Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

chuyên đề PHƯƠNG PHÁP THĂM KHÁM TIỀN ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y - DƯỢC THÁI NGUYÊN
BỘ MÔN TAI MŨI HỌNG
------***------

CHUYÊN ĐỀ
PHƯƠNG PHÁP THĂM KHÁM TIỀN ĐÌNH
Học viên thực hiện: Lô Thị Hồng Lê
Lớp CKI – K21 Tai Mũi Họng
Hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Công Hoàng

Thái Nguyên, năm 2018


MỤC LỤC
NỘI DUNG 3
1. Giải phẫu sinh lý tiền đình ốc tai 3
1.1. Tiền đình ngoại biên 3
Tai trong nằm trong xương đá, đi từ hòm tai đến ống tai trong. Gồm 2 phần là
mê nhĩ xương bao bọc bên ngoài và mê nhĩ màng ở trong. 3
1.2. Tiền đình trung ương 5
2. Chức năng sinh lý của tiền đình 6
3. Các nghiệm pháp thăm khám tiền đình 7
3.1. Rối loạn tự phát 7
*Chú ý: Theo dõi để phát hiện động mắt với: 7
3.2. Rối loạn do gây ra 12
4. Hội chứng rối loạn tiền đình 17
4.1. Hội chứng tiền đình ngoại biên 18
4.2. Hội chứng tiền đình trung ương 18
4.3. Chẩn đoán 19



DANH MỤC HÌNH
Hình 1: Mê nhĩ xương .......................................................................................3
Hình 2: Mê nhĩ màng ........................................................................................4
Hình 3: Loa đạo màng .......................................................................................5
Hình 4: Dây thần kinh........................................................................................5
Hình 5: Nghiệm pháp đưa tay thẳng..................................................................8
Hình 6: Nghiệm pháp ngón tay chỉ....................................................................9
Hình 7: Nghiệm pháp Rômbe..........................................................................10
Hình 8: Nghiệm pháp Roa-Têvơlla (Foix-Tthévellard)....................................11
Hình 9: Nghiệm pháp thích nghi......................................................................11
Hình 10: Nghiệm pháp đi hình ngôi sao..........................................................12
Hình 11. Nghiệm pháp bơm nước lạnh............................................................13
Hình 12: Nghiệm pháp ghế quay ....................................................................15
Hình 13: Nghiệm pháp điện một chiều............................................................17
Hình 14: Hội chứng thần kinh ........................................................................19
Hình15: Hội chứng suy giảm...........................................................................20


1
MỞ ĐẦU
Hội chứng tiền đình biểu hiện chủ yếu bằng triệu chứng chủ quan, đó
là chóng mặt và đi kèm với những dấu hiệu lâm sàng như c ảm giác mất

thăng bằng, choáng váng, hoa mắt.
Khám tiền đình là nghiên cứu những phản ứng của tiền đình ở
người bệnh và so sánh những phản ứng của người bình thường để đánh
giá mức độ và vị trí của tổn thương [6].
Hiện nay trên Thế giới cũng như Việt nam, số người mắc bệnh tiền đình
tăng rất cao, trước đây theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới và Việt Nam,
những người bị rối loạn tiền đình thường gặp ở độ tuổi 30 - 50 tuổi, nữ giới gặp

nhiều hơn nam giới, nhưng hiện nay, có rất nhiều người bị rối loạn tiền đình và
không phân biệt lứa tuổi [2].
Một nghiên cứu của Neuhauser HK và CS (2005) qua điều tra trên
30.000 người ở Châu Âu cho thấy tần suất của bệnh rối loạn tiền đình tính
theo tuổi là từ 17% lên tới 39% ở người trên 80 tuổi, và 60% ở người dưới 50
tuổi [8]. Theo Agrawal Y và CS (2008), qua phân tích cắt ngang từ 2001 đến
2004 trên các đối tượng từ 40 tuổi trở lên gồm 5.086 người đã thấy rối loạn
chức năng tiền đình bằng cách đo tư thế lượng giá ngã khá phổ biến ở người
Hoa Kỳ tuổi trưởng thành [7].
Các triệu chứng của rối loạn tiền đình được mô tả rất chung chung, và
thường không rõ được mức độ nặng nhẹ như mất thăng bằng, chóng mặt, đau
đầu, ù tai, buồn nôn… Các triệu chứng rối loạn tiền đình ban đầu thường ít
xuất hiện, nếu có thì có thể là mất ngủ, người mệt mỏi. Thường vào buổi đêm
về sáng, người bệnh thức giấc mở mắt ra nhìn mọi vật xung quanh thì có cảm
giác không bình thường, trở mình thấy lao đao, ngồi dậy khó khăn. Nếu nhẹ,
bệnh nhân có thể cố gắng đứng dậy được nhưng mất thăng bằng, dễ ngã [2].
Nếu cơn nặng, chỉ nằm được ở một tư thế, không ngồi dậy nổi, buồn nôn và có
thể nôn dữ dội gây mất nước, điện giải, mở mắt ra sẽ thấy mọi vật quay cuồng,


2
đảo lộn. Người bệnh tỉnh, đầu không đau nhức nhưng nặng trĩu như bị nén, ép
lại, sợ thay đổi tư thế, muốn tìm sự yên tĩnh. Mạch thường nhanh, huyết áp hạ,
người mệt lả [3].
Bệnh có thể diễn biến trong vài ba ngày, rồi hồi phục dần nhưng cũng
có thể kéo dài và để lại những di chứng mất thăng bằng, lao đao, mắt mờ
nhòe, chân tay tê bì, run rẩy, suy yếu mệt mỏi một thời gian, ảnh hưởng nhiều
tới sức khỏe [2].
Có khá nhiều nguyên nhân gây rối loạn tiền đình: Môi trường, thời tiết
(chuyển mùa), nhiễm độc (hóa chất, thuốc, ăn uống...), tuần hoàn kém và các

vấn đề thần kinh, tâm lý, thiếu máu, mất ngủ….
Do vậy em viết chuyên đề này với 3 mục tiêu sau:
1. Vận dụng được những kiến thức về giải phẫu và chức năng của cơ quan
tiền đình trong thăm khám tiền đình.
2. Thực hiện được thăm khám tiền đình và phân tích kết quả thăm khám.
3. Nhận thức được thăm khám tiền đình có vai trò quan trọng trong chẩn
đoán các rối loạn tiền đình.


3
NỘI DUNG
1. Giải phẫu sinh lý tiền đình ốc tai
1.1. Tiền đình ngoại biên
Tai trong nằm trong xương đá, đi từ hòm tai đến ống tai trong. Gồm 2
phần là mê nhĩ xương bao bọc bên ngoài và mê nhĩ màng ở trong.
1.1.1. Mê nhĩ xương
Gồm tiền đình và loa đạo
+ Tiền đình thông với tai giữa bởi các cửa sổ bầu dục, phía trước có 3
ống bán khuyên nằm theo 3 bình diện không gian.
+ Loa đạo như hình con ốc có 2 vòng xoắn rưỡi, được chia làm 2 vịn là
vịn tiền đình thông với tiền đình và vịn nhĩ thông với hòm tai bởi cửa sổ tròn,
nó được bịt kín bởi màng nhĩ phụ Scarpa [4].

Hình 1: Mê nhĩ xương [1].
1. Ống bán khuyên sau

8. Móc

2. Ống bán khuyên ngoài


9. Thang tiền đình

3. Ống bán khuyên trước

10. Mảnh xoắn ốc xương

4. Ngách xoan (tiền đình)

11. Thang nhĩ

5. Ngách ốc tai (tiền đình)

12. Cửa sổ tròn (ốc tai)

6. Ngách cầu (tiền đình)
13. Lỗ trong của cống tiền đình
7. Khe xoắc ốc
(cho ống nội bạch huyết)
1.1.2. Mê nhĩ màng
Gồm 2 túi là cầu nang và xoang nang, ống và túi nội dịch và 3 ống bán


4
khuyên màng. Trong cầu nang và xoang nang có các bãi thạch nhĩ là vùng
cảm giác thăng bằng. Trong ống bán khuyên có mào bán khuyên là vùng
chuyển nhận kích thích chuyển động.

Hình 2: Mê nhĩ màng [1]
1. Ống ốc tai (quay về phía nền)
2. Thần kinh ốc tai

3. Thần kinh tiền đình ốc tai (VIII)
4. Thần kinh tiền đình
5. Hạch tiền đình
6. Nhánh dưới của thần kinh tiền đình
(từ cầu nang và bóng sau)
7. Cầu nang
8. Ống nội mạch huyết

10. Ống bán khuyên sau
11. Ống bán khuyên ngoài
12. Ống màng cung
13. Bóng màng ngoài
14. Bóng màng trước
15. Ống bán khuyên trước (trên)
16. Xoan nang
17. Nhánh trên của thần kinh tiền đình

+ Loa đạo màng: nằm trong vịn tiền đình có cơ quan Corti chứa đựng
các tế bào lông hay tế bào nghe, và các tế bào đệm, tế bào nâng đỡ.


5

Hình 3: Loa đạo màng [1]
1.1.3. Dây thần kinh
Các sợi thần kinh xuất phát từ tế bào thính giác tập hợp thành bó thần
kinh loa đạo các sợi thần kinh xuất phát từ các mào bán khuyên và bãi thạch
nhĩ tập hợp thành bó thần kinh tiền đình. Hai bó thần kinh này hợp với nhau
thành dây thần kinh số VIII chạy trong ống tai để vào não.


Hình 4: Dây thần kinh [1]
1.2. Tiền đình trung ương
1.2.1.Nhân tiền đình
Các bộ phận nhận cảm của tiền đình ngoại biên nằm ở mê đạo màng,
thân tế bào ở hạch tiền đình, nhánh tiền đình của dây tiền đình ốc tai (dây
VIII) đi đến nhân tiền đình nẵm giữa cầu não và hành não.
Chức năng nhân tiền đình:


6
- (1) đồng nhất các thông tin đến từ mỗi bên của đầu (2) nhận các tín
hiệu và tiếp tục truyền tới tiểu não (3) nhận các tín hiệu và tiếp tục truyền tới
vỏ não cho nhận thức về giác quan vị trí và vận động (4) gửi mệnh lệnh đến
các nhân vận động nằm ở thân não và tủy sống, các lệnh được đưa đến dây sọ
(III, IV, VI, XI), bó tiền đình tủy sống chi phối trương lực cơ ngoại biên và bổ
sung vận động đầu và cổ [4].
1.2.2. Đường dẫn truyền
Thân tế bào của khoảng 19.000 neuron tiền đình ngoại biên xuất phát từ
mào và vết mỗi bên tập trung ở hạch tiền đình và chấm dứt ở nhân tiền đình
(ranh giới hành - cầu não) và thùy nhung nút của tiểu não. Các neuron tiền
đình trung ương (từ nhân tiền đình) đi xuống tủy sống theo bó tiền đình sống
và đi lên thân não theo bó dọc giữa đến các nhân dây thần kinh sọ điều khiển
cử động mắt [4].
2. Chức năng sinh lý của tiền đình
Tiền đình là vùng nằm ở phía sau ốc tai, là một hệ thống có vai trò quan
trọng trong duy trì thăng bằng, phối hợp cử động mắt, đầu và thân mình.
Khả năng giữ thăng bằng cơ thể tùy thuộc vào các cảm giác đến từ ba
vùng chính là mắt, tai trong và bản thể. Bộ phận mê đạo và tiền đình ở tai
trong có trách nhiệm cung cấp cho não bộ các cảm giác về tư thế, vị trí và sự
xoay của cơ thể cũng như sự hiện diện các vật chung quanh. Các chuyển động

như quay mình, nghiêng qua phải qua trái, tới phía trước phía sau, lên trên
hay xuống dưới đều được các bộ phận này ghi nhận.
Não bộ tiếp nhận, phân tích, phối hợp các tín hiệu này để giữ vững cơ
thể. Khi não bộ không sử dụng được các tín hiệu này hoặc các tín hiệu không
rõ rệt, trái ngược nhau thì ta sẽ bị mất thăng bằng. Say sóng khi đi tàu biển,
chóng mặt khi ngồi xe là do cùng nguyên tắc. Ngồi trong máy bay gặp gió
bão, máy bay chòng chành, ta không nhìn thấy thay đổi bên ngoài nhưng tai
tiếp thu sự giao động, ta thấy choáng váng, xây xẩm [4].


7
3. Các nghiệm pháp thăm khám tiền đình
Khám tiền đình tức là nghiên cứu những phản ứng của tiền đình ở
người bệnh và so sánh với những phản ứng của người bình thường để đánh
giá mức độ và vị trí của thương tổn. Khám tiền đình rất cần thiết cho chẩn
đoán các bệnh về tai mà còn giúp ích nhiều cho khoa thần kinh [2].
Chúng ta sẽ nghiên cứu những nghiệm pháp tự phát và những nghiệm
pháp do thầy thuốc gây ra.
3.1. Rối loạn tự phát
3.1.1. Động mắt tự phát
- Bệnh nhân mở to mắt, nhìn theo ngón tay thầy thuốc, để cách khoảng
0,40m, lưu ý chỉ liếc mắt theo không được cử động đầu theo.
- Thầy thuốc để ngón tay, trước mặt bệnh nhân sau đó đưa từ từ sang
ngang tới góc khoảng 60° rồi lại đưa ngón tay sang bên đối diện.
*Chú ý: Theo dõi để phát hiện động mắt với:
- Thể động mắt: Ngang, đứng hay quay.
- Hướng động mắt: Theo hướng giật nhanh
- Mức độ động mắt:
+ Độ 1: Động mắt xuất hiện khi liếc về hướng giật nhanh.
+ Độ 2: Động mắt xuất hiện khi nhìn thẳng.

+ Độ 3: Động mắt xuất hiện khi liếc theo hướng ngược lại.
Trong tổn thương tiền đình do tai, động mắt tự phát thường có thể
ngang hoặc đứng, hướng về bên tai lành và có mức độ 1 hoặc 2.
Động mắt được ghi theo ký hiệu sau

Động mắt ngang hướng

Động mắt đứng hướng

Động mắt quay hướng

sang phải mức độ 1
3.1.2. Lệch ngón tay

lên trên mức độ 2

sang trái mức độ 3

Chúng ta dùng hai nghiệm pháp sau đây để thể hiện lệch chi trên:
nghiệm pháp đưa tay thẳng và nghiệm pháp ngón tay chỉ.


8
3.1.2.1. Nghiệm pháp đưa tay thẳng
Bệnh nhân ngồi trước mặt thầy thuốc, lưng tựa vào ghế, đưa hai tay
thẳng về phía trước mặt, ngón tay trỏ chỉ thẳng về phía trước mặt, các ngón
khác nắm lại. Thầy thuốc ngồi trước mặt bệnh nhân, hai tay gập lại trước
ngực và chìa ngón cái ra, đối diện với hai ngón tay trỏ của bệnh nhân, bảo
bệnh nhân nhắm mắt lại. Bình thường hai ngón tay trỏ của bệnh nhân luôn
luôn chỉ vào hai ngón tay của thầy thuốc. Trong trường hợp bệnh lý, hai ngón

tay của bệnh nhân sẽ lệch về một bên. Thường là cả hai tay cùng lệch về một
hướng nhưng cũng có khi chỉ lệch một tay thôi. Hướng tay lệch đối lập với
hướng động mắt trong trường hợp thương tổn mê nhĩ (Hội chứng ngoại biên).

Hình 5: Nghiệm pháp đưa tay thẳng [6]
3.1.2.2. Nghiệm pháp ngón tay chỉ
Bệnh nhân và thầy thuốc cũng ngồi đối diện như trên. Bảo bệnh nhân nhắm
mắt và dùng ngón trỏ của tay phải chỉ đầu gối mình và chỉ ngón tay cái trái
của thầy thuốc. Sau đó lại dùng ngón tay trỏ trải chỉ đầu gối mình và ngón tay
cái phải của thầy thuốc [6].


9

Hình 6: Nghiệm pháp ngón tay chỉ [6]
Trong trường hợp bệnh lý, người bệnh sẽ chỉ lệch theo chiều ngang
sang bên phải hoặc sang bên trái.
Chúng ta cũng có thể tìm sự lệch hướng theo chiều cao bằng cách bảo
bệnh nhân di động tay trong bình diện ngang, từ bên phải hoặc bên trái đến trước
mặt mình [2].
3.1.3. Nghiệm pháp rối loạn thăng bằng
Có ba nghiệm pháp được dùng để thể hiện sự mất thăng bằng của
bệnh nhân: nghiệm pháp Rômbe (Romberg), nghiệm pháp Foa-têvơna (FoixThévenard), nghiệm pháp Radơmake Gacxanh (Rađemaker Garcin) [6].
3.1.3.1. Nghiệm pháp Rômbe
Để bệnh nhân đứng thẳng, hai chân chụm lại, mắt nhắm. Nếu có rối loạn
thăng bằng, bệnh nhân sẽ nghiêng người về một bên hoặc ngã về một bên.
Nếu bệnh tích ở mê nhĩ, bệnh nhân sẽ ngã về phía đối lập với hướng
động mắt tức là ngã về bên tai bệnh, hướng ngã này sẽ thay đổi tùy theo tư thế
của mê nhĩ. Ví dụ: Bệnh nhân bị bệnh ở tai trái, nếu họ nhìn thẳng về phía
trước họ sẽ ngã về bên trái, nếu họ quay đầu 90 độ về bên trái thì sẽ ngã về

phía sau, nếu họ quay đầu 90 độ về bên phải thì họ sẽ ngã về phía trước.
Trong trường hợp rối loạn nhẹ, chúng ta phải làm nghiệm pháp Rombe
nhạy cảm mới thể hiện được sự mất thăng bằng: bệnh nhân nhắm mắt, đứng
thẳng, hai bàn chân để dọc theo một đường thẳng, bàn chân trái trước, bàn
chân phải sau [6].


10

Hình 7: Nghiệm pháp Rômbe [6]
3.1.3.2. Nghiệm pháp Roa-Têvơlla (Foix-Tthévellard)
Nghiệm pháp này thể hiện sự giảm trương lực cơ ở chi dưới. Để bệnh
nhân đứng thẳng trong tư thế "nghiêm", thầy thuốc dùng ngón tay đẩy khẽ
làm cho bệnh nhân mất thăng bằng. Bình thường cơ cẳng chân trước (muscle
jambier antérieur) và cơ duỗi chung (extenseur commun) sẽ co lại và làm cho
các ngón chân nhấc lên khỏi mặt đất.
Nếu bệnh nhân bị giảm trương lực cơ (hypotonie muscularie) thì các ngón
chân sẽ không nhấc lên và nếu đẩy mạnh hơn bệnh nhân sẽ ngã [6].

Hình 8: Nghiệm pháp Roa-Têvơlla (Foix-Tthévellard) [6]
3.1.3.3. Nghiệm pháp thích nghi của Radơlmake va Gácxanh (Rademaker - Garcin)


11
Trong nghiệm pháp này bệnh nhân chỉ được mặc quấn đùi và áo lót.
Chúng ta để bệnh nhân bò chống hai tay và hai đầu gối xuống bàn, rồi
đột nhiên chúng ta nhắc cái bàn nghiêng 30 độ về một bên. Nếu là người bình
thường, họ sẽ có phản xạ gò người lại, duỗi các chi bên thấp và co các chi bên
cao để giữ thăng bằng không bị hất xuống đất. Nói theo lý học là họ cố giữ
cho trọng tâm không rơi ra ngoài hình chân đế. Trái lại nếu là người bị bệnh

mê nhĩ họ sẽ không có phản ứng thích nghi và bị hất xuống đất như một pho
tượng gỗ.

Hình 9: Nghiệm pháp thích nghi [6]
3.1.3.4. Nghiệm pháp Banbiski – Ven (Babinski – Weil) hay nghiệm pháp đi
hình ngôi sao
Nếu là người lành mạnh thì họ sẽ đi theo đường thẳng và về đúng chỗ cũ.
Bảo bệnh nhân nhắm mắt lại và đi tới đi lui sáu lần, mỗi lần tám bước.
Trong khi bước tới, bệnh nhân sẽ đi lệch về bên nhĩ bệnh, khi đi lui họ sẽ đi
lệch về bên mê nhĩ lành. Rút cuộc đường đi của bệnh nhân có dạng hình ngôi
sao và bệnh nhân không trở về đúng xuất phát điểm [6].


12

Hình 10: Nghiệm pháp đi hình ngôi sao [6]
3.2. Rối loạn do gây ra
Trong những nghiệm pháp sau đây, thầy thuốc kích thích mê nhĩ để
nghiên cứu các phản ứng của nó. Hiện nay, trên lâm sàng người ta đùng ba
phương pháp để kích thích tiền đình: nước lạnh, điện một chiều và ghế quay.
3.2.1. Nghiệm pháp nước lạnh
Về nguyên tắc chúng ta có thể dùng nước nóng 44 0C hay nước lạnh
250C để kích thích tiền đình. Hướng của động mắt sẽ trái ngược nhau tùy theo
nhiệt độ của nước. Trên thực tế chúng ta quen dùng nước lạnh hơn nước nóng.
Sức lạnh vào tai sẽ làm di chuyển nước nội dịch. Luồng nội dịch này kích
thích các tế bào giác quan của ống bán khuyên và gây ra động mắt.
Trước khi bơm nước lạnh cần phải xem màng nhĩ có bị thủng không,
nếu có thủng thì phải thận trọng như dùng nước vô trùng, nhiệt độ vừa phải
(300C), bơm nhẹ... Có tác giả khuyên không nên làm nghiệm pháp này nếu tai
bị thủng.



13

Hình 11. Nghiệm pháp bơm nước lạnh [6]
Để bệnh nhân ngồi thẳng trên ghế có tựa lưng, mắt đeo kính Bacten
(Bartels) (+ 20 điôp) để loại động mắt giả, đầu ngửa 600 về phía sau. Chúng ta
bơm 10ml nước lạnh 250C vào tai người bệnh.
Bình thường 20 giây sau khi bắt đầu bơm nước, động mắt xuất hiện.
Người ta gọi đó là thời gian tiềm tàng. Động mắt kéo dài trong 60 đến 90 giây.
Nếu thời gian tiềm tàng bị rút ngắn dưới 20 giây và thời gian phản ứng
dài trên 120 giây thì người ta gọi là quá kích thích. Trái lại nếu thời gian tiềm
tàng kéo dài trên 30 giây và thời gian động mắt dưới 30 giây thì người ta gọi
là kém kích thích.
Nếu tiền đình không trả lời chúng ta sẽ tăng khối lượng nước lên đến.
100ml. Sau đó nếu tiền đình vẫn không phản ứng thì chúng ta kết luận rằng
tiền đình không kích thích được.
Nghiệm pháp nước lạnh rất tiện lợi vì nó cho phép chúng ta nghiên cứu
từng mê nhĩ một và ở mỗi tai chúng ta có thể khám riêng ống bán khuyên nằm
hoặc ống bán khuyên đứng.
Sau khi phân tích động mắt xong chúng ta làm ngay nghiệm pháp đưa
tay thẳng: bình thường hai tay sẽ lệch về bên bị bơm nước. Tiếp theo chúng ta
bảo bệnh nhân đứng dậy để làm nghiệm pháp Rômbe: bệnh nhân sẽ ngả về
bên tai bị bơm nước.
Cuối cùng chúng ta hỏi bệnh nhân có chóng mặt buồn nôn không? Nói
chung bệnh nhân sẽ trả lời rằng có rạo rực muốn nôn hoặc thấy khó chịu trong
người vài phút


14

Khám xong một bên tai, chúng ta phải đợi mươi phút rồi hãy chuyển
sang tai bên kia
Phản ứng hài hòa tức là hướng động mắt và hướng nghiêng người
(hoặc hướng lệch ngón tay) đối lập với nhau.
Phản ứng không hài hòa tức là động mắt và nghiêng người (hay lệch
ngón tay) cùng đi về một hướng, hoặc động mắt đập về phía tai bệnh bị bơm
nước, hoặc ngón tay chỉ lệch về phía tai lành không bơm nước [2], [6].
3.2.2. Nghiệm pháp ghế quay
Nguyên tắc: Khi chúng ta để bệnh nhân ngồi trên ghế quay và chúng ta
cho ghế quay tròn, toàn bộ mê nhĩ sẽ quay theo. Nếu chúng ta hãm cái ghế lại
một cách đột ngột thì nội dịch trong tiền đình; do cái đà đã có sẵn, sẽ đập vào
bong bóng của ống bán khuyên và kích thích các tế bào thần kinh của mào
thính giác (crête acoustique) gây ra động mắt. Muốn kích thích ống bán
khuyên nào thì phải để ống bán khuyên đó trong bình diện nằm. Trong
nghiệm pháp này chúng ta thử cả hai tiền đình cùng một lúc [2], [6].
- Khám ống bán khuyên nằm:
Bệnh nhân đeo kính + 20 điôp, ngồi trên ghế quay kiểu Lecmoayê
(Lermoyez), đầu nghiêng 30 độ về phía trước, lưng tựa vào thành ghế, chân
đặt trên bàn đạp của ghế, hai tay nắm chặt thành ghế.
Thầy thuốc quay ghế 10 vòng trong 20 giây, và đến vòng thứ 10 chặn
ghế đứng lại đột ngột. Ngay khi ghế đứng lại thì động mắt xuất hiện và đập về
hướng đối lập với chiều quay của ghế. Thầy thuốc dùng đồng hồ đo thời gian
từ lúc động mắt bắt đầu cho đến khi hết động mắt.
Muốn khám tiền đình phải thì chúng ta quay ghế từ phải sang trái (của
bệnh nhân). Nếu khám tiền đình trái thì quay từ trái sang phải.
Nếu quay từ phải sang trái thì động mắt sẽ đập từ trái sang phải. Nếu
quay từ trái sang phải thì động mắt sẽ đập từ phải sang trái.
Khi chúng ta quay từ trái sang phải thời gian động mắt là 30 giây
trong đó 25 giây do mê nhĩ trái gây ra (do dòng nội dịch chảy về bong bóng)
còn 5 giây do mê nhĩ phải (dòng nội dịch thoát khỏi bong bóng) gây ra. Nếu

chúng ta quay từ phải sang trái, thời gian động mắt cũng là 30 giây, trong đó


15
25 giây đó mê nhĩ phải gây ra (dòng nội dịch chảy về bong bóng) còn 5 giây
do mê nhĩ trái (dòng nội dịch thoát khỏi bong bóng).

Hình 12: Nghiệm pháp ghế quay [6]
Sau mỗi lần quay nên nghỉ 10 phút để bệnh nhân hồi tĩnh.
Trên đây là kết quả của xét nghiệm khi bệnh tích còn mới. Trong những
trường hợp mạn tính, lâu ngày kết quả sẽ không được rõ rệt như trên vì có hiện
tượng bù trừ xen vào: mê nhĩ lành đảm bảo một phần chức năng của mê nhĩ
chết. Thời gian của động mắt sẽ là 15 giây mặc dù chúng ta quay về bên phải
hay về bên trái.
- Khám ống bán khuyên đứng:
Ống bán khuyên đứng gồm có ống bán khuyên trên và ống bán khuyên
sau. Ở đây còn nhiều điểm chưa được rõ lắm, nhất là về vai trò của ống bán
khuyên riêng lẻ. Người ta quy ước:
Muốn khám ống bán khuyên trên (bình diện trán) phải ngả đầu 90 độ về
phía trước. Động mắt thuộc về loại quay và kéo dài trong 20 giây. Hướng của
động mắt và hướng quay của ghế đối lập với nhau.
Muốn khám ống bán khuyên sau (bình diện dọc-plan sagittal) phải ngả đầu
90 độ về một bên, động mắt thuộc về loại đứng và kéo dài trong 6 giây. Ví dụ:
Ghế quay vế bên phải mà đầu ngả về bên phải thì sẽ có động mắt đứng đập về
phía dưới, nếu ngả đầu về bên trái sẽ có động mắt đứng đập về phía trên [6].
3.2.3. Nghiệm pháp điện một chiều
- Dòng điện một chiều tác động trực tiếp đến thần kinh tiền đình và gây
ra phản ứng nghiêng đầu, động mắt và chóng mặt.



16
- Dụng cụ cần thiết là 20 cái pin 1,5 vôn nối tiếp nhau, một cái ampe
kế, một cái điện trở và hai cực điện.
- Phương pháp thường dùng là kiểu hai tai hai cực tức là mỗi bên tai
đeo một cực điện khác tên với nhau [2].
Cách làm:
- Phản ứng nghiêng đầu: Để bệnh nhân đứng thẳng, mắt nhắm, lắp cực
điện vào trước nắp tai: cực dương bên phải, cực âm bên trái. Bắt đầu cho điện
chạy, và tăng dần cường độ từ 0 mới ampe trở lên. Đối với người thường khi
lên đến 3mA thì đầu nghiêng về cực dương.

Hình 13: Nghiệm pháp điện một chiều [6]
- Trong trường hợp có thương tổn mê nhĩ, hướng nghiêng đầu sẽ thay
đổi. Nếu là bệnh tích ở thân dây thần kinh hoặc ở các nhân trung ương thì
ngưỡng kích thích sẽ tăng lên 10 mA hoặc hơn.
- Sau khi phản ứng xuất hiện rồi, chúng ta giảm điện dần . Nghiệm pháp
điện trở về 0 mA...Nếu chúng ta cắt điện nhanh bệnh nhân sẽ ngả về bên đối điện.
- Phản ứng động mắt
Bệnh nhân mở mắt. Động mắt sẽ xuất hiện khi chúng ta tăng cường độ
lên đến 5 mA và đập về phía cực âm. Động mắt ngang hoặc quay.
Lúc làm nghiệm pháp này nên cho bệnh nhân đeo kính + 20 điôp
Nếu có thương tổn tiền đình, hướng của động mắt sẽ thay đổi và
ngưỡng kích thích của dòng điện cũng tăng (10 mA).
- Cảm giác chóng mặt


17
Chóng mặt xuất hiện muộn và đòi hỏi cường độ điện cao (trên 10 mA).
Nếu bệnh nhân mở mắt thì họ sẽ thấy đồ đạc di động qua trước mặt họ từ cực
dương qua cực âm. Nếu bệnh nhân nhắm mắt họ sẽ có cảm giác bị lôi kéo về

phía cực dương [6].
3.2.4. Nghiệm pháp bơm hơi
- Bình thường nếu chúng ta dùng spêculum Sieglơ (Siegle) bơm không
khí vào ống tai ngoài, bệnh nhân chỉ có cảm giác căng trong tai.
- Trái lại nêu mê nhĩ có lỗ rò (rò ở ống bán khuyên nằm) khi chúng ta
bơm không khí vào tai, bệnh nhân sẽ ngả người về phía đối lập và có động
mắt ngang quay đập về phía tai bệnh. Đó là triệu chứng Lukê (Lucae).
- Trong trường hợp giang mai bẩm sinh ở mê nhĩ (xương bàn đạp lỏng
khớp) thì phản ứng sẽ ngược lại. Khi chúng ta bơm không khí vào tai thì bệnh
nhân ngả người về phía tai bị kích thích và động mắt nằm quay đập về phía
đối diện (triệu chứng Hennebert).
- Để kết luận về vấn đề khám tiền đình chúng ta nên nhớ rằng những
nghiệm pháp nói trên chỉ có giá trị tương đối nếu nó đứng riêng lẻ một mình,
nhưng nếu các biện pháp đó được áp dụng một cách phối hợp và cùng trả lời
theo một hướng thì giá trị của nó rất lớn.
- Chúng ta chỉ nên coi như là bệnh lý những kết quả hoặc những con số
thật là bất thường. Còn những sai lệch chút ít thì không đáng kể.
- Khi chúng ta nói mê nhĩ quá kích thích hoặc kém kích thích, chúng ta
không nên căn cứ vào con số tuyệt đối của các nghiệm pháp mà phải so sánh
kết quả của hai tai với nhau [6].
4. Hội chứng rối loạn tiền đình
Hội chứng tiền đình được xếp làm hai loại chính:
Hội chứng tiền đình ngoại biên
Hội chứng tiền đình trung ương
Nói chung, bao gồm các triệu chứng như chóng mặt, nghe kém, ù tai và các
triệu chứng thần kinh khác như nhức đầu, mất thăng bằng, rung giật nhãn cầu…
Hội chứng tiền đình do nhiều nguyên nhân khác nhau, không chỉ trong
lĩnh vực Tai Mũi Họng mà còn liên quan nhiều đến các chuyên khoa như:
Thần kinh, Nội, Chấn thương [5].



18
4.1. Hội chứng tiền đình ngoại biên
Bao gồm các hội chứng:
4.1.1. Hội chứng tiền đình
- Chóng mặt rõ rệt, có cơn bộc phát, kèm theo ù tai.
- Rung giật nhãn cầu tự phát loại ngang – xoay hướng về bên tai lành,
không chỉ xuất hiện trong mà có thể cả ngoài cơn chóng mặt, động điện nhãn
đồ kiểu ngoại biên.
- Khám tiền đình: Trả lời hoà hợp, thể ngoại biên nhưng với vài hiện
tượng kiểu trung ương như nghiệm pháp Romberg không bị ảnh hưởng khi
thay đổi tư thế đầu, nghiệm pháp ngón trỏ chỉ lệch một tay cùng bên lành.
4.1.2. Hội chứng loa đạo:
Nghe kém thể tiếp âm, không có hiện tượng hồi thính (R-), có hiện
tượng suy thoái relapse II qua nghiệm pháp Carhard (Caha)
4.1.3. Hội chứng thần kinh:
- Nhức đầu liên tục, có cơn bộc phát, thường ở vùng chấm - đỉnh.
- Có rối loạn trương lực cơ, nhưng rối loạn thăng bằng và hội chứng
tiểu não không rõ

Hình 14: Hội chứng thần kinh [2].
4.2. Hội chứng tiền đình trung ương
4.2.1. Hội chứng suy giảm
+ Chóng mặt không rõ rệt như trong hội chứng tiền đình rễ.


19
+ Mất thăng bằng nhẹ, không tương xứng với cảm giác chủ quan
của người bệnh.


Hình15: Hội chứng suy giảm [2].
+ Rung giật nhãn cầu bao giờ cũng có: Đơn thuần ngang, đứng hay
xoay, cường độ mạnh: đa hướng (thay đổi theo hướng nhìn), không hài hoà.
+ Các biện pháp gây ra thể hiện: không hài hoà, thiết sót, từng mảng.
Nghiệm pháp Romberg khi nhắm mắt không gây mất thăng bằng.
Nghiệm pháp ngón trỏ lệch về bên tai không bơm nước lạnh.
Nghiệm pháp đi hình sao biểu hiện lệch hướng thay đổi.
Rung giật nhãn cầu thiếu giật nhanh, hướng về tiền đình không trả lời,
điện động mắt đồ kiểu trung ương, giật từng tràng, dính chẽ đôi [5].
4.2.2. Hội chứng quá kích thích
+ Chóng mặt nhẹ, trong khi mất thăng bằng rõ rệt.
+ Rung giật nhãn cầu thường không có hay khi có khi không.
Các nghiệm pháp gây ra thể hiện quá kích thích, không đầy đủ.
Nghiệm pháp Romberg (+) mạnh, nhắm mắt ngã quay.
Nghiệm pháp ngón trỏ 2 tay cùng theo một hướng.
Rung giật nhãn cầu thể hiện quá kích thích, điện động nhãn đồ kiểu
trung ương [5].
4.3. Chẩn đoán
Qua thăm khám, phát hiện các hội chứng tiền đình có thể thấy được vị
trí và bản chất thương tổn.
4.3.1. Thương tổn nhân tiền đình
+ Có hội chứng suy giảm rõ. Nếu thương tổn ở:
- Hành não: có rung giật nhãn cầu xoay, hướng về bên bệnh.
- Cầu não: có rung giật nhãn cầu ngang, hướng về bên lành.
- Cuống não hay trung não: có rung giật nhãn cầu đứng [5].


20
4.3.2. Thương tổn ngoài nhân
Có hội chứng quá kích thích hoặc triệu chứng tự phát, thể hiện qua kích

thích, các triệu chứng gây ra lại thể hiện kém kích thích.
- Thoái hóa tổ chức não: ngoài hội chứng tiền đình tuỳ theo vị trí
thoái hoá, nếu là:
- Xơ cứng mảng: thường thể hiện rung tay, liệt chi dưới…
- Rỗng hành tuỷ: có các triệu chứng thần kinh như: mất cảm giác nóng,
lạnh, đau, tao cơ chi trên…
- Bệnh Tabes (Tabet) với các triệu chứng mất cảm giác, mất phản xạ
đồng tử…

KẾT LUẬN
Rối loạn tiền đình là hội chứng ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và sinh
hoạt hàng ngày của người bệnh. Là một bệnh lý gây ra một trạng thái mất cân
bằng về tư thế làm cho người bệnh thường xuyên bị chóng mặt, quay cuồng, ù
tai, buồn nôn, đi lảo đảo…..bệnh rất hay tái phát từ đó làm ảnh hưởng rất lớn
đến công việc, chất lượng cuộc sống.
Rối loạn tiền đình gặp ở mội lứa tuổi nhưng tuổi trưởng thành thường
chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều, rối loạn tiền đình có xu hướng gia tăng đối với
người lao động trí óc. Người bị rối loạn tiền đình do thiếu máu não có nguy
cơ đột qụy cao.
Nguyên nhân gây hội chứng rối loạn tiền đình ngày càng phổ biến áp
lực công việc lớn do: Ngồi lâu trước máy vi tính, huyết áp thấp, cơ thể bị
nhiễm độc hóa chất, mất ngủ thường xuyên dẫn đến stress. Môi trường sống
và thói quen ăn uống, sử dụng rượu, bia chất kích thích. Mức độ bệnh nhẹ hay
nặng tùy từng người bệnh.


21
Khi mắc những triệu chứng rối loạn tiền đình, người bệnh cần đến khám ở
chuyên khoa nội thần kinh hoặc chuyên khoa tai – mũi – họng để được chẩn
đoán, xác định nguyên nhân và có hướng chữa trị thích hợp, kịp thời.

Hội chứng tiền đình là một hội chứng thường gặp thăm khám nhiều khi
gặp những khó khăn đòi hỏi kiên trì và tỉ mỷ.
Cần phải khám lâm sàng đầy đủ và cần thiết phối hợp chuyên khoa để
định bệnh.
Điều trị bệnh ban đầu là phòng ngừa và điều trị triệu chứng.
Việc điều trị nguyên nhân giúp bệnh nhân trở về sinh hoạt bình thường
là mục tiêu hướng tới của người thầy thuốc chuyên khoa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Atlas giải phẫu người (2013), NXB Y học, tr.132
2. Ngô Ngọc Liễn (2006), “Khám tiền đình”, Giản yếu tai mũi họng, NXB Y
học, tr.32-34.
3. Ngô Ngọc Liễn (2016), “Hội chứng tiền đình”, Bệnh học tai mũi họng, NXB
Y Học, tr.130-132.
4. Lê Văn Lợi “Cấp cứu thần kinh thị giác”, Cấp cứu Tai mũi họng chương
14, tr. 439.
5. Võ Tấn (1994), “Sinh lý tai, chức năng thăng bằng – chóng mặt, các hội
chứng Mê nhĩ”, Tai mũi họng thực hành, tập 2, tr.36.
6. Võ Tấn (1991), “Khám tiền đình”, Tai mũi họng thực hành, tập 2, tr.61- 69.
TIẾNG ANH
7. Cohen, H. S., et al. (2000). “Application of the vestibular disorders
activities of daily living scale.” Laryngoscope 110(7): 1204-9.
8. Duracinsky M, Mosnier I, bouccara D, et al. Literature review of
questionnaires assessing vertigo and dizziness, and their impact of
patients’ quality of life. Value Health (2007) 10(4):273-8.



×