Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

TRÒ DIỄN VÀ TRÒ CHƠI DÂN GIAN TRONG LỄ HỘI LỒNG TỒNG CỦA NGƯỜI TÀY XÃ YÊN LỖ, HUYỆN BÌNH GIA, TỈNH LẠNG SƠN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.25 KB, 47 trang )

NGUYỄN BÍCH VÂN
TRÒ DIỄN VÀ TRÒ CHƠI DÂN GIAN
TRONG LỄ HỘI LỒNG TỒNG
CỦA NGƯỜI TÀY XÃ YÊN LỖ,
HUYỆN BÌNH GIA, TỈNH LẠNG SƠN
(Tiểu luận khoa học của sinh viên đại học)
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………5
1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………………….5
2. Nghiên cứư đề tài……………………………………………5
3. Mục đích nghiên cứư đề tài…………………………………6
4. Nguồn tư liệu phục vụ đề tài……………………………… 6
5. Phương pháp thực hiện đề tài………………………………6
6. Đóng góp khoa học của đề tài………………………………6
7. Cấu trúc nội dung đề tài……………………………………6
CHƯƠNG I: Những nét khái quát về địa lý, kinh tế, xã hội của người
Tày xã Yên Lỗ, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn………………….7
1.1 Vị trí địa lý và con người……………………………………….7
1.1.1 Vị trí địa lý…………………………………………………….7
1.1.2 Con người và lịch sử cư trú………………………………… 7
1.2 Sinh hoạt kinh tế và văn hoá vật chất………………………….8
1.3 Tổ chức gia đình, xã hội…………………………………………11
1.3.1 Gia đình và quan hệ gia đình……………………………… 11
1.3.2 Về quan hệ xã hội…………………………………………… 11
1.4 Văn hoá - phong tục…………………………………………… 12
1.5 Văn hoá dân gian………………………………………………
13
CHƯƠNG II: Các trò diễn & trò chơi dân gian trong lễ hội Lồng
Tồng………………………………………………………………… 15
2.1 Trò diễn………………………………………………………… 15


2.1.1 Trò sỹ, nông, công, thương (kén rể)………………………… 15
2.1.2 Loòng kỳ lằn, loòng phụ (trò múa sư tử)………………………17
2.1.3 Oóc quyền (trò múa võ)……………………………………….20
2.1.4 Trò hát then, sli, lượn………………………………………….22
2.2 Các trò chơi………………………………………………………24
2
2.2.1 Thọt còn (trò tung còn)……………………………………… 24
2.2.2 Tức kỳ, tức cờ (chơi cờ tướng, cờ lài)…………………………25
2.2.3 Xẻ thỏi (kéo co)………………………………………………
28
2.2.4 Thi nôộc tiêu tò tót (chọi chim hoạ mi)………………………29
2.2.5 Bắn nả (thi bắn nỏ)……………………………………………30
2.2.6 Tức yến, tức diến (thi đánh yến)………………………………31
2.2.7 Tức sáng (thi đánh sảng)………………………………………31
2.2.8 Tức lọ (đánh đáo)………………………………………………32
2.2.9 Tức bi (đánh bi)………………………………………………
33
2.2.10 Tức khăng (đánh khăng)…………………………………… 34
2.2.11 Tức của thầu………………………………………………… 34
2.2.12 Tức chẹt khum (ô ăn quan)………………………………… 36
2.2.13 Pây mạ điếng (đi cà kheo)…………………………………….37
CHƯƠNG III: Giá trị của trò diễn, trò chơi dân gian trong Lễ hội
Lồng Tồng và những vấn đề đặt ra………………………………….40
3.1 Các giá trị………………………………………………………….40
3.1.1 Giá trị văn hoá tinh thần……………………………………….40
3.1.2 Giá trị văn hoá xã hội…………………………………………
40
3.1.3 Giá trị về nghệ thuật hát dân ca……………………………… 41
3.1.4 Giá trị về bản sắc văn hoá dân tộc…………………………… 41
3.1.5 Giá trị lịch sử……………………………………………………42

3.2 Những vấn đề đặt ra nhằm bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá…………………………………………………………… 42
Kết luận……………………………………………………………… 45
Tài liệu tham khảo……………………………………………………47
LỜI CẢM ƠN
3
Để hoàn thành được bài viết tiểu luận khoa học này là do sự nỗ
lực của bản thân em dưới sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của thầy giáo, TS
Phạm Việt Long, cùng với sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo trường Đại
học Văn hoá Hà Nội, khoa văn hoá dân tộc đã cung cấp tư liệu quý báu
giúp em hoàn thành bài viết.
Đây là lần đầu làm quen với công việc nghiên cứu, dù cố gắng
nhiệt tình nhưng cũng không tránh khỏi những thiếu sót trong lúc thực
hiện bài viết. Vậy em kính mong các thầy, cô giáo góp ý để các bài viết
sau được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.

MỞ ĐẦU
4
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các dân tộc thiểu số Việt Nam, dân tộc Tày chiếm số lượng
dân cư khá lớn trong. Dân tộc Tày cư trú chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía
Bắc, có tập quán và trình độ sản xuất khá tiến bộ, có nền văn hoá lâu đời,
đặc sắc.
Truyền thống văn hoá dân tộc Tày đang cú những biến đổi sâu
sắc bởi sự giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc trong nước và ngoài
nước. Đối với em là một sinh viên khoa văn hoá dân tộc, sự hiểu biết về
nét đẹp trong văn hoá dân gian còn rất hạn chế nên việc nghiên cứu về trò
chơi, trò diễn là việc làm cần thiết để góp một phần nhỏ bé vào việc
nghiên cứu bản sắc văn hoá dân tộc, qua đó thấy được những cái hay, cái

đẹp để có hướng giữ gìn và phát huy trong xã hội hiện đại, đồng thời
khắc phục những mặt hạn chế ở đời sống xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có một số anh chị khoá trước tìm hiểu về trò chơi dân gian, trò
diễn của người Tày, nhưng nhìn chung còn rất hạn hẹp, không bao quát
được các trò. Với việc nghiên cứu đề tài lần này của mình, em mong
muốn sẽ góp một phần nào đó vào việc gìn giữ và phát huy tiếng nói dân
tộc Tày thông qua các trò chơi.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu trò diễn, trò chơi dân gian trong lễ hội Lồng Tồng của
người Tày ở xã Yên Lỗ, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn để giup người
đọc hiểu thêm về một loại hình sinh hoạt văn hoá của nhân dân địa
phương và đề xuất một số giải pháp góp phần bảo tồn, phát huy vốn văn
hoá truyền thống của dân tộc.
4. Nguồn tư liệu
5
Thu thập từ các tài liệu, sách, báo, tạp chí và những người cung cấp
tư liệu trực tiếp trong dịp lễ hội Lồng Tồng xưa và nay của xã Yên Lỗ,
huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa vào phương pháp nghiên cứu mà em đã được học trong
trường, như thu thập tài liệu, khảo sát thực tế, phương pháp điền dã dân
tộc học, trao đổi, phỏng vấn, miêu tả so sánh…
6. Đóng góp khoa học của đề tài
Giới thiệu được trò chơi, trò diễn trong lễ hội Lồng Tồng của một
địa phương mà trước đây chưa được nhiều người quan tâm.
Góp phần chứng minh được tính phong phú, đa dạng và giá trị đặc
sắc của văn hoá dân gian các dân tộc thiểu số ở nước ta.
Đề xuất được biện pháp bảo tồn, phát huy một vốn quý trong di sản
văn hoá của người Tày.

7. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài có 3 chương:
Chương I: Những nét khái quát về địa lý, kinh tế, xã hội của
người Tày xã Yên Lỗ, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn
Chương II: Các trò diễn và trò chơi dân gian trong lễ hội Lồng
Tồng của người Tày ở xã Yên Lỗ, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn
Chương III: Giá trị của trò diễn, trò chơi dân gian trong lễ hội
Lồng Tồng của người Tày ở đây và những vấn đề đặt ra
CHƯƠNG I
NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA LÝ, KINH TẾ, XÃ HỘI
CỦA NGƯỜI TÀY XÃ YÊN LỖ, HUYỆN BÌNH GIA,TỈNH LẠNG SƠN
1.1. Vị trí địa lý và con người
1.1.1 Vị trí địa lý
6
Yên Lỗ có một vị trí vô cùng thuận lợi của vùng Đông - Bắc
huyện Bình Gia. Dạng địa hình phổ biến ở xã Yên Lỗ là vùng đồi và núi
thấp. Toàn bộ xã Yên Lỗ nằm dọc theo một thung lũng khoảng 20 km
được bao bọc bởi các hệ thống dãy núi đất. Địa hình thể hiện khá rõ tính
chất phân bậc.
Về đất: Chủ yếu là đất sét và đất thịt, không có đá vôi. Do đó, địa
chất Yên Lỗ cũng khác nhiều vùng khác trong huyện.
Khí hậu: Nhiệt đới gió mùa, mùa đông tương đối dài và lạnh, nên
nhiệt độ thấp hơn các tỉnh đồng bằng 2-5 độ, lượng mưa trung bình 1400-
1500 mm trên một năm.
Khoáng sản: Không có các mỏ kim loại, chỉ có đất sét và cát
vàng phục vụ cho sản xuất vật liệu xây dựng làm gạch ngói để làm các
công trình của đời sống xã hội. Các loại tài nguyên này tồn tại ở hầu hết
các địa bàn trong xã.
Về thuỷ văn: Mạng lưới sông suối và khe rạch khá phát triển. Mật
độ suối và khe rạch dao động trung bình từ 0,6 đến 1,2 km2.

1.1.2 Con người và lịch sử cư trú
Xã Yên Lỗ có 1.359 khẩu thuộc 270 hộ, chiếm gần 50% tổng số hộ
trong toàn xã.
Yên Lỗ là nơi tụ cư của đồng bào các dân tộc thiểu số như Tày,
Nùng, Dao. Họ khác nhau về nguồn gốc, ngôn ngữ, truyền thống, văn hoá
vật chất và văn hoá tinh thần. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài và phát
triển, cộng đồng các dân tôc xã Yên Lỗ đã đoàn kết gắn bó với nhau để
chinh phục thiên nhiên và bảo vệ quê hương, bản làng.
Là thành viên trong cộng đồng các dân tộc nói ngôn ngữ Tày –
Thái, người Tày chiếm 38% dân số của tỉnh Lạng Sơn, đứng thứ hai so
với người Nùng ở tỉnh, là dân tộc đông nhất trong 53 dân tộc thiểu số của
cả nước. Người Tày là một trong những dân tộc sinh sống trên đất nước
ta sớm nhất, với trình độ phát triển tương đối hoàn chỉnh và hoàn thiện,
7
làm chủ cả một vùng đất đai rộng lớn. Vốn là cư dân sinh sống chính
bằng kinh tế nông nghiệp lúa nước, địa bàn cư trú người Tày đa phần là ở
các thung lũng có nhiều ruộng. Người Tày là dân bản địa bao giờ cũng
lập làng, làm ruộng ở vị trí thuận lợi hơn so với dân tộc thiểu số khác.
Với truyền thống lâu đời lại thêm lao động cần cù, sáng tạo, có điều kiện
tự nhiên thuận lợi nên nông nghiệp ruộng nước người Tày phát triển
tương đối cao. Địa bàn định cư lâu đời của người Tày Lạng Sơn là các
cánh đồng tương đối lớn, nổi tiếng như lòng chảo Thất Khê, Bắc Sơn,
Bình Gia, Lộc Bình… Người Tày sống thành từng bản, ít thì có vài chục
hộ, nhiều thì hơn một trăm nóc nhà.
Người Tày ở nhà sàn là chủ yếu và phổ biến. Quan hệ dòng họ và
gia đình tộc người Tày luôn gắn kết bền chặt. Quan hệ trong gia đình
cũng có những yếu tố riêng biệt như bố chồng, anh chồng không được
ngồi ăn cùng với con dâu, em dâu… Quyền lực trong gia đình người Tày
theo phụ hệ - ông, cha, con trưởng là cơ bản.
1.2 Sinh hoạt kinh tế và văn hoá vật chất

Người Tày xã Yên Lỗ nói riêng và người Tày cả nước nói chung
là một trong những cư dân làm ruộng nước sớm nhất trong khu vực Nam
Á và Đông nam Á. Họ biết dùng cày, biết sử dụng sức kéo của trâu, bò
vào việc canh tác. Đó là điều kiện thuận lợi cho cộng đồng tộc người Tày
sinh sống ở vùng núi, nhiều cánh đồng thung lũng rộng, nhiều vùng núi
rậm rạp khác. Trong lịch sử của mình, người Tày đã biết làm thuỷ lợi
phục vụ nghề trồng lúa nước như mương, phai. Ngoài làm ruộng, người
Tày ở Yên Lỗ còn làm nương rẫy với lối canh tác đơn giản: đao canh hoả
chủng, canh tác bằng dao cuốc, đốt bằng lửa, tra hạt bằng cây chọc lỗ.
Nghề chăn nuôi khá phát triển các loại vật nuôi như: trâu, bò, lợn, gà,
vịt…Trong cuộc sống gắn bó với ruộng đồng: con trâu, bò được người
Tày quý mến. Đây là loại gia súc vừa làm sức kéo vừa để ăn thịt. Gà, vịt,
ngan, ngỗng, lợn, dê…là nguồn thực phẩm tiện lợi được sử dụng hàng
8
ngày và còn là một phương tiện biểu hiện tâm lý mến khách của người
Tày.
Bên cạnh phát triển trồng cây lương thực và chăn nuôi, người Tày
còn trồng các loại cây công nghiệp có giá trị cao như: hồi, trẩu, sở… Đặc
biệt là cây hồi đã được cư dân Tày ở Yên Lỗ trồng hàng trăm năm nay,
cho sản lượng dầu rất lớn để bán và xuất khẩu.
Người Tày xã Yên Lỗ có một số nghề thủ công truyền thống như
rèn, đan lát, mộc, đục đá, làm gạch ngói và dệt. Trong đó nghề dệt, đan
lát phát triển hơn cả. Nghề mộc cũng phát triển, tuy nhiên chủ yếu là vật
dụng gia đình, làm nhà cửa, đóng bàn ghế. Nghề rèn và đục đá tuy không
nhiều nhưng cũng đủ sản xuất lưỡi cuốc, dao, liềm, cối xay đá phục vụ
nhu cầu. Nghề sản xuất gạch ngói chủ yếu là ngói âm dương để lợp nhà
sàn của đồng bào dân tộc. Nghề dệt vải chàm, thổ cẩm được phát triển,
không chỉ đáp ứng nhu cầu của địa phương mà còn trao đổi buôn bán với
các cư dân sống xen kẽ bên cạnh. Ngoài ra còn có một số nghề thủ công
nhỏ lẻ khác như cất tinh dầu hồi, nấu cao động vật…Tuy nhiên các nghề

thủ công ở đây vẫn tiến hành theo mùa, tranh thủ lúc nhàn rỗi, chưa xuất
hiện các xưởng lớn với đội ngũ thợ lành nghề tách khỏi trồng trọt.
Tóm lại kinh tế Lạng Sơn trong quá khứ và hiện tại phát triển khá
mạnh do có sự đóng góp tích cực của dân tộc Tày, một trong những chủ
thể chính của tỉnh. Bên cạnh trồng trọt, chăn nuôi, thủ công nghiệp thì
buôn bán giao lưu trao đổi hàng hoá trong nước và nước ngoài phát triển
rầm rộ nhất. Ngay từ thế kỷ XVI – XVII đã xuất hiện những thương
trường thuyền bè tấp nập buôn bán như chợ Kỳ Lừa, chợ Vân Mịt…
Trong thời kỳ kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, kinh tế
thương mại – du lịch là ngành mũi nhọn hàng đầu của tỉnh, được chú ý
đầu tư phát triển.
Về văn hoá vật chất: Trong số các dân tộc ở Lạng Sơn, người Tày
xã Yên Lỗ nói riêng và cư dân Tày của cả tỉnh nói chung là cư dân bản
9
địa sống lâu đời nhất, cùng sống trong một hệ sinh thái, có mối quan hệ
gần gũi lâu đời với các dân tộc khác. Vì vậy, trong một số mặt của đời
sống văn hoá, người Tày chịu ảnh hưởng văn hoá của nhiều dân tộc khác.
Trước hết là món ăn cổ truyền: Có thể nói nguồn lương thực, thực
phẩm chính của người Tày xã Yên Lỗ là sản phẩm thu được từ hoạt động
sản xuất kinh tế của cư dân sống trong vùng sinh thái thung lũng có rừng
và sông suối bao quanh. Đó là gạo và hoa màu như ngô, khoai, sắn,
đậu… các loại rau quả do trồng và thu hái trong rừng, các loại thuỷ sản
tôm, cua, cá do nuôi và thu lượm ở sông, suối. Các loại thịt trâu, bò, lợn,
gà, vịt… do chăn nuôi gia đình hay chim thú săn bắn trong rừng. Từ các
nguồn lương thực thực phẩm trên, cơ cấu dinh dưỡng và bữa ăn hàng
ngày chủ yều là gạo – cá, tôm, rau, quả - thịt. Lạng Sơn là vùng chịu ảnh
hưởng của gió mùa đông bắc, nên thời tiết rất lạnh về mùa đông, vì thế
lượng thịt và mỡ dùng trong các bữa ăn hàng ngày nhiều hơn các địa
phương khác. Hơn nữa, người Tày vốn sống gần gũi với người Kinh,
người Hoa nên tiếp thu nhiều cách ăn uống của họ. Các món ăn như thịt

lợn quay, vịt quay, phở chua nổi tiếng của Lạng Sơn thu hút khách tham
quan du lịch trong nước và quốc tế.
Về trang phục: Chủ yếu được cắt may bằng vải bông tự dệt có
nhuộm chàm. Quần áo nam nữ Tày màu đen xanh hoặc đen hồng, áo của
nam là áo ngắn được may ghép bốn thân, cúc vải, cổ tròn; áo của phụ nữ
gồm áo ngắn và áo dài năm thân. Cổ áo dài đứng, tròn, thấp, khuy cài
sang nách phải. Áo dài được sẻ ngay tận ngang hông, thuận tiện cho việc
đi làm, gấu áo dài quá gối. Bộ áo dài người Tày có thắt lưng màu đen
hồng đẹp, nền nã, dung dị, quý phái.
Trang sức người Tày Yên Lỗ là các loại vòng cổ, vòng tay, trâm
cài tóc, dây chuyền, các loại hoa tai… Đồ trang sức bằng vàng, bạc,
không chỉ mang lại vẻ đẹp bên ngoài cho người phụ nữ mà còn có tác
10
dụng bảo vệ sức khoẻ. Bởi vì theo quan niệm dân gian và kinh nghiệm
của người dân, nếu đeo bạc thì không bị cảm gió, cảm nắng.
1.3 Tổ chức gia đình, xã hội
1.3.1 Gia đình và quan hệ gia đình
Với người Tày, gia đình thường đồng nghĩa với nhà vì mỗi gia
đình cư trú trong một nóc nhà. Gia đình Tày thuộc loại gia đình nhỏ, phụ
hệ, gia đình hai thế hệ là chủ yếu, tuy nhiên gia đình 3 – 4 thế hệ gồm ông
bà, cha mẹ, con cháu cũng không phải là ít. Trong gia đình người Tày,
chủ là người chồng, người cha nên gia đình mang tính phụ quyền. Người
chủ gia đình có vai trò quan trọng quyết định tổ chức sản xuất của gia
đình. Người ông, người cha là người điều hoà các mối quan hệ xã hội
trong và ngoài gia đình. Trong xã hội cổ truyền của người Tày, nền nếp
phân công lao động theo giới tính và theo lứa tuổi trong nội bộ gia đình
đã hình thành từ lâu. Tuy chủ gia đình là người chồng, người cha nhưng
người mẹ, người vợ cũng có vai trò quan trọng trong gia đình như sản
xuất, dựng vợ gả chồng, giỗ tết… người chồng người cha đều tham khảo
và coi trọng ý kiến của họ.

1.3.2 Về quan hệ xã hội
Từ lâu gia đình người Tày đã hình thành các nguyên tắc ứng xử
nhất định mà mọi người đều phải tuân theo. Trong gia đình, những nơi ăn
chốn nghỉ cho con trai, con gái, con dâu đều được quy định những kiêng
kị nhất định. Quan hệ giữa bố chồng, anh chồng, chị em dâu… được quy
định chặt chẽ. Quan hệ anh em con cháu trực hệ và bằng hệ trong gia
đình người Tày là: con chú con bác hoặc con cậu con dì xưng hô theo
ngành trưởng – thứ, nghĩa là anh là em không kể tuổi tác ít hay nhiều…
hoàn toàn giống người Kinh.
1.4 Văn hoá - phong tục
Trong bất kỳ tộc người nào, quan niệm “linh hồn”, “vạn vật hữu
linh” là cơ sở của toàn bộ hệ thống tín ngưỡng tôn giáo từ cổ sơ nguyên
11
thuỷ đến phức tạp, hiện đại như ngày nay. Người Tày ở Yên Lỗ quan
niệm về phi, phi dịch ra tiếng Việt có nghĩa rất rộng, nó chỉ tất cả các
thánh thần, ma quỷ… Trong quan niệm dân gian của người Tày, phi có
hai loại: phi lành, phi dữ. Ma lành được thờ cúng trong gia đình, miếu,
đình, đền… còn ma dữ nói chung không được thờ. Các loại ma đều có ba
thế giới: trên trời, mặt đất, dưới mặt đất (âm phủ).
Người Tày ở Yên Lỗ, Bình Gia cũng có quan niệm vạn vật hữu
linh, thiên đường, địa ngục. Sau khi chết, linh hồn bị đẩy xuống địa ngục
để xem xét kết tội nặng nhẹ. Sau một thời gian xem xét chịu cực hình thì
linh hồn được siêu thoát lên thiên đường, nơi mọi cái đều tươi đẹp, sống
sung sướng. Để coi sóc phần hồn, người Tày có một lớp người hành nghề
cúng bái, đó là các tào, mo, then, pựt…
Hình thức thờ cúng tổ tiên là quan trọng nhất của người Tày.
Theo quan niệm của họ, ông bà, cha mẹ sau khi chết, linh hồn vẫn tồn tại
ở trên trời, do vậy con cháu phải lập bàn thờ để cúng trong nhà, hàng năm
phải cúng giỗ mời tổ tiên về chứng giám và phù hộ cho gia đình bình yên,
làm ăn phát đạt. Việc thờ cúng tổ tiên theo hệ chín đời. Người Tày cúng

tổ tiên vào dịp cúng giỗ. Bên cạnh đó, người Tày còn thờ Phật Bà Quan
Âm và Hắc hổ huyền đàn, thờ bà mụ hay mẹ hoa, thờ táo quân, thờ tổ sư
thầy tào, then. Ngoài ra trong mỗi bản còn lập miếu, là nơi thờ thổ thần,
ngôi đình thờ thành hoàng.
Người Tày Yên Lỗ cho rằng trong sinh hoạt hàng ngày của con
người, nếu có những điều bất trắc, rủi ro… thì mọi người có thể thông
qua cúng lễ cầu khấn thần linh phù hộ hay giải thoát rủi ro cho mình khỏi
hoạn nạn. Tuy nhiên, trong các trường hợp như làm đám tang người chết,
trừ tà ma… thì không phải ai cũng làm được mà phải nhờ đến một lớp
người hành nghề cúng bái. Đó là các mo, then, tào… loại thày cúng mang
nặng tính chất đạo giáo và phải cúng theo sách mang tính chất bắt buộc,
không được bỏ qua công đoạn nào…
12
Nói đến tín ngưỡng tôn giáo của người Tày Lạng Sơn, chúng ta
không thể không lưu ý tới những ảnh hưởng của Tam giáo. Đây không
phải là sự du nhập mà cơ bản vẫn trên nền tảng của các tín ngưỡng dân
gian. Ngoài những ảnh hưởng của Tam giáo đồng nguyên, thời Pháp xâm
lược còn có một số giáo sỹ Ki tô lên truyền đạo ở vùng người Tày Yên
Lỗ. Nhưng đồng bào không chấp nhận mà vẫn theo các tín ngưỡng cổ
truyền của mình.
1.5 Văn hoá dân gian
Người Tày Yên Lỗ có một nền văn hoá dân gian khá phong phú.
Ngày nay một số thần tích còn lưu giữ được trong đó truyện kể là chủ yếu
nhất trong cộng đồng tộc người. Đặc điểm của truyện cổ phản ánh đời
sống của cư dân nông nghiệp. Các truyện về thần nông, truyện Lục pjạ
(con mồ côi), truyện Dà Dìn, truyện Tài xì phòng, truyện về chàng Thám
Hoa… khẳng định sự phong phú trong kho tàng truyện cổ tích của người
Tày Yên Lỗ.
Truyện kể về các hiện tượng tự nhiên cũng khá phong phú, ngày
nay vẫn còn lưu truyền.

Vốn ca dao, tục ngữ, câu đố, những khúc hát đồng giao và trò
chơi của trẻ em Yên Lỗ khá phong phú, góp phần tạo nên diện mạo của
văn nghệ dân gian Xứ Lạng mà chủ yếu của nó là tộc người Tày.
Bên cạnh văn học thì những bài dân ca giao duyên phát triển nhất
và tồn tại trong đời sống tinh thần của mọi người dân. Ta có thể thấy dân
ca Tày được chia thành hai loại lớn, đó là dân ca nghi lễ và dân ca giao
duyên.
Dân ca giao duyên:
Lượn: Là bộ phận dân ca Tày, lượn có vai trò quan trọng trong đời
sống tinh thần của người Tày. Lượn gồm có ba loại: lượn Cọi, lượn
Slương, lượn Nàng hai. Lượn Slương thường được tổ chức hát trong ngày
13
hội Lồng Tồng mùa xuân hay vào những đêm trăng sáng vào dịp nông
nhàn.
Phong Slư: Là những bức thư tình, một thể loại độc đáo của trai gái
Tày. Được hát trong giao duyên tỏ tình, trong lễ hội xuân, dịp cưới hoặc
trong lao động sản xuất.
Những bài ca nghi lễ:
Là kho tàng văn nghệ phong phú của người Tày Yên Lỗ. Có thể kể
đến quan làng, những bài then được hát trong các dịp cưới xin chúc tụng,
chữa bệnh, cấp sắc…
Tóm lại, kho tàng văn hoá dân gian của người Tày Yên Lỗ vô
cùng phong phú, ngày nay được đồng bào coi như một món ăn tinh thần
không thể thiếu được trong đời sống xã hội của con người.
CHƯƠNG II
CÁC TRÒ DIỄN VÀ TRÒ CHƠI DÂN GIAN
TRONG LỄ HỘI LỒNG TỒNG

Lễ hội Lồng Tồng không những có nhiều nghi thức, nghi lễ mà còn
có rất nhiều trò diễn, trò vui. Lễ và hội tách bạch ra hai phần rõ rệt như

nhiều lễ hội tín ngưỡng dân gian khác. Tuy nhiên, cũng có một số phần lễ
và hội đan xen lẫn nhau. Song, trong một số lễ hội, phần hội hoàn toàn
không liên quan đến nghi lễ, mà chỉ là trò chơi vui hội, góp phần cho
không khí lễ hội thêm vui tươi, sôi nổi và trang nghiêm.
2.1 Trò diễn
2.1.1 Trò sỹ, nông, công, thương (kén rể)
Sau khi nghi thức đón sư tử bạn xong, đúng 12 giờ trưa (giờ ngọ) Pú
mo đánh trống khai hội. Tiếng trống rộn rã được gióng lên ba hồi chín
tiếng như thúc giục mọi người đến dự hội. Dứt tiếng trống, Pú mo ra hiệu
cho phép trò sỹ, nông, công, thương (trò kén rể) bắt đầu. Trò này được tổ
14
chức mở màn cho hội Lồng Tồng. Trò kén rể gồm 5 nhân vật: Anh sỹ đại
diện cho tầng lớp trí thức, những người có học. Anh nông đại diện cho
lớp người chân lấm tay bùn, lớp người sản xuất ra lúa gạo nuôi sống con
người. Anh công đại diện cho lớp người sản xuất thủ công nghiệp. Anh
thương đại diện cho lớp người buôn bán. Và cuối cùng là cô con gái xinh
đẹp kén chồng. Tiếng Tày gọi là Lạo Lai (bao gồm sỹ, nông, công,
thương và Mè Nàng). Trước khi trò diễn được thực hiện, các anh chị Lạo
Lai, Mè Nàng được dấu ở chỗ nào đó cách đình khá xa. Khi nghe được
hiệu lệnh của Pú mo, họ xuất hiện và bước vào khu vực dành cho tổ chức
hội. Đầu tiên là Mè Nàng (cô gái) đi ra trước, sau đó đến anh sỹ, anh
công, anh thương, và cuối cùng là anh nông. Như đã nói ở phần trên, đạo
cụ cho trò kén rể đã được chuẩn bị từ trước. Cô gái đeo mặt nạ, mặc áo
dài Tày màu đen hồng rất đẹp, đội nón mới, khoác Thầy ngàm (nải ngàm)
đi với điệu bộ dung giăng dung dẻ từ dưới lên, bước tới sân trước đình và
đi đi lại lại trước cửa đình như có ý chờ đón ai đó. Mè Nàng do người con
trai trong bản đóng. Sau đó là anh sỹ đeo mặt nạ mặc áo trắng vai khoác
túi sách vừa đi vừa hát “Ta là kẻ sỹ học hành quanh năm chân không lấm
đất tay không nhúng bùn, thân ta nhàn hạ đi qua đi lại trước mặt cô gái,
hát đi hát lại, nàng hãy lấy ta đi” nhưng cô gái vẫn không ưng. Tiếp theo

là anh công đeo mặt nạ trông khắc khổ như người công nhân mặc quần áo
xanh, vai vác chiếc búa bằng gỗ. Anh công vừa đi vừa hát vòng quanh cô
gái, hát rằng “Ta là kẻ công làm lụng quanh năm, ta có bàn tay vàng làm
ra của cải nuôi sống dân bản, nàng hãy lấy ta”. Sau anh công là anh
thương đeo mặt nạ trông có vẻ rất phong lưu, vai khoác túi vải trong đó
có nhiều đồ buôn bán vừa đi vừa hát “Ta là kẻ buôn, buôn bán khắp
vùng, nơi nào cũng có mặt ta, ta là người giàu có nhất vùng, nàng hãy
lấy ta”, nhưng cô gái vẫn không ưng. Cuối cùng là anh nông đeo mặt nạ,
đội nón mê, mặc áo rách, vai khoác cày và tay cầm vó, vừa đi vừa hát
“Tta là kẻ nông, chăm sóc cánh đồng, làm ra hạt gạo, nuôi mọi người no
15
đủ”. Anh nông dân vừa hát vừa căng vó, kéo vó bắt cá. Chiếc vó bị rách
lung tung, anh nông dân úp chỗ này giả vờ úp chỗ kia, úp vào cả người
xem làm cho cả hội cười ngặt ngẽo sảng khoái. Người con gái (Mè Nàng)
gật đầu đồng ý lấy anh nông dân. Và người con gái chạy đến chỗ anh
nông dân và cùng anh nông dân cày ruộng. Người con gái giả vờ kéo cày.
Anh nông dân kéo cày được một đoạn thì cày gẫy, diệp cày. bắp cày mỗi
thứ một nơi, người xem lại được một trận cười sảng khoái. Sau đó 4 anh
sỹ, nông, công, thương vòng tay khoanh cô gái ở trong và cùng hát vui
vẻ.
Trò sỹ, nông, công, thương là một trò vui rất đặc sắc của vùng
đồng bào Tày ở Lạng Sơn. Trò vui mang tính văn nghệ dân gian thể hiện
vai trò quan trọng của sản xuất nông nghiệp. Ngay từ xa xưa ông cha ta
đã coi nông nghiệp là rất quan trọng, không gì có thể thay thế được. Bằng
các diễn xướng giản đơn mộc mạc, thông qua hình thức kén rể của cô gái
khá đặc biệt, bao nhiêu anh con trai giàu có đẹp trai ướm hỏi nhưng cô
gái đều từ chối và chỉ chấp thuận lấy anh nông dân vừa xấu xí vừa nghèo
khó. Tất cả đều toát lên tính quan trọng của nghề nông và chỉ có nông
nghiệp mới nuôi sống được con người. Đây là nghi lễ cầu mùa màng,
thông qua nghi lễ này nhằm giáo dục con người hãy coi trọng sản xuất

nông nghiệp.
2.1.2 Loòng kỳ lằn, lòng phụ (trò múa sư tử)
Trò kén rể kết thúc thì chuyển sang phần múa sư tử. Đây là trò
múa chiếm thời gian chủ yếu của lễ hội Lồng Tồng. Lúc này cả sư tử chủ
nhà và sư tử bạn đều múa trước cửa đình. Người xem đứng xung quanh.
Tất cả các con sư tử dù bao nhiêu con tham gia hội đều múa quay mặt về
hướng đình. Các bộ gõ được tập trung ở phía sau. Tiết tấu chiêng trống,
chum choẹ được quy định thống nhất theo tiết tấu của sư tử chủ nhà, do
đoàn trưởng chủ nhà điều khiển.
16
Đầu tiên, sư tử chủ nhà dẫn đầu múa vòng quanh chào khán giả,
động tác vừa đi vừa múa uyển chuyển, nhẹ nhàng. Con múa cao, con múa
thấp bằng các động tác như mèo vờn hổ phục. Sau khi múa một vòng và
quay về chỗ cũ, sư tử dàn hàng ngang quay mặt về phía đình chuẩn bị
múa chính thức.
Động tác múa chào thần thánh: Đây là động tác bắt buộc đối
với hoạt động của sư tử. Tiếng chiêng trống vang, lên sư tử bắt đầu múa,
tất cả đồng loạt giơ cao đầu, dùng hai tay xoay tròn đầu, lúc nghiêng phải,
lúc nghiêng trái, lúc thì cúi xuống, trông tựa màn đồng diễn với đủ các
màu đỏ, xanh, đen, tím, vàng rực rỡ trông thật đẹp mắt. Màn múa chào
thần thánh khoảng 30 phút. Có những hội như ở Vân Mịt Bình Gia có
năm có tới 16 con sư tử hoặc như ở Bản Chu, Hưng Đạo, Bình Gia cũng
có lúc đông tới 10 con
Động tác múa vui hội, các con sư tử bắt đầu múa chung để người
xem thưởng thức cảnh đua tài. Đây là trò múa phong phú nhất. Tất cả các
con sư tử đều múa thể hiện tài nghệ của mình. Con múa cao, con múa
thấp, đôi khi còn vờn lẫn nhau, xua đuổi nhau, không khí thật là vui nhộn.
Các động tác múa nhẹ nhàng nhưng dứt khoát. Lúc này chiêng, trống,
chũm choẹ gõ theo kiểu múa vui, nên tiếng nhạc cũng như tiết tấu của
nhạc dồn dập, hối thúc hơn, nhưng có lúc lại khoan thai, dịu dàng. Những

người múa sư tử luôn thay nhau múa làm cho không khí hội luôn luôn sôi
nổi nhịp nhàng. Ở động tác “hỏi slử” , sư tử vừa múa vừa dùng đầu gối
đẩy nhau – con nào bị chệch gối bật ra, lùi ngã hay chếnh choáng trong
động tác múa thì bị coi là thua. Do vậy muốn thắng phải biết miếng “hỏi
slử” múa hay, đẹp, dai sức.
Trò múa của báo đông (đười ươi): Những con sư tử múa vui
được khoảng 1 tiếng, thì báo đông ra múa và làm các trò vui. Mỗi đội sư
tử có một con báo đông do người đóng. Báo đông làm các động tác múa
vui với sư tử, lúc thì doạ sư tử, lúc thì cầm cành cây chọc ghẹo sư tử, đè
17
đầu đè cổ, đấm, đá sư tử… Mỗi lần báo đông nghịch như vậy, sư tử lại
đuổi đánh bằng các động tác giận giữ, nhưng báo đông vẫn thản nhiên coi
như không. Phải nói rằng báo đông rất nghịch làn đủ các trò với sư tử.
Những động tác báo đông và sư tử vờn nhau, chọc ghẹo nhau, đôi lúc báo
đông còn ngã lăn quay ra đất… gây những trận cười sảng khoái cho
người xem.
Trò vui của khỉ: Khi báo đông múa được một thời gian nhất định
thì xuất hiện các trò vui của khỉ. Mỗi đội sư tử có hai con khỉ do người
đóng. Các trò của khỉ do báo đông chỉ huy. Đầu tiên họ đeo mặt nạ và ra
sân. Trước tiên phải tập đi đứng, do báo đông dạy, đi lắc lư toàn thân,
chân đi chếnh choáng, siêu vẹo, lúc quay sang trái, lúc quay sang phải,
hai tay vung cao, đầu nghiêng trái, nghiêng phải, có lúc còn quay ra đằng
sau. Con khỉ rất ngang bướng, không chịu nghe báo đông nên báo đông
đánh cho liên tục. Khi con khỉ tập đi và tập các động tác múa thì toàn bộ
chiêng, trống, chũm choẹ phải gõ theo nhịp riêng bằng các tiết tấu riêng.
Thông thường, khỉ tập đi đứng kéo dài khoảng 30 phút. Khi các động tác
của khỉ đã thành thạo, báo đông dẫn khỉ múa vui với sư tử. Báo đông bắt
khỉ múa vui đủ các trò, từ động tác nhảy lộn, nhai mía tượng trưng, cõng
báo đông, khiêng báo đông vứt xuống đất… đến các trò nghịch ngợm,
chọc ghẹo sư tử, vào hùa với báo đông đánh sư tử. Những động tác vui

nhộn của khỉ và báo đông làm cho mọi người cười nắc nẻ, gây không khí
tưng bừng náo nhiệt.
Trò sư tử đẻ con: Trong quá trình múa vui, các con sư tử có
những động tác âu yếm nhau, vái lạy, bò lên lưng nhau. Lúc này, báo
đông và khỉ vẫn vui đùa nghịch ngợm. Thậm chí báo đông còn làm các
động tác phồn thực, một chân ngáng trước ngực sư tử, một tay vít cổ sư
tử xuống, một tay vỗ vào mông sư tử với những điệu cười hả hê, tay vung
lên trời. Các động tác của sư tử múa khi đẻ con khoan thai, thư thái
nhưng rất hung dữ. Bằng sự giúp đỡ của báo đông và khỉ, sư tử đã đẻ con
18
dễ dàng. Lúc này, sư tử con do người múa xuất hiện trước sư tử mẹ. Sư tử
con đi bằng những động tác rất yếu đuối, chỉ dám đi vòng quanh sư tử
mẹ. Sư tử mẹ múa bằng những động tác âu yếm sư tử con. Sư tử mẹ lúc
này rất hung dữ làm cho báo đông và khỉ không thể đùa nghịch được. Sau
một số động tác múa cơ bản, sư tử con đã trưởng thành và tham gia múa
với sư tử mẹ. Lúc này khỉ, báo đông và sư tử lại bắt đầu đùa nghịch và
múa vui. Trò sư tử đẻ con kéo dài khoảng 30 phút.
Trò múa sư tử bị giết khả Kỳ Lằn: Đây là động tác cuối cùng của
múa sư tử. Khỉ và báo đông dùng hai cây gậy buộc chéo nhau cắm xuống
đất và xua đuổi sư tử, lừa sư tử vào tròng. Khi sư tử bị lừa vào tròng, báo
đông và khỉ đè cổ, chặt đầu sư tử. Qúa trình giết sư tử, tiết tấu của bộ gõ
được quy định riêng. “Kỳ Lằn hai dá dẹ, Kỳ Lằn hai dá dẹ, Kỳ Lằn hai
dá dẹ”… trở thành câu hát của đồng bào Tày – Nùng trong các dịp hội
Lồng Tồng. Trò giết sư tử kéo dài khoảng 30 phút.
Trò tẳng giảo (trồng người): Khi thực hiện trò giết sư tử xong,
các thành viên của các đội sư tử kéo ra giữa sân hội xếp thành các vòng
tròn lớn và đứng vai chồng lên nhau. Vòng thứ nhất có 10 người, vòng
tay ôm vào nhau và ngồi xuống. Vòng thứ hai 8 người, đứng lên vai của
10 người vòng thứ nhất và cũng ngồi xuống. Vòng thứ ba 4 người trèo
lên đứng lên trên vai của 8 người vòng thứ hai và tất cả cùng đứng lên tạo

thành 3 vòng trồng lên nhau cao vút. Sau đó một con sư tử trèo lên trên 3
vòng người đó. Trước khi trèo, sư tử múa vòng quanh dưới đất 3 vòng rồi
mới trèo lên. Người trèo phải thật khéo léo, miệng ngậm vào lưới sư tử để
giữ đầu sư tử khỏi rơi, chân bước lên thắt lưng của người đứng làm vòng
tròn, hai tay bá vào vai và trèo lên đứng trên đầu của vòng thứ ba và múa
trên đó.
Có thể nói đây cũng là một cuộc thi, nếu ai trèo lên được thì được
thưởng do ông Pú mo tặng. Cũng có nơi như vùng Cao Lộc, họ lại dùng
gậy đặt lên vai để cho người và sư tử trèo lên. Theo quan niệm của đồng
19
bào, tẳng giảo là một hình thức thể hiện sức mạnh của cộng đồng phải có
sự đoàn kết nhất trí cao, thành một khối vừa bày tỏ lòng biết ơn thần linh,
vừa cố kết cộng đồng người trong bản. Toàn bộ cuộc tẳng giảo được diễn
ra trong vòng 5 phút. Đến đây trò múa sư tử cơ bản kết thúc và chuyển
sang phần múa võ.
2.1.3 Oóc quyền (trò múa võ)
Múa chào thần thánh:
Đây là động tác múa tay không, có từ 5 – 6 người biểu diễn. Đầu tiên
làm động tác chào, tất cả đứng lên trước 3 bước, dạng chân xuống tấn, hai
tay giơ ra phía trước khuỷu tay khép vào hai bên sườn tạo thế vững chãi.
Khi tiếng nhạc của trống chiêng, chũm choẹ cất lên, động tác múa bắt
đầu. Trước các động tác khoa chân khoát tay uyển chuyển dứt khoát, mắt
long sòng sọc, mỗi động tác múa, đấm đá kèm theo tiếng hét, người xem
người nghe được một phen hoảng hồn khâm phục nhưng rất thích thú.
Múa gậy: Như đã nói ở trên, mỗi đội sư tử mang theo từ 2 – 4 gậy
để tham gia múa hội. Đầu tiên múa hai người, rồi múa 4 người, 6 người, 8
ngườ. Tiếng gậy va vào nhau kêu chan chát, người xem hoa mắt sởn tóc
gáy. Trò múa gậy thể hiện bản lĩnh quả cảm phi thường, nhanh tay nhanh
mắt, các động tác chính xác đảm bảo đều đẹp, an toàn.
Múa đoản đao: Có thể múa đôi, múa đơn. Người múa hai tay cầm

đao giơ lên giơ xuống, có lúc quay tít trên đầu tạo tiếng gió rít phần phật
vun vút. Các động tác quay trước, quay sau của người múa tạo thế uyển
chuyển liên hoàn.
Múa slam sla (đinh 3 chạc): Người múa hai tay cầm hai đinh ba
múa bằng các động tác quay tròn hoặc nhào lộn tạo thế tiến thoái, phòng
thủ hoặc tiến công. Các động tác múa thoăn thoắt làm cho người xem rõi
mắt, cảm phục.
Nhảy 4 góc bàn: Người ta đặt giữa ruộng một cái bàn vuông 4
góc và kê thật chắc chắn. Khi chơi, người tham gia tung người lên bàn,
20
hai tay chống xuống 4 góc bàn, toàn thân lăng qua trên mặt bàn, tạo thế
song song với mặt bàn và nhảy xuống bên kia bàn, rơi xuống đất nhẹ
nhàng. Một người có thể nhảy liên tục 4 góc hoặc nhảy từng góc. Đây là
động tác khoẻ tay đều chân và khi thực hiện phải hết sức khéo léo, nếu
không mắt cá chân va vào bàn sẽ gây ra đau đớn.
Nhảy búa tẹm (nhảy qua ống cót: Người ta dùng một tấm cót dài
một mét cuộn tròn lại, có đường kính một mét, đặt trên một khung gỗ
được đóng chắc chắn. Khi nhảy, người nhảy phải chạy lấy đà, hai tay giơ
ra đằng trước, toàn thân lao vút qua ống cót và rơi lộn sang bên kia. Khi
rơi, đầu phải gập lại, toàn thân cuộn tròn khi chạm đất khỏi đau.
Nhảy quá tu pịa (nhảy qua cửa dao): Đây là động tác tương đối
nguy hiểm, đòi hỏi người nhảy phải hết sức khéo léo, nhanh nhẹn và có
lòng dũng cảm. Đạo cụ để phục vụ là tre được uốn thành vòng tròn,
đường kính một mét. Vòng tròn được đặt trên khung gỗ ở một bãi đất
giữa ruộng. Trên vòng tròn ngwời ta buộc bốn con dao nhọn, một con
buộc ở phần trên, mũi dao chúi xuống, cán dao ngược lên, một con dao
khác buộc ở vòng dưới, mũi dao dựng ngược lên và hai con buộc hai bên.
Như vậy, bốn mũi dao quay đầu vào trong ở giữa vòng. Khi nhảy, có hai
người đứng ở hai bên làm nhiệm vụ hỗ trợ, một người cầm chuôi dao
trên, một người cầm chuôi dao dưới, khi người nhảy chạy lấy đà, hai tay

duỗi thẳng lao qua trước và gập đầu lộn xuống đất. Trong trường hợp
người nhảy lúng túng hoặc có dấu hiệu nguy hiểm thì người cầm dao ở
vòng dưới lập tức nhanh chóng hạ con dao xuống, đảm bảo an toàn cho
người nhảy không bị thương.
Nhảy qua tu phầy (nhảy vòng lửa): Người ta dùng thanh tre uốn
thành vòng tròn, lấy rẻ rách tẩm dầu mác bao (dầu quả dọc) và buộc xung
quanh vòng tre. Vòng lửa được treo dưới một khung gỗ đặt giữa ruộng.
Khi châm lửa vào rẻ rách, lửa cháy thành một vòng. Người nhảy chạy lấy
đà, giơ tay ra đằng trước và lao qua vòng lửa, lộn sang bên kia.
21
2.1.4 Trò hát then, sli, lượn
Thông thường, một lễ hội Lồng Tồng thu hút rất nhiều khách và các
thành phần tộc người tham gia, cho nên diễn ra nhiều hình thức hát rất
phong phú. Các lối hát diễn ra kéo dài từ lúc khai hội cho đến kết thúc,
sau đó người ta kéo về hát trong nhà… Nội dung hát chủ yếu là hát giao
duyên, hát chúc tụng, hát mừng xuân mới. Khi hội diễn ra, mọi người
trong bản, bản trong, bản ngoài và nhiều vùng khác kéo đến rất đông, tụ
tập theo từng nhóm hỏi han và làm quen nhau. Các nhóm nam nữ bắt đầu
hát đối đáp nhau.
Hát chào hỏi: Đây là hình thức hát đầu tiên trong lễ hội, nhất là
khách phương xa đến dự hội. Các giọng hát sli, then, lượn tập trung chủ
yếu hỏi thăm tình hình sức khoẻ, làm ăn ra sao, chuẩn bị tết to hay nhỏ và
gia đình có vui vẻ hay không.
Hát chúc tụng: Mọi người hát chúc nhau năm mới làm ăn phát
đạt, từ đây trở di mạnh khoẻ. Người ta chúc nhau từ sản xuất mùa màng,
chúc gia đình, chúc bản mường, chúc giao duyên hạnh phúc, chúc tình
làng nghĩa xóm.
Hát giao duyên: Đây là lối hát phong phú nhất và chiếm nhiều thời
gian nhất. Đối tượng hát ở đây chủ yếu là thanh niên nam nữ chưa vợ
hoặc chưa có chồng. Họ hát đối đáp nhau, hỏi han nhau tình hình làm ăn,

cuộc sống và cơ bản xoáy sâu vào tâm tư tình cảm của nhau.
Dùng những lời hát thăm dò nhau, đại loại như đã có người yêu
chưa, hoặc có rồi thì ở đâu và làm gì, quê quán ở đâu xa hay gần… lời hát
thật là thấm thía ngọt ngào. Trong trò hát giao duyên, thường là phái nam
đặt vấn đề trước, bên nữ nghe và trả lời. Thông thường, bên nữ không bao
giờ trả lời ngay mà hát đáp lại bằng lối véo von để thử tài bên nam và họ
cười rúc rích để nghe bên nam trả lời ra sao. Lúc này, bên nam phải trổ
tài thật sự của mình để chinh phục bên nữ. Nếu bên nữ ưng và nghe được
thì trả lời rất ý tứ bằng lối hát xa hát gần… và cũng hát lại hỏi bên nam
22
quê quán ở đâu và làm gì, đã có ai chưa. Cũng có lúc họ hát kháy, chọc
tức nhau làm cho cả hai bên rất bực tức, và cũng từ sự bực tức đó họ làm
mọi cách để hiểu nhau hơn. Khi hai bên đã hiểu nhau, họ càng hăng say
hát bằng cả tâm tình, cảm tưởng như không thể rời nhau ra được.
Trong các ngày hội Lồng Tồng của người Tày ở Lạng Sơn
thường xuất hiện các hình thức hát phổ biến như sau:
Hát lượn: Gồm có lượn slương, lượn cọi, lượn nàng ới. Lượn là
của người Tày được hát theo lối cả văn vần, lẫn văn xuôi, chuyên dùng
những câu bóng gió nghe man mắc có lúc lại bùi ngùi, thỏ thẻ như tâm
sự, cũng có lúc lại sâu lắng nghe buồn não ruột, nhưng có lúc lại rộ lên
vui sướng hạnh phúc. Cho nên hát lượn làm cho các đôi trai gái quấn quýt
nhau không thể rời ra được.
Hát then: Là làn điệu dân ca của dân tộc Tày. Hát then trong lễ
hội cũng như hát then trong nghi lễ thần linh, đồng bào đều dùng lối hát
theo thể văn vần, mỗi khổ bốn câu và mỗi câu 7 chữ, và hát truyền khẩu
là chính. Tuy nhiên, trong ngày hội cũng có cả hát ứng khẩu. Hát then
trong lễ hội Lồng Tồng là hát chúc tụng, ca ngợi, chúc phúc cầu mong là
chính. Khác với hát sli, hát lượn, trong hát then phải có nhạc cụ, đó là đàn
tính và sóc nhạc cả một chùm được làm bằng đồng thau.
Hát sli: Của dân tộc Nùng. Sli gồm có hai loại, sli sloong hầu của

người Nùng Phàn Slình, sli slình làng của Nùng Cháo. Sli cũng được hát
theo lối văn vần là chính và cơ bản hát theo lối ứng khẩu. Khi hai bên
nam nữ gặp nhau, nhìn thấy hình tượng gì đó bên cạnh là họ có thể mượn
hình ảnh đó ví von hoặc thăm hỏi chúc tụng nhau…
Nội dung hát sli, lượn, phong slư rất phong phú. Trò hát này đều
có bài quy định mà người hát phải thuộc. Trên cơ sở đó người hát mở
rộng ra, ứng tác kịp thời cho phù hợp nội dung chủ đề cuộc hát, đối tượng
hát trong hội. Vì vậy người hát không những giỏi nhớ mà nhanh trí, giỏi
ứng tác. Khác với hát then, hát sli, lượn, phong slư phải có đối tượng hát,
23
tức là phải có bạn hát đối đáp. Hát sli mỗi bên bạn hát thường có hai
người cùng hát, một người hát giọng cao, một người hát giọng thấp (như
hát bè).
Sau cuộc hát, các đôi có thể tách ra để tâm sự, tìm hiểu nhau ở
chỗ vắng nếu hai bên bạn hát đều ưng lòng nhau. Họ tâm tình rất tự nhiên
nhưng không sàm sỡ và cũng ít khi để xảy ra những điều không hay.
Trò hát sli, then, lượn là nghi lễ không thể thiếu được trong ngày
hội Lồng Tồng của đồng bào Tày Lạng Sơn. Hát trong lễ hội chủ yếu là
nam thanh, nữ tú, những đôi trai gái chưa vợ chưa chồng. Họ đi hội ngoài
việc tìm hiểu vui chơi còn có việc tìm hiểu giao duyên. Quan niệm của
đồng bào trong ngày hội nhất thiết phải có trò hát giao duyên mà càng
nhiều người hát càng tốt. Như vậy năm đó dân bản mới làm ăn phát đạt.
Thông qua trò hát trong ngày hội, nhiều đôi trai gái đã trở nên vợ nên
chồng. Vì vậy các trò hát trong ngày hội Lồng Tồng được kéo dài từ đời
này sang đời khác.
2.2 Các trò chơi
2.2.1 Thọt còn (trò tung còn)
Tung còn là một trong những trò chơi sôi nổi và hấp dẫn nhất của
lễ hội Lồng Tồng. Đây không chỉ là trò giải trí đơn thuần mà là một hình
thức giao duyên mang màu sắc nghi lễ, tín ngưỡng, cộng đồng tổ chức để

chúc một năm mới no đủ, trai gái thành đôi, gần gũi và phát triển giống
nòi.
Người Tày Lạng Sơn, cứ sau ngày mùng 2 tết cho tới hết tháng
Giêng hàng năm, bản làng mở hội Lồng Tồng, đều tổ chức trò chơi tung
còn.
Bãi chơi là một khu đất bằng phẳng ở cạnh đình hay trong Nà Thồng
(ruộng hội). Ở đó người ta đã cho dựng cây còn, phỏng còn và chuẩn bị
quả còn sẵn.
24
Mở đầu cuộc chơi, Pú mo ra chỗ cây còn cầm quả còn khấn vái cầu
yên cho bản, cầu lộc cho mọi người, cầu mùa cho mọi nơi… Sau phần
nghi lễ – quả còn coi như được ban phép – Pú mo tung quả còn lên cao để
mọi người tranh cướp mở màn cho cuộc vui. Các quả còn của mọi người
trong gia đình lúc này cũng mới được tung lên, bay gần bay xa quanh
phỏng còn trông như những cánh én mùa xuân. Gia đình nào cũng mong
cho con mình ném thủng được phỏng còn để cầu may. Ném còn, còn là
trò vui của đôi trai gái nhằm làm quen và tìm hiểu nhau. Đôi khi họ ném
còn không phải chỉ để qua phỏng còn, mà họ ném theo chủ đích nhất
định. Đó là họ ném cho người mà mình dự định tìm hiểu. Qua cuộc ném
còn, nhiều đôi trai gái đã tìm hiểu nhau và đi tới hôn nhân. Cuộc chơi cứ
thế kéo dài cho tới lúc quả còn xuyên qua phỏng còn. Thế là viên mãn,
biểu tượng của hành động tính giao đã trở thành hiện thực. Nếu tung cả
ngày mà phỏng còn không bị thủng thì cuối buổi Pú mo phải cầm đá ném
cho thủng. Đồng bào Tày quan niệm phải làm như vậy mùa làm ăn mới
suôn sẻ.
Sau khi kết thúc, Pú mo dùng dao rạch quả còn và ban phát những
hạt giống (hạt thóc và hạt bông) cho mọi người. Theo quan niệm của
người Tày, những hạt giống này là hạt giống thiêng, sẽ đâm chồi nẩy lộc
nhanh chóng, vì nó được truyền hơi ấm của những bàn tay nam nữ (âm–
dương) trong hội Lồng Tồng. Ai ai cũng vui vẻ đón nhận những hạt giống

thiêng của trời đất – con người với niềm hi vọng rằng vụ mùa sắp tới sẽ
được bội thu, con người sẽ sinh sôi, bản làng sẽ no ấm, đông vui.
2.2.2 Tức kỳ, tức cờ (chơi cờ tướng, cờ lài)
Cờ người là tên gọi của cuộc chơi cờ tướng, gồm 32 quân, mỗi
phe có 16 quân. Trong mỗi phe có một tướng, tướng nam gọi là tướng
ông, trang phục đen hoặc xanh. Tướng nữ gọi là tướng bà, trang phục đỏ.
Chơi cờ tướng là chơi trên bàn cờ. Ba mươi quân cờ bằng gỗ, sừng hay
ngà tiện tròn, đường kính 2cm, dày 1cm. Chơi cờ người cũng vẫn theo
25

×