phối hợp giữa nhà trường
trung học phổ thông với Hội liên hiệp phụ nữ trên địa bàn thành
phố Ninh Bình để giáo dục SKSS cho học sinh. Đề tài bước đầu
đã huy động được các lực lượng cộng đồng tham gia cùng nhà
trường trong GDSKSS VTN. Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở phạm vi
phối hợp nhà trường với Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong
quản lý GDSKSS VTN cho học sinh trung học phổ thông. [19]
Như vậy, các công trình nghiên cứu về phối hợp nhà trường
và cộng đồng trong GDSKSS VTN là chưa nhiều, quan trọng
hơn là các công trình nghiên cứu về phối hợp nhà trường với
cộng đồng trong GDSKSS VTN cho học sinh THCS là chưa có.
Đặc biệt là trên địa bàn thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
Chính vì những lý do trên, bản thân tôi tập trung nghiên cứu
phối hợp nhà trường với cộng đồng trong GDSKSS VTN cho học
sinh THCS trên địa bàn Thành phố Quy Nhơn, nhằm bổ sung,

hoàn thiện hệ thống biện pháp phối hợp nhà trường với cộng đồng


trong GDSKSS VTN cho học sinh THCS phù hợp với công tác
giáo dục nhà trường trong điều kiện hiện nay.
- Một số khái niệm cơ bản của đề tài
- Cộng đồng
Khái niệm cộng đồng có nhiều cách hiểu khác nhau, đồng
thời cộng đồng cũng chính là đối tượng nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học: Y học, Xã hội học,..
Cách hiểu nhiều nhất của cộng đồng là tập hợp người với các
liên minh rộng lớn như toàn thế giới (cộng đồng thế giới), một châu
lục (cộng đồng châu á, cộng đồng châu âu ...), một khu vực (cộng
đồng Asean). Cộng đồng còn được áp dụng để chỉ một kiểu xã hội,
căn cứ vào những đặc tính tương đồng về sắc tộc, chủng tộc hay tôn
giáo (cộng đồng người Do Thái, cộng đồng người da đen tại Hoa
Kỳ...). Nhỏ hơn nữa, cộng đồng được dùng khi gọi tên các đơn vị
như làng, xã, huyện...những người chung về lý tưởng xã hội, lứa tuổi,
giới tính, thân phận xã hội... [1]
Theo từ điển Đại học Oxford: “Cộng đồng là tập thể người
sống trong cùng một khu vực, một tỉnh hoặc một quốc gia và được
xem như một khối thống nhất; cộng đồng là một nhóm người có
cùng tín ngưỡng, chủng tộc, cùng loại hình nghề nghiệp, hoặc


cùng mối quan tâm; cộng đồng là một tập thể cùng chia sẻ, hoặc
có tài nguyên chung, hoặc có tình trạng tương tự nhau về một số
khía cạnh nào đó”. Với cách hiểu này, cộng đồng có thể chia ra:
Cộng đồng địa lý: những người dân cư trú cùng một địa bàn
có thể có chung các đặc điểm văn hóa xã hội và có thể có mói

quan hệ ràng buộc với nhau. Họ cùng áp dụng chính sách chung
của cộng đồng.
Cộng động chức năng: gồm những người cư trú cùng nhau
hoặc không gần nhau nhưng có lợi ích chung. Họ liên kết với
nhau trên cơ sở nghề nghiệp, sở thích, hợp tác hay hiệp hội có tổ
chức.
- Nhà trường
Quan điểm của Chủ nghĩa Duy vật biện chứng Mác - LêNin
về nhà trường thì nhà trường là một dạng thiết chế tổ chức chuyên
biệt và đặc thù của xã hội, được hình thành do nhu cầu tất yếu
khách quan của xã hội nhằm thực hiện các chức năng truyền thụ
kinh nghiệm xã hội cho từng nhóm dân cư nhất định trong cộng
đồng xã hội.
Như vậy, nhà trường có thể coi là một thiết chế tổ chức
chuyên biệt trong hệ thống tổ chức xã hội, đóng vai trò tái tạo


nguồn nhân lực phục vụ cho sự duy trì và phát triển của xã hội.
- Phối hợp nhà trường với cộng đồng
Phối hợp.
Theo Từ điển Tiếng Việt, phối hợp là sự bố trí cùng nhau
làm theo một kế hoạch chung để đạt một mục đích chung. [36]
Theo quan điểm của Lawrence K. Jones: Phối hợp là cá nhân
hoặc tổ chức làm việc chung với nhau và cùng hướng về một mục
tiêu chung.
Theo ông Trần Quốc Thành: “Phối hợp là liên kết nhiều bộ
phận để cùng giải quyết một công việc, cùng thực hiện một mục
tiêu nào đó. Mức độ phụ thuộc vào nhau là rất chặt chẽ” [40]
Như vậy, phối hợp bao giờ cũng có ít nhất 2 khách thể cùng
có mong muốn đạt được mục đích chung nhất định.

Trong phạm vi đề tài của tôi, có thể hiểu phối hợp nhà
trường với cộng đồng có nghĩa là nhà trường phát huy vai trò chủ
đạo, chủ động cùng với các lực lượng cộng đồng xây dựng một kế
hoạch GDSKSS, xác định mục đích, nội dung, các biện pháp thực
hiện, nguồn lực để tổ chức GDSKSS cho học sinh nhằm đạt mục
tiêu đặt ra đó là nâng cao nhận thức, thái độ và kỹ năng của học
sinh THCS về SKSS.


- Vị thành niên
Có nhiều khái niệm khác nhau về VTN, cụ thể:
Năm 1998, trong một tuyên bố chung giữa Tổ chức Y tế thế
giới (WHO) và Quỹ dân số Liên hiệp quốc (UNFPA) đã thống
nhất phân loại nam nữ còn trẻ tuổi thành 3 loại như sau: VTN: 10
- 19 tuổi, thanh niên 15 - 24 tuổi, người trẻ 10 - 24 tuổi. Có thể
hiểu, VTN là “giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ con sang người lớn”.
Độ tuổi VTN: từ 10 đến 19 tuổi, chiếm 20% dân số. [43]
Theo từ điển Tiếng Việt, VTN là những người chưa đến tuổi
trưởng thành để chịu trách nhiệm về những hành động của mình.
[36]
Chương trình SKSS/SKTD VTN - thanh niên của khối Liên
minh châu Âu (EU) và Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) lấy
độ tuổi 15 - 24 tuổi.
Hội KHHGD Việt Nam đã xác định VTN là độ tuổi từ 10 19 tuổi và chia làm 2 giai đoạn: giai đoạn đầu từ 10 - 14, giai đoạn
sau là từ 15 - 19 tuổi.
Theo ông Phạm Song - chủ tịch Hội KHHGD Việt Nam, quá
trình dậy thì của VTN được chia thành 3 thời kỳ: Thời kỳ đầu từ


10 đến 13 tuổi; thời kỳ giữa từ 14 đến 16 tuổi; thời kỳ cuối từ 17

đến 21 tuổi.
Quy định về độ tuổi thanh niên ở mỗi nước cũng khác nhau:
nhiều nước quy định từ 18 - 24 tuổi hoặc 15 - 24 tuổi, có nước từ
15 - 30 tuổi.
Như vậy, có thể thấy rằng độ tuổi VTN còn chưa quy định
thống nhất giữa các nước trên thế giới. Vì vậy, để phục vụ cho
việc nghiên cứu trong đề tài này, tôi xin chọn khái niệm của Hội
KHHGD Việt Nam vì nó phù hợp với độ tuổi THCS mà tôi nghiên
cứu.
- Sức khỏe sinh sản vị thành niên
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO):
Sức khỏe là một trạng thái thoải mải hoàn toàn về thể chất,
tinh thần và xã hội chứ không phải là một tình trạng không có
bệnh tật hay tàn phế.
SKSS là một trạng thái hoàn hảo về mặt thể chất, tinh thần
và xã hội trong mọi khía cạnh liên quan đến hệ thống sinh sản,
chức năng sinh sản và quá trình sinh sản. [51, tr34]
Hội nghị Quốc tế về dân số và phát triển - Cai rô, Ai Cập
tháng 11 năm 1994 đã đề cập tới SKSS:


SKSS được định nghĩa là “trạng thái khỏe mạnh về thể chất,
tinh thần và xã hội của tất cả những gì liên quan đến hoạt động và
chức năng của bộ máy sinh sản chứ không chỉ đơn thuần là không
có bệnh hay khuyết tật ở hệ thống sinh sản” đồng nghĩa với việc
VTN: được nhận thông tin và tiếp cận lựa chọn các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe, các biện pháp kế hoạch hóa gia đình an toàn, đảm
bảo cho người phụ nữ trải qua quá trình thai nghén và sinh đẻ an
toàn, tạo cho các cặp vợ chồng cơ may tốt nhất để sinh được đứa
con khoẻ mạnh. [42]

Như vậy, SKSS trước hết là sự đầy đủ về mặt thể lực và thể
chất tốt. Về mặt tinh thần, xã hội đảm bảo con người không bị bắt
buộc làm những điều họ không muốn, những điều có hại cho sức
khỏe, khả năng và năng lực sinh sản của họ vì những lý do như
không hiểu biết, thông tin sai hay hành vi của người khác ảnh
hưởng đến họ. Đồng thời, SKSS được hiểu là con người có nhu
cầu và có khả năng về một cuộc sống thoải mái, khoẻ mạnh, tình
dục được thoả mãn và an toàn. [51]
Có thể hiểu SKSS VTN: Là trạng thái khỏe mạnh về thể
chất, tinh thần và xã hội của tất cả những gì liên quan đến cấu tạo
và hoạt động của bộ máy sinh sản ở tuổi VTN, chứ không chỉ là
không có bệnh hay khuyết tật của bộ máy đó. [51]


- Giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên
Khái niệm giáo dục
Theo nghĩa rộng: “Giáo dục là quá trình tác động có mục
đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp
khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong các cơ
quan giáo dục, nhằm hình thành nhân cách cho họ”. [32] [33]
Theo nghĩa hẹp: “Giáo dục là quá trình hình thành cho người
được giáo dục lí tưởng, động cơ, tình cảm, niềm tin, những nét
tính cách của nhân cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn
trong xã hội thông qua việc tổ chức cho họ các hoạt động và giao
lưu”. [32] [33]
Giáo dục sức khỏe sinh sản
GDSKSS là quá trình tác động có định hướng, có tổ chức
thông qua nội dung, chương trình, phương pháp cụ thể của chủ
thể (nhà trường, gia đình, tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể...)
nhằm cung cấp kiến thức về giới, giới tính, cấu tạo, chức năng

các cơ quan sinh sản, tình dục, tình yêu... để hình thành ý thức,
thái độ, hành vi đúng đắn, có trách nhiệm trong các mối quan hệ
giữa bản thân và người khác giới, tạo sự hài hoà của toàn bộ hoạt
động các cơ quan sinh sản nhằm mục tiêu sinh sản hay không


sinh sản (tình dục) và thực hiện quyền sinh sản của mỗi người.
[14]
GDSKSS VTN trong nhà trường là một bộ phận quan trọng
của giáo dục nhân cách phát triển cân đối và toàn diện; nhằm
trang bị cho thế hệ trẻ các kiến thức về giới, về hoạt động và chức
năng của bộ máy sinh sản, về đời sống tình dục lành mạnh, an
toàn giúp họ hình thành thái độ, hành vi đúng đắn trong các mối
quan hệ khác giới, biết cách giải quyết các vấn đề liên quan đến
tình bạn, tình yêu, hôn nhân, biết làm chủ quá trình sản xuất ra
con người, biết chăm sóc SKSS, sức khoẻ tình dục, kiểm soát tốt
hơn đời sống tình dục và sinh sản. [14]
Quá trình GDSKSS có các thành tố, cấu trúc nhất định và
cùng vận động trong hệ thống. Các thành tố cơ bản đó là hoạt
động của nhà giáo dục và người được giáo dục; mục đích giáo
dục; nội dung giáo dục; phương pháp và hình thức tổ chức giáo
dục; kết quả giáo dục…
Nhà giáo dục là chủ thể của quá trình giáo dục nhằm thực hiện
các nhiệm vụ sau:
+ Tổ chức cho học sinh tham gia vào các hoạt động thực tiễn,
các quan hệ xã hội.


+ Giúp học sinh nắm vững tri thức và hình thành kỹ năng
ngăn chặn các ảnh hưởng tiêu cực trong quá trình lĩnh hội tri thức

SKSS của học sinh.
+ Tổ chức các hoạt động để chuyển những yêu cầu của xã
hội thành phẩm chất, kỹ năng, hình thành thói quen tích cực của
học sinh.
Như vậy, GDSKSS phải được thực hiện một cách khoa học,
đồng bộ, có hệ thống, có tổ chức với cấu trúc của nó bao gồm chủ
thể, khách thể, đối tượng, nguyên tắc, mục đích, nội dung, phương
pháp và hình thức tổ chức… xác định.
Từ nghiên cứu trên có thể thấy, GDSKSS VTN là hoạt động
giáo dục trang bị cho VTN tri thức và những kỹ năng giữ gìn, bảo
đảm cho SKSS ở tình trạng tốt nhất, giúp cho VTN có sức khỏe,
có đời sống tình dục an toàn, yêu đương lành mạnh, gia đình hạnh
phúc, có tri thức đầy đủ về SKSS, bảo đảm được sự sinh nở bình
thường, nuôi con khỏe mạnh, thông minh và phát triển.
-Giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên cho học
sinh THCS
- Đặc điểm của học sinh THCS


Học sinh THCS là học sinh từ lớp 6 đến lớp 9, tuổi từ 11 đến
15. Lứa tuổi này còn gọi là tuổi vị thành niên.
Đặc điểm về giải phẫu sinh lí
Cơ thể các em lứa tuổi THCS phát triển mạnh nhưng không
đồng đều, vì vậy mà cơ thể các em thiếu cân đối và chưa hoàn
thiện. Ở lứa tuổi này đặc điểm giải phẫu cơ thể có nhiều sự thay
đổi: sự phát triển mạnh mẽ của hệ xương, cơ. Hệ thống tim mạch,
tuyến nội tiết tố và hệ thần kinh còn chưa ổn định.
Đáng chú ý là lứa tuổi học sinh THCS còn là thời kỳ phát
dục của con người. Đó là hiện tượng bình thường, diễn ra theo
quy luật của con người. Sự phát dục của các em trai vào khoảng

15, 16 tuổi, ở các em gái khoảng 13, 14 tuổi. [20]
Nhìn chung, đặc điểm sinh lí của học sinh THCS phát triển
nhanh, mạnh nhưng còn thiếu sự ổn định và chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố môi trường tự nhiên và xã hội.
Đặc điểm về tâm lý
Hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học sinh THCS là hoạt động
giao tiếp nhóm, chủ yếu là quan hệ thân tình giữa các bạn cùng
trang lứa.


Đời sống tình cảm của học sinh THCS phong phú và phức
tạp hơn so với học sinh tiểu học. Do ảnh hưởng của sự phát dục
và sự thay đổi của các cơ quan nội tạng nên dễ nhận thấy nhất là
các em dễ xúc động, tình cảm dễ chuyển hóa, dễ thay đổi, đôi khi
còn mâu thuẫn. Nhìn chung, các em có tính bồng bột, sôi nổi,
hăng say, dễ bị kích động. Đặc trưng trong đời sống tâm lý của
học sinh THCS ở giai đoạn này là việc xuất hiện tình bạn khác
giới, các em đã bắt đầu biết quan tâm không chỉ là những người
bạn cùng giới mà bắt đầu chú ý tới bề ngoài của bản thân, tạo ra
sự thu hút về giới tính. Xuất hiện những rung động đầu đời của
tình yêu. Lúc này những biểu hiện quan tâm đến bạn khác giới
còn tản mạn.
Sự phát triển tự ý thức ở học sinh THCS đã bắt đầu biết
nhận thức về hành vi của bản thân, về những phẩm chất đạo đức,
tích cách và khả năng của mình.
Tình yêu ở lứa tuổi này thường trong trắng, hồn nhiên, giàu
cảm xúc, chân thành, để lại ấn tượng mạnh mẽ và rất sâu sắc, có
ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống tinh thần của các em. Tuy
nhiên, tình yêu mới nảy sinh này dễ tan vỡ, ít tiến tới hôn nhân,
do chưa có cơ sở vững chắc và cuộc sống của các em còn nhiều

biến động về vật chất và tinh thần,… hoặc có thể không phát


triển bình thường (không được đáp lại hoặc có những hứng thú,
rung động không hoàn toàn lành mạnh) khiến các em bị phân tán
quá mức, sao nhãng việc học hành hoặc có thể những hành vi
tiêu cực khác. [20]
Điều đáng chú ý là tình cảm của học sinh THCS đã bắt đầu
được hình thành trên cơ sở lý trí, có lí trí chi phối. Để học sinh
THCS phát triển lành mạnh về đời sống tình cảm nhà trường và
cộng đồng cần chú ý tổ chức tốt các hoạt động phối hợp nhằm
GDSKSS VTN tạo ra môi trường giáo dục tốt nhất, cũng như góp
phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho các em.
- Mục tiêu giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh THCS
Giáo dục SKSS VTN có mục đích xã hội quan trọng trên hai
phương diện: Nâng cao chất lượng giống nòi và nâng cao chất
lượng cuộc sống. Thể hiện: GDSKSS VTN là nền tảng để nâng
cao ý thức trách nhiệm của con người khi bước vào tuổi trưởng
thành. Sự hiểu biết của học sinh về những gì có liên quan đến
giới, giới tính và những vấn đề liên quan đến SKSS như tình dục,
hôn nhân và gia đình có tác động định hướng cho các em trong
các quan hệ với bạn bè khác giới, với các vấn đề về hôn nhân và
gia đình. Nhờ đó, việc xây dựng gia đình, việc bảo đảm hạnh phúc
gia đình - tế bào của xã hội sẽ được cải thiện hơn, đồng thời sẽ


định hướng cho họ vấn đề sinh đẻ được an toàn, bảo đảm để con
cái khỏe mạnh cũng như hiểu biết, ủng hộ và hành động theo tinh
thần và nội dung của chính sách dân số và KHHGD của Đảng và
Nhà nước ta.

GDSKSS VTN thực hiện tốt sẽ góp phần hình thành cho thế
hệ trẻ những hành vi văn hoá trong giao tiếp, ứng xử và hành vi
tốt đẹp. Giáo dục giới tính cho Học sinh là hình thành ở họ những
tiêu chuẩn đạo đức của hành vi có liên quan đến những lĩnh vực
riêng tư, thầm kín nhất của đời sống con người, hình thành những
quan hệ đạo đức lành mạnh giữa em trai và em gái, giữa nam và
nữ. Có thiện chí trong quan hệ giao tiếp như đồng cảm, vị tha, hào
hiệp, khiêm tốn, nhã nhặn, trung thực, tế nhị trong quan hệ giao
tiếp,…GDSKSS VTN gắn liền nhiều với yếu tố đạo đức, nếp sống
văn hóa xã hội nhất định. Những phẩm chất đạo đức, nếp sống
văn hóa xã hội chi phối hành vi cư xử con người về phương diện
giới tính nó có thể tìm thấy trong tình yêu đôi lứa không chỉ là
quan hệ mới, trách nhiệm mới, nghĩa vụ mới mà còn là những
niềm vui và hạnh phúc do chính đôi lứa tạo nên hàng ngày. Đồng
thời sẽ giúp cho học sinh nhận biết mối quan hệ cân bằng, hài hòa,
tôn trọng, bình đẳng với người khác giới.


GDSKSS VTN đáp ứng kịp thời những quy luật phát triển
về tâm sinh lý của con người nói chung và học sinh THCS nói
riêng. Sự phát triển của giới tính nói chung của con người là một
quy luật tự nhiên, nó đánh dấu sự trưởng thành của con người về
mặt sinh học. Cho nên, GDSKSS VTN chính là giúp cho học
sinh THCS nắm bắt được sự biển đổi thể xác và tình thần mà các
em đang chờ đợi và không lo lắng, hồi hộp về chúng. Chính việc
làm này sẽ giúp các em giảm căng thẳng, sợ hãi, tâm lý chưa ổn
định của các em khỏi bị chấn thương, suy nghĩ lệch lạc, sai lầm.
Vì vậy, nếu không có sự hướng dẫn đầy đủ, chu đáo của người lớn
các em sẽ gặp phải nhiều khó khăn thậm chí là những sai lầm từ
việc tự tìm hiểu, khám phá của bản thân các em.

GDSKSS VTN ngoài việc góp phần giúp học sinh hiểu biết
về giới tính, mà còn ngăn ngừa các bệnh lây lan qua dường tình
dục. GDSKSS nhằm trang bị cho học sinh kiến thức, kỹ năng về
sức khỏe giới tính - SKSS như nạn tảo hôn và kết hôn ở tuổi VTN,
mang thai ngoài ý muốn, phá thai ở tuổi VTN, nhiễm các bệnh lây
lan qua đường tình dục và HIV/AIDS, bị xâm hại và lạm dụng
tình dục,… Đặc biệt hơn, giải quyết những băn khoăn, lo lắng,
khó khăn, thách thức của VTN trước các vấn đề đang phải đối mặt
trong cuộc sống hiện nay về SKSS, quan hệ bạn bè, tình yêu,


mang thai, các nguy cơ nhiễm bệnh qua đường tình dục và
HIV/AIDS, bị gia đình ép lấy vợ, lấy chồng sớm..vv.. [34]
- Nội dung giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh THCS
GDSKSS VTN là 1 trong 10 nội dung của mục tiêu Chiến
lược quốc gia về chăm sóc SKSS. Được thực hiện chủ yếu trong
các nhà trường cùng với sự phối hợp của ngành y tế và các đoàn
thể, các tổ chức xã hội và gia đình.
GDSKSS phải gắn liền với giáo dục dân số. Đây là hai vấn
đề quan hệ mật thiết với nhau. GDSKSS là một bộ phận của giáo
dục giới tính. Nội dung GDSKSS cho học sinh trong nhà trường
cần tập trung vào một số nội dung cơ bản sau: [34] [51]
Về Kiến thức: Trang bị cho học sinh những kiến thức sau:
Trang bị cho học sinh những kiến thức về SKSS, những đặc
điểm về sự phát triển của cơ thể và sự sẵn sàng tâm lý.
Trang bị những kiến thức về tình bạn (cùng giới và khác giới),
tình yêu, gia đình.
Cung cấp cho học sinh hiểu đặc điểm về tình yêu và tình
dục.



Trang bị những kiến thức về phòng, tránh các bệnh lây lan qua
đường tình dục.
Ở tuổi VTN tuy rằng về mặt thể chất các em phát triển chưa
hoàn chỉnh, nhưng các em đã có khả năng sinh sản. Do đó, cần
phải cung cấp cho các em những kiến thức về SKSS để các em
biết thế nào là hiện tượng thụ thai, mang thai sớm và hậu quả của
nó… Đồng thời, cũng cho các em biết rằng:
+ Chỉ cần QHTD không được bảo vệ dù chỉ một lần bạn gái
có thể có thai ngoài ý muốn.
+ Mang thai, phá thai ở tuổi VTN đều ảnh hưởng đến sức
khỏe thể chất, tinh thầnvà xã hội của cả bạn nam và bạn nữ.
+ Sử dụng bao cao su đúng cách trong QHTD sẽ giúp VTN
tránh mang thai ngoài ý muốn, bệnh lây truyền qua đường tình
dục và cả HIV/AIDS…
Bên cạnh việc cung cấp kiến thức cũng phải định hướng
đúng đắn cho các em những hành vi, thái độ tích cực sau:
+ Sau khi QHTD không an toàn cần đến ngay trung tâm y tế
chăm sóc SKSS VTN, cơ sở y tế tin cậy để xét nghiệm và phá thai
an toàn.


×