Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của tòa án nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (852.15 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ VĂN KHÔI

VĂN HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN
HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ VĂN KHÔI

VĂN HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN
HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số

: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. NGUYỄN MINH ĐOAN

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân tôi, chưa được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào. Các
số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn này là hoàn toàn hợp lệ và
đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

Tác giả

Ngô Văn Khôi


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA TRONG
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN . 7
1.1. Khái quát chung về hoạt động xét xử vụ án hình sự của tòa án nhân dân. 7
1.2 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án
hình sự của tòa án nhân dân ............................................................................ 13
1.3. Nội dung của văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của tòa án
nhân dân .......................................................................................................... 17
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VĂN HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT
XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM......... 26
2.1. Khái quát về thực trạng công tác xét xử .................................................. 26
2.2. Không gian văn hóa xét xử và trang phục xét xử .................................... 33
2.3. Các chuẩn mực về hành vi trong giao tiếp, ứng xử khi tiến hành các hoạt
động xét xử ...................................................................................................... 48
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VĂN
HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN

NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .............................. 60
3.1. Phương hướng nâng cao văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự
của tòa án nhân dân giai đoạn hiện nay .......................................................... 60
3.2. Giải pháp nâng cao văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của tòa
án nhân dân giai đoạn hiện nay ....................................................................... 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX:

Hội đồng xét xử

HTND:

Hội thẩm nhân dân

KSV:

Kiểm sát viên


XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
THTT:

Tiến hành tố tụng

TTHS:

Tố tụng hình sự

VKS:

Viện kiểm sát


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, cùng với sự giao thoa giữa các nền kinh tế thì vấn đề bảo vệ
và nâng cao ý thức pháp luật là hết sức cần thiết, cấp bách. Dưới sự tác động
của nền kinh tế thị trường đã kéo theo những thay đổi của xã hội, các ngành,
các lĩnh vực một cách rõ nét. Từ đó các quốc gia phát triển bắt đầu tìm kiếm
cho mình bước đi thích hợp để hội nhập nhưng không bị hòa tan. Một trong

những biện pháp để các quốc gia lựa chọn đầu tiên: đó là giữ vững nền văn
hóa dân tộc, kết hợn với những tinh hoa văn hóa nhân loại để đúc kết cho
mình nền văn hóa tiên tiến, văn minh và hiện đại. Ngày 02/01/2002 Bộ Chính
trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW và ngày 02/6/2005 Ban hành Nghị
quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội IX của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
hội nhập quốc tế. Cùng với Hiến pháp năm 2013 đi vào cuộc sống, đẩy mạnh
và nâng cao hiệu quả cải cách tư pháp với mục tiêu: xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc, trong đó cải cách Tòa án và
hoạt động xét xử là trung tâm của cải cách tư pháp.
Nghị quyết đã xác định, vai trò trung tâm trong hệ thống tư pháp là của
Tòa án, hoạt động của Tòa án là hoạt động trung tâm của hoạt động tư pháp.
Đây là bước phát triển trong tình hình mới về nhận thức lý luận trong lĩnh vực
tư pháp. Trong hoàn cảnh đó, một trong những giá trị cần bảo vệ là vấn đề
văn hóa-văn hóa xã hội và văn hóa pháp lý. Trong phạm vi của luận văn,
chúng tôi chỉ đi sâu vào phần văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự
tại Tòa án nhân dân. Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, toàn bộ các chứng cứ, tài
liệu của vụ án được xem xét, đánh giá công khai, khách quan và toàn diện.

1


Trên cơ sở kết quả phiên tòa hình sự sơ thẩm, Hội đồng xét xử ra bản án hoặc
quyết định về việc giải quyết toàn bộ vụ án, trong đó xác định trách nhiệm
hình sự, quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên. Do đó, nếu phiên tòa xét xử
đạt chất lượng tốt, thể hiện tính văn hóa trong hoạt động xét xử cao sẽ là cơ sở
để ra bản án, quyết định chính xác, khách quan; góp phần hạn chế kháng cáo,
kháng nghị phúc thẩm, khiếu nại giám đốc thẩm, tái thẩm. Từ đó đảm bảo

tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời ý thức pháp luật của người dân
được nâng cao, pháp chế xã hội chủ nghĩa được bảo đảm. Với những lý do
trên nên tôi đã chọn đề tài: “Văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự
của Tòa án nhân dân”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề văn hóa trong hoạt động xét xử, ở nước ta từ trước đến nay ít
được chú ý. Chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa trong hoạt
động xét xử vụ án hình sự của Tòa án. Trong thời gian gần đây, có một số ý
kiến đề cập đến vấn đề này nhưng chỉ nằm rải rác ở các phần, mục nhỏ trong
các bài viết như: Các báo cáo công tác Tòa án; Bùi Ngọc Sơn, Tư tưởng Hồ
Chí Minh về tổ chức Tòa án và ý nghĩa hiện nay, Nghiên cứu lập pháp, số 2,
tháng 2/2002. Chuyên đề về: Tư pháp hình sự so sánh (1999), Thông tin khoa
học pháp lý, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp. Dương Ngọc
Ngưu, Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động tố tụng – Thực trạng
và phương hướng đổi mới, lập pháp, đặc san số 4 tháng 3/2003. Dương Thanh
Biểu, Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác hậu cần
trong ngành kiểm sát nhân dân, Tạp chí kiểm sát, tháng 3/2004. Đinh Văn
Quế, Thủ tục xét xử các vụ án hình sự, NXB TP.HCM. Hà Mạnh Trí, Vấn đề
tổ chức các phiên tòa theo tinh thần Nghị quyết 08 NQ-TW của BCT, Tạp chí
kiểm sát tháng 8/2003. Phan Trung Hoài, Một số vấn đề về cơ sở đảm bảo
dân chủ trong tranh luận tại phiên tòa hình sự, Tạp chí kiểm sát, số 3/2002.

2


Phạm Minh Tuyên, Kỹ năng xét xử các vụ án hình sự, NXB Thanh niên, Hà
Nội. Phạm Quốc Hùng, Trị quốc trong văn hóa truyền thống Việt Nam,
nghiên cứu lập pháp, số 2 tháng 3/2001. Phạm Hồng Hải, Vai trò của luật sư
trong hoạt động tố tụng – Thực trạng và phương hướng đổi mới, lập pháp,
đặc san số 4 tháng 3/2003. Nguyễn Duy Giảng, Bàn về tranh tụng tại phiên

tòa, Tạp chí kiểm sát tháng 10/2003.Nguyễn Ngọc Chí, Đào Thị Nga, Oan và
sai trong TTHS, Nghiên cứu lập pháp, số 2, tháng 2/2003. Nguyễn Minh
Đoan, Pháp luật, lối sống và văn hóa công sở, NXB Tư pháp, Hà Nội.
Nguyễn Minh Đoan và Vũ Trọng Lâm, Hiệu quả của pháp luật – Những vấn
đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia-Sự thật. Lê Cảm, Cải cách
hệ thống Tòa án trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam,
Nghiên cứu lập pháp, tháng 4/2002. Lê Trung Mưu, Một số vấn đề rút kinh
nghiệm về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự trong các phiên
tòa theo tinh thần Nghị quyết số 08 NQ-TW của BCT ở tỉnh Thái Bình, Tạp
chí kiểm sát, số 1/2004. Trần Văn Nam, Vai trò đạo đức nghề nghiệp trong
thực hiện quyền công tố, Tạp chí kiểm sát số 1/2004. Trịnh Tiến Việt, Nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự, Nghiên cứu lập pháp số 7,
tháng 7/2003.
Được sự quan tâm của các cấp về vấn đề văn hóa cùng với hướng cải
cách nền tư pháp nước nhà, chúng ta sẽ có điều kiện đào sâu hơn lĩnh vực
này. Ngoài sự đam mê khoa học, chúng ta còn phải coi đây là trách nhiệm với
xã hội. Với cá nhân là một cán bộ Tòa án, bản thân còn ý thức đây là trách
nhiệm với hệ thống Tòa án các cấp. Chính vì thế, ngoài mục đích phát huy
tính chủ động, sáng tạo trong học tập, công tác nhằm so sánh giữa lý luận và
thực tiễn, chúng tôi còn mong muốn trong tương lai vấn đề văn hóa hóa hoạt
động xét xử sẽ được quan tâm và chú ý nhiều hơn nữa để hiệu quả xét xử
được nâng cao và nâng cao hơn nữa tính uy nghiêm, hiện đại, văn minh của

3


nền tư pháp nước nhà.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có mục đích nghiên cứu những nét cơ bản đến chuyên sâu, có
hệ thống về cơ sở lý luận và thực tiễn công tác xét xử vụ án hình sự của Tòa

án nhân dân. Trên cơ sở đó rút ra những kết luận và đề xuất những phương
hướng, giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng giải quyết án và còn
góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân.
Với mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về phiên tòa hình
sự, tính văn hóa thể hiện trong phiên tòa hình sự, ...nêu lên được những đặc
trưng cơ bản của tính văn hóa thể hiện trong phiên tòa hình sự so với các
phiên tòa dân sự, hành chính hay văn hóa công sở nói chung.
- Đúc rút những kinh nghiệm, kỹ năng trong quá trình xét xử vụ án hình
sự nhằm thể hiện, nâng cao vai trò của tính văn hóa trong hoạt động xét xử vụ
án hình sự.
- Nêu lên được những phương hướng, giải pháp nhằm góp phần tăng
cường tính văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự tại Tòa án, nâng cao
chất lượng xét xử các vụ án hình sự.
- Nâng cao tính văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự góp phần
xây dựng hình ảnh hệ thống Tòa án hiện đại, văn minh, xứng đáng với định
hướng cải cách hoạt động xét xử tại Tòa án là trung tâm của công tác cải cách
tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một cách bao quát về những vấn đề có
quan hệ trực tiếp đến tính văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, đặc
biệt đi sâu vào những vấn đề cụ thể đối với các chủ thể của hoạt động xét xử
là Hội đồng xét xử nói chung, là của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm

4


sát viên, Thư ký phiên tòa, luật sư, bị cáo, và những người tham gia tố tụng
khác tại phiên tòa. Ngoài ra, còn có các đối tượng liên quan như cơ sở vật
chất, cảnh quan, trụ sở, cách bố trí, tổ chức phiên tòa,… cũng góp phần không

nhỏ vào nội dung nghiên cứu của luận văn này.
Luận văn sử dụng những diễn biến phiên tòa, những số liệu thực tế,
thống kê của hệ thống Tòa án qua các năm để phục vụ làm cơ sở cho đề tài.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa vào các phương pháp sau:
- Phương pháp duy vật lịch sử: Dựa trên phép biện chứng của Triết học
Mác-Lênin;
- Phương pháp thống kê: Các số liệu từ tổng kết của các ngành và hệ
thống Tòa án để chứng minh làm cụ thể hóa vấn đề cần nêu.
- Phương pháp phân tích tài liệu: Phân tích những tài liệu thu thập liên
quan đến đề tài nhằm giải thích rõ ràng hơn các luận điểm;
- Phương pháp Logic lịch sử: Liên hệ vấn đề từ thực tiễn những năm
trước để có cái nhìn hoàn thiện hơn trong tương lai.
- Phương pháp điền giả: Làm công tác thực tiễn tại các địa điểm liên
quan để đề tài có tính thuyết phục, sát với thực tế hơn.
Trong các phương pháp trên, phương pháp duy vật lịch sử là quan
trọng nhất. Các phương pháp khác dựa vào lý luận của phép biện chứng duy
vật.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện
lý luận gắn liền với thực tiễn xét xử vì đây là công trình nghiên cứu mang lại
cách nhìn tổng quát về văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa
án.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng văn hóa trong hoạt động xét

5


xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân hiện nay, chỉ ra những điểm chưa phù
hợp để đề ra các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao tính văn hóa khi xét

xử và chất lượng xét xử.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 8 mục, phần Mở đầu, phần Kết
luận và Danh mục tài liệu tham khảo:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về văn hóa trong hoạt động xét xử vụ
án hình sự của Tòa án nhân dân.
Chương 2: Thực trạng văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự
của Tòa án nhân dân ở Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao văn hóa trong hoạt
động xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ở Việt Nam giai đoạn hiện
nay.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG
XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Khái quát chung về hoạt động xét xử vụ án hình sự của tòa án
nhân dân
1.1.1. Khái niệm hoạt động xét xử
Hoạt động xét xử của Tòa án là “hoạt động của các cơ quan và các cá
nhân được căn cứ vào pháp luật để xem xét những vấn đề pháp lý và đưa ra
những quyết định pháp lý có tính chất bắt buộc”[56, tr.144]. Cụ thể hơn, theo
tiến sĩ khoa học Đào Trí Úc, hoạt động xét xử là “hoạt động nhân danh quyền
lực nhà nước nhằm xem xét, đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp và
tính đúng đắn của hành vi vi phạm pháp luật”[14, tr.216].
Tố tụng hình sự là một quá trình mà ở đó cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,…thực hiện
những hoạt động nhất định nhằm đạt được mục đích cuối cùng là có tội phạm

xảy ra hay không? Có hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện hay
không? Nếu có thì ở mức độ nào?,…trong quá trình này đòi hỏi phải có sự nỗ
lực, trách nhiệm để làm sáng tỏ vụ án của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Tòa án.
Trong phạm vi của luận văn này chúng tôi chỉ đề cập đến giai đoạn xét
xử vụ án hình sự mà cụ thể hơn là hoạt động xét xử vụ án hình sự của các chủ
thể có thẩm quyền, những tổ chức, những người có liên quan đến hoạt động
xét xử. Vậy xét xử vụ án hình sự là gì? Chúng có những đặc điểm gì? Với
mục đích gì và xét xử bằng cách thức nào?...Có ý kiến cho rằng: xét xử các vụ
án hình sự là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án hình sự,
là giai đoạn quan trọng nhất trong suốt quá trình tố tụng. Hoạt động xét xử là

7


tập trung cao nhất quyền tư pháp. Trong hoạt động này, Tòa án nhân danh nhà
nước quyết định tội danh, hình phạt và những vấn đề khác có liên quan đến
hành vi phạm tội. Theo Từ điển Từ và ngữ Việt Nam của tác giả Nguyễn Lân
thì: “Xét là suy nghĩ để hiểu rõ hơn cho từng gốc ngọn, cho ra vắn dài. Tìm
hiểu cân nhắc xem nên giải quyết thế nào”. Còn xét xử theo tác giả là “Tòa
án nghiên cứu tội lỗi của phạm nhân để xử án”[32, tr.314]. Từ điển Tiếng
Việt phổ thông của Viện ngôn ngữ thì: “xét” là tìm hiểu, cân nhắc kĩ để nhận
biết, đánh giá, kết luận về cái gì đó. “Xét xử” là xem xét và xử các vụ án”[55,
tr.342]. Khái niệm hoạt động xét xử trong tố tụng hình sự đi sâu vào lĩnh vực
chuyên ngành nên cũng có những cách đánh giá riêng. Tuy nhiên, bản chất
vẫn là sự tìm ra và làm rõ vấn đề, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng nhất.
Đảm bảo tính pháp chế XHCN, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người dân, đảm bảo sức mạnh cưỡng chế của nhà nước đồng thời
tuyên truyền phổ biến pháp luật một cách có hiệu quả nhất.
Vậy, xét xử vụ án hình sự là giai đoạn của tố tụng hình sự; trong đó

Tòa án kiểm tra, đánh giá toàn bộ chứng cứ, trên cơ sở đó vận dụng đúng đắn
pháp luật hình sự để xác định một người có hành vi phạm tội hay không. Nếu
phạm tội thì buộc người phạm tội phải chịu một hình phạt tương xứng với
hành vi đó của họ. Từ đó hoạt động xét xử là hoạt động của những người có
thẩm quyền tham gia vào việc xét xử vụ án hình sự.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động xét xử vụ án hình sự
Nhìn chung hoạt động xét xử có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, Đây là hoạt động của những người có thẩm quyền được nhà
nước quy định. Là những người được phân công giải quyết vụ án tại thời điểm
phiên tòa diễn ra. Cụ thể là hoạt động của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
hoạt động nói chung của các thành viên HĐXX tại tòa. Những người tham gia
khác như Kiểm sát viên, Thư ký phiên tòa, luật sư, người bào chữa, người có

8


quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bị cáo,…hỗ trợ cho việc xét xử.
Thứ hai, Hoạt động xét xử vụ án hình sự là hoạt động mang tính quyền
lực nhà nước. Những người được giao nhiệm vụ xét xử họ đại diện cho ý chí
của nhà nước nói riêng và ý chí của toàn dân nói chung. Cụ thể, kết quả xét
xử là bản án được tuyên.
Thứ ba, Hoạt động xét xử vụ án hình sự là hoạt động áp dụng các văn
bản pháp luật tố tụng hình sự và văn bản pháp luật hình sự. Tại phiên tòa xét
xử, ngoài việc tiến hành các hoạt động xét hỏi, đánh giá chứng cứ, tranh luận,
…Trong đó, hoạt động có ý nghĩa và quan trọng là áp dụng pháp luật liên
quan để giải quyết vụ án.
Thứ tư, Hoạt động xét xử vụ án hình sự là hoạt động mang tính trí tuệ,
linh hoạt. Đôi khi có những quy định của pháp luật chưa rõ thì đòi hỏi người
làm công tác áp dụng pháp luật phải nhạy bén, quyết định thế nào vừa hợp
pháp vừa hợp lý.

* Phiên tòa sơ thẩm hình sự có những đặc điểm khác so với phiên
tòa sơ thẩm dân sự và phiên tòa sơ thẩm hành chính
Thứ nhất: Phiên tòa hình sự sơ thẩm giải quyết xét xử những hành vi vi
phạm pháp luật nguy hiểm đáng kể cho xã hội và được quy định là tội phạm;
còn phiên tòa sơ thẩm dân sự được tiến hành trên cơ sở việc thực hiện quyền
yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;
Việc xét xử của Tòa án là một trong các biện pháp Nhà nước thực hiện
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Trong lĩnh vực hình sự,
việc giải quyết vụ án hình sự là giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và
người thực hiện hành vi phạm tội, cho nên phiên tòa sơ thẩm hình sự được
tiến hành trên cơ sở các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Còn
việc giải quyết vụ việc dân sự là giải quyết các quyền và nghĩa vụ dân sự
thường chỉ liên quan đến cá nhân các đương sự, trừ một số trường hợp liên

9


quan đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước.
Thứ hai: Phạm vi và diễn biến của phiên tòa hình sự sơ thẩm không
phụ thuộc vào ý chí của người phạm tội, còn tại phiên tòa dân sự sơ thẩm phụ
thuộc vào quyền tự quyết định và định đoạt của đương sự.
Trong quá trình tố tụng hình sự phát sinh, thay đổi, chấm dứt dựa trên
các quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng nên phạm vi xét xử
tại phiên tòa hình sự sơ thẩm dựa trên nội dung quyết định truy tố của Viện
kiểm sát đối với các bị can về tội danh và khung hình phạt. Theo pháp luật
của nhiều nước, tại phiên tòa hình sự, hai bên buộc tội và gỡ tội không thể
thỏa thuận với nhau về tội danh và hình phạt để chấm dứt quá trình tố tụng.
Trong án dân sự, hành chính, khi các đương sự đã thực hiện quyền khởi
kiện, họ có quyền tự quyết định về việc tự tham gia tố tụng dân sự hay ủy
quyền cho người khác, tự quyết định về phạm vi, nội dung, mức độ yêu cầu

bảo vệ quyền, lợi ích của họ.
Thứ ba: Tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, bị cáo không bắt buộc phải có
nghĩa vụ chứng minh mình vô tội; còn tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, các bên
đương sự có quyền bình đẳng trong việc cung cấp chứng cứ và chứng minh
yêu cầu.
Trong tố tụng hình sự, trách nhiệm chứng minh có tội phạm xảy ra hay
không thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng; bị can, bị cáo có quyền nhưng
không buộc phải chứng minh mình là không có tội. Vì vậy, tại phiên tòa xét
xử vụ án hình sự, nghĩa vụ chứng minh có tội phạm xảy ra hay không thuộc
về Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố.
Trong tố tụng dân sự, các đương sự là chủ thể của quan hệ pháp luật
nội dung, là người trong cuộc, biết được sự việc, đưa ra yêu cầu và liên quan
đến lợi ích của chính họ nên họ phải cung cấp cho Tòa án các chứng cứ và
chứng minh làm rõ sự việc.

10


Về cơ bản, phiên tòa sơ thẩm dân sự có những đặc điểm giống so với
phiên tòa sơ thẩm hành chính. Tuy nhiên, do bản chất của phiên tòa sơ thẩm
hành chính là giải quyết tranh chấp giữa các cá nhân, cơ quan, tổ chức với các
cơ quan nhà nước về các quyết định hành chính và hành vi hành chính của các
cơ quan nhà nước nên tính chất bình đẳng giữa các đương sự trong phiên tòa
sơ thẩm hành chính không được triệt để như trong phiên tòa sơ thẩm dân sự.
Thứ tư: Phiên tòa hình sự sơ thẩm được diễn ra tại Hội trường xét xử
mang tính trang nghiêm, thể hiện uy quyền.
Hiện nay, hệ thống Tòa án đã có quy định, trang bị Hội trường xét xử
vụ án hình sự theo mô hình chung, thống nhất trong cả nước, còn phiên tòa
xét xử dân sự, hành chính thì chưa.
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động xét xử vụ án hình sự

Hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động xét xử nói riêng đều có
những ý nghĩa cơ bản sau:
- Đảm bảo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước. Hoạt động xét xử có chất lượng tốt thể hiện quản lý
nhà nước chặt chẽ. Điều này tạo nên động lực cho các ngành, các lĩnh vực
khác cùng phát triển.
- Hoạt động xét xử quyết định tình trạng pháp lý của bị cáo. Trước khi
Tòa án tuyên án thì bị cáo vẫn là một công dân bình thường mà không phải
chịu sự ràng buộc nào của một hình phạt.
- Hoạt động xét xử nhằm đảm bảo tính thực thi của pháp luật. Những
quy định của pháp luật có cụ thể, có đi vào đời sống thiết thực không thì phụ
thuộc rất nhiều vào hoạt động của những người tiến hành xét xử. Mọi bản án
được tuyên khi có hiệu lực pháp luật đều được bảm đảm thi hành.
- Hoạt động xét xử nhằm góp phần tuyên truyền pháp luật. Ý nghĩa này
giải thích tại sao ta thường tổ chức những phiên tòa lưu động trước đây. Tại

11


phiên tòa, các hoạt động của những người trong HĐXX ảnh hưởng rất lớn đến
sự đúng đắn và tính nghiêm minh của pháp luật.
- Hoạt động xét xử đúng, hợp pháp sẽ tăng cường, củng cố sự tin cậy
của nhân dân vào đảng, nhà nước. Hoạt động xét xử bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người dân thì họ sẽ yên tâm làm ăn, yên tâm công tác. Vấn đề
này trực tiếp hoặc gián tiếp tạo thêm sức mạnh cho sự tăng trưởng kinh tế,
phục vụ đời sống nhân dân một cách có hiệu quả hơn. Đây cũng là điều mà
một xã hội văn minh, một nhà nước vững mạnh cần đạt được.
1.1.4. Yếu tố văn hóa trong hoạt động xét xử
Trong bất kỳ hoạt động gì, kể cả hoạt động xét xử vụ án hình sự thì
cũng cần phải tiến hành một cách chặt chẽ, có văn hóa, nghĩa là đòi hỏi phải

đẹp, phải đúng, thể hiện tính nhân văn. Để giúp cho hoạt động xét xử đảm bảo
tính văn hóa, thuyết phục thì cũng tùy vào cách thức tổ chức phiên tòa, tùy
thuộc vào hành vi, thái độ, kỹ năng điều hành phiên tòa của những người làm
công tác xét xử. Cách trang trí, cách ăn mặc, ngôn ngữ được sử dụng của
những người làm công tác xét xử tại phiên tòa. Trong các phiên tòa mang tính
chất tranh tụng cần phải tạo được không khí vừa thẳng thắn vừa cởi mở, phải
tạo nên một sự dân chủ, bình đẳng nhất định.
Để thể hiện tính văn hóa trong hoạt động xét xử thì ngoài những vấn đề
trên, một mảng không thể thiếu của tính văn hóa, đó là sự nhân đạo và tinh
thần nhân văn cao cả. Điều này muốn làm tốt được thì phụ thuộc chủ yếu vào
năng lực, kỹ năng và đạo đức của những người cầm cân công lý.
Những yếu tố trên đều ảnh hưởng đến tính văn hóa trong hoạt động xét
xử vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân. Chúng ta cần đi sâu và làm rõ hơn từng
vấn đề cụ thể ở mục tiếp theo.

12


1.2 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của văn hóa trong hoạt động xét
xử vụ án hình sự của tòa án nhân dân
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án
hình sự của Tòa án nhân dân
a. Khái niệm:
Phạm trù văn hóa rộng, nhiều lĩnh vực, hơn nữa ở những khía cạnh
khác nhau người ta có một cách nhìn nhận khác nhau nên đã có khoản hơn
1.000 định nghĩa về văn hóa.
Văn hóa theo nghĩa rộng thì đó là sự hiểu biết và trí tuệ của con người
và do con người tích lũy được, cùng tâm hồn cao thượng, đạo lý tốt đẹp trong
mối quan hệ của con người với đồng loại, với xã hội và tự nhiên, được xây
dựng, bồi đắp nên trong suốt chiều dài lịch sử; nó làm nên nền tảng tinh thần

của một xã hội, giữ vai trò cực kỳ quan trọng, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thì hiểu văn hóa theo 3 nghĩa: rộng, hẹp và rất
hẹp. Theo nghĩa rộng Người cho rằng: Văn hóa là toàn bộ những giá trị
vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra; theo nghĩa hẹp thì đó là những
giá trị tinh thần; còn theo nghĩa rất hẹp thì văn hóa đơn giản chỉ là trình độ học
vấn của con người. Theo định nghĩa về văn hóa của giáo trình triết học MácLeenin: “Văn hóa là tổng hòa những giá trị vật chất và tinh thần, cũng như
các phương thức tạo ra chúng, kĩ năng sử dụng các tiến bộ đó vì sự tiến bộ
của loài người và cách truyền các giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ
khác”[19, tr.159].
Tóm lại, Văn hóa là tất cả những gì tồn tại xung quanh con người, do
con người tạo ra trong suốt quá trình vận động và phát triển của xã hội.
Từ đó ta đi tìm hiểu về văn hóa trong xét xử của Tòa án nói chung và
văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân nói riêng
là gì.
13


Văn hóa xét xử là một bộ phận của văn hóa tư pháp và là một loại hình
văn hóa đặc thù. Nó chỉ hình thành, tồn tại và phát triển trong một lĩnh vực
đặc thù: đó là lĩnh vực xét xử; áp dụng cho một đối tượng chủ thể tương đối
hẹp là những người làm công tác xét xử hoặc liên quan đến xét xử. Xét ở
nghĩa rộng, văn hóa xét xử có thể được coi là một bộ phận của văn hóa ứng
xử, là một bộ phận của văn hóa tinh thần, tồn tại bên cạnh văn hóa tư tưởng,
văn hóa giáo dục, văn hóa khoa học, văn hóa nghệ thuật, văn hóa đạo đức, lễ
hội, phong tục tập quán... Còn là một bộ phận của văn hóa đạo đức, văn hóa
tinh thần, hay như hiện nay thường gọi là văn hóa phi vật thể, do đó, văn hóa
xét xử cũng có đầy đủ các chức năng của văn hóa, như chức năng giáo dục,
chức năng nhận thức, chức năng thẩm mỹ.
Như vậy, Văn hóa xét xử được hiểu là một bộ phận cấu thành của văn

hóa đạo đức, văn hóa tinh thần, văn hóa phi vật thể và là một cấu thành quan
trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án biểu hiện qua trung tâm là Hội đồng
xét xử cùng với những nội dung khác như kỹ năng và bản lĩnh nghề nghiệp.
Đối với hoạt động xét xử vụ án hình sự so với hoạt động xét xử các loại
vụ án khác như dân sự, lao động, hành chính, hôn nhân gia đình, kinh doanh
thương mại có sự khác biệt đáng kể. Sự khác biệt thể hiện ở đối tượng được
đưa ra xét xử, không gian, thời gian đưa ra xét xử, tính chất, mức độ của hành
vi cần được xem xét. Khác nhau còn ở chỗ tính bình đẳng tại phiên tòa được
diễn ra bởi diễn biến phiên tòa, bởi cách xưng hô, bởi trình tự thủ tục giữa các
phần: bắt đầu phiên tòa, phần xét hỏi, phần tranh luận.... Vì thế, văn hóa trong
hoạt động xét xử vụ án hình sự vừa có những điểm chung với văn hóa xét xử
nhưng vừa có những đặc thù riêng.
Vậy, Văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự tại Tòa án nhân
dân bao gồm những giá trị nhân đạo, tiến bộ, tích cực, nghiêm minh của hoạt
động xét xử vụ án hình sực thể hiện trong diễn biến tại các phiên tòa mà các

14


giá trị của chúng được thẩm thấu vào nhận thức và hành động tuân theo pháp
luật của người bị kết án và những cá nhân, cơ quan, tổ chức khác.
b. Đặc điểm văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự:
Văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân có
những đặc điểm riêng, khác biệt so với văn hóa trong khi xét xử các vụ án
khác như:
- Những giá trị nhân đạo, nghiêm minh trong quyết định hình phạt tại
bản án thể hiện sự khoan hồng của pháp luật hình sự nước ta. Một phiên tòa
kết thúc thể hiện tính văn hóa cao không thể với một mức án quá nặng hoặc
quá nhẹ dẫn đến sự thiếu nghiêm minh của pháp luật. Chỉ tại phần tuyên án
của phiên tòa hình sự mới có sự áp dụng hình phạt đối với người bị kết án,

còn những phiên tòa dân sự theo nghĩa rộng thì chỉ tuyên chấp nhận hoặc
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của đương sự.
- Phòng xét xử: Bản thân phòng xử án hay bản thân tòa án không tạo
nên văn hóa xét xử mà văn hóa xét xử được hình thành trong quá trình hoạt
động của Thẩm phán và Hội đồng xét xử trong bối cảnh của một phòng xử án
nhất định. Phòng xử án đối với vụ án hình sự được bố trí, trang hoàng đảm
bảo sự trang nghiêm, có bàn riêng giành cho Kiểm sát viên giữ quyền công tố
luận tội đối với bị cáo. Có bục khai báo giành riêng cho bị cáo. Môi trường đó
có đủ uy nghi để cho người tiến hành tố tụng và người tham gia phiên tòa cảm
thấy mình đang ở trong một bầu không khí trang nghiêm, trang trọng và có
văn hóa. Sự uy nghi của Tòa án phải thể hiện từ kiến trúc của Tòa án, bài trí
của phòng xử án đến bàn ghế, không gian chung của toàn cảnh.
- Thẩm phán và Hội đồng xét xử: Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là
thành viên của Hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử điều khiển phiên tòa dưới sự
chủ tọa của Thẩm phán. Mỗi một hành vi của Thẩm phán nói riêng và của Hội
đồng xét xử đều là sự chú ý của cả hội trường xử án. Bản thân Thẩm phán hay

15


Hội thẩm nhân dân cần được nhìn nhận như một chủ thể của văn hóa xét xử ở
cả hình thức và nội dung trong tổng thể môi trường mà họ làm việc. Vì vậy ở
đây đòi hỏi người Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải có văn hóa, có bản
lĩnh, có trình độ, có đạo đức và tham gia vào hoạt động giao tiếp tư pháp một
cách thuần thục theo đúng các kỹ năng nghề nghiệp. Khi xét xử vụ án hình sự
thì thái độ và cách điều hành phiên tòa của Hội đồng xét xử nghiêm trang
hơn, xưng hô phải đúng mực hơn vì xuất phát từ hành vi nguy hiểm cho xã
hội của bị cáo. Trong phiên tòa dân sự nói chung, Hội đồng xét xử điều hành
phiên tòa mang tính ôn hòa, tạo điều kiện để các bên thể hiện ý chí của mình
nhằm thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

- Trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng tại phiên tòa hình sự được quy định
chặt chẽ. Vì thế đòi hỏi Thẩm phán chủ tọa phải nắm vững, thuần thục các kỹ
năng điều khiển phiên tòa, thể hiện được tính tiến bộ, tích cực của tố tụng
hình sự. Từng nét mặt, cử chỉ, hành động của HĐXX đối với bị cáo và những
người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa đều thể hiện rõ nét tính văn hóa
pháp đình, thể hiện sự uy nghiêm của pháp luật. Bởi ở phiên tòa hình sự là
đang xét xử những người có hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội và được
coi là tội phạm.
1.2.2. Vai trò của văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của
Tòa án nhân dân
Văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân có
những tác dụng to lớn, quan trọng như:
- Văn hóa trong xét xử vụ án hình sự là sự định hướng hoạt động pháp
luật hình sự, đảm bảo tính nghiêm minh, uy quyền trong hoạt động của Tòa
án.
- Sự phát triển của văn hóa xét xử vụ án hình sự tại Tòa án đánh dấu sự
tiến bộ mang tính nhân văn trong hoạt động pháp luật hệ thống tư pháp, của
một cộng đồng xã hội, một thời đại.
16


- Văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự góp phần tạo dựng môi
trường xã hội - pháp lý lành mạnh, đảm bảo thượng tôn pháp luật, để các thế
hệ dựa trên công lý mà vươn tới hạnh phúc, tới một xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
- Thể hiện tính văn hóa khi xét xử vụ án hình sự củng cố và xác lập một
hệ thống các giá trị pháp luật cho xã hội với các khuôn mẫu ứng xử, chuẩn
mực hành vi sao cho phù hợp với các nguyên tắc, quy định của pháp luật hình
sự nước ta. Trên cơ sở đó, định hướng cho những người bị kết án và các thành
viên xã hội vươn tới tiếp thu, vận dụng các giá trị văn hóa pháp luật vào cuộc

sống; đồng thời, sáng tạo nên những giá trị pháp luật mới, tiến bộ, phù hợp
với thực tiễn của hoạt động xét xử vụ án hình sự.
- Văn hóa xét xử vụ án hình sự tác động tích cực tới đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước với yêu cầu hệ thống pháp luật phải ngày càng
phù hợp, hoàn thiện hơn, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy phạm pháp luật,
đáp ứng giá trị, lợi ích cho nhân dân, đem lại sự phồn vinh, thịnh vượng cho
đất nước. Góp phần vào việc phòng, chống tội phạm có hiệu quả hơn.
Do đó, việc xây dựng một nền pháp lý giàu tính văn hóa nhưng vẫn
đảm bảo sức mạnh cưỡng chế, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật
không phải là điều dễ dàng. “Văn hóa pháp lý theo lí tưởng của Hồ Chí Minh
là văn hóa nhân đạo. Hiểu biết pháp luật, làm theo pháp luật, do pháp luật
điều hành sẽ tạo nên chất “người” nhất trong mỗi con người”[15, tr.243].
Điều này là phù hợp với pháp luật nước ta hiện nay. Pháp luật hình sự với
mục đích là cải tạo, giáo dục con người về lại với những con người đích thực
chứ không phải là trừng phạt kẻ phạm tội.
1.3. Nội dung của văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của
tòa án nhân dân
1.3.1. Tính trang nghiêm của việc xét xử
Tính trang nghiêm của việc xét xử thể hiện ở:

17


+ Nơi xét xử (phòng xử án hoặc nơi diễn ra buổi xử như sân vận động,
Hội trường UBND cấp xã, phường….) phải được bố trí sạch sẽ, trang nghiêm,
phù hợp, thể hiện uy quyền của nhà nước. Khi nói về trụ sở và trang trí nội
thất của các cơ quan nhà nước nói chung, PGS.TS Nguyễn Minh Đoan cho
rằng “Nhà nước cần quan tâm xây dựng các cơ quan, công sở nhà nước sao
cho bảo đảm tính uy nghiêm, chắc chắc, theo kiểu “nhà cao, cửa rộng”, vị trí
của chúng phải dễ nhận thấy, tiện cho việc đi lại, tiếp xúc của nhân dân, phải

tạo ra một khung cảnh, không khí uy nghiêm (từ hình dáng bên ngoài đến cấu
trúc bên trong của tòa nhà). Việc trang trí và bố trí nội thất trong mỗi phòng
làm việc cũng phải đảm bảo sự gọn gàng, ngăn nắp, trang nghiêm” [34,
tr.197]. Hiện nay, hầu hết nơi xét xử các vụ án hình sự đều diễn ra tại phòng
xử án thuộc trụ sở Tòa án. Trước đây, xét xử lưu động thì khu vực xét xử có
thể là bãi đất trống, sân vận động…nhưng TANDTC hiện nay chủ trương
không xét xử lưu động vì hiệu quả của việc xét xử lưu động không cao, hơn
nữa ở mức độ nào đó còn vi phạm quyền con người. Tiến tới xây dựng Tòa án
điện tử nên trong tương lai, trụ sở Tòa án, phòng xử án tại Tòa án sẽ được
trang bị đầy đủ các trang thiết bị hiện đại, thông minh, đảm bảo phục vụ tốt
cho công tác xét xử của Tòa án.
+ Trang phục của những người tham gia phiên tòa (Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân, Luật sư, Bị cáo, những người tham dự phiên tòa…) phải phù
hợp với từng đối tượng. Trang phục cũng là một yếu tố của văn hóa. Người
Việt ta có câu: “Người đẹp vì lụa”. Câu nói đó cũng đúng trong hoàn cảnh
này, bởi vì trang phục góp phần làm tôn thêm vẻ đẹp bên ngoài của mỗi
người. Vẻ đẹp bên ngoài của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân đóng một vai
trò quan trọng. Vể đẹp trong trường hợp này phải thể hiện được tính uy nghi,
nghiêm trang nhưng gần gũi. Hiện nay đang có nhiều khuynh hướng khác
nhau trên thế giới về trang phục của Thẩm phán và Hội đồng xét xử. Phần lớn

18


ở các nước châu Âu và Hoa Kỳ, trang phục của Thẩm phán là áo thụng màu
đen. Ở Việt Nam, trang phục của Thẩm phán mới được ban hành là áo
choàng, gần giống áo thụng, nhưng chỉ Thẩm phán được mặc. Điều này chưa
được sự đồng tình cao, còn nhiều ý kiến cho rằng HĐXX có quyền ngang
nhau khi biểu quyết nhưng khi ngồi xét xử thì trang phục khác nhau. Các
HTND vẫn áo trắng, vestton, cà vạt, quần đen. Trong thời gian tới hệ thống

Tòa án cần nghiên cứu để đồng phục chung cho HĐXX khi xử án. Có như
vậy mới đảm bảo tính độc lập khi xét xử, ngang quyền biểu quyết giữa các
thành viên HĐXX và đảm bảo sự uy nghiêm của phiên tòa. Đối với trang
phục của Luật sư, hiện nay theo quy định chung cho tất cả các luật sư trong cả
nước, đảm bảo sự gọn gàng, tử tế. Trang phục của bị cáo, và của những người
tham gia tố tụng khác cũng như những người tham dự phiên tòa chưa có quy
định riêng mà chỉ được quy định chung là: khi đến phiên tòa phải ăn mặc bảo
đảm sự trang nghiêm, lịch sự.
+ Việc sắp xếp các vị trí nơi xét xử giữa những người tiến hành tố tụng,
những người tham gia tố tụng và những người tham dự phiên tòa cũng khoa
học. Bảo đảm theo trật tự thống nhất trong thủ tục xét hỏi và thứ tự xét hỏi
cũng như khi tranh luận tại phiên tòa.
Theo Nghị quyết 743/2004-UBTVQH11 ngày 24/12/2004: “Tại phiên
tòa xét xử vụ án hình sự, bị cáo là người được tại ngoại và bị cáo là người
đang bị tạm giam được sử dụng thường phục nhưng phải đảm bảo sự trang
nghiêm”. Sự trang nghiêm mà nghị quyết nêu ra ở đây thể hiện sự nghiêm
minh, chặt chẽ hay điều đó thể hiện tính quyền lực của nhà nước. Khổng Tử
ngày xưa đã từng dạy học trò của mình: “Việc không thành thì lễ nhạc không
được thực thi; lễ nhạc không được thực thi thì hình phạt không đúng phép;
hình phạt không đúng phép thì dân không biết đặt tay chân vào đâu”[51,
tr.42]. Quan điểm của Khổng Tử rất coi trọng lễ nhạc vì theo ông đây là con

19


đường tốt nhất để đi vào lòng dân. Ngày nay chúng ta quản lý đất nước bằng
pháp luật, thế nhưng pháp luật không thể không quy định những nghi thức,
cách thức tổ chức như thế nào. Có thể hiểu cách bố trí phòng xử án, trang
phục của người THTT tại phiên tòa là thể hiện phần LỄ. Làm tốt vấn đề này
thì hình phạt có hiệu quả hơn.

+ Hoạt động giao tiếp của những người tham gia phiên tòa đúng pháp
luật, có văn hóa. Hoạt động giao tiếp trong quá trình xét xử vụ án hình sự, từ
lời nói đến cử chỉ, hành động. Thông thường, giao tiếp xã hội người ta thường
khuyên nhau: “Lời nói chẳng mất tiền mua; Lựa lời mà nói cho vừa lòng
nhau”. Cách dùng ngôn ngữ ở hoạt động xét xử tuy không phải là một cách
giao tiếp thông thường mà có sự điều chỉnh của pháp luật. Ngôn ngữ ở đây
mang tính pháp lý đặc thù. Chính vì thế mà cần phải đảm bảo tính văn hóa
trong từng quy định, từng lời nói, cử chỉ.
1.3.2. Đảm bảo tính khách quan, vô tư, đúng pháp luật, phù hợp với
đạo đức xã hội
Tính khách quan, vô tư, đúng pháp luật, phù hợp với đạo đức xã hội thể
hiện ở:
+ Phiên tòa diễn ra đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Quy định
chung về thủ tục tố tụng tại phiên tòa hình sự được quy định từ Điều 288 đến
Điều 329 BLTTHS năm 2015. Trong đó có các quy định về sự có mặt của các
thành viên HĐXX, Thư ký phiên tòa, Kiểm sát viên, bị cáo và những người
tham gia tố tụng khác; quy định về hoãn phiên tòa; quy định về thủ tục bắt
đầu phiên tòa như khai mạc phiên tòa, cam đoan của người phiên dịch, người
làm chứng…; quy định về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa như công bố cáo
trạng, trình tự xét hỏi, trình tự phát biểu khi tranh luận, nghị án và tuyên án…
+ Đại diện Viện kiểm sát và các thành viên Hội đồng xét xử thể hiện sự
vô tư, khách quan trong quá trình xét xử. Họ là những người có trách nhiệm

20


×