Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

ĐÁNH GIÁ kết QUẢ điều TRỊ TRẺ sơ SINH có SUY hô hấp tại BỆNH VIỆN PHỤ sản TRUNG ƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.32 KB, 57 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

NGUYỄN TÂM LONG

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
ĐIỀU TRỊ TRẺ SƠ SINH CÓ SUY HÔ HẤP
TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC

HÀ NỘI – 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

NGUYỄN TÂM LONG

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
ĐIỀU TRỊ TRẺ SƠ SINH CÓ SUY HÔ HẤP
TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG
Chuyên ngành: Nhi khoa
Mã số: 8720106


ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Lê Minh Trác

HÀ NỘI – 2019


MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16

17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32

Phần viết tắt
BN
CCAM
CCHD
CDH
CLS
CMV
CPAP
Fi02
GBS
HFNO
HFO
HMD

HVS
IMV
MAP
MAS
MSAF
NĐTN
TTSS
PaO2
PaCO2
PEEP
PIP
PPHN
RDS
SHH
SIMV
SpO2
TSG
TSS
TTSS
TTN

Phần viết đầy đủ
Bệnh nhi
Congenital Cystic Adenomatoid Malformation
Cyanotic congenital heart disease
Congenital diaphragmatic hernia
Cận lâm sàng
Conventional mechanical ventilation
Continuous positive airway pressure
Fraction of inspired oxygen

Group B Streptococcus
High flow nasal oxygen
High frequency oscillatory
Hyaline Membrane Disease
High vaginal swab
Intermittent mandatory ventilation
Mean airway pressure
Meconium aspiration syndrome
Meconium Stained Amniotic Fluid
Nhiễm độc thai nghén
Trung tâm sơ sinh
Partial pressure of oxygen in arterial blood
Partial pressure of carbon dioxide in arterial blood
Positive end expiratory airway pressure
Peak inspiratory pressure
Persistent Newborn Pulmonary Hypertension
Respiratory distress syndrome
Suy hô hấp
Synchronized intermittent mandatory ventilation
Percent oxygen saturation
Tiền sản giật
Trẻ sơ sinh
Trung Tâm Sơ Sinh
Transient tachypnea of the newborn


DANH MỤC CÁC BẢNG


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


7

ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy hô hấp là một trong những vấn đề phổ biến nhất mà trẻ sơ sinh gặp
phải trong vài ngày đầu đời [1]. Theo Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ, khoảng
10% trẻ sơ sinh cần một số hỗ trợ để khởi nhịp đầu thở và khoảng 1% cần hồi
sức [2]. Các báo cáo khác xác nhận rằng suy hô hấp là phổ biến và xảy ra ở
khoảng 7% trong thời kỳ sơ sinh [1, 3]. Suy hô hấp là nguyên nhân hàng đầu
gây tử vong sơ sinh sớm (trong vòng 7 ngày tuổi ) [4], cũng là nguyên nhân
hàng đầu gây bệnh tật ở trẻ sơ sinh [5] và là nguyên nhân thường gặp nhất khi
nhập viện chăm sóc đặc biệt cho cả trẻ đủ tháng và sinh non [6]. Trên thực tế,
trẻ sơ sinh bị suy hô hấp có nguy cơ tử vong cao gấp 2 - 4 so với trẻ sơ sinh
không bị suy hô hấp [7].
Suy hô hấp do nhiều nguyên nhân như bệnh màng trong, hội chứng hít
phân su, viêm phổi, đẻ non, tim bẩm sinh, cơn khó thở nhanh thoáng qua,
ngạt … [3, 8, 9]. Theo Tăng Chí Thượng, trong 6 tháng cuối năm 2007 có
91,2% trẻ sơ sinh bị suy hô hấp trong tổng số trẻ sơ sinh vào khoa sơ sinh
(ngạt, bệnh màng trong, viêm phổi...), trong đó gần 1/3 trường hợp là đẻ non
[10]. Nguyễn Thị Xuân Hương và cộng sự theo dõi từ 2008-2010 tại bệnh
viện Trung ương Thái nguyên thấy tỷ lệ ngạt, đẻ non yếu, bệnh màng trong ở
trẻ sơ sinh nhập viện chiếm 33,1% [11]. Nguyễn Thành Nam theo dõi tại
khoa Nhi – bệnh viện Bạch Mai từ 2013 – 2015 ghi nhận tỉ lệ suy hô hấp sơ
sinh do viêm phổi (2,2%); bệnh lý tim mạch (còn ống động mạch, tăng áp
động mạch phổi, ...) là (20,1%) [12]. Xác định tỉ lệ suy hô hấp theo nguyên
nhân thường gặp ở trẻ sơ sinh tại một cơ sở y tế giúp cho việc định hướng
mô hình bệnh lý tại cơ sở đó, để có được kế hoạch theo dõi và điều trị kịp

thời, mục đích giảm tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ biến chứng của suy hô hấp ở trẻ
sau sinh.


8

Điều trị suy hô hấp sơ sinh nhằm ổn định tình trạng bệnh lý của trẻ và
điều trị nguyên nhân. Thở máy xâm nhập là một trong những biện pháp điều
trị đối với những trường hợp suy hô hấp nặng [13], thường được chỉ định
trong các bệnh lý bệnh màng trong, trẻ non yếu, hít phân su, ngạt, viêm phổi
hoặc nhiễm trùng huyết [14]. Đánh giá nguyên nhân suy hô hấp thường gặp
và các biện pháp giảm nguy cơ thất bại, đánh giá các chỉ số tiên lượng trong
điều trị suy hô hấp, suy hô hấp nặng phải thở máy xâm nhập vẫn đang được
quan tâm, nghiên cứu trong thực hành lâm sàng. Tại bệnh viện Phụ sản Trung
ương với lưu lượng lớn bệnh nhi cần điều trị trong Trung Tâm Sơ Sinh
(TTSS), số lượng trẻ suy hô hấp chiếm tỉ lệ không ít, đã đặt ra yêu cầu cần
thiết phải nghiên cứu đầy đủ về mô hình bệnh tật và kết quả điều trị. Do vậy,
chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mục tiêu:
1.

Xác định tỉ lệ và nguyên nhân gây suy hô hấp ở trẻ sơ sinh có suy
hô hấp tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương.

2.

Đánh giá kết quả điều trị suy hô hấp của trẻ sơ sinh tại Bệnh viện
Phụ sản Trung ương.


9


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1.

ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ CƠ QUAN HÔ HẤP TRẺ SƠ SINH

1.1.1. Những thay đổi sinh lý quan trọng ở phổi
Ngay sau sinh, trẻ sơ sinh không còn được liên kết với rau thai nữa và
phổi là nguồn cung cấp oxy duy nhất. Do đó chỉ trong vài giây, dịch trong
phổi được hấp thu, hai phổi phải được chứa đầy không khí (O 2, CO2 …),
mạch máu phổi giãn để tăng dòng máu đến phế nang giúp O 2 được hấp thu và
vận chuyển đi khắp cơ thể [15, 16].
Ngay sau sinh, nhịp thở đầu tiên của trẻ đưa không khí vào phế nang và
đẩy dịch phế nang ra ngoài. Nồng độ catecholamine, vasopressin tăng lên
trong máu. Prolactin và glucocorticoid đảm bảo phổi đào thải hết dịch trong
lòng phế nang, thể tích cặn được hình thành, giúp việc trao đổi khí dễ dàng và
tạo cơ sở cho những nhịp thở tiếp theo [17, 18]. Nếu sau sinh, trẻ ngừng thở
hoặc vận động cơ hô hấp yếu thì dịch sẽ khó được đẩy ra khỏi phế nang. Tình
trạng này hay gặp ở những trẻ ngạt, sinh non, sang chấn trước và trong quá
trình sinh, đẻ nhanh, mổ đẻ chưa có chuyển dạ hoặc trẻ có mẹ bị các bệnh nội
khoa, mẹ có sử dụng thuốc gây nghiện hoặc gây mê...
1.1.2. Thích nghi của trẻ sơ sinh từ cuộc sống trong tử cung ra ngoài


Hoạt động hô hấp
Thai nhi ngay từ khi trong bụng mẹ đã có những hoạt động hô hấp. Ngay

sau sinh, một trong những yếu tố quan trọng nhất kích thích nhịp thở của trẻ
là nhiệt độ thấp hơn so với trong tử cung; ngoài ra còn có các tác động khác

như động chạm trẻ, áp lực không khí, âm thanh tiếng động… cũng kích thích
thần kinh trung ương có những nhịp thở tiếp theo. Sự đáp ứng của cơ quan
nhận cảm hóa học trung ương rất quan trọng với tình trạng thiếu O 2, tăng CO2
máu và giảm pH cũng kích thích hoạt động hô hấp [17-19].


10

Sự thích nghi của phổi: nhịp thở đầu tiên đã tạo được áp lực khoảng -40
đến -100 cmH2O do đó không khí vào được khoảng 20 – 80 ml. Để có nhịp
thở ổn định phổi phải thắng được một sức cản là sức căng bề mặt (đó là áp lực
màng trên bề mặt các tế bào biểu mô phế nang làm các phế nang không dính
vào nhau cuối thì thở ra) thì mới tạo được dung tích cặn chức năng. Nhờ có
dung tích cặn chức năng mà sự trao đổi khí giữa các phế nang và mao mạch
được liên tục đảm bảo cho các lần thở sau được dễ dàng, ổn định. Điều này
không khó khăn với trẻ đủ tháng khỏe mạnh, nhưng có nhiều trở ngại với trẻ
đẻ non, ngạt, hạ đường huyết … vì những trẻ này sau khi cắt rốn nồng độ CO 2
trong máu quá cao gây ức chế hô hấp nên trẻ thở yếu không đủ tạo dung tích
cặn chức năng dẫn đến xẹp phổi [18, 19].
Surfactant là chất cần thiết để duy trì dung tích cặn chức năng. Chất này
được tổng hợp từ tuần thai thứ 24 trở đi và được dự trữ dưới dạng thể vùi và
càng về giai đoạn cuối thai kỳ lượng surfactant càng được sản xuất nhiều,
thành phần của chúng có nhiều dipalmitoyl phosphatidyl choline và
phosphatidyl glycerol. Chất này có tác dụng làm giảm sức căng bề mặt, tăng
độ giãn và thể tích phổi, từ đó duy trì dung tích cặn chức năng, cân bằng
luồng khí tới các phế nang và giảm công năng hô hấp. Hơn 90% surfactant
sau khi sử dụng sẽ được tái tổng hợp trong vòng 10 giờ, đây chính là cơ sở để
duy trì lượng surfactant trên bề mặt phế nang, đảm bảo phế nang không bị xẹp
và cũng là cơ sở để điều trị sớm thiếu hụt surfactant ngay sau sinh…
Những yếu tố ảnh hưởng đến giảm sản xuất surfactant là đẻ non, thiếu

oxy chu sinh, vỡ ối kéo dài, viêm ối màng ối, mẹ bị đái tháo đường phụ thuộc
insulin, trẻ trai, thuốc cao huyết áp beta-adrenergic, thiếu hocmon tuyến giáp
(T4) … Glucocorticoid có vai trò tăng cường sản xuất surfactant trong thời kỳ
bào thai [18, 19], đây chính là cơ sở của việc sử dụng Betamethasone,
Dexamethasone cho những bà mẹ có nguy cơ sinh non từ sau tuần 24 giúp cải
thiện chức năng phổi ở trẻ sinh non.


11



Hoạt động tuần hoàn
Khi trẻ ra đời, lượng máu qua phổi gấp 10 lần thời kỳ bào thai do sau khi

cắt rốn, áp lực máu trong tĩnh mạch chủ dưới và nhĩ phải giảm làm đóng lỗ
Botal. Ống Botal dần không hoạt động nên lượng máu lên phổi tăng. Để bảo
vệ tổ chức phổi, sức cản các mao mạch phổi giảm, hình thành áp lực âm trong
lồng ngực. Do vậy áp lực ở động mạch phổi giảm hơn so với động mạch chủ,
dòng máu trong ống động mạch đổi chiều, từ động mạch chủ sang động mạch
phổi; ống động mạch sẽ đóng lại sau 3 - 7 ngày [18, 19].


Hoạt động thần kinh
Sau khi sinh, trung tâm hô hấp ở hành tủy bị kích thích gây ra nhịp thở,

lúc đầu chỉ có động tác hít vào ngắt quãng sau đó nồng độ oxy máu tăng dần
kích thích trung tâm điều hòa nhịp thở ở vỏ não làm nhịp thở đều và sâu hơn
[18, 19].



Đặc điểm sinh lý - bệnh lý trẻ sơ sinh non tháng
Sơ sinh đẻ non, các hệ cơ quan trong cơ thể chưa hoàn thiện, là những

đối tượng rất dễ mắc các bệnh và biến chứng nguy hiểm với tỷ lệ tử vong rất
cao như là: suy hô hấp, loạn sản phế quản phổi, tổn thương ruột, chức năng hệ
thống miễn dịch chưa hoàn thiện, các rối loạn huyết động của hệ thống tim
mạch. Các biến chứng này đều bắt nguồn từ các cơ quan bộ phận chưa hoàn
chỉnh của sơ sinh, do đó tỷ lệ tử vong sơ sinh rất cao trên những trường hợp
đẻ non, kể cả tỷ lệ tử vong trong năm đầu tiên của cuộc đời.
Trẻ đẻ non thường thở không đều, có cơn ngừng thở dài hơn trẻ đủ
tháng. Hiện tượng rối loạn nhịp thở này có thể kéo dài tới 2-3 tuần sau đẻ
hoặc lâu hơn tùy tuổi thai.
Trẻ đẻ non dễ bị suy hô hấp hơn trẻ đủ tháng do phổi chưa trưởng
thành, phế nang khó giãn nở, cách xa các mao mạch nên sự trao đổi oxy
khó khăn hơn, nước ối tiêu chậm, các mao mạch tăng tính thấm dễ xung


12

huyết. Lồng ngực hẹp, xương sườn, cơ liên sườn chưa phát triển làm hạn
chế di động lồng ngực.
Ngừng thở: Là một biến chứng rất thường gặp ở sơ sinh non tháng. Được
định nghĩa là khoảng thời gian trẻ không thở kéo dài trên 15 giây, và có thể
kèm theo hiện tượng chậm nhịp tim, nguyên nhân do chưa trưởng thành trung
tâm điều khiển hô hấp và đôi khi do tắc nghẽn đường hô hấp cũng gây ra hiện
tượng ngừng thở. Thông thường sau sinh, sau những nhịp thở đầu tiên trẻ xuất
hiện ngừng thở tiên phát, kích thích sẽ thở trở lại. Tuy nhiên nếu vẫn tiếp tục
thiếu hụt oxy trong giai đoạn ngừng thở tiên phát trẻ có thể thở nấc vài nhịp
rồi sẽ ngừng thở thứ phát dẫn đến suy hô hấp nếu không được hỗ trợ hô hấp

kịp thời [16].
1.2.

KHÁI NIỆM VÀ CHẨN ĐOÁN SUY HÔ HẤP SƠ SINH

1.2.1. Suy hô hấp sơ sinh
Suy hô hấp là tình trạng rối loạn chức năng hô hấp, gây rối loạn trong
quá trình trao đổi khí, không đủ khả năng cung cấp oxy dẫn đến thiếu oxy và
không thải trừ carbonic gây tăng carbonic máu [20-22].
Suy hô hấp sơ sinh được xác định bởi một hay các dấu hiệu thở gắng sức
như là thở nhanh, phập phồng cánh mũi, co rút lồng ngực, thở rên [9].
Suy hô hấp do nhiều nguyên nhân, tại phổi hoặc ngoài phổi, rất hay gặp
ở trẻ sơ sinh trong tuần lễ đầu, biểu hiện sự thích nghi chưa hoàn toàn của
phổi, tuần hoàn, thần kinh và chuyển hóa khi trẻ làm quen với môi trường bên
ngoài tử cung.
1.2.2. Chẩn đoán suy hô hấp sơ sinh
1.2.2.1.

Triệu chứng lâm sàng

Triệu chứng của suy hô hấp
-

Theo nhiều tác giả trong và ngoài nước, xác định suy hô hấp sơ sinh dựa vào
một hay nhiều triệu chứng [9, 19, 20, 22-26]:


13

-


+

Thở nhanh > 60 lần/phút hoặc thở chậm < 30 lần/phút

+

Co rút lồng ngực và hõm ức, di động ngực bụng ngược chiều

+

Phập phồng cánh mũi

+

Thở rên hoặc ngừng thở

+

Tím khi thở khí trời

Đánh giá sự thích nghi với cuộc sống bên ngoài tử cung bằng chỉ số Apgar
(đánh giá 1 phút, 5 phút)
Bảng 1.1. Bảng điểm Apgar
Chỉ số
Nhịp tim
Nhịp thở
Trương lực cơ
Cử động
Màu sắc da


0
1
2
Ngừng tim
< 100 lần/phút
> 100 lần/phút
Ngừng thở
Thở chậm, rên
Khóc to
Giảm nặng
Giảm nhẹ
Bình thường
Không cử động
Ít cử động
Cử động tốt
Trắng
Tím đầu chi
Hồng hào
*Nguồn: theo Huỳnh Thị Duy Hương (2016) [27]

Tổng số điểm: ≤ 3 : ngạt nặng; 4 - 6 điểm : ngạt nhẹ; ≥ 7: bình thường
-

Ngoài ra còn đánh giá mức độ suy hô hấp dựa vào chỉ số Silverman (áp dụng
tại khoa điều trị)
Bảng 1.2. Bảng điểm Silverman
Điểm/Chỉ số
Di động ngực bụng
Co kéo cơ liên sườn

Rút lõm hõm ức
Cánh mũi phập phồng
Thở rên

0
Cùng chiều
0
0
0
0

1
Ngực ít hơn bụng
+
+
+
Nghe được qua

2
Ngược chiều
++
++
++
Nghe được bằng

ống nghe
tai từ xa
*Nguồn: theo Huỳnh Thị Duy Hương (2016)[20]

Tổng số điểm: ≤ 3 điểm: không SHH; 4 - 5 điểm: SHH nhẹ; 7 - 8 điểm:

SHH nặng; 9 - 10 điểm: SHH rất nặng.
Tuy nhiên, khi suy hô hấp nặng thường có kèm theo triệu chứng suy
tuần hoàn, rối loạn tri giác, giảm trương lực cơ hoặc trẻ đã được đặt nội khí


14

quản cấp cứu ngay tại phòng đẻ sẽ khó đánh giá được điểm Silverman. Những
trẻ suy hô hấp nặng này cần điều trị thở máy xâm nhập ngay khi nhập viện.
Triệu chứng của các cơ quan khi thiếu oxy
Biểu hiện trên nhiều cơ quan nhạy cảm với thiếu oxy [20]
-

Triệu chứng não: Nhẹ: quấy khóc, kích thích, lơ mơ; nặng: li bì, hôn mê, co
giật …; trương lực cơ giảm; đồng tử có thể giãn khi suy hô hấp nặng.

-

Triệu chứng tim mạch: rối loạn nhịp tim, lúc đầu nhịp tim tăng trên 160 lần/phút,
sau nhịp chậm dần < 100 lần/phút, ngừng tim khi PaO2 dưới 30mmHg.

-

Triệu chứng tiết niệu: thiểu niệu, vô niệu hoặc suy thận cấp do thiếu oxy ở
ống thận dẫn đến hoại tử ống thận cấp.
Triệu chứng của các nguyên nhân gây suy hô hấp

-

Trẻ đẻ non < 30 tuần đặc biệt < 28 tuần có suy hô hấp sớm sau sinh thường do

bệnh màng trong.

-

Trẻ đủ tháng hoặc già tháng có phân su trong nước ối, suy hô hấp nghĩ đến
hội chứng hít phân su.

-

Trẻ sinh ra trương lực cơ giảm, phân su trong nước ối nhiều, không khóc nghĩ
đến suy thai, ngạt.

-

Lồng ngực mất cân đối: tràn khí màng phổi một bên, thoát vị cơ hoành.

-

Gõ trong trong tràn khí màng phổi; Gõ đục trong tràn dịch màng phổi.

-

Vị trí mỏm tim thay đổi: nghĩ đến tràn khí màng phổi, thoát vị cơ hoành.

-

Tiếng thổi ở tim, động mạch bẹn khó xác định : bệnh lý tim mạch.

-


Thóp phồng, da xanh, co giật có thể nghĩ đến căn nguyên xuất huyết não.
1.2.2.2.

-

Dấu hiệu cận lâm sàng

Đo và theo dõi khí máu : nồng độ oxy SaO 2 < 90%, PaO2 < 60mmHg, PaCO2
> 50mmHg và/hoặc pH < 7,2 [20, 21].

-

Hình ảnh Xquang phổi thông thường cho thấy phổi nở kém cả 2 bên, những
đám mờ dạng lưới (dạng kính mờ) với ứ khí trong các nhánh phế quản lớn.


15

Những trường hợp nặng, hình ảnh phổi trắng; các hình ảnh nguyên nhân gây
suy hô hấp khác như: tràn khí, viêm phổi, tràn dịch màng phổi …
-

Các dấu hiệu khác trên siêu âm Doppler tim, Doppler thóp phát hiện các
nguyên nhân tim mạch, tổn thương não

-

Các xét nghiệm khác: cấy máu, công thức máu, điện giải đồ, đường huyết, xét
nghiệm đông máu, chụp cắt lớp vi tính sọ não …
1.3. TỶ LỆ VÀ CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY SUY HÔ HẤP

1.3.1. Tỷ lệ suy hô hấp ở trẻ sơ sinh
Tác giả Phạm Hoàng Hưng thống kê tại Trung tâm Nhi khoa-bệnh viện
Trung ương Huế từ 2009-2013 tỷ lệ trẻ sơ sinh có bệnh lý hô hấp chiếm tới
26% tổng số bệnh nhân vảo viện [28]. Tác giả Mathai S.C.S. và cộng sự ở Ấn
độ (2007) cũng ghi nhận suy hô hấp sơ sinh nhập viện cấp cứu chiếm tới 3040% [26]. Gần đây, tác giả Reuter S. và cộng sự (2014) ghi nhận vấn đề suy hô
hấp là một trong những nguyên nhân thường gặp ở trẻ sơ sinh vào đơn vị điều
trị tích cực sơ sinh, ước tính 15% trẻ đủ tháng và 29% trẻ gần đủ tháng có bất
thường hô hấp nhập viện vào đơn vị sơ sinh, tỷ lệ này còn cao hơn ở trẻ < 34
tuần tuổi thai [9]. Gallacher D.J. và cộng sự (2016) cũng cho thấy 33,3% trẻ sơ
sinh > 28 tuần tuổi thai nhập viện lý do đầu tiên là vấn đề của tình trạng hô hấp
[8]. Như vậy, bệnh lý suy hô hấp vẫn còn là bệnh lý thường gặp ở trẻ sơ sinh,
nhiều nghiên cứu được tiến hành trên thế giới cũng như ở Việt nam đều có
mong muốn tìm hiểu bệnh lý này từ nguyên nhân gây bệnh, yếu tố nguy cơ ảnh
hưởng đến bệnh lý suy hô hấp sau sinh để có những kế hoạch can thiệp, theo
dõi nhằm giảm tỷ lệ mắc bệnh và biến chứng của suy hô hấp sau sinh.
1.3.2. Các nguyên nhân của suy hô hấp ở trẻ sơ sinh
a. Nguyên

nhân thần kinh:


16

-

Xuất huyết não – màng não: ít gặp, yếu tố nguy cơ gây bệnh thường do rối
loạn đông máu của người mẹ, sang chấn trong cuộc đẻ, rối loạn chức năng
đông máu của trẻ (giảm tiểu cầu, rối loạn đông máu…)

-


Viêm não – màng não: Thường đi kèm với bệnh lý nhiễm khuẩn huyết, nhiễm
trùng bẩm sinh từ trong buồng tử cung.

-

Mẹ bị gây mê, dùng thuốc an thần: gây ức chế trung tâm hô hấp của trẻ sau
sinh, trẻ không khởi phát và duy trì hoạt động hô hấp.

-

Phù não: thứ phát do: suy thai, ngạt, xuất huyết não, viêm màng não.
b. Nguyên

nhân tại cơ quan hô hấp:

Do tắc nghẽn đường hô hấp trên
-

Tắc lỗ mũi sau: Tỷ lệ không nhiều, theo Campisi và cộng sự (2015) có
1/5000-8000 trẻ sinh ra và dị tật này thường đi kèm với các dị tật khác:
khoảng 30% có hội chứng CHARGE kèm theo teo lỗ mũi sau [29].

-

Thông thực quản – khí quản: Do ở tuần thai thứ 4, túi thừa khí thực quản từ
ruột trước phân chia không hoàn thiện. Thường kết hợp với các dị tật bẩm
sinh khác như dị tật tim, cột sống, hậu môn trực tràng…

-


Hội chứng Pierre-Robin : lưỡi không có phanh nên dễ bị tụt ra sau ở tư thế
nằm ngửa gây tắc đường hô hấp trên.

-

Phì đại lưỡi bẩm sinh: Thường liên quan đến bệnh lý di truyền. Lưỡi trẻ phì
đại quá mức có thể gây chẹn đường thở -> suy hô hấp

-

Hẹp khí quản: Có thể do bẩm sinh hoặc mắc phải do sử dụng các dụng cụ y tế
can thiệp vùng khí quản. Hẹp bẩm sinh là nguyên nhân thứ ba gây thở rít ở trẻ
sơ sinh, chiếm 5-15% dị tật đường thở [30].

-

Mềm sụn thanh quản: là nguyên nhân bẩm sinh thường gặp nhất của thanh
quản, chiếm 45%-75% trẻ sơ sinh thở rít. Gặp ở trẻ trai nhiều hơn với tỷ lệ
nam : nữ là 1,6 : 1 [31].
Do bệnh lý đường hô hấp dưới


Bẩm sinh:


17

+


Bất sản phổi, thiểu sản phổi: Bất sản- khiếm khuyết của một hay cả hai phổi
trong giai đoạn đầu phát triển của phổi. Thiểu sản tiên phát hiếm khi đơn độc
thường phối hợp với bất thường khác [32].

+

Kén hơi tại phổi: Gặp không nhiều, chỉ khoảng 1/ 90.000 trường hợp. Gặp trẻ
trai nhiều gấp đôi trẻ gái khi sinh ra. Bệnh gặp ở thùy trên nhiều chiếm gần
80%, tỷ lệ mắc bệnh bên trái nhiều hơn bên phải. Có thể phối hợp với bệnh
tim bẩm sinh, còn ống động mạch, tứ chứng Fallot, bất thường mạch máu xảy
ra ở 12-14% trường hợp [33].


+

Mắc phải

Hội chứng hít phân su: theo tác giả quốc tế có 8-25% trẻ đẻ ra có phân su
trong nước ối, chủ yếu ở trẻ đủ tháng, trong số đó có tới 5% 0 bị hội chứng hít
phân su và một nửa số bệnh nhân này cần thông khí nhân tạo hỗ trợ, tỷ lệ tử
vong lên tới 6,6% [8, 34-36].

+

Hội chứng chậm hấp thu dịch phổi (Cơn khó thở nhanh thoáng qua): Hay gặp
ở trẻ đủ tháng hoặc gần đủ tháng, đặc biệt hay gặp ở trẻ gần đủ tháng được
sinh mổ chủ động chưa có chuyển dạ [8]. Thông thường bệnh tự hết trong
vòng 48 giờ, tuy nhiên cũng có khoảng 10% trẻ cần phải thở oxy trong vài
ngày sau sinh [3].


+

Bệnh màng trong: thường gặp ở trẻ đẻ non đặc biệt trẻ < 28 tuần tỷ lệ mắc
bệnh từ 70% đến trên 80% và giảm dần theo theo tuổi thai đến 36 tuần tỷ lệ
mắc bệnh chỉ là 5% [37].

+

Xuất huyết phổi: Hay gặp ở trẻ đẻ non, cân nặng < 1.500g và thường kèm
theo còn ống động mạch (PDA), tỷ lệ trẻ <1.500g được điều trị surfactant
tổng kết có 11,9% xuất huyết phổi [38].

+

Nhiễm khuẩn phổi: Gần đây, viêm phổi vẫn còn gặp ở trẻ sau sinh, những trẻ
viêm phổi ngay sau sinh (< 48 giờ) thường liên quan đến bệnh lý của mẹ mà
phần lớn ở đây là nhiễm liên cầu nhóm B, những viêm phổi xuất hiện > 48
giờ thường liên quan đến quá trình điều trị trong đơn vị điều trị tích cực sơ


18

sinh [8]. Khoảng 800.000 trẻ mới sinh tử vong trên toàn thế giới là do nhiễm
trùng phổi [39].
+

Tràn khí màng phổi, trung thất: Yếu tố nguyên phát gây tràn khí phổi là thở
máy, bất thường phổi. Yếu tố nguy cơ thường gặp ở trẻ đẻ non: bệnh màng
trong, nhiễm trùng và viêm phổi. Điều trị bằng surfactant giảm biến chứng
tràn khí màng phổi. Yếu tố nguy cơ ở trẻ đủ tháng là hội chứng hít phân su,

máu hoặc nước ối; viêm phổi và dị tật bẩm sinh [40].
c.

-

Nguyên nhân bệnh tim mạch:

Chuyển gốc các động mạch lớn: Tỷ lệ gặp không nhiều, suy hô hấp xuất hiện
sớm. Chẩn đoán sớm bằng siêu âm tim và cần xử trí sớm.

-

Tăng áp động mạch phổi: có thể tiên phát hoặc thứ phát sau hội chứng hít,
thoát vị hoành và bệnh màng trong. Chiến lược thông khí phù hợp, khí NO và
điều trị surfactant có thể cải thiện kết quả điều trị và hạn chế điều trị ECMO.
Tỷ lệ mắc bệnh tăng áp động mạch phổi khoảng 0,2% trẻ sinh ra sống, chiếm
10% số trẻ suy hô hấp và tỷ lệ tử vong lên tới 10% số trẻ bị tăng áp động
mạch phổi [41-43].

-

Còn ống động mạch: Bệnh lý thường gặp, thông thường ống động mạch sẽ
đóng trong vòng 3 ngày. Khi còn tồn tại ống động mạch sau 72 giờ được coi
là bệnh lý, triệu chứng thường có trong 50-70% trường hợp trẻ < 28 tuần tuổi
thai và/hoặc cân nặng lúc sinh < 1.000g. Tỷ lệ tồn tại ống động mạch từ 1537% ở trẻ cân nặng < 1.750g và chỉ có khoảng 0,2% ở trẻ đủ tháng. Tỷ lệ tử
vong hoặc di chứng lên tới 30%. Điều trị nội khoa bằng Ibuprofen hoặc
Indomethacine với hiệu quả tương tự nhau [44-47].
d.

-


Nguyên nhân huyết học

Thiếu máu: bệnh lý hay gặp nhất trong các bệnh lý huyết học sau sinh.
Nguyên nhân gặp nhiều gây thiếu máu là tan huyết ( bất đồng nhóm máu đặc
biệt bất đồng Rh), xuất huyết, ngạt, nguyên nhân gây thiếu oxy mạn tính trong
tử cung (chậm phát triển trong tử cung, mẹ đái tháo đường, tăng huyết áp).


19

Các tác giả cho rằng thời gian kẹp rốn cũng liên quan với lượng huyết sắc tố
của trẻ. Họ nhận định ở trẻ đủ tháng, rau thai chứa khoảng 100ml máu,
khoảng 25% được truyền sang trẻ trong 15 giây đầu tiên và được 50% ở cuối
phút đầu tiên (khoảng 50ml máu ở trẻ đủ tháng). Sự chênh lệch nồng độ
hemoglobin ở trẻ kẹp rốn sớm và muộn là 3g/l [48].
-

Bệnh đa hồng cầu: được xác định khi lượng Hematocrit > 0,65. Thường
gặp ở bệnh nhi sau sinh với các yếu tố nguy cơ: chậm phát triển trong tử
cung, mẹ bị cao huyết áp, mẹ bị đái tháo đường, hội chứng truyền máu,…
[48]
e.

-

Nguyên nhân chuyển hóa

Trẻ bị hạ đường huyết: được xác định bằng giá trị đường huyết
< 40mg/dl (trong huyết tương là < 45 mg/dl), thường gặp ở trẻ sơ sinh non

tháng, kém phát triển và mẹ bị đái tháo đường. Đường huyết có vai trò cung
cấp năng lượng cho não bộ [49]. Tỷ lệ mắc bệnh đa dạng, tùy thuộc vào từng
lứa tuổi. Tỉ lệ hạ đường huyết ở trẻ lớn hơn so với tuổi thai khoảng 16% , còn
những trẻ nhỏ hơn so với tuổi thai khoảng 15%. Thông thường, sau sinh 1-2
giờ đường huyết trẻ thấp sau đó tăng dần lên mức 65-70 mg/dl trong giờ thứ 3
và 4 [50].

-

Trẻ bị hạ calci máu: Một số nguyên nhân gây hạ calci máu giai đoạn sớm
sau sinh: đẻ non, ngạt, trẻ sơ sinh của bà mẹ đái tháo đường, tiền sản giật …

-

Rối loạn thân nhiệt đặc biệt hạ thân nhiệt do đẻ non, chăm sóc sau sinh không
đảm bảo, thiếu trang thiết bị sưởi ấm sau sinh …

-

Nhiễm toan chuyển hóa: do các bệnh lý rối loạn chuyển hóa bẩm sinh, thứ
phát sau ngạt, suy thai, nhiễm khuẩn huyết, sốc …
f.

Nguyên nhân khác


20

Thoát vị cơ hoành: Hay gặp thoát vị hoành bẩm sinh sau bên, thường kết
hợp với thiểu sản phổi nặng, ảnh hưởng chức năng hô hấp trẻ sau sinh, tỷ lệ tử

vong cao [51].
1.3.2.1.

Một số yếu tố nguy cơ thường gặp gây suy hô hấp ở trẻ sơ sinh

Những yếu tố bắt nguồn từ bệnh lý người mẹ


Yếu tố nguy cơ từ tiền sử trước khi mang thai
Nhiều yếu tố nguy cơ: tiền sử sinh non hoặc nhẹ cân, các bệnh lý nội

khoa mãn tính của mẹ như: bệnh thận, cao huyết áp, bệnh lý tim mạch, bệnh
Lupus ban đỏ hệ thống, mẹ cao tuổi (> 35 tuổi) … có khả năng ảnh hưởng
đến thai nhi và tăng nguy cơ bệnh lý cho trẻ khi sinh ra đặc biệt là suy hô hấp.
Những yếu tố này được Carlo W.A. (2011) [52] tổng kết và có nhận định về
bệnh lý của người mẹ sẽ ảnh hưởng đến tình trạng trẻ sau sinh.


Yếu tố nguy cơ từ bệnh lý mẹ trong quá trình mang thai
Trong quá trình mang thai, mẹ có nguy cơ cao mắc các bệnh hay gặp như

đái tháo đường thai kỳ, nhiễm độc thai nghén, tình trạng nước ối và bánh rau
như đa ối và thiểu ối… những bất thường này tác động nhiều đến sự phát triển
của thai nhi, ảnh hưởng đến chức năng hô hấp và tim mạch của thai nhi. Sản
phụ không được chăm sóc, theo dõi trong quá trình mang thai cũng tăng nguy
cơ bệnh lý đến trẻ sau sinh [24, 53, 54].
Theo dõi của Viện nghiên cứu sức khỏe Úc năm 2007-2008 về tình trạng
đái tháo đường của phụ nữ Úc cho thấy tỷ lệ đái đường thai kỳ chiếm 5% tổng
số phụ nữ trong độ tuổi 15-49 khi có thai. Báo cáo này cũng ghi nhận trẻ sinh
ra ở các bà mẹ này có thể mắc các bệnh lý bẩm sinh, thai lưu, phải mổ đẻ, thai

to và hội chứng suy hô hấp [55]. Sản phụ mắc đái tháo đường tăng nguy cơ bị
sản giật, tiền sản giật, cao huyết áp, mổ đẻ… đây cũng là các nguy cơ có thể
gây nhiều bệnh lý cho trẻ sau sinh đặc biệt là suy hô hấp.


Yếu tố nguy cơ xung quanh cuộc đẻ gây suy hô hấp sau sinh


21

Những bất thường được phát hiện cận ngày sinh, trong quá trình chuyển
dạ đẻ tác động không nhỏ đến bệnh lý hô hấp trẻ sau sinh:
Mổ đẻ chủ động khi chưa chuyển dạ ngày nay đang có xu hướng tăng lên,
liên quan đến sự gia tăng bệnh lý suy hô hấp sau sinh ở trẻ. Ramachndrappa A.
và cộng sự (2008) [56] cũng như Liu J. và cộng sự (2014) [57] cho rằng mổ
đẻ chủ động làm tăng tỷ lệ cơn khó thở nhanh thoáng qua, thiếu hụt surfactant
thứ phát và tăng áp lực động mạch phổi gây suy hô hấp sau sinh.
Các bất thường về nước ối, bánh rau, màng ối, nhiễm khuẩn của mẹ lúc
sinh trong quá trình sinh ảnh hưởng không ít đến hô hấp của trẻ sau sinh như
bệnh lý viêm ối, màng ối là yếu tố nguy cơ gây viêm phổi-nhiễm khuẩn sơ
sinh, vấn đề này được Liu J. và cộng sự (2014) [57] cũng như tác giả Nguyễn
Thị Tân Sinh (2012) [54] đề cập tới.
Ngoài ra còn có nhiều bệnh lý khác của người mẹ lúc chuyển dạ có nguy
cơ ảnh hưởng đến con như: nhiễm độc thai nghén, các bệnh lý suy hô hấp,
hôn mê, suy thận, bệnh lý tim mạch, rối loạn chức năng các cơ quan …
Những yếu tố nguy cơ từ thai nhi và trẻ sơ sinh


Nguy cơ suy hô hấp từ trẻ sinh non
Kattwinkel J. và cộng sự (2006) [16] trong chương trình hồi sức sơ sinh


đã nêu lên những yếu tố mà trẻ sinh non có nguy cơ cao suy hô hấp, ngạt là:
+

Phổi thiếu hụt surfactant, giảm sức căng bề mặt phế nang, gây xẹp phế nang
làm thông khí khó khăn.

+

Não chưa trưởng thành, trung tâm điều hòa hô hấp thích nghi kém giảm khả
năng điều hòa nhịp thở.

+

Trương lực cơ giảm làm khả năng phát động nhịp thở kém.

+

Trẻ non tháng nên hệ thống da niêm mạc mỏng, diện tích bề mặt lớn, lớp mỡ
dưới da mỏng -> trẻ dễ mất nhiệt khi không kiểm soát tốt.

+

Hệ thống miễn dịch chưa hoàn thiện nên hay bị nhiễm trùng.


22

+


Mạch máu não mảnh, dễ vỡ nên dễ bị xuất huyết não.

+

Nguy cơ mất dịch, giảm thể tích do thể tích tuần hoàn nhỏ, cân nặng trẻ thấp.

+

Các cơ quan chưa hoàn thiện nên có nguy cơ tổn thương khi sử dụng oxy
nồng độ cao và kéo dài đặc biệt là phổi và mắt.


Các yếu tố khác từ thai và trẻ sơ sinh
Trẻ được theo dõi, chẩn đoán suy thai; trẻ ngạt trong tử cung và sau sinh;

trẻ chậm phát triển trong tử cung; trẻ sơ sinh được mổ đẻ khi chưa có dấu hiệu
chuyển dạ, mổ đẻ cấp cứu; trẻ chuyển dạ sinh tự nhiên nhưng sinh non,
chuyển dạ nhanh; thai to; đa thai; thai già tháng (> 42 tuần) [16, 24].
1.4. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ VÀ KẾT QUẢ
1.4.1. Phương pháp điều trị
1.4.1.1.
-

Nguyên tắc điều trị

Mục tiêu điều trị là ổn định tình trạng hô hấp, khí máu bằng các biện pháp hỗ
trợ hô hấp, hồi sức tích cực ngay từ sau khi sinh, oxy liệu pháp hoặc hỗ trợ hô
hấp bằng thở không xâm nhập CPAP, HFNO, nSIMV và nặng hơn sẽ phải thở
máy xâm nhập với các chiến lược thông khí phù hợp (thông khí bắt buộc-A/C,
thông khí bắt buộc ngắt quãng đồng thì-SIMV, thở tần số cao xoáy dòngHFO …), sử dụng surfactant [14, 20, 45].


-

Kết hợp với việc đảm bảo năng lượng, chống nhiễm trùng, theo khuyến cáo
của các tác giả trong nước và đồng thuận quốc tế nên sử dụng kháng sinh
ngay từ ban đầu cho tất cả các bệnh nhi chẩn đoán suy hô hấp [20, 45]. Sau
khi tình trạng bệnh nhi ổn định, tìm nguyên nhân cụ thể để điều trị.
1.4.1.2.

Điều trị cụ thể

Điều trị suy hô hấp
-

Thông thoáng đường thở: áp dụng tốt các biện pháp hồi sức sau sinh, đảm bảo
duy trì tư thế để đường thở mở (đầu hơi ngửa ra sau, kê cao vai)

-

Đảm bảo khả năng vận chuyển oxy tới các mô, tổ chức bằng cách duy trì
Hematocrit 30-40%, duy trì cung lượng tim ổn định


23

-

Khi bệnh nhân có PaO2 < 70 mmHg, và/hoặc tím tái, và/hoặc khó thở:
+ Cung cấp oxy: tùy theo mức độ suy hô hấp ta sử dụng các phương
pháp khác nhau để cung cấp oxy cho bệnh nhân. Nếu bệnh nhân suy hô hấp

nhẹ và vừa thì cho thở oxy qua gọng mũi. Theo dõi độ bão hòa oxy của trẻ,
điều chỉnh oxy khí thở vào để bão hòa oxy trong khoảng 92-95%.
+ Nếu bệnh nhân có suy hô hấp nặng, không đáp ứng với thở oxy hoặc
ngừng thở, ngạt nặng thì cần phải thông khí hỗ trợ: Nếu trẻ còn có nhịp thở
bước đầu có thể sử dụng hỗ trợ hô hấp không xâm nhập (CPAP, HFNO). Tuy
nhiên khi các biện pháp trên không hiệu quả phải điều trị thở máy xâm nhập,
sử dụng một trong các chế độ: thông khí bắt buộc (A/C); thông khí bắt buộc
ngắt quãng đồng thì (SIMV); thở HFO.
Điều chỉnh rối loạn toan kiềm và rối loạn điện giải

-

Khi có toan chuyển hóa, dùng dung dịch Natri bicarbonat 1,4% ; 4,2%. Bù
theo công thức: (2ml Natri bicarbonat 4,2% = 1 mEq)
Số mEq cần bù = 0,3 x P (kg) x số bicarbonate thiếu hụt (BE)

-

Trường hợp có toan hô hấp (PaCO2 > 70mmHg), điều chỉnh máy thở, thông
thoáng đường thở.

-

Khi dùng dung dịch Natri bicarbonat thường gây hạ đường huyết nên khi
truyền cần truyền cùng với dung dịch Glucose đề phòng hạ đường huyết.
Phòng và điều trị nhiễm khuẩn
Nguyên tắc cơ bản:

-


Đặt trẻ môi trường sạch, vô khuẩn, chăn, ga, tã vô khuẩn. Lồng ấp 5 – 7 ngày
tiệt khuẩn 1 lần; phòng bệnh 4 – 6 tuần tổng tiệt trùng.

-

Rửa tay sạch; sử dụng dụng cụ, trang thiết bị vệ sinh, vô trùng.

-

Làm sạch vi khuẩn: Vệ sinh hàng ngày, nôn trớ rửa sạch.

-

Sử dụng kháng sinh chống nhiễm khuẩn
Dùng kháng sinh tốt nhất là theo kháng sinh đồ. Những trẻ chẩn đoán
suy hô hấp được khuyến cáo nên sử dụng kháng sinh ngay từ đầu. Thuốc


24

ưu tiên sử dụng là Penicilline/Ampicillin+Aminoglycoside (Gentamycin)
[20, 45].
Sau đó sẽ tùy thuộc vào tình trạng trẻ, loại vi khuẩn nuôi cấy được để có
sự thay đổi hợp lý. Nếu chưa có kháng sinh đồ mà tình trạng trẻ nặng, nghi
ngờ nhiễm trùng nặng cần dùng kháng sinh phổ rộng có tác dụng diệt cả vi
khuẩn Gram âm và vi khuẩn Gram dương.
Đảm bảo dinh dưỡng
Cho trẻ ăn sữa mẹ, chia ăn làm nhiều bữa.
Nếu trẻ không bú được phải đặt sonde dạ dày bơm sữa chậm hoặc nhỏ
giọt dạ dày. Đồng thuận của Châu Âu về chăm sóc trẻ suy hô hấp khuyến cáo

cho ăn bằng đường tiêu hóa sớm [45].
Nếu lượng sữa ăn không đủ, hoặc trẻ bị nôn phải nuôi dưỡng bổ xung
bằng đường tĩnh mạch.
Nếu trẻ quá non chưa ăn được bằng đường miệng phải nuôi dưỡng bằng
đường tĩnh mạch.
Đảm bảo lưu lượng tuần hoàn, duy trì Hematocrite ở mức 30-40%, điều
trị rối loạn nhịp tim, có thể dùng các thuốc vận mạch, tăng co bóp cơ tim,
nâng huyết áp như Dopamin, Dobutamin…
Đảm bảo thân nhiệt không để rối loạn, đặc biệt hạ nhiệt độ
Đảm bảo thân nhiệt trẻ 3605C – 370C
Nhiệt độ phòng giữ ở 280C. Nếu trẻ hạ nhiệt độ dùng lồng ấp, phương
pháp”chuột túi”; Nếu sốt phải nới rộng quần áo, nếu cần cho thuốc hạ nhiệt.
Điều trị nguyên nhân
Với từng nguyên nhân cụ thể sẽ có điều trị phù hợp. Như bệnh màng
trong sử dụng surfactant điều trị kết hợp thông khí nhân tạo; viêm phổi dùng
kháng sinh hợp lý; hít phân su: sử dụng thông khí hỗ trợ, kháng sinh và thậm
chí dùng surfactant; còn ống động mạch: phát hiện, theo dõi và điều trị


25

Ibuprophen đóng ống động mạch khi có chỉ định; hạ đường huyết: cho ăn,
truyền đường và đảm bảo dinh dưỡng ….
Thông khí hỗ trợ xâm nhập
* Chỉ định thở máy:
Chỉ định trong các trường hợp suy hô hấp nặng, phải điều trị thở máy
xâm nhập mới đảm bảo quá trình trao đổi khí ở phổi [13, 14, 20, 58, 59]:
-

Ngừng thở, rối loạn nhịp thở, giảm nhịp tim và không đáp ứng với thông khí

bằng bóng mask có oxy kèm theo.

-

Trẻ sau sinh không tự thở, ngạt, hoặc sau hồi sức tích cực sau sinh phải đặt
nội khí quản chuyển xuống phòng điều trị tích cực sơ sinh thở máy hỗ trợ
ngay lập tức.

-

Sốc và ngạt với giảm tưới máu và hạ huyết áp

-

Thất bại với thở CPAP, nSIMV, HFNO:
+ Cơn ngừng thở kéo dài (> 15 giây kèm nhịp tim < 100 lần/phút hay
tím) hoặc xuất hiện 3 cơn ngừng thở/giờ ở trẻ đã dùng Caffeine/Theophylline
+ Giảm oxy máu nặng : SpO2 < 85% hay PaO2 < 50 mmHg mặc dù đã
dùng FiO2 > 60% (trừ bệnh tim bẩm sinh tím)
+ Tăng CO2 máu nặng : PaCO2 > 60 mmHg kèm pH < 7,20
1.4.2. Kết quả điều trị và một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị
trẻ suy hô hấp
1.4.2.1. Kết quả điều trị

Tăng Chí Thượng (2010) với tỷ lệ tử vong chung của bệnh nhi sơ sinh
tại khoa điều trị tích cực sơ sinh là 16% (trong đó suy hô hấp chiếm 91,2% số
bệnh nhi nhập viện) [10]. Nguyễn Thị Xuân Hương (2010) nghiên cứu tại
bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên là 21,83% (tổng cả số tử vong và
nguy cơ tử vong xin về) [11].
Nghiên cứu của Wadi A.M. (2012) đánh giá trên các bệnh nhi đủ tháng

tại Irag trên 167 bệnh nhi đủ tháng tỷ lệ tử vong của bệnh lý suy hô hấp là 9%,


×