Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

THỰC TRẠNG BỆNH hô hấp và một số yếu tố LIÊN QUAN của NGƯỜI LAO ĐỘNG TIẾP xúc TRỰC TIẾP với bụi SILIC ở một số cơ sở sản XUẤT TỈNH THÁI NGUYÊN năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.41 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

--------------------

TẠ THỊ KIM NHUNG

THỰC TRẠNG BỆNH HÔ HẤP VÀ MỘT SỐ YẾU
TỐ
LIÊN QUAN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TIẾP XÚC
TRỰC TIẾP VỚI BỤI SILIC Ở MỘT SỐ CƠ SỞ
SẢN XUẤT TỈNH THÁI NGUYÊN NĂM 2018

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC


Hà Nội – 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

--------------------

TẠ THỊ KIM NHUNG

THỰC TRẠNG BỆNH HÔ HẤP VÀ MỘT SỐ YẾU


TỐ
LIÊN QUAN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TIẾP XÚC
TRỰC TIẾP VỚI BỤI SILIC Ở MỘT SỐ CƠ SỞ
SẢN XUẤT TỈNH THÁI NGUYÊN NĂM 2018

Chuyên ngành: Y học dự phòng
Mã số: NT 62727601
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

Hướng dẫn khoa học:


TS Nguyễn Ngọc Anh


Hà Nội - 2019LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn này, em đã
được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, nhà trường, gia đình và bạn bè.
Trước hết, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất và lòng kính trọng của
mình tới TS Nguyễn Ngọc Anh – giảng viên chính của Bộ môn Sức khỏe nghề
nghiệp, Trường Đại học Y Hà Nội, cô đã trực tiếp giảng dạy, tận tình hướng dẫn
và tạo mọi điều kiện giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận
văn này.
Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới PGS.TS. Lê Thị
Thanh Xuân – Trưởng bộ môn Sức khỏe nghề nghiệp và GS.TS. Lê Thị Hương
– viện trưởng Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học
Y Hà Nội, chủ nhiệm đề tài “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học phân tử, yếu tố
nguy cơ và ứng dụng kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán sớm bệnh bụi phổi silic
tại Việt Nam” – Mã số: KC.10.33/16-20 đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ em trong
quá trình thu thập và sử dụng số liệu để viết luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học, Bộ
môn Sức khỏe nghề nghiệp Trường Đại học Y Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Con vô cùng biết ơn bố mẹ, em gái và những người thân trong gia đình đã
luôn bên cạnh con để con có điều kiện học tập, phấn đấu và trưởng thành như
ngày hôm nay. Em cảm ơn anh Văn, người bạn đặc biệt của em đã luôn tin tưởng,
khuyến khích và động viên em trong suốt thời gian em hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi cũng xin cảm ơn chân thành những người bạn, những người
anh em đã ủng hộ, động viên tôi trong thời gian tôi học Nội trú.
Hà Nội, ngày 06 tháng 6 năm 2019
Học viên
(ký và ghi rõ họ tên)
Tạ Thị Kim Nhung


LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Tạ Thị Kim Nhung, học viên lớp Bác sĩ nội trú khóa 42, Trường Đại học
Y Hà Nội, chuyên ngành Y học dự phòng, xin cam đoan:

1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS.
Nguyễn Ngọc Anh – giảng viên chính của Bộ môn Sức khỏe nghề nghiệp,
Trường Đại học Y Hà Nội.

2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã được công bố
tại Việt Nam

3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung thực và
khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi nghiên cứu
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.


Hà Nội, ngày 06 tháng 6 năm 2019
Người viết cam đoan
(ký và ghi rõ họ tên)

Tạ Thị Kim Nhung


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CN

Công nhân

CNHH

Chức năng hô hấp

ILO

International Labor Organization
(Tổ chức Lao động Quốc tế)

MTLĐ

Môi trường lao động

NLĐ

Người lao động


RLTK

Rối loạn thông khí

SL

Số lượng

TCCP

Tiêu chuẩn cho phép

WHO

World Health Organization
(Tổ chức Y tế Thế giới)


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC HÌNH


10

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hiện nay, người dân trên toàn thế giới đặc biệt là người dân ở các nước đang
phát triển đang phải đối mặt với nguy cơ gia tăng các bệnh đường hô hấp do khói,
bụi, hơi khí độc phát sinh trong các ngành công nghiệp khác nhau [1],[2]. Phơi
nhiễm nghề nghiệp với bụi có thể gây ra nhiều mối nguy hiểm cho sức khỏe bao
gồm khởi phát các bệnh hô hấp cấp tính hoặc mạn tính và suy giảm chức năng hô
hấp. Điển hình có thể kể đến một số ngành nghề như phơi nhiễm thạch anh nghề
nghiệp, với bụi xi măng, bụi gỗ, bụi bông, bụi xay xát…cũng làm tăng nguy cơ
mắc các bệnh hô hấp nghề nghiệp ở NLĐ [3],[4],[5],[6],[7],[8].
Việc tiếp xúc với bụi trong MTLĐ, đặc biệt là những ngành nghề phát sinh
nhiều bụi hô hấp cũng làm tăng nguy cơ mắc các bệnh hô hấp nghề nghiệp ở
NLĐ. Theo thống kê của Tổ chức lao động Quốc tế (ILO), ước tính mỗi năm có
khoảng 2,02 triệu người chết có nguyên nhân từ bệnh nghề nghiệp, con số này
tương đương với khoảng 5.500 người chết mỗi ngày. ILO cũng ước tính có tới 160
triệu trường hợp mắc mới các bệnh không gây tử vong liên quan tới nghề nghiệp
mỗi năm [9],[10]. Ở Việt Nam, tính đến năm 2017 đã khám được 30/34 bệnh nghề
nghiệp. Tuy nhiên mới chỉ có dưới 10 bệnh được giám định nghề nghiệp, trong đó
chủ yếu là các bệnh điếc nghề nghiệp, bệnh hô hấp nghề nghiệp [11].
Thái Nguyên là tỉnh có ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng: luyện
gang, luyện thép… phát triển khá mạnh. Đây là ngành công nghiệp gây ra ô nhiễm
bụi trong MTLĐ, đặc biệt là bụi silic (SiO2). Các vấn đề về tình hình bệnh tật liên
quan đến MTLĐ vẫn đang là mối lo ngại không nhỏ trong NLĐ cũng như các nhà
quản lý lao động của địa phương. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, việc nghiên
cứu về ảnh hưởng của MTLĐ lên các bệnh hô hấp của NLĐ là khá phổ biến, tuy
nhiên với tình trạng mắc bệnh ngày càng gia tăng phức tạp như hiện nay thì việc tiến
hành thêm một nghiên cứu để làm rõ ảnh hưởng của MTLĐ phát sinh nhiều bụi silic
đến việc gia tăng tình trạng mắc các bệnh hô hấp ở NLĐ là cần thiết. Kết quả nghiên


11


cứu sẽ định hướng cho các cơ quan chức năng và doanh nghiệp đề ra những chính
sách phù hợp nhằm bảo vệ sức khỏe, phòng chống bệnh hô hấp nghề nghiệp cho
NLĐ. Vì vậy, đề tài: “Thực trạng bệnh hô hấp và một số yếu tố liên quan của
người lao động tiếp xúc trực tiếp với bụi silic ở một số cơ sở sản xuất tỉnh Thái
Nguyên năm 2018” được tiến hành với hai mục tiêu sau:

1. Mô tả thực trạng mắc bệnh hô hấp của người lao động tiếp xúc trực tiếp với
bụi silic ở một số cơ sở sản xuất tỉnh Thái Nguyên năm 2018.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan với tình trạng mắc bệnh hô hấp của
người lao động tiếp xúc trực tiếp với bụi silic ở một số cơ sở sản xuất tỉnh
Thái Nguyên năm 2018.


12

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1.Một số định nghĩa, khái niệm được sử dụng trong nghiên cứu
1.1.1. Người lao động
Theo Luật số: 10/2012/QH13 – Bộ luật Lao động, người lao động được định
nghĩa là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng
lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động.

1.1.2. Bụi silic tự do (SiO2)
Hội nghị quốc tế về bệnh bụi phổi lần thứ nhất đã khẳng định bụi silic tự do là
căn nguyên của bệnh bụi phổi silic. Hàm lượng SiO 2 trong bụi càng cao, nguy cơ
mắc bệnh càng nhiều, bệnh càng điển hình .
SiO2 là một trong những thành phần cấu tạo của vỏ trái đất, chiếm 27,7%.
Chính vì vậy silic có mặt ở khắp mọi nơi, đặc biệt trong các loại chất khoáng, đá
trầm tích, cát… và gặp phần lớn trong các ngành, nghề sản xuất.

Silic hiếm khi tồn tại ở dạng nguyên tử, nó thường kết hợp với oxy dưới dạng
dioxyd silic (SiO2) bao gồm 2 thể:

- Thể silic không kết hợp được gọi là silic tự do (hay silic oxyd, silic dioxyd,
anhydric silic, quartz, free silica) ở 2 dạng: tinh thể đa hình (free crystalline silica)
hoặc vô định hình (amourphous silica). Trong đó: dạng vô định hình chiếm 10%,
không hoạt động, ít độc hại và không gây bệnh; dạng tinh thể chiếm 90% là dạng
gây bệnh, theo thứ tự hay gặp là alpha, quartz, cristobatite, tridimite.
Đặc điểm cấu trúc và hoạt tính bề mặt có liên quan tới độc tính của bụi:
quartz có cấu trúc 4 cạnh có khả năng gây xơ hoá cao, trong khi cristobatite cấu trúc
8 cạnh không gây xơ hoá.
Tính chất hydrat của silic tự do dẫn đến tạo thành các nhóm OH trên bề mặt
bụi và liên kết này sẽ phản ứng với phospholipid của màng tế bào, gây tổn thương
tế bào này. Nếu bề mặt của silica được bao bọc bởi các chất muối nhôm, chất p204,
độc tính của SiO2 sẽ bị giảm. Bụi silic có gắn muối nhôm không gây được bệnh bụi
phổi silic thực nghiệm.


13

Thể kết hợp: là silic dioxyd (SiO2) kết hợp với các cation khác như Mg, Ca, Na,
K, Fe,… tạo thành các silicat như Feldspars (K, Na, Ca), Kaolin, Mica…
Tiêu chuẩn cho phép áp dụng trong việc xác định nồng độ các loại bụi có
chứa silic (silic dioxyt tự do - SiO2) và đánh giá ô nhiễm bụi có chứa silic trong
không khí của môi trường lao động [12].
Bảng 1.1. Trị số nồng độ tối đa cho phép bụi hạt
Nhóm Hàm lượng silic
bụi
1
2

3
4

(%)
> 50 đên 100
> 20 đến 50
> 5 đến 20
≤5

Nồng độ bụi toàn phần

Nồng độ bụi hô hấp

(hạt/cm3)
Lấy theo
Lấy theo ca
thời điểm
200
600
500
1000
1000
2000
1500
3000

(hạt/cm3)
Lấy theo thời
Lấy theo ca
điểm

100
300
250
500
500
1000
800
1500

Bảng 1.2. Trị số nồng độ tối đa cho phép bụi khối lượng
Nhóm

Hàm lượng silic

bụi

(%)

1
2
3
4

100
> 50 đến < 100
> 20 đến 50
≤ 20

Nồng độ bụi toàn phần


Nồng độ bụi hô hấp

(hạt/cm3)
Lấy theo
Lấy theo ca
thời điểm
0,3
0,5
1,0
2,0
2,0
4,0
3,0
6,0

(hạt/cm3)
Lấy theo
Lấy theo ca
thời điểm
0,1
0,3
0,5
1,0
1,0
2,0
2,0
4,0

Một số nghề, công việc thường tiếp xúc với bụi silic:


-

Khoan, đập, khai thác quặng đá có chứa silic tự do.
Tán, nghiền, sàng và thao tác khô các quặng hoặc đá có chứa silic tự do.
Đẽo, mài đá có chứa silic tự do.
Sản xuất và sử dụng các loại đá mài, bột đánh bóng và các sản phẩm có chứa silic tự
do.

- Chế biến chất carborundum, chế tạo thủy tinh, đồ sành sứ, các đồ gốm khác, gạch
chịu lửa.

- Công việc đúc có tiếp xúc với bụi cát (khuôn mẫu làm sạch vật đúc…).
- Các công việc mài, đánh bóng, rũa khô bằng mài đá có chứa silic tự do.


14
- Làm sạch hoặc làm nhẵn bằng tia cát.
- Và các nghề/công việc khác có tiếp xúc với bụi silic [13],[14],[15],[16],[17].
Các tác động bất lợi chính của việc tiếp xúc với silic tự do bao gồm bệnh bụi
phổi silic, viêm phế quản mãn tính, rối loạn mô liên kết, ung thư phổi và làm tăng
nguy cơ mắc lao ở những người mắc bệnh bụi phổi silic [15],[18],[19].

1.1.3. Các bệnh đường hô hấp
∗ Phân chia giải phẫu đường hô hấp trên và dưới:

Hình 1.1. Phân chia giải phẫu hệ hô hấp

∗ Các bệnh đường hô hấp trên:
- Bao gồm các bệnh: viêm mũi họng, viêm họng, viêm amidal, viêm thanh quản,…
- Các triệu chứng thường gặp của các bệnh đường hô hấp trên là: ngứa, chảy

nước mắt, nghẹt mũi, chảy mũi, hắt hơi, ho, đau họng, sốt,…

∗ Các bệnh đường hô hấp dưới:
- Bao gồm các bệnh: hen phế quản, viêm phế quản, viêm phế quản – phổi,
viêm phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, lao phổi, các bệnh bụi phổi, u phổi,
ung thư phổi…

- Các triệu chứng thường gặp: ho, khạc đờm, sốt, khó thở, đau ngực…
1.1.4. Các thông số đánh giá chức năng hô hấp


15

Hình 1.2. Đồ thị các chỉ tiêu hô hấp ngoài
Đo chức năng hô hấp (CNHH) là kỹ thuật thường được dùng trong chẩn đoán,
đánh giá mức độ nặng và theo dõi điều trị của các bệnh hô hấp. Kỹ thuật giúp ghi
lại những thông số liên quan đến hoạt động của phổi, từ đó giúp đánh giá hội chứng
rối loạn thông khí: tắc nghẽn, hạn chế và hỗn hợp.

∗ Một số chỉ số hô hấp ký chính:
• FEV1 (Forced Expiratory Volume in One Second): thể tích khí thở ra gắng
sức trong 1 giây đầu tiên là thể tích không khí có thể thở ra trong giây đầu
tiên của thì thở ra gắng sức. FEV1 là chỉ số quan trọng, dễ đo, ít dao động,
hay dùng để xác định và đánh giá mức độ tắc nghẽn.
• FVC (Force vital capacity): dung tích sống gắng sức là tổng thể tích khí thở ra
gắng sức trong một lần thở.

• VC (Vital capacity): dung tích sống. VC là một chỉ số quan trọng để xác định
hội chứng hạn chế.
• Chỉ số Tiffineau FEV1/VC bình thường ≥ 70%.

• Chỉ số Gaensler FEV1/FVC bình thường ≥ 70%.


16

Hình 1.3. Đồ thị của FEF

∗ Các giá trị sau đây giúp chẩn đoán các hội chứng rối loạn thông khí phổi:
Hội chứng

%FVC

%FEV1
Gaensler
TLC
Bình thường/
Bình thường/
Hạn chế
< 80
< 80
giảm
Tăng
Tắc nghẽn
≥ 80
< 80
< 70
≥ 80
Hỗn hợp
< 80
< 80

< 70
< 80
Bình thường
≥ 80
≥ 80
≥ 70
≥ 80
- Chẩn đoán mức độ hạn chế theo tiêu chuẩn của ATS/ERS dựa vào FVC :
• Nhẹ: %FVC = 60 – < 80% trị số lý thuyết.
• Vừa: %FVC = 40 – < 60% trị số lý thuyết.
• Nặng: %FVC = < 40% trị số lý thuyết.
- Chẩn đoán mức độ tắc nghẽn đường thở
Theo ATS/ERS dựa vào FEV1 [20],[21]:







Nhẹ: %FEV1 ≥ 70 % trị số lý thuyết
Trung bình: %FEV1 = 60 - 69% trị số lý thuyết
Nặng vừa: %FEV1 = 50 – 59% trị số lý thuyết
Nặng: %FEV1 = 35 – 49% trị số lý thuyết
Rất nặng: %FEV1 = < 35% trị số lý thuyết
Theo GOLD 2018 (Giá trị FEV1 sau test hồi phục phế quản) [22]
• Giai đoạn 1 – Nhẹ: FEV1 ≥ 80% trị số lý thuyết,
• Giai đoạn 2 – Trung bình: 50% ≤ FEV1 < 80% trị số lý thuyết,



17
• Giai đoạn 3 – Nặng: 30% ≤ FEV1< 50% trị số lý thuyết,
• Giai đoạn 4 – Rất nặng: FEV1 < 30% trị số lý thuyết.
1.1.5. X – quang các bệnh bụi phổi theo phân loại quốc tế ILO
∗ Đám mờ nhỏ:
Kích thước đám mờ:
• Đám mờ tròn đều: được sử dụng các ký hiệu là p, q, r; đám mờ nhỏ p là đám
mờ có kích thước nhỏ hơn 1,5mm; đám mờ nhỏ q là đám mờ có kích thước từ
1,5 đến 3,0mm; đám mờ nhỏ r là đám mờ có kích thước từ 3,0 đến 10,0mm.
• Đám mờ không tròn đều: được sử dụng các ký hiệu là s, t và u; đám mờ nhỏ
không tròn đều s là đám mờ có kích thước chỗ rộng nhất đến 1,5mm; đám
mờ nhỏ không tròn đều t là đám mờ có kích thước chỗ rộng nhất từ 1,5mm
đến 3,0mm; đám mờ nhỏ không tròn đều u là đám mờ có kích thước chỗ

-

rộng nhất từ 3,0 đến 10,0mm.
Mật độ đám mờ: tùy theo mật độ của đám mờ, phân loại của ILO - 2000 chia ra làm 4

-

phân nhóm chính: 0, 1, 2, 3; mỗi phân nhóm chính bao gồm 3 phân nhóm phụ.
∗ Đám mờ lớn:
Đám mờ lớn loại A là đám mờ có kích thước từ 10,0 đến 50mm hoặc tổng kích

-

thước của những đám mờ lớn cộng lại không quá 50mm.
Đám mờ lớn loại B là đám mờ có kích thước trên 50mm nhưng không vượt quá diện
tích vùng trên của phổi phải hoặc tổng kích thước của những đám mờ lớn hơn 50mm


-

nhưng không vượt quá diện tích vùng trên của phổi phải.
Đám mờ lớn loại C là đám mờ có kích thước lớn hơn diện tích vùng trên phổi phải
hoặc tổng kích thước của các đám mờ vượt quá diện tích vùng trên phổi phải.
∗ Các bất thường khác có thể thấy được trên X-quang bao gồm:
Xơ vữa quai động mạch chủ.
Dày màng phổi vùng đỉnh.
Sự kết dính các đám mờ nhỏ.
Canxi hóa các nốt không phải nốt mờ của bệnh bụi phổi.
Canxi hóa các nốt là nốt mờ của bệnh bụi phổi.
Tâm phế mạn.
Co kéo các cơ quan trong lồng ngực.
Vôi hóa hạch bạch huyết rốn phổi hoặc trung thất.
Hạch rốn phổi to.
Hình ảnh các dải và đường mờ trên nhu mô phổi.


18
-

Hình ảnh tràn khí, tràn dịch màng phổi.
Các bệnh khác hoặc bất thường khác.

1.2. Thực trạng mắc bệnh hô hấp của người lao động tiếp xúc trực tiếp với bụi
silic ở một số ngành nghề

1.2.1. Trên thế giới
Việc nghiên cứu tình hình sức khỏe, bệnh tật của NLĐ trên thế giới đã được đề

cập từ lâu. Hypocrates là người đầu tiên mô tả các dấu hiệu bệnh lý như suy nhược
cơ thể, khó thở ở những công nhân luyện kim. Công nghệ khai khoáng, tinh chế kim
loại phát triển là nguyên nhân dẫn đến nhiều bệnh nghề nghiệp nguy hiểm, đáng chú
ý là các bệnh đường hô hấp do NLĐ trong ngành luyện kim phải tiếp xúc với rất
nhiều bụi trong MTLĐ, đặc biệt là bụi silic. NLĐ ngành luyện kim và rất nhiều
ngành nghề khác có tiếp xúc trực tiếp với bụi silic trong MTLĐ đều có nguy cơ mắc
các bệnh hô hấp nghề nghiệp như bệnh bụi phổi silic.
Theo báo cáo từ chương trình SWORD ở Anh, trong khoảng thời gian từ năm
1996 đến 2017, có 216 trường hợp mắc bệnh bụi phổi silic được báo cáo thuộc 8
nhóm nghề có tiếp xúc trực tiếp với bụi silic trong MTLĐ. Tuổi trung bình của
những người được báo cáo là 61 tuổi (23 – 89), với phần lớn (98%) là nam giới,
65% trường hợp được chẩn đoán ở những người trong độ tuổi lao động (<65 đối với
nam và <60 đối với nữ). Từ năm 2006 đến 2017, 81% người bị bệnh bụi phổi
silic được báo cáo là có triệu chứng lâm sàng [23].
Năm 2018 Hoy R. F. và cộng sự đã chỉ ra rằng có mối liên quan giữa tình
trạng mắc bệnh bụi phổi silic với nghề nghiệp của NLĐ làm việc trong các cơ sở
chế tác đá [24].
Năm 2014 Perez – Alonso A. và cộng sự đã chỉ ra rằng việc sử dụng vật liệu xây
dựng mới như thạch anh đã làm tăng tỷ lệ nhiễm silic do phơi nhiễm nghề nghiệp [25].
Năm 2019, nghiên cứu của Pascual del Pobil y Ferré M.A. và cộng sự đã chỉ
ra rằng tuổi trung bình của những NLĐ tiếp xúc với thạch anh nhân tạo là
46,62 ± 13,33 tuổi, thời gian phơi nhiễm trung bình là 11,00 ± 3,58 năm [17].
Năm 2017, một nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ mắc bệnh bụi phổi silic ở


19

người lao động đang khai thác đá bán quý ở Brazil là 28%, tuổi trung bình của các
đối tượng nghiên cứu là 40,1 ± 11,9 tuổi, tuổi trung bình của những NLĐ mắc bệnh
bụi phổi silic là 47,5 ± 9,9 tuổi, tuổi nghề trung bình của những NLĐ mắc bệnh bụi

phổi silic là 28,3 ± 10,4 năm [26].
Công nhân mài đá mã não ở Iran (2014): tuổi trung bình là 31,2 ± 10,1 tuổi,
thời gian tiếp xúc với bụi silic trung bình là 13 ± 8,2 năm có nguy cơ mắc các bệnh
về đường hô hấp, đặc biệt đối với bệnh bụi phổi silic và viêm phế quản mãn tính.
Tỷ lệ mắc bệnh bụi phổi silic ở những người lao động mài đá mã não là 12,9% [27].
Nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích gộp của Yang Y. và cộng sự chỉ ra
rằng, phơi nhiễm với bụi nghề nghiệp là 1 trong 12 yếu tố nguy cơ mắc bệnh COPD
OR = 1,79 (95% CI: 1,15 – 2,79) [28].
Fell A. K. M. và Nordby K. C. (2017) đã tiến hành một nghiên cứu tổng quan
hệ thống giữa yếu tố phơi nhiễm trong ngành sản xuất xi măng và tác dụng hô hấp
mạn tính ở NLĐ từ 594 tài liệu tham khảo và 26 bài báo cho thấy: các nghiên cứu
cắt ngang chỉ ra rằng chức năng thông khí phổi giảm khi nồng độ bụi ở MTLĐ đạt
từ 4,5 mg bụi toàn phần/ m3 không khí và 2,2 mg bụi hô hấp /m3 không khí, chỉ số
FEV1/FVC giảm 1 – 6% so với lý thuyết. Các nghiên cứu thuần tập cho thấy
FEV1/FVC hàng năm giảm 0,8 – 1,7% đối với công nhân tiếp xúc với bụi [29].
Tsao Y. C.và cộng sự (2017) đã mô tả, so sánh các đặc điểm lâm sàng và tiền
sử phơi nhiễm với bụi silic của các công nhân ở một số cơ sở sản xuất gốm sứ ở Đài
Loan. Kết quả nghiên cứu cho thấy, 21,3% NLĐ có tổn thương đám mờ nhỏ có mật
độ thuộc phân nhóm chính nhóm 3 và tổn thương đám mờ lớn trên phim X – quang
phổi ILO, 78,7% NLĐ có tổn thương đám mờ nhỏ thuộc phân nhóm chính nhóm 1,
nhóm 2 và không có tổn thương đám mờ trên phim X – quang. Có 52,9% NLĐ cố
rối loạn thông khí hạn chế với FVC < 80%, 49,3% NLĐ có FEV1 < 80% và 25,8%
NLĐ có chỉ số 75% [30].
Một nghiên cứu theo dõi sau 4 năm về tỷ lệ mắc bệnh bụi phổi silic ở những
công nhân làm cát cho thấy: tỷ lệ mắc bệnh bụi phổi silic tăng từ 55,4% lên 95,9%,
82% số đối tượng có tiến triển trên phim X – quang, và 66% các đối tượng có suy giảm


20


chức năng hô hấp (FVC) sau 4 năm theo dõi [31].
Nghiên cứu của Gizaw Z. và cộng sự năm 2016 ở Ethiopia chỉ ra rằng tỷ lệ mắc
các triệu chứng hô hấp mạn tính ở công nhân nhà máy xi măng Dejen là 62,9%, với tỷ
lệ các triệu chứng ho mạn tính là 24,5%, thở khò khè mạn tính là 36,9%, khạc đờm
mạn tính là 24,5%, khó thở mạn tính là 38,6% và đau ngực là 21,0% [32].
Năm 2015 Oni T. và Ehrlich R. đã mô tả một ca bệnh lâm sàng mắc bệnh bụi
phổi silic, kết quả đo CNHH năm 2013 của bệnh nhân này là FEV1: 1,32 lít (= 50% lý
thuyết), FVC: 2,24 lít (68% lý thuyết), và tỷ số FEV1 / FVC là 58%. So sánh kết quả
này với kết quả đo CNHH năm 2000: FEV1 đã giảm 47% và FVC giảm 41% [33].
Masoud Zare Naghadehi và cộng sự đã nghiên cứu tỷ lệ mắc bệnh bụi phổi
silic ở các công ty khai thác than ở Iran, kết quả chỉ ra rằng tỷ lệ NLĐ có triệu
chứng ho, khó thở, khạc đờm, đau ngực, mệt mỏi, sút cân lần lượt là 68%, 63%,
37%, 32%, 5% và 26%. Tỷ lệ NLĐ có tổn thương đám mờ nhỏ nhu mô phổi và đám
mờ lớn nhu mô phổi trên phim X – quang lần lượt là 26% và 10,5% [34].
Laney AS chỉ ra rằng, những người lao động làm việc trong các mỏ than có
nguy cơ mắc các bệnh bụi phổi than, bệnh bụi phổi silic, viêm phổi do bụi hỗn hợp,
xơ hóa lan tỏa liên quan đến bụi (có thể bị nhầm lẫn với xơ phổi vô căn) và bệnh
phổi tắc nghẽn mạn tính [35].
Năm 2013 Abakay A. và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu nhằm xác định
tỷ lệ rối loạn chức năng hô hấp trong số các kỹ thuật viên phòng thí nghiệm nha
khoa làm việc trong điều kiện nồng độ bụi silic cao. Kết quả cho thấy chức năng
thông khí phổi bình thường chiếm 65,9%, RLTK hạn chế là 22,4%, và RLTK tắc
nghẽn là 11,7% [36].
Năm 2011 Hochgatterer K. và cộng sự nghiên cứu trên 994 NLĐ về chức
năng phổi của những NLĐ tiếp xúc với bụi cho thấy FVC, FEV1, MEF50 của
NLĐ giảm đáng kể so với tiêu chuẩn của Áo (FVC giảm 0,4 lít; FEV1 giảm 0,5
lít). Thời gian phơi nhiễm với bụi càng tăng thì sự suy giảm càng nhiều. Khoảng
một nửa số NLĐ tiếp xúc với bụi thạch anh có MEF50 thấp hơn so với những



21

NLĐ khác (p = 0,02) [37].
Cũng trong năm 2011 Zou J. và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu cắt
ngang về thay đổi dấu ấn sinh học huyết thanh liên quan đến suy giảm chức năng
thông khí phổi ở công nhân than. Kết quả cho thấy chức năng thông khí phổi (FVC,
FEV1, FEF50, FEF75, FEF25 – 75%) ở các thợ mỏ có bệnh phổi nghề nghiệp giảm so
với các thợ mỏ khỏe mạnh (p <0,05) [38].
Năm 2010, Santos C. và cộng sự đã thực hiện phân tích hồi cứu CNHH của 58
bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh bụi phổi silic ở bệnh viện phổi của Đại học
Coimbra trong thời gian 10 năm, kết quả cho thấy có 36 bệnh nhân có RLTK tắc
nghẽn, 8 bệnh nhân có RLTK hạn chế và 12 bệnh nhân có RLTK hỗn hợp [39].
Akgun M. và cộng sự (2008) nghiên cứu trên NLĐ thổi thủy tinh ở Thổ Nhĩ
Kỳ cho thấy: hầu hết các đối tượng (83%) có triệu chứng hô hấp, đặc biệt là khó thở
(52%), đau ngực (46%), FEV1 giảm, 53% đối tượng có mật độ đám mờ từ 1/0 trở
lên trên phim X – quang phổi theo tiêu chuẩn của ILO [40].
Một nghiên cứu cắt ngang đánh giá mức độ phơi nhiễm bụi silic và bệnh hô
hấp của 440 công nhân đá làm đá granit của Gumersindo Rego năm 2008 cho
thấy: có 77 NLĐ (17,5%) bị bệnh bụi phổi silic, 18 NLĐ (4,1%) có rối loạn thông
khí tắc nghẽn [41].
Năm 2005 Tonori Y. và cộng sự đã nghiên cứu và chỉ ra rằng những công nhân
tiếp xúc với bui silic tự do có %VC và %FEV1 thấp hơn so với những công nhân
không tiếp xúc với bụi silic tự do [42].
Theo Chen M., Tse LA., tiếp xúc với bụi silic còn làm tăng nguy cơ ung thư
thanh quản ở NLĐ (OR = 1,39, 95% CI: 1,17 – 1,67) [43].

1.2.2. Tại Việt Nam
Theo Nguyễn Văn Thuyên và Hoàng Việt Phương (2014), tỷ lệ mắc bệnh bụi
phổi silic nghề nghiệp là 21,35%, trong đó có 17,43% là bệnh bụi phổi silic đơn
thuần, bệnh bụi phổi silic phối hợp với lao chiếm 3,92%. Tỷ lệ rối loạn hô hấp

chung của CN là 22,88%, chủ yếu là rối loạn thông khí hạn chế chiếm 15,47%, rối
loạn thông khí hỗn hợp là 5,01% và rối loạn thông khí tắc nghẽn chiếm 2,4% [44].


22

Theo Nguyễn Duy Bảo (2013) cho thấy nồng độ bụi ở 2 nhà máy thuộc Công
ty Gang thép Thái Nguyên cao hơn nồng độ tối đa cho phép 5 – 30 lần, với tỷ lệ bụi
silic tự do (22,4 – 26,4%) và tỷ lệ bụi hô hấp (49,5 – 53,3%) cao dễ dẫn đến nguy
cơ cao CN bị RLTK phổi và mắc bệnh bụi phổi silic [45].
Theo Nguyễn Ngọc Sơn, Lê Hoài Cảm (2012) nghiên cứu trên những CN mắc
bệnh bụi phổi silic tại xí nghiệp tàu thủy Sài Gòn, kết quả cho thấy: có 43/171 CN
lao động trực tiếp có RLTK phổi, chiếm tỷ lệ 25,23%. Trong đó chủ yếu là RLTK
hạn chế (15,3%), RLTK tắc nghẽn (6,4%) và RLTK hỗn hợp (3,5%) chiếm tỷ lệ ít
hơn [46].
Theo Lê Minh Dũng (2012) nghiên cứu đặc điểm bệnh lý đường hô hấp của
công nhân tiếp xúc trực tiếp với bụi silic tại một số nhà máy xí nghiệp quốc phòng
chỉ ra rằng công nhân tiếp xúc với bụi silic mắc nhiều loại bệnh đường hô hấp: bệnh
viêm mũi dị ứng, viêm họng mạn tính, viêm phế quản mạn tính, bệnh bụi phổi silic
có tỷ lệ cao hơn so với nhóm chứng (p<0,05). Bệnh bụi phổi silic mắc chủ yếu là
thể nhẹ 1/0 (16 trường hợp). Tỷ lệ rối loạn thông khí hạn chế 18,3%, rối loạn thông
khí hỗn hợp 18,7% cao hơn nhóm chứng rõ rệt (p<0,05) [47].
Theo nghiên cứu của Phạm Thúc Hạnh (2010) về CNHH của bệnh nhân bụi
phổi silic kết quả cho thấy: hầu hết bệnh nhân có RLTK tắc nghẽn chủ yếu ở các
phế quản nhỏ (68,9%); 12,4% bệnh nhân có RLTK hỗn hợp; 2,1% bệnh nhân có
RLTK hạn chế; 16,6% bệnh nhân có chức năng thông khí bình thường. Trong
nghiên cứu, chủ yếu bệnh nhân mắc bệnh ở các thể nhẹ và vừa (1p, 1q, 2p, 2q),
đang ở tuổi lao động (43,2 ± 5,35 tuổi) [48].
Theo Huỳnh Thanh Hà và Trịnh Hồng Lân (2008) tỷ lệ nhiễm bụi phổi silic
của NLĐ làm việc tại một số cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng ở Bình Dương là

12,0%, 22,13% NLĐ có chức năng thông khí bất bình thường, trong đó hội chứng
hỗn hợp chiếm tỷ lệ cao nhất 11,27%, hội chứng hạn chế 10,22%, hội chứng tắc
nghẽn chỉ chiếm 0,64%. Kết qủa chụp XQ phổi thẳng cho thấy tổn thương 0/1 p/p là
9,73%, tổn thương nhẹ 1/0 p/p có tỉ lệ 1,74%, chưa phát hiện trường hợp nào nặng
(có 7 trường hợp vừa có biểu hiện nên đo chức năng hô hấp và chụp XQ (14,58%).
Nồng độ bụi toàn phần và bụi hô hấp ở hầu hết các vị trí lao động đều vượt tiêu


23

chuẩn cho phép rất nhiều [49].
Theo Đào Xuân Vinh và cộng sự (2006) nghiên cứu những CN ở các cơ sở sản
xuất vật liệu xây dựng có thời gian lao động tiếp xúc với môi trường làm việc có
nồng độ bụi silic vượt quá tiêu chuẩn cho phép liên tục ít nhất là 5 năm gồm: nhóm 1:
CN khai thác đá, sản xuất gạch chịu lửa; nhóm 2: CN sản xuất xi măng ở các phân
xưởng thuộc các công ty sản xuất xi măng; nhóm 3: CN làm nghề đổ, đúc, khoan bê
tông, thợ cơ khí, sản xuất kính,… Kết quả quả cho thấy tỷ lệ mắc bệnh bụi phổi silic
của CN sản xuất vật liệu xây dựng 3,8% và tỷ lệ mắc khác nhau giữa các nhóm nghề.
Nhóm CN khai thác đá, sản xuất gạch chịu lửa chiếm cao nhất 6,4% [50].
Theo Nguyễn Trường Sơn (2003) về CNHH của CN đang trực tiếp làm việc
tại các cơ sở đóng tàu, sửa chữa tàu biển, có tuổi nghề từ 11 – 26 năm cho thấy chỉ
số VC, VC%, Tiffeneau của CN giảm rõ rệt so với bình thường, chủ yếu là RLTK
tắc nghẽn và RLTK hạn chế [51].
Cũng theo một nghiên cứu khác của Nguyễn Trường Sơn (2003) nghiên cứu
ảnh hưởng của bệnh bụi phổi silic đến chức năng phổi và khả năng lao động của CN
Xí nghiệp đá số II Hải Phòng kết quả cho thấy chức năng thông khí phổi của CN bị
bệnh giảm sút rõ rệt so với người bình thường, thể hiện cả 2 mức độ RLTK hạn chế
và RLTK tắc nghẽn. Chưa thấy có sự liên quan giữa tuổi nghề và tình trạng suy
giảm chức năng phổi của công nhân bị bệnh (hệ số tương quan r = - 0,07), tức khả
năng mắc bệnh, mức độ nặng nhẹ của bệnh không phụ thuộc vào thời gian tiếp xúc

với bụi silic [52].
Theo Nguyễn Thị Bích Liên (2003) nghiên cứu các triệu chứng lâm sàng và
thăm dò chức năng hô hấp trên 83 CN Công ty đá ốp lát và xây dựng Bình Định có
tuổi nghề >5 năm (86% nam, 14% nữ) cho thấy: có 2 triệu chứng cơ năng nổi bật là
đau ngực, khó thở, sau đó là khạc đờm, ho và ho ra máu. Tỷ lệ rối loạn CNHH
chung ở CN là 38,6%. Tỷ lệ mắc bệnh bụi phổi silic là 9,6%, với đa số CN mắc
bệnh ở thể nhẹ [53].
Theo Nguyễn Bạch Ngọc và cộng sự (2003) nghiên cứu bệnh bụi phổi silic
trong CN khai thác đá ở Bình Định đã phát hiện và chẩn đoán xác định 19 CN mắc


24

bệnh bụi phổi silic chiếm tỷ lệ 3,23% chủ yếu là thể 1/0 p. Những CN này đa số tuổi
đời còn trẻ, tuổi nghề thấp (6 – 20 năm). Những CN làm việc dưới 5 năm chưa ai bị
mắc bệnh bụi phổi silic [54].
Theo Nguyễn Đắc Vinh (2002) nghiên cứu một số chỉ số thông khí phổi ở CN
khai thác đá mắc bệnh bụi phổi silic cho thấy tỉ lệ CN mắc bệnh bụi phổi silic giảm
chỉ số FVC (71,15%), FEV1(32,69%) và FEV1/FVC(26,92%) nhiều hơn những CN
không mắc bệnh bụi phổi silic (tương ứng: 1,85%; 5,56% và 4,32%). Tỉ lệ người
RLTK phổi ở những CN mắc bệnh bụi phổi silic rất cao (84,62%), chủ yếu là RLTK
hạn chế (57,70%), tiếp đến là RLTK tắc nghẽn (13,46%) và RLTK hỗn hợp
(13,46%) [55].
Theo Lê Thị Hằng và cộng sự (2002) điều tra CN tại các cơ sở sản xuất vật
liệu xây dựng tiếp xúc với nồng độ bụi silic, thời gian tiếp xúc liên tục ít nhất 5 năm
cho thấy tỷ lệ mắc bệnh bụi phổi silic là 7,8%, nhóm CN sản xuất gạch chịu lửa và
khai thác đá chiếm 13,2%; tỷ lệ mắc thể nghi ngờ là 6,4%. Tuổi nghề dưới 10 năm
có 17,1% mắc bệnh. Tỷ lệ bụi hô hấp chứa trong bụi toàn phần > 50% thì có 19,3%
số đối tượng tiếp xúc mắc bệnh và chiếm 4,7% khi tỷ lệ bụi hô hấp chứa trong bụi
toàn phần dưới 45% [56].


1.3.

Một số yếu tố liên quan đến tình trạng mắc bệnh hô hấp và mức độ bệnh của người
lao động tiếp xúc trực tiếp với bụi silic ở một số ngành nghề
1.3.1. Trên thế giới
Có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng giới tính, tuổi đời, trình độ học vấn, tiền sử
mắc các bệnh hô hấp mạn tính, tiền sử hút thuốc lá/ thuốc lào của NLĐ, vị trí làm
việc của NLĐ, tiền sử tiếp xúc, việc sử dụng các biện pháp chống bụi của NLĐ và
phân xưởng … là những yếu tố có liên quan đến tình trạng mắc các bệnh hô hấp của
NLĐ có tiếp xúc trực tiếp với bụi trong MTLĐ, đặc biệt là các bệnh bụi phổi, phế
quản nghề nghiệp.
Kết quả của một nghiên cứu thuần tập được thực hiện trên những người lao
động khai thác sắt của Lai H. và cộng sự (2018) cho thấy tỷ lệ tử vong ở những
người có tiếp xúc với bụi silic mà hút thuốc lá thì cao hơn những người có tiếp xúc


25

với bụi silic mà không hút thuốc lá [57].
Năm 2017, một nghiên cứu đã chỉ ra rằng một số yếu tố nguy cơ của bệnh bụi
phổi silic là: tuổi, học vấn, tiền sử hút thuốc, tiền sử nghề nghiệp (tuổi nghề, số giờ
làm việc trong ngày, sử dụng bảo hộ lao động), vị trí lao động và sử dụng các biện
pháp chống bụi tại nơi làm việc. Tỷ lệ mắc bệnh bụi phổi silic ở những người đang
hút thuốc hoặc có tiền sử hút thuốc tăng 1,85 lần so với những người không hút
thuốc (95% CI: 1,41 – 2,43; p <0,001). Tỷ lệ mắc bệnh bụi phổi silic ở nhóm NLĐ
có tuổi nghề 5 – 10 năm cao gấp 1,70 lần (95% CI: 1,54 – 1,87; p <0,001); tỷ lệ mắc
bệnh bụi phổi silic ở nhóm tuổi nghề 10 – 20 năm cao gấp 2,21 lần (95% CI: 1,90 –
2,56; p <0,001); và tỷ lệ mắc bệnh ở NLĐ có tuổi nghề > 30 năm cao gấp 4,87 lần
(95% CI: 3,63 61,56; p <0,001).[26].

Nghiên cứu của Ferrante G. năm 2017 cũng chỉ ra rằng: trình độ học vấn, tiền
sử hút thuốc, tình trạng thừa cân,béo phì là những yếu tố có liên quan mật thiết với
các bệnh hô hấp mạn tính [58].
Một nghiên cứu trên những công nhân than ở Úc kết luận rằng các triệu chứng
và biểu hiện của bệnh bụi phổi nghề nghiệp thay đổi tùy thuộc vào thành phần của
bụi hít, thời gian tiếp xúc, giai đoạn bệnh và các yếu cơ địa của đối tượng [59].
Nghiên cứu của Gizaw Z. và cộng sự năm 2015 ở Ethiopia chỉ ra rằng các
triệu chứng hô hấp mạn tính ở công nhân nhà máy xi măng Dejen liên quan đáng kể
đến giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn, vị trí lao động, tuổi nghề, được tập huấn về
vệ sinh lao động hô hấp, hút thuốc và tiền sử mắc bệnh hô hấp mạn tính trước đó
của người lao động. Mối liên quan có ý nghĩa thống kê cả về phân tích đơn biến và
đa biến (p <0,05). Nam giới có nguy cơ mắc các triệu chứng hô hấp mạn tính cao
gấp 2,07 lần so với nữ giới (OR = 2,07, 95% CI = 1,18 -3,63). Tuổi từ 45 tuổi trở
lên có nguy cơ mắc các triệu chứng hô hấp mạn tính cao gấp 4,20 lần so với công
nhân dưới 30 tuổi (OR = 4,20, 95% CI = 1,94 - 9,12). Những công nhân có trình độ
học vấn từ lớp 8 trở xuống có nguy cơ mắc các triệu chứng hô hấp mạn tính cao hơn
4,07 lần so với những người lao động có trình độ học vấn trở lên (OR = 4.07, 95%
CI = 1.86, 8,92). Công nhân có tuổi nghề trên 5 năm có nguy cơ mắc các triệu


×