Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Những tác động của giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội. Liên hệ việc đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tại cơ quan đơn vị công tác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.61 KB, 4 trang )

Câu 1: Đ/c hãy trình bày những kinh nghiệm của Đảng về xây dựng, bảo vệ
chính quyền cách mạng giai đoạn 1945 – 1946. Liên hệ việc thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc giai đoạn 2011 – 2015 tại cơ sở nơi công tác?
1. Đặt vấn đề
Cuộc kháng chiến của nhân dân cả nước ta bùng nổ khi những khả năng đàm
phán hoà bình với thực dân Pháp không còn nữa, khi thực dân Pháp buộc nhân dân ta
phải đứng dậy bảo vệ nền độc lập, tự do vừa mới giành được. Sau khi đánh chiếm
thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn (20-11-1946), gây ra hai vụ thảm sát tàn
khốc đồng bào ta ở hai phố Yên Ninh, Hàng Bún (ngày 17 và 18-12-1946)…chính
phủ Pháp ngày càng lao sâu vào con đường gạt bỏ mọi khả năng thương lượng để
xâm lược Đông Dương bằng vũ lực. Ngày 18-12-1946, chính phủ Pháp gửi tối hậu
thư đòi chiếm đóng Sở Tài Chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự và chướng ngại;
đồng thời tuyên bố nếu các yêu cầu trên không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận
thì chậm nhất vào sáng ngày 20/12/1946 quân Pháp sẽ chuyển sang hành động. Như
vậy, đến thời điểm này thực dân Pháp đã dồn nhân dân ta đến con đường cùng, nếu
không cầm vũ khí đứng dậy bảo vệ chủ quyền đất nước thì chỉ còn cách cam chịu làm
nô lệ. Dân tộc Việt Nam nay bị đặt trước hai đường: một là khoanh tay cúi đầu trở lại
nô lệ; hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do độc lập.
2. Nội dung
2.2. Lý luận
Ngay từ ban đầu Đảng ta đã nhận định rằng cuộc chiến tranh xâm lược cả nước
do Pháp gây ra và cuộc kháng chiến toàn quốc của nhân dân ta chống Pháp xâm lược
là không thể nào tránh khỏi. Xuất phát từ nhận định đó, Đảng đã có những chủ trương
và biện pháp chuẩn bị kháng chiến. Qua 16 tháng giữ vững chính quyền nhân dân và
chuẩn bị kháng chiến (9-1945 đến 12-1946), cách mạng nước ta đã lớn lên về mọi
mặt. Chính quyền nhân dân đã được củng cố, bọn phản động tay sai đế quốc đủ các
loại đã bị loại trừ ra khỏi bộ máy nhà nước. Lực lượng vũ trang nhân dân trưởng
thành về cả số lượng và chất lượng. Đảng đã tổ chức được lực lượng lãnh đạo của
mình ở các địa phương, trong các đoàn thể quần chúng, trong hệ thống chính quyền,
trong các lực lượng vũ trang. Vì thế, nhân dân ta không những không bị bất ngờ trước
cuộc tiến công xâm lược của thực dân Pháp, mà còn có thể chủ động phá âm mưu của


chúng. Ngày 18 và 19-12-1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị mở
rộng, Hội nghị nhận định thực dân Pháp đã cắt đứt mọi con đường đàm phán và cố
tình gây ra cuộc chiến tranh xâm lược cả nước ta. Vì hoà bình mà nhân dân ta phải
nhân nhượng.Nhưng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Rõ ràng là
chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Hội nghị vạch ra đường lối cơ bản của
cuộc kháng chiến. Đường lối đó được ghi trong chỉ thị Toàn dân kháng chiến của
Trung ương Đảng ngày 22 tháng 12 năm 1946.
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ chính quyền nhà nước trong những năm
1945-1946 đã để lại những kinh nghiệm có ý nghĩa căn bản đối với sự nghiệp cách
mạng của toàn Đảng, toàn dân:


Một là nhanh chóng xác lập cơ sở pháp lý và tính hợp hiến của chính quyền
nhà nước, chăm lo xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền nhân dân từ trung ương
đến cơ sở.
Hai là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của toàn dân để
xây dựng và bảo vệ những thành quả của chính quyền cách mạng, Đồng thời tnah thủ
thời gian chuẩn bị những điều kiện thiet yếu để sẵn sàng đối phó với cuộc chiến tranh
có thể sảy ra.
Ba là triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, thực hiện sự nhân
nhượng có nguyên tác về chính sách ngoại giao thêm bạn bớt thù.
Bốn là đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong mọi hoàn cảnh,
nhất là trong tình hình có nhiều Đảng phái đối lập và sự chống phá của các loại kẻ
thù.
2.2. Liên hệ
* Đánh giá thực trạng thực hiện NQTW8, khóa 11
Đất nước ta đang đứng trước những nguy cơ thách thức về cả mọi mặt kinh tế,
chính trị, an ninh quốc phòng đòi hỏi Đảng ta phải có những chủ trương biện pháp
đúng đắn sáng suốt để lãnh đạo lực lương caacsh mạng để giữ vững nền độc lập dân
tộc mà các thế hệ trước đã hi sinh sương máu để giành lại. Trước tình hình đó Đảng ta

đã ban hành Nghị quyết 28-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới. Nghị quyết thể hiện sâu sắc sự phát triển tư duy nhận thức lý luận của Đảng về
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Nghị quyết được ban hành trên cơ sở thành tựu,
kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn qua gần 30 năm đổi mới đất nước, nhất là kế thừa
kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là Nghị quyết chuyên đề về nhiệm vụ BVTQ của
Đảng ta. Trong đó, xác định rõ mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, nhiệm vụ
và các giải pháp thực hiện BVTQ trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực,
hội nhập quốc tế. Từ những mục tiêu quan điểm đó Đảng bộ và nhân dân xã Huy
Giáp cũng đã có những biện pháp cụ thể để tuyên truyền các nội dung của NQ đến
toàn thể nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã thông qua các hình thức như hội nghị,
học tập thu hoạch về nhận thức NQ. Qua việc triển khai thực hiện đã nhận được sự
quan tâm sâu sắc của cấp ủy Đảng chính quyền địa phương và đông đảo nhân dân
tham gia. Hàng năm cấp ủy Đảng ra Nghị quyết lãnh đạo về thực hiện cac nhiệm vụ
phát triển ktxh, anqp trong giai đoạn 2011-2015 đã đạt được những thành quả nhất
định góp phần nâng cao cải thiện đời sống nhân dân. Bên cạnh đó Đảng ủy xã cũng
thường xuyên quan tâm chỉ đạo các bộ phận chuyên môn, đội ngũ cán bộ, công chức
thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ được giao, các ngành đoàn thể chính trị thực hiện
có hiệu quả công tác tuyên truyền vận động nhân dân chấp hành tốt các chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, mỗi người dân có trách nhiệm bảo vệ
và giữ gìn tổ quốc nền độc lạp dân rộc, phát huy quyền làm chủ của nhân.
* Nguyên nhân đạt được:
Nhờ có những quan điểm đúng đắn đó đã củng cố và tọa dựng được lòng tin
của nhân dân, trong các hoạt động về xây dựng và bảo vệ chính quyền địa phương


luôn nhận được sự tham gia nhiệt tình của đông đào quần chúng nhân dân, từ đó hiệu
quả hoạt động của hệ thống chính trị xã Huy Giáp luôn đạt hiệu quả cao.
* Hạn chế:
Công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm. Công tác giáo dục

chính trị tư tưởng, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, giảng dạy và học tập chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa đáp ứng yêu cầu. Nội dung sinh hoạt đảng
ở nhiều nơi còn đơn điệu, hình thức, hiệu quả chưa cao. Năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của không ít các chi bộ đảng còn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu. Công
tác tổ chức, cán bộ và quản lý cán bộ, đảng viên còn yếu kém. Nhiều cán bộ, đảng
viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu
hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra,
giám sát và kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái. Trình độ
nhận thức của nhân dân chưa được đồng đều giữa các thôn xóm, ý thức cảnh giác với
những âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch của một bộ phận nhân dân chưa
được nêu cao thường xuyên.
* Nguyên nhân hạn chế:
Do tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường, những hoạt động lợi dụng sự
phát triển của khoa học công nghệ thông tin, nhiều vấn đề mới, phức tạp phát sinh từ
thực tiễn nhưng chưa được lý giải và xử lý kịp thời, hiệu quả. Các thế lực thù địch,
phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình", lợi dụng các vấn đề
"dân chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn giáo và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác
của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình; cổ súy cho lối sống hưởng thụ, thực dụng, ích
kỷ, cá nhân chủ nghĩa; đồng thời, cấu kết với các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị
hoạt động ráo riết, chống phá cách mạng ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn.. do bản
thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng
không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào
chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn
trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân.
* Giải pháp(gắn với phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng, nâng cao
đời sống nhân dân):
Củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước; đổi mới mạnh mẽ, nâng
cao chất lượng công tác cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, quản lý
của chính quyền các cấp đối với nhiệm vụ BVTQ; xác định rõ trách nhiệm của người
đứng đầu các cấp ủy, chính quyền, tổ chức trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ. Thường

xuyên bám sát cơ sở, nắm chắc tình hình, chủ động xử lý đúng đắn, kịp thời mọi tình
huống gây mất ổn định chính trị - xã hội”; “củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong
Đảng, lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận”.
3. Kết luận
Giữ vững chính quyền nhân dân nước ta trong những năm 1945-1946 làm nổi
bật kinh nghiệm về cách mạng, biết tự bảo vệ trong bối cảnh lịch sử cực kỳ khó khăn,
phức tạp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch HCM, cùng một lúc nhân dân ta
phải thực hiện nhiều nhiệm vụ lớn. Kháng chiến chống xâm lược giữ vững nền độc


lập, trấn áp các thế lực phản động , xây dựng và củng cố chính qyền, xây dựng chế độ
mới, phát triển kt-vh để từng bước ổn định đơi sống nhân dân. Những chủ trương,
biên pháp đúng đắn đó đã khơi dậy sức mạnh to lớn của cả dân tộc, do đó chẳng
những đã bảo vệ được chính quyền mà còn đưa cách mạng tiếp tục phát triển vững
chắc và giành thế chủ động ngay từ ban đầu cuộc kháng chiến chống thực dân pháp
xâm lược.



×