Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

HÌNH DẠNG và KÍCH THƯỚC CUNG RĂNG của NGƯỜI KINH và NGƯỜI tày 18 25 TUỔI tại hà nội và LẠNG sơn năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 66 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

PHẠM THỊ THANH THỦY

HÌNH DẠNG VÀ KÍCH THƯỚC
CUNG RĂNG CỦA NGƯỜI KINH VÀ
NGƯỜI TÀY 18-25 TUỔI TẠI HÀ NỘI
VÀ LẠNG SƠN NĂM 2017


ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN BÁC SĨ CHUYÊN KHOA CẤP II

HÀ NỘI – 2017
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

PHẠM THỊ THANH THỦY


HÌNH DẠNG VÀ KÍCH THƯỚC
CUNG RĂNG CỦA NGƯỜI KINH VÀ
NGƯỜI TÀY 18-25 TUỔI TẠI HÀ NỘI
VÀ LẠNG SƠN NĂM 2017

Chuyên ngành: Răng Hàm Mặt
Mã số: CK 62.72.28.01

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN BÁC SĨ CHUYÊN KHOA CẤP II

Người hướng dẫn khoa học:


PGS.TS. Võ Trương Như Ngọc

HÀ NỘI - 2017


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DGD
DGT
DSD
DST
DTD
DTT
HD
HT
RGD
RGT
RHL
RHN
RHS
RHS1

: Dài giữa dưới
: Dài giữa trên
: Dài sau dưới
: Dài sau trên
: Dài trên dưới
: Dài trên trên
: Hàm dưới
: Hàm trên
: Rộng giữa dưới

: Rộng giữa trên
: Răng hàm lớn
: Răng hàm nhỏ
: Răng hàm sữa
: Răng hàm sữa thứ nhất

RHS2
RSD
RST
RTD
RTT

: Răng hàm sữa thứ hai
: Rộng sau dưới
: Rộng sau trên
: Rộng trước dưới
: Rộng trước trên


BẢNG THUẬT NGỮ VIỆT – ANH
Tiếng Việt
Máy chụp cắt lớp điện toán
Mẫu hình thái
Nhân học
Thước trượt
Thước điện kĩ thuật số
Khoảng leeway

Tiếng anh
CT scanner

Morphological patten
Anthropology
Orthoform
Electronic digital calipers
Leeway space


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC HÌNH


9

ĐẶT VẤN ĐỀ
Vấn đề tiếp xúc giữa các răng của hai cung hàm, hay nói khác đi là chức năng
của cung hàm là chìa khóa đảm bảo cho sự lành mạnh và thoải mái của hệ thống
nhai [1]. Ngoài ra cung răng còn góp phần tạo nên thẩm mỹ cho khuôn mặt của con
người. Một cung răng đẹp kết hợp hài hòa với các yếu tố phần mềm góp phần mang
lại nụ cười đẹp và tự tin của con người
Cung răng cùng với những cấu trúc thần kinh-cơ xung quanh là thành phần cơ
bản của bộ máy nhai trong đó cung răng đóng vai trò quan trọng nhất. Trên nền tảng
của hệ thống nhai, các chức năng nhai, nuốt, nói và thẩm mỹ của vùng này luôn là
những vấn đề phức tạp, tế nhị và đặt ra cho người thầy thuốc Răng Hàm Mặt những
thách thức không nhỏ trong việc “góp phần mang lại hạnh phúc cho mỗi cá nhân và
cộng đồng xã hội”. Để có thể có được những quyết định đúng đắn cho các can thiệp

về hình thái và chức năng ở vùng đầu, mặt và cung răng.
Từ năm 1920 Williams, J.L. và Chuck đã nghiên cứu đặc điểm hình thái và
phân loại cung răng thành 3 loại hình dạng khác nhau bao gồm cung răng hình vuông,
cung răng ovan và cung răng thuôn dài [2],[3]. Nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng tỷ lệ
các loại cung răng ở nam và nữ có sự khác nhau. Ở mỗi chủng tộc, dân tộc khác nhau
cũng có sự khác nhau về tỷ lệ, đặc điểm của mỗi dạng cung răng. Việc nghiên cứu
đặc điểm khớp cắn có một vai trò rất quan trọng trong thực hành chỉnh nha lâm sàng.
Với mỗi loại hình dạng cung răng khác nhau sẽ tương ứng với hình dạng dây cung
điều trị tương ứng mới đem lại sự ổn định cho kết quả điều trị chỉnh nha.
Hàm răng con người trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau bao gồm
giai đoạn hàm răng sữa, giai đoạn hàm răng hỗn hợp và giai đoạn hàm răng vĩnh
viễn. Mỗi giai đoạn ứng với một lứa tuổi khác nhau và mang những đặc thù về hình
thái và kích thước. Từ 18 tuổi trở đi gần như cung răng đã phát triển hoàn toàn và
ổn định về mặt kích thước cũng như đặc điểm hình thái. Do vậy có thể coi lứa tuổi
này là một lứa tuổi đặc trưng và đại diện cho người trưởng thành. Đã có rất nhiều
các nghiên cứu ở lứa tuổi này trên thế giới để từ đó đưa ra được các chỉ số về hình


10

thái và kích thước cung răng… [4],[5],[6]. Ở Việt Nam cũng đã có nhiều tác giả làm
về đề tài này, song nhìn chung đó là những nghiên cứu nhỏ lẻ, cỡ mẫu chưa lớn,
chưa thể mang tính khái quát đặc trưng cho người Việt Nam. Chính vì thế việc có
một bộ số liệu đầy đủ và chính xác, phù hợp với đặc điểm của từng dân tộc là một
yêu cầu bức thiết được đặt ra.

Xuất phát từ những nhu cầu thực tiễn nhóm chúng tôi đã tiến hành nghiên
cứu trên quy mô lớn, là một phần trong đề tài nghiên cứu cấp nhà nước về các
chỉ số nhân trắc học ở người Việt, để có thể đưa ra được một bộ số liệu chính
xác, hoàn thiện và mang tính đặc trưng cao cho người Việt Nam. Và chúng tôi

lựa chọn đề tài: “Hình dạng và kích thước cung răng của người Kinh và người
Tày 18-25 tuổi tại Hà Nội và Lạng Sơn năm 2017” với hai mục tiêu:

1. Mô tả hình dạng cung răng của người Kinh và người Tày lứa tuổi 18-25 ở
Hà Nội, Lạng Sơn năm 2017.
2. Xác định kích thước cung răng của người Kinh và người Tày lứa tuổi
18-25 ở Hà Nội, Lạng Sơn năm 2017.


11

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm hình thái phát triển cung răng
Những thay đổi theo tuổi của cung răng được nghiên cứu rộng rãi, vì những
hiểu biết về sự tăng trưởng của cung răng rõ ràng có vai trò quan trọng trong lập kế
hoạch điều trị chỉnh nha và tạo hình. Trong những nghiên cứu đầu tiên các tác giả
chủ yếu quan sát tương quan giữa các điểm mốc trên miệng và đánh giá những thay
đổi của vị trí của các điểm mốc đó (Lewis, 1929) [6]. Tiếp theo, cung răng được đo
đạc và đánh giá những thay đổi trên mẫu hàm thông qua quy trình lấy dấu, đổ mẫu.
Theo dõi những thay đổi về chiều dài, chiều rộng và chu vi cung răng giúp đánh giá
được sự tăng trưởng và phát triển của cung răng trong quá trình phát triển của hệ
thống sọ - mặt - răng. Từ khi sinh ra cho tới khi trưởng thành, bộ răng người trải
qua bốn giai đoạn hình thành, phát triển và biến đổi như sau:
- Giai đoạn 1 (giai đoạn thành lập bộ răng sữa): Từ khi sinh ra cho đến khi
mọc đầy đủ các răng sữa, thường diễn ra từ lúc sinh đến 2,5 tuổi.
- Giai đoạn 2 (giai đoạn cung răng sữa ổn định): Từ khi mọc đầy đủ hàm
răng sữa đến khi mọc RHL vĩnh viễn thứ nhất, thường từ 2,5 tuổi đến 6 tuổi.
- Giai đoạn 3 (giai đoạn bộ răng hỗn hợp): từ khi mọc RHL vĩnh viễn thứ
nhất đến khi thay chiếc răng sữa cuối cùng, thường từ 6 tuổi đến 12 tuổi.

Giai đoạn này có thể chia ra chia ra làm hai giai đoạn: 6 – 10 tuổi là giai đoạn
hàm răng hỗn hợp sớm; 10 – 12 tuổi là giai đoạn hàm răng hỗn hợp muộn dựa theo
sự mọc của nhóm răng cửa và nhóm răng sau. Trong giai đoạn này, một yếu tố rất
đáng được lưu tâm là tổng kích thước theo chiều gần xa của các răng nanh sữa, RHS
thứ nhất, RHS thứ hai lớn hơn tổng kích thước gần xa của răng nanh vĩnh viễn, RHN
thứ nhất, thứ hai khoảng 1,7 mm ở HD, 0,9 mm ở HT mỗi bên. Khoảng chênh lệch
này được Nance gọi là khoảng “leeway” [7],[8]. Khi răng sữa phía sau được thay thế
bởi các răng nanh và RHN, khoảng leeway được khép lại. Sự khép lại của khoảng
leeway phụ thuộc vào khớp cắn RHL thứ nhất và thứ tự mọc răng HT và HD. Thay
đổi thứ tự mọc răng bình thường có thể làm cản trở các răng mọc đúng vị trí.


12

- Giai đoạn 4 (giai đoạn bộ răng vĩnh viễn): từ khi mọc răng hàm lớn vĩnh viễn
thứ hai và sau đó, thường diễn ra sau 12 tuổi.
Năm 1929, Lewis đã nghiên cứu về những thay đổi tăng trưởng của răng và
cung răng, và những thay đổi khớp cắn ở bộ răng sữa sang răng hỗn hợp với mẫu
gồm 170 trẻ từ 1,5 đến 9,5 tuổi. Ngoài những phát hiện về khớp cắn, Lewis quan
tâm đến sự thay đổi kích thước, chiều rộng cung răng (vùng răng nanh và vùng răng
hàm sữa 1 (RHS1) và răng hàm sữa 2 (RHS2) [6].
Kết quả nghiên cứu được trình bày với số trung bình, độ lệch chuẩn và số đối
tượng chung cho nam và nữ từ 2,5 đến 8 tuổi. Tác giả kết luận khớp cắn chịu ảnh
hưởng của những thay đổi do tăng trưởng, cung răng sữa rộng ra để phù hợp với
kích thước lớn hơn của các răng cửa vĩnh viễn [6].
Sillman (1935) thực hiện nghiên cứu dọc về sự thay đổi kích thước cung răng
từ lúc mới sinh đến 25 tuổi trên 113 trẻ em sinh ở bệnh viện Bellevue tại NewYork,
750 mẫu thạch cao được sử dụng cho nghiên cứu này. Đến năm 1964 ông công bố
kết quả và nhận xét [9]:
- Về chiều rộng cung răng hàm trên và dưới vùng răng nanh tăng nhanh lúc

mới sinh đến 2 tuổi, khoảng 5 mm/năm ở hàm trên và 3,5 mm/năm ở hàm dưới, tiếp
tục tăng đến 13 tuổi ở hàm trên, 12 tuổi ở hàm dưới. Sau đó không có sự tăng
trưởng đáng kể từ 16 tuổi đến 25 tuổi.
- Chiều rộng vùng răng hàm lớn thứ nhất có sự giảm kích thước cả hai hàm từ
16 tuổi, nhưng đặc biệt chiều rộng và chiều dài toàn bộ chỉ gia tăng và ổn định mà
không giảm là do sự phát triển sau sinh xảy ra ở phía sau của cung hàm.
- Về chiều dài của cung răng như sau: Chiều dài cung răng hàm trên và dưới
vùng răng nanh có sự gia tăng nhanh từ khi mới sinh đến 2 tuổi khoảng 2mm mỗi
năm. Từ 3 tới 6 tuổi thay đổi ít. Tới 9 tuổi sự thay đổi không có ý nghĩa. Hàm trên
ổn định vào khoảng 9 tuổi, hàm dưới ổn định sau 10 tuổi. Sau tuổi dậy thì, kích
thước này tăng khoảng 0,4 mm/năm ở hàm trên và 0,3 mm/ năm ở hàm dưới và đến
tuổi 20-22 thì không tăng.
Barrow (1952) với mẫu nghiên cứu gồm 528 bộ mẫu hàm của 51 trẻ em
trường tiểu học Michigan và trường trung học Ann Ambor [4]. Đối tượng nghiên


13

cứu được khám và lấy dấu mỗi năm một lần. Mục tiêu của nghiên cứu này ngoài
việc nghiên cứu khớp cắn, kẽ hở giữa các răng của bộ răng sữa và bộ răng hỗn hợp
còn đánh giá về sự thay đổi kích thước cung răng theo chiều rộng và chiều dài của
bộ răng vĩnh viễn.
* Về chiều rộng cung răng ông đưa ra kết luận:
- Chiều rộng cung răng ở vị trí đỉnh múi giữa hai răng nanh trên cung hàm ít thay
đổi từ 3 tới 5 tuổi, tăng nhanh từ 5 tới 8 tuổi và giảm dần từ 0,5 tới 1,5mm sau 14 tuổi.
- Chiều rộng cung răng ở vị trí đỉnh múi ngoài gần giữa hai răng hàm lớn thứ
nhất có mức độ tăng nhanh từ 7 đến 11 tuổi (tăng 1,8 mm ở hàm trên; 1,2 mm ở
hàm dưới). Từ 11 đến 15 tuổi có sự giảm chiều rộng cung răng (0,4 mm ở hàm trên;
0,9 mm ở hàm dưới).
Theo ông, sở dĩ có sự giảm chiều rộng cung răng vùng răng hàm lớn thứ nhất

sau 11 tuổi là do sự di gần của răng hàm lớn thứ nhất và hướng hội tụ của hàm dưới
nhiều hơn. Chiều rộng cung răng hàm dưới giảm nhiều hơn hàm trên có thể do sự di
gần răng 6 và hướng hội tụ của hàm dưới nhiều hơn. Từ 15 tới 17 tuổi còn khoảng
50% trường hợp có sự giảm tiếp tục chiều rộng cung răng vùng răng cối.
* Về chiều dài cung răng là khoảng cách từ điểm giữa của hai răng cửa giữa
vuông góc với đường nối đỉnh múi ngoài gần răng 6. Ông đưa ra một số kết luận:
- Từ 6 tới 12 tuổi: Chiều dài cung răng hàm trên tăng 1,0mm. Nhưng chiều dài
cung răng dưới giảm 1,12 mm.
- Tù 12 đến 13,5 tuổi: Chiều dài cung răng trên tăng nhẹ khoảng 0,2mm sau đó
chiều dài giảm đến 17-18 tuổi.
Ông cho rằng có 3 nguyên nhân chính làm giảm chiều dài cung răng: Việc
đóng kín các khe hở tiếp cận của các răng sau, khuynh hướng nghiêng sau của các
răng, đặc biệt ở hàm trên; và sự mòn sinh lý theo tuổi ở mặt nhai của tất cả các răng.
Năm 1942, Brodie A.G và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu dọc trên trẻ em từ 3
đến 18 tuổi ở Mỹ; đây là một công trình nghiên cứu có qui mô lớn. Từ nghiên cứu này,
tác giả đã cho ra đời một cuốn sách dày 245 trang gồm các phần chính sau đây: Kích
thước chiều rộng, chiều dài của cung răng, đánh giá mức thay đổi tăng trưởng của cung
răng và nêu lên một số ứng dụng lâm sàng, tiên lượng và lập kế hoạch điều trị [10].


14

- Về chiều rộng cung răng (mốc đo nằm trên đỉnh răng nanh, đỉnh núm gần
ngoài răng cối lớn thứ nhất): Các kích thước này gia tăng từ 3 đến 18 tuổi, đỉnh cao
tăng trưởng vào giai đoạn đầu dậy thì, đến 17-18 tuổi có sự giảm nhẹ rồi đi đến ổn
định ở người trưởng thành. Ở hàm trên, chiều rộng vùng răng nanh của nam lúc 3
tuổi là 28,6 mm, đến 18 tuổi là 33,7 mm; của nữ lúc 3 tuổi là 27,7mm, lúc 18 tuổi là
32,0 mm. Chiều rộng vùng răng hàm lớn I của nam lúc 6 tuổi là 36,7 mm, lúc 18
tuổi là 41,7mm. Ở hàm dưới của nam, chiều rộng vùng răng nanh lúc 3 tuổi là 22,2
mm, lúc 18 tuổi là 25,6 mm; vùng răng hàm lớn I lúc 6 tuổi là 33,06 mm, lúc 18

tuổi là 35,4 mm. Như vậy có sự gia tăng kích thước chiều rộng cung răng cho đến
17-18 tuổi.
Hàm trên của nữ cũng có sự gia tăng về kích thước tương tự như trên. Đặc biệt
có sự liên quan giữa gia tăng về kích thước với sự mọc răng vĩnh viễn ở lứa tuổi
trước và trong giai đoạn đầu dậy thì.
- Về chiều dài (chiều trước sau) cung răng (mốc đo từ điểm giữa hai răng cửa
giữa đến đường nối các mốc đo ở răng nanh, răng hàm lớn I): Chiều dài cung răng
hàm trên và hàm dưới chủ yếu giảm vào hai đợt, đợt 1 từ 4 đến 6 tuổi, đợt 2 từ 10
đến 14 tuổi.
Năm 1988, Bishara thực hiên nghiên cứu trên nhóm đối tượng thuộc đại học
Iowa để đánh giá những thay đổi của chiều dài cung răng từ tuần 6 đến 45 tuổi [5].
một nghiên cứu gồm 2 nhóm, nhóm thứ nhất gồm 15 nữ và 15 nam đã được lấy dấu
vào lúc 3 tuổi, 8 tuổi, 13 tuổi, 25 tuổi, 45 tuổi; nhóm thứ 2 gồm 33 nam và 28 nữ sơ
sinh được lấy dấu lúc 6 tuần tuổi, 1 tuổi và 2 tuổi. Tác giả kết luận mức độ tăng
chiều dài cung hàm trên và dưới mạnh nhất vào hai năm đầu tiên, chiều dài cung
răng tiếp tục tang cho đến khoảng 8 dến 13 tuổi, sau đó giảm dần và tương đối ổn
định sau tuổi dậy thì.
Brader nghiên cứu dọc về sự thay đổi về sự thay đổi chiều dài và chiều rộng
cung răng ở người trưởng thành. Trong nhóm chuẩn (không điều trị chỉnh hình)
gồm 27 nam và 26 nữ lứa tuổi 14, 16 và 47 ở Michigan. Nhóm 14 tuổi gồm có 22
nữ, 24 nam; Nhóm 16 tuổi và nhóm 47 tuổi có cùng số đối tượng, gồm có 26 nữ,


15

27 nam cho mỗi nhóm. Những đối tượng này đều chưa được can thiệp về điều trị
chỉnh hình. Mục tiêu của nghiên cứu là xác định tính ổn định của kích thước cung
răng ở bệnh nhân có điều trị chỉnh hình, ông đã kết luận việc chỉnh nha phải được
điều trị duy trì sau tuổi thanh niên (18 tuổi) vì sau thời gian này kích thước cung
răng ổn định trong suốt thời gian trưởng thành (kết luận này rút ra từ so sánh kết

quả với nghiên cứu trên mẫu không chỉnh hình). Sự bất thường của răng và cung
răng xảy ra ở hàm dưới nhiều hơn hàm trên, có sự thay đổi kích thước sau tuổi
trưởng thành của hàm dưới nhiều hơn hàm trên, khác nhau giữa nam và nữ. Ông
đã thống kê những nhận xét của các bác sỹ chỉnh hình răng mặt: Đa số bệnh nhân
than phiền các răng không đều ở hàm dưới nhiều hơn hàm trên, nhưng tác giả
không nêu nguyên nhân gây ra tình trạng đó mà chỉ giải thích là bất kỳ sự giảm
kích thước nào của hàm cũng nhỏ hơn 3 mm, và đó là một trong những nguyên
nhân làm gia tăng tình trạng không đều của cung răng. Qua phân tích so sánh bằng
t-test và Anova, ông đã kết luận kích thước chiều rộng, chiều dài và chu vi cung
răng đều giảm ít hơn 3 mm từ 14 đến 47 tuổi. Giai đoạn từ 18 đến 50 tuổi các kích
thước cung răng giảm nhiều hơn và giảm có ý nghĩa thống kê so với giai đoạn từ
14 đến 18 tuổi. Tác giả đưa ra lý do giảm kích thước cung răng là do răng xoay,
răng di gần và mòn răng [11].
Như vậy, nhiều nghiên cứu dọc và cắt ngang của các tác giả Brader, Sillman,
Barrow, Bishara… đều có nhận xét:
- Kích thước chiều rộng cung răng đo trên mốc răng nanh, răng hàm nhỏ thứ
hai, răng hàm lớn thứ nhất có sự tăng trưởng nhiều trước tuổi dậy thì; tăng trưởng
chậm ở tuổi dậy thì và ổn định ở 16 - 18 tuổi đối với nữ, 18 - 20 tuổi đối với nam.
Kích thước chiều dài cung răng theo chiều trước sau được đo theo mốc các
răng trên cho thấy có sự giảm dần từ khi xuất hiện răng vĩnh viễn trên cung hàm và
ổn định ở tuổi 17 đến 18 đối với nữ và 19 đến 20 đối với nam. Giảm chiều dài cung
răng chủ yếu là do răng có xu hướng di gần, xoay răng, răng bị mòn… Hàm trên
giảm khoảng 1,3 mm và hàm dưới khoảng 1,6 mm.


16

1.2. Hình dạng và kích thước cung răng
1.2.1. Hình dạng cung răng
Nhìn từ phía mặt nhai các răng được sắp xếp thành một cung (cung răng). Vì

cấu trúc hình cung được xem là sự sắp xếp tạo nên tính ổn định và vững chắc.
Một bộ răng vĩnh viễn đầy đủ gồm 32 chiếc, chia đều cho 2 cung răng: cung
răng trên và cung răng dưới. Do răng hàm lớn thứ 3 thường có hoặc không (không
có mầm răng), khái niệm về bộ răng gồm 28 chiếc được sử dụng trên lâm sàng.
Năm 1920, Williams đã nêu lên sự đồng dạng giữa hình dạng của răng cửa
và hình dạng của cung răng. Nếu răng có hình dạng hình vuông sẽ kèm theo mặt
hình vuông và cung răng cũng có dạng hình vuông. Các tác giả đã phân biệt ba dạng
cung răng là hình vuông, hình ô van và hình tam giác [2].
Năm 1972, Brader đưa ra một mẫu cung răng. Mẫu này dựa trên một ê líp 3 tiêu
điểm và đã làm thay đổi quan niệm về hình dạng cung răng. Đường cong cung răng
rất giống với đường cong của ê líp, các răng sắp xếp chỉ một phần ở cực nhỏ của toàn
bộ đường cong. Ông cho rằng cấu trúc của cung răng có 4 đặc trưng chủ yếu [11]:
- Hình dạng của cung răng.
- Kích thước của cung răng
- Sự đối xứng hai bên.
- Sự thay đổi của các cấu trúc xung quanh dẫn đến sự biến đổi hình thể của
cung răng.
Năm 1981 Rickett đã tiến hành một loạt nghiên cứu về hình dạng cung răng và
đã đưa ra kết luận:
- Hình dạng cung răng hàm trên đồng dạng với hình dạng cung răng hàm dưới.
- Cung răng hàm trên ở phía trước hơn so với cung răng hàm dưới.
- Có 5 dạng cung răng: Dạng hình thuôn dài, dạng hình thuôn dài hẹp, dạng
hình trứng, dạng hình trứng hẹp, dạng hình vuông [12].
Nhưng trên thực tế, hiện nay sự phân loại hình dạng cung răng chủ yếu được
sử dụng trong chẩn đoán và điều trị chỉnh hình răng mặt là phương pháp phân loại
của Chuck và Williams là: Dạng hình vuông, dạng hình tam giác (hình thuôn dài),
hình ô van (hình trứng) [2].


17


1.2.2. Kích thước cung răng
Các phương pháp đo đạc được đưa ra phụ thuộc chủ yếu vào mục tiêu nghiên
cứu, mục đích điều trị.
Năm 1979, Engle đã tiến hành đo hàng loạt mẫu để xác định các yếu tố của
hình dạng và kích thước cung răng [13]. Ông cùng với Lestrel đã rút ra 4 kích thước
chủ yếu của cung răng là [13],[14]:
-

Chiều dài trước (chiều dài vùng răng nanh): là khoảng cách từ điểm giữa hai răng
cửa giữa tới đường nối đỉnh của hai răng nanh.

-

Chiều rộng trước (chiều rộng vùng răng nanh): là khoảng cách giữa hai đỉnh của hai
răng nanh.

-

Chiều dài sau (chiều dài vùng răng hàm): là khoảng cách từ điểm giữa hai răng cửa
giữa tới đường nối hai đỉnh của hai núm ngoài gần của răng hàm lớn thứ nhất.

-

Chiều rộng sau (chiều rộng vùng răng hàm): là khoảng cách giữa hai đỉnh của hai
núm ngoài gần của răng hàm lớn thứ nhất.
Kích thước của cung răng có sự khác biệt theo giới tính và các dạng cung răng
hình vuông, hình ô van, hình tam giác.
+ Kích thước cung răng ở nam lớn hơn nữ.
+ Chiều rộng cung răng ở vùng răng nanh và vùng răng hàm ở cung răng

hình vuông là lớn nhất, rồi đến dạng cung răng hình ô van, hẹp nhất là cung răng
dạng hình tam giác.
+ Ngược lại chiều dài cung răng ở dạng cung răng hình tam giác là lớn nhất, rồi
đến cung răng dạng ô van, ngắn nhất là cung răng dạng hình vuông [13], [14].
Năm 1992, Hoàng Tử Hùng và Huỳnh Thị Kim Khang nghiên cứu kích thước
chiều dài và chiều rộng cung răng hàm trên ở người Việt trưởng thành. Kết quả cho
thấy cung răng hàm trên người Việt trưởng thành có dạng ê líp, kích thước cung
răng ở nam lớn hơn ở nữ [Error: Reference source not found].
Năm 1993, Raberin M., Laumon B., Martin J. L. khoa chỉnh nha của trường
nha Lyon ở Pháp đã nghiên cứu phân tích trên 278 mẫu thạch cao của người Pháp
trưởng thành chưa được can thiệp chỉnh nha. Các tác giả đã rút ra kết luận rằng
không có sự khác biệt về tỷ lệ các dạng cung răng ở nam cũng như ở nữ và cung
răng ở nam lớn hơn cung răng ở nữ cả về chiều rộng và chiều dài [16].


18

Năm 1999, Phạm Thị Hương Loan và Hoàng Tử Hùng nghiên cứu so sánh đặc
điểm cung răng người Việt với người Ấn Độ và Trung Quốc đưa ra nhận xét: Cung
răng người Việt rộng hơn đáng kể so với cung răng người Ấn Độ, nhưng lại gần với
kích thước cung răng người Trung Quốc [17].
Theo nghiên cứu của Siti Adibah Othman và cộng sự (2012) khi nghiên cứu
trên 252 mẫu hàm của người Malay có độ tuổi từ 13-30 cũng đã kết luận kích thước
ngang cung hàm ở nam lớn hơn nữ [18].
Năm 2012, theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Phương, Võ Trương Như
Ngọc, Đồng Mai Hương (2012) khi nghiên cứu ở nhóm sinh viên đại học Y Hải
Phòng đã kết luận kích thước trung bình của cung răng trên ở các dạng cung răng
khác nhau là rất khác nhau, chiều rộng cung răng phía trước (R33) và phía sau
(R66) lớn nhất ở dạng cung răng hình vuông, nhỏ nhất ở dạng cung răng hình tam
giác. Với chiều dài thì ngược lại, chiều dài phía trước cung răng (D13) của dạng

cung răng hình tam giác là lớn nhất còn dạng cung răng hình vuông là ngắn nhất
[19],[19], [21].
Năm 2013, theo nghiên cứu của Lê Hồ Phương Trang, Trần Ngọc Khánh Vân,
Lê Võ Yến Nhi trên 117 mẫu hàm thạch cao cũng kết luận kích thước ngang cung
hàm ở nam lớn hơn ở nữ [22].
Theo nghiên cứu của Proffit W.R và cộng sự năm 2013 khi so sánh chiều rộng
cung răng giữa nhóm CI và nhóm CII tiểu loại 1: mặc dù đã có một xu hướng cho
nhóm Class II có một cung răng hàm trên hẹp, song sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê ở nhóm răng hàm lớn, nhóm răng hàm nhỏ, cả hàm trên và hàm dưới giữa
hai nhóm [23].
Theo nghiên cứu của nhóm tác giả Dolly Patel, Falguni Mehta, Nimesh Patel,
Nishit Mehta, Ipist Trivedi, Jone A.P (2015) trên dân chúng Ấn Độ cho kết quả sau.
Khi so sánh độ rộng cung hàm ở hàm trên cả hai giới, nhóm CIII và nhóm CI cho
thấy độ rộng liên 2 răng nanh hàm trên lớn hơn đáng kể so với nhóm CIId1 và độ
rộng liên 2 răng hàm nhỏ hàm trên lớn hơn nhóm CIId2 và CIId1. Đối với hàm dưới
nhóm CIII cho thấy độ rông liên răng nanh, liên răng hàm nhỏ lớn hơn đáng kể so
với nhóm CI, CIId2, và nhóm CIId1 [24], [25].


19

1.3. Các phương pháp đo đạc cung răng
Đánh giá răng, cung răng là một công việc cần thiết trong thực hành lâm
sàng và nghiên cứu. Đánh giá những thay đổi về cung răng và khớp cắn để phân
tích những bất thường của bộ răng. Việc đánh giá không chỉ dựa vào quan sát cảm
quan mà phải dựa vào đo đạc và phân tích trên cơ sở khoa học: trên phim, mẫu hàm
hoặc trực tiếp trên miệng.
Việc đo đạc phân tích trực tiếp trên miệng cho ta biết chính xác hơn kích
thước thật của răng, cung răng, tình trạng khớp cắn tuy nhiên có hạn chế là việc xác
định các điểm mốc trên miệng đôi lúc gặp nhiều khó khăn đặc biệt là với những

răng xoay hay răng ở phía sau, thời gian làm việc không cho phép kéo dài, không
lưu trữ được mẫu cho lần sau. Chính vì vậy, phương pháp này thường dùng kết hợp
với các phương pháp khác để phân tích đánh giá về răng, cung răng, khớp cắn chứ
không thể dùng riêng rẽ.
Việc đo đạc trên ảnh chụp và phim X-quang mặc dù nhanh chóng, hiện
đại nhưng có nhiều sai số phụ thuộc vào tỷ lệ giữa phim và kích thước thật, bị hạn
chế về tính phổ biến của kỹ thuật và phụ thuộc nhiều vào thiết bị.
Mẫu hàm thạch cao được xem là một công cụ quan trọng trong điều trị chỉnh
nha cũng như trong nghiên cứu; chúng giúp cho việc phân tích kích thước và hình
dạng răng, mức độ thẳng hàng và xoay của răng, chiều rộng, chiều dài, hình dạng và
mức độ đối xứng của cung răng cũng như quan hệ khớp cắn [26]. Mẫu thạch cao là
một thành phần tiêu chuẩn trong nghiên cứu chỉnh nha cũng như chẩn đoán, lên kế
hoạch điều trị, đánh giá tiến triển trong quá trình điều trị và khi kết thúc điều trị
cũng như lưu trữ kết quả điều trị và nghiên cứu [27]. Có các loại phương tiện chủ
yếu sau để nghiên cứu trên mẫu hàm.
1.3.1. Đo trên mẫu hàm số hóa
Từ năm 1970, đã có nhiều phát triển về mặt kỹ thuật trong việc phân tích
mẫu hàm như việc áp dụng các kỹ thuật tái tạo hình ảnh bằng vi tính (Biggerstaff,
1972) và thu thập trực tiếp dữ liệu hai chiều (Savara và Sanin, 1972). Van Der
Linden (1972), một bác sĩ chỉnh hình răng mặt thuộc trường Đại học Nymegen - Hà


20

Lan, đã xây dựng một phương pháp cho phép thu thập các dữ liệu trong không gian
ba chiều và khảo sát mẫu hàm trên và dưới như một khối thống nhất [28].
Vào khoảng đầu những năm 2000 phần mềm OrthoCad ra đời. Phần mềm này
có thể thu và trình bày mẫu hàm nghiên cứu trên máy tính dưới dạng ảnh không gian
ba chiều. Về mặt lâm sàng, mẫu hàm kỹ thuật số là một giải pháp hấp dẫn vì thuận lợi
trong việc lưu trữ, do vậy giúp cho bác sỹ chỉnh nha cả ở góc độ quản lý hồ sơ lẫn

góc độ tiếp thị dịch vụ. Độ chính xác của mẫu hàm kỹ thuật số là chấp nhận được về
mặt lâm sàng và nếu tính tới các ưu điểm cũng như khả năng cải tiến của công cụ
OrthoCad cũng như các công cụ tương tự trong tương lai (ví dụ như khả năng tự động
xác định điểm đo, tự động xác định các kích thước hay đánh giá hiệu quả điều trị) thì
mẫu hàm kỹ thuật số có thể trở thành công cụ sử dụng hàng ngày.

Hình 1.1. Đo kích thước gần xa bằng phần mềm OrthoCad- ảnh 3D
(a) răng cửa, (b) răng nanh, (c) răng hàm nhỏ, (d) răng hàm lớn (Nguồn: Oded et al)[29].

Hình 1.2. Đo kích thước chiều rộng qua hai răng nanh và hai răng hàm lớn
thứ nhất bằng phần mềm OrthoCad [29].
Tuy nhiên như có thể thấy ở các hình trên, đối với mẫu hàm kỹ thuật số có
một điểm cần chú ý là mặc dù đây là ảnh ba chiều nhưng thực ra vẫn chỉ nhìn được
hai chiều trên màn hình, do vậy việc xác định các điểm, các trục và các mặt đo sẽ
gặp khó khăn [30].
1.3.2. Đo bằng máy chụp cắt lớp điện toán
Yan B. và cộng sự đã sử dụng máy chụp cắt lớp điện toán (CT scanner) số
hóa 20 mẫu răng thành ảnh ba chiều và dùng phần mềm máy tính đo các tọa độ của
mẫu răng để kiểm tra độ tin cậy của hệ thống và so sánh với việc đo thủ công [30].


21

Hình 1.3. Hệ thống Scanned 3D và hình dạng cung răng hàm trên [28].
Mặc dù kết quả cho thấy hệ thống có thể sử dụng trong việc chẩn đoán lâm
sàng và điều trị sai khớp cắn nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa kết quả
đo bằng máy chụp cắt lớp điện toán ba chiều và kết quả đo tay (p > 0.05).
Những nghiên cứu trên cho thấy không thực sự cần thiết sử dụng máy chụp
cắt lớp điện toán nếu so sánh giữa chi phí cần có và lợi ích mang lại.
1.3.3. Đo bằng thước trượt trên mẫu hàm thạch cao

Thước trượt thông thường có độ chính xác tới 1/10mm, được sử dụng trong
nhiều nghiên cứu về kích thước răng và cung răng. Trần Thúy Nga (2001) kết luận
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa việc đo đạc các kích thước theo chiều
gần xa của các răng hàm sữa thứ nhất và thứ hai, răng nanh sữa, răng cửa giữa, răng
cửa bên ở cả hai hàm bằng phương pháp vi tính so với phương pháp cổ điển [31].

Hình 1.4. Thước trượt thông thường [31]
Thước trượt điện tử có tính năng tương tự như thước trượt thông thường
nhưng độ chính xác cao hơn, tới cỡ 1/100 mm. Về mặt sử dụng, thước trượt điện tử
cũng dễ sử dụng hơn do có màn hình hiển thị số, rất thuận tiện cho người đo. Thước
trượt điện tử được sử dụng trong hầu hết các nghiên cứu gần đây về đo kích thước


22

răng, cung răng. Chúng tôi sử dụng loại thước trượt điện tử Mitutoyo CD-6 của
Nhật Bản để tiến hành nghiên cứu đo đạc [32].

Hình 1.5. Thước trượt điện tử Mitutoyo CD-6 của Nhật Bản
Nhiều tác giả đã nghiên cứu so sánh giữa việc phân tích và sử dụng các phép
đo trên mẫu hàm thường với thước trượt điện tử và sử dụng hàm số hoá với ảnh
không gian 3 chiều đã rút ra kết luận sau:
Việc đo bằng thước trượt điện tử trên mẫu hàm thạch cao cho kết quả chính
xác nhất và có thể lặp lại.
Việc dùng phần mềm số hoá để đo đạc cho kết quả có thể lặp lại, độ chính
xác cao nhưng thấp hơn so với đo trên mẫu hàm với thước trượt điện tử.
Thước trượt điện tử là phương tiện phù hợp với công việc nghiên cứu. Tuy
nhiên, độ chính xác của phân tích bằng số hoá được lâm sàng chấp nhận và có ưu
điểm trong hiện tại và tương lai. Mẫu hàm số hoá có thể dần dần được tiêu chuẩn
hoá ứng dụng trong chỉnh nha nhờ đặc tính lưu trữ tốt và tiết kiệm thời gian của nó.

Tóm lại: Mặc dù có nhiều cách đánh giá cung răng và khớp cắn nhưng
phương pháp sử dụng thước trượt điện tử trên mẫu hàm thạch cao vẫn là phương
pháp hiệu quả thích hợp cho việc thực hiện các nghiên cứu đánh giá sự thay đổi của
răng, cung răng với độ chính xác cao, phương pháp sử dụng mẫu thạch cao được
nhiều các nhà nghiên cứu hình thái cung răng trên thế giới sử dụng.
1.4. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam
1.4.1. Nghiên cứu trên thế giới
Những thay đổi theo tuổi của cung răng, sự khác biệt về kích thước cũng như
hình dạng cung răng theo giới tính, dân tộc... đã và đang được nghiên cứu rộng rãi
nhờ tính chất quan trọng của nó trong việc lập kế hoạch điều trị chỉnh nha và tạo
hình. Các tài liệu nghiên cứu được thực hiện theo nhiều cách, chủ yếu là quan sát sự


23

tương quan giữa các điểm mốc trên miệng, đo đạc kích thước cung răng trên mẫu
hàm. Dưới đây là một số tài liệu nghiên cứu về sự khác biệt về kích thước cung
răng qua nhiều yếu tố:
Năm 1998, Chang H. P và cộng sự đã nghiên cứu trên mẫu hàm của người
Trung Quốc và đã rút ra rằng kích thước cung răng ở nam lớn hơn nữ, và sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê [33].
Năm 1993, Raberin M., Laumon B., Martin J. L. khoa chỉnh nha của trường
nha Lyon ở Pháp đã nghiên cứu phân tích trên 278 mẫu thạch cao của người Pháp
trưởng thành chưa được can thiệp chỉnh nha. Các tác giả đã rút ra kết luận rằng
không có sự khác biệt về tỷ lệ các dạng cung răng ở nam cũng như ở nữ và cung
răng ở nam lớn hơn cung răng ở nữ cả về chiều rộng và chiều dài [16].
Năm 1991 Huang S.T. và cộng sự [34] đã nghiên cứu trên mẫu hàm của người
Trung Quốc và đã rút ra kết luận kích thước cung răng ở nam lớn hơn ở nữ và sựu
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Các tác giả cũng nhận thấy rằng người Trung Quốc
có kích thước cung răng gần với người Nhật hơn là người Nam Trung Mỹ.

Năm 1993, Raberin M., Laumon B. [35], khoa chỉnh nha của trường Nha Lyon
ở Pháp đã nghiên cứu phân tích trên 278 mẫu thạch cao của người Pháp trưởng
thành chưa được can thiệp chỉnh nha. Các kích thước cung răng đã được tính toán.
Các tác giả cũng đã rút ra kết luận rằng không có sự khác biệt về tỷ lệ các dạng
cung răng ở nam cũng như ở nữ và cung răng ở nam lớn hơn ở nữ cả về chiều rộng
lẫn chiều dài.
Kích thước cung răng còn khác nhau rõ rệt giữa các dạng cung răng hình
vuông, hình ô van và hình thuôn dài. Kunihiko Nojima, Richard P. [36] với nghiên
cứu so sánh mẫu hàm dưới của người Nhật và người Caucasian đã rút ra tỉ lệ các
dạng cung răng và so sánh kích thước từng dạng cung răng giữa 2 nhóm. Các tác
giả đã rút ra kết luận từ các số liệu thu được là chiều rộng ở vùng răng nanh và vung
răng hàm ở cung răng dạng hình vuông là lớn nhất rồi đến dạng cung răng hình ô
van, hẹp nhất là cung răng dạng thuôn dài. Ngược lại chiều dài của cung răng dạng
thuôn dài là lớn nhất, rồi đến dạng cung răng hình ô van, ngắn nhất là dạng cung
răng hình vuông.


24

Theo nghiên cứu của Al-Khatib A.R., Rajion Z.A, Masudi S.M và cộng sự
(2011) [37] khi nghiên cứu trên 252 mẫu hàm của người Malaysia có độ tuổi từ 1330 cũng đã kết luận kích thước ngang cung hàm ở nam lớn hơn nữ.
Theo nghiên cứu của Alam M. K. và cộng sự (2014) [38] khi nghiên cứu 996
người từ 2000 người được lấy ngẫu nhiên và đo đạc kiểm tra tại Bệnh viện đại học
khoa học Malaysia. 996 người này được chia làm 2 nhóm theo 2 dân tộc là người
Malaysia gốc Trung Quốc và Malaysia bản địa. Sau đó tác giả tiến hành đo đạc các
kích thước của từng răng vĩnh viễn ở hàm trên và hàm dưới, độ rộng liên răng nanh
và liên răng hàm lớn thứ nhất, chiều dài sau ở hàm trên. Kết quả thu được thì người
Malaysia gốc Trung Quốc có kích thước các răng rộng hơn người Malaysia bản địa
và không có sự khác nhau về kích thước cung răng giữa 2 dân tộc.
Năm 2001, Ibrahimagie và V. Jerolimov đã tiến hành nghiên cứu trên người

Zenica, Bosnia và Herzegovina với mục đích là đánh giá lại thuyết về hình thái học
của Leon Williams và tìm ra mức độ tương quan giữa hình dạng khuôn mặt và hình
thể răng cửa [34]. Hơn 1000 đối tượng nghiên cứu ở độ tuổi 17-24, được đo các
kích thước theo chiều ngang của mặt để phân loại hình dạng mặt, đó là chiều rộng
giữa 2 xương thái dương (ft- ft), chiều rộng giữa 2 xương gò má (zy- zy), và chiều
rộng hàm dưới (go- go). Các kích thước theo chiều ngang của 2 răng cửa giữa hàm
trên cũng được đo là chiều rộng vùng cổ răng (CW), chiều rộng thân răng giữa 2
điểm tiếp xúc với răng bên cạnh (CPW), và chiều rộng ở vùng rìa cắn (IW), kết quả
thu được như sau: 83% khuôn mặt có hình ô van, 10% khuôn mặt có hình vuông, và
7% khuôn mặt có hình tam giác. Về hình dạng răng cửa: 53% dạng hình vuông,
30% dạng hình ô van, 16% dạng hình tam giác. Mức độ tương quan giữa hình dạng
khuôn mặt và hình thể răng cửa giữa hàm trên chỉ là 30%. Kết quả này không ủng
hộ cho thuyết hình thái của Williams.
1.4.2. Nghiên cứu trong nước
Năm 1993 trong luận án tiến sĩ y khoa [1] Hoàng Tử Hùng đã đo kích thước
chiều dài, chiều rộng cung răng trên mẫu hàm người Việt trưởng thành và đã tính
được phương trình hồi quy có dạng ê líp cho cung hàm trên; cung răng hàm dưới có


25

thể là ê líp với các phương trình hồi quy tương ứng. Tác giả cũng là người có nhiều
công trình nghiên cứu về đầu mặt và cung răng ở người Việt trong nhiều năm qua,
ngoài những đóng góp về giải phẫu học còn phải kể đến vấn đề nhân chủng răng.
Hoàng Tử Hùng và Huỳnh Thị Kim Khang [15] nghiên cứu kích thước chiều
dài và chiều rộng cung răng hàm trên ở người Việt trưởng thành. Kết quả cho thấy
cung răng hàm trên người Việt có dạng ê líp, cung răng ở nam lớn hơn ở nữ có ý
nghĩa thống kê.
Năm 1996 Hoàng Tử Hùng và Trần Mỹ Thúy [40] nghiên cứu cung xương ổ
răng của người Việt, đo trên sọ, trên xương hàm khô với mục tiêu nghiên cứu xác

định các kích thước trung bình của cung xương ổ răng, trình bày các phương trình
hồi quy lý thuyết và vẽ các đường hồi quy đó. Tác giả đã kết luận: kích thước cung
xương ổ răng ở nam lớn hơn ở nữ nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Đoạn có răng cung xương ổ răng bẹt hơn, đoạn từ răng nanh đến răng cối nhỏ có
cung xương ổ răng trên trùm cung xương ổ răng dưới, nhưng đoạn răng hàm lớn thứ
2 và thứ 3 thì cung xương ổ dưới trùm ra ngoài cung xương ổ răng trên. Để đạt
được sự ăn khớp bình thường thì trục răng cối lớn dưới nghiêng trong nhiều hơn và
răng hàm lớn trên nghiêng ngoài nhiều hơn.
Phạm Thị Hương Loan và Hoàng Tử Hùng [41] nghiên cứu so sánh đặc điểm
cung răng người Việt với người Ấn Độ và người Trung Quốc đã đưa ra nhận xét:
cung răng người Việt rộng hơn đáng kể so với người Ấn Độ nhưng lai gần với kích
thước của người Trung Quốc. Cung răng người Việt có loại hàm rộng chiếm đa số
và phần trước cung răng lớn hơn người Trung Quốc nên hàm người Việt hô nhẹ hơn
hàm người Trung Quốc ở vùng răng trước.
Năm 2004 Đặng Thị Vỹ [42] nghiên cứu trên 100 sinh viên Trường Đại Học Y
Khoa Hà Nội cũng đã đưa ra được các kết luận sau. Về tỉ lệ các dạng cung răng thì
cung răng hình vuông chiếm nhiều nhất (58%), cung răng hình ô van xếp thứ hai
(34%) và ít nhất là cung răng hình thuôn dài (8%). Sự phân bố các dạng cung răng ở
cả hai giới là như nhau. Về kích thước cung răng thì kích thước cung răng ở nam
lớn hơn ở nữ và có sự khác biệt về kích thước cung răng giữa các dạng cung răng
khác nhau. Về chiều rộng thì lớn nhất ở dạng cung răng hình vuông và nhỏ nhất ở


×