Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

Thực trạng bệnh vùng quanh răng,nhu cầu điều trị và một số yếu tố liên quan của người cao tuổi tại tỉnh cần thơ năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 67 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây do chất lượng cuộc sống người dần
dần được nâng cao, tuổi thọ trung bình của người dân và số lượng người cao tuổi tăng
nhanh trong cộng đồng. Dân số NCT đã trở thành một trong những vấn đề được coi là
quan trọng ở nhiều nước trong những thập niên qua [1]. Tính tới cuối năm 2010, Việt
Nam đã có hơn 8 triệu NCT (chiếm 9,4% dân số).
Như vậy thì vấn đề già hóa dân số gắn liền với chăm sóc sức khỏe người cao
tuổi cần phải được quan tâm đúng mức. Trong đó công tác chăm sóc sức khoẻ răng
miệng cho người cao tuổi của ngành Răng Hàm Mặt nói riêng là một nhiệm vụ rất
quan trọng. Mặc dù có nhiều nỗ lực trong phòng chống và nâng cao sức khỏe răng
miệng, bệnh răng miệng hiện vẫn có xu hướng gia tăng ở mọi lứa tuổi trong đó có
người cao tuổi. Ở một số kết quả nghiên cứu cho thấy thực trạng mắc bệnh răng
miệng ở người cao tuổi tại các vùng miền của Việt Nam đang ở mức cao, nhu cầu
điều trị theo thực trạng bệnh là rất lớn [2],[3]. Theo kết quả điều tra sức khoẻ răng
miệng toàn quốc năm 2000 trên 999 người 45 tuổi trở lên thì có tới 55% chưa đi
khám răng miệng lần nào. Theo Phạm Văn Việt và cộng sự nghiên cứu năm 2004
cho biết tỷ lệ sâu răng của người cao tuổi tại Hà Nội là 55,1%, tỷ lệ mắc bệnh quanh
răng là 96,1% [2]. Nguyên Châu Thoa và cộng sự, năm 2010 nghiên cứu về tình
trạng sức khỏe răng miệng của NCT ở miền Nam Việt Nam cho thấy NCT có trung
bình mất răng khoảng 8 chiếc /người [4].
Bệnh quanh răng và sâu răng là một trong những nguyên nhân chính gây mất
răng ở người cao tuổi. Bệnh quanh răng có liên quan đến vệ sinh, thực hành chăm
sóc răng miệng cá nhân cũng như mức sống, mức độ hiểu biết. Bệnh gây ảnh
hưởng trực tiếp đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống người cao tuổi. Từ lâu, các
nhà khoa học đã có những nghiên cứu về mối liên quan giữa bệnh quanh răng và
các bệnh toàn thân như tim mạch, đái tháo đường, chứng đột quỵ… Một loạt

nghiên cứu được thực hiện để tìm yếu tố nguy cơ toàn thân cho bệnh nha chu
và đã được Genco tóm lược 1996 [5]. Các nghiên cứu dịch tễ học đã cho thấy




2

đái háo đường làm tăng nguy cơ mắc bệnh nha chu. Các tài liệu hiện có đều
nhấn mạnh sức khỏe răng miệng đối với người mắc bệnh đái tháo đường cho
thấy bệnh viêm nha chu tăng ở những người kiểm soát bệnh kém. Những
bệnh nhân kiểm soát được bệnh đái tháo đường có tình trạng nha chu giống
người khỏe mạnh [6].
Bệnh quanh răng là một bệnh rất phổ biến. Theo điều tra sức khỏe răng
miệng toàn quốc năm 2001, tỷ lệ người có bệnh quanh răng ở nước ta rất cao, lên
tới 96,7% [7]. Đặc biệt bệnh có tỷ lệ mắc tăng dần theo tuổi: Số người trên 45 tuổi
có ít nhất 3 vùng lục phân lành mạnh chỉ chiếm có 5% [7]. Đối với một nước có xu
hướng già hóa dân số một cách nhanh chóng như Việt Nam thì những điều tra về
bệnh này ở đối tượng người cao tuổi thật sự vô cùng đáng quan tâm. Người cao tuổi
với những thay đổi do lão hóa trên mô nha chu và tổ chức cứng của răng, kèm theo
thói quen vệ sinh răng miệng chưa thích hợp càng làm tăng tỉ lệ mắc bệnh quanh
răng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, đánh giá tình trạng các bệnh quanh răng và

thực hành chăm sóc răng miệng ở NCT chưa có hệ thống, vấn đề đào tạo cán bộ
đến tổ chức mạng lưới dịch vụ chưa được quan tâm triển khai thoả đáng.
Xuất phát từ những vấn đề đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Thực trạng bệnh vùng quanh răng, nhu cầu điều trị và một số yếu tố liên
quan của người cao tuổi tại tỉnh Cần Thơ năm 2015”,với các mục tiêu sau đây:
1. Mô tả thực trạng bệnh vùng quanh răng của người cao tuổi ở tỉnh Cần
Thơ, năm 2015.
2. Xác định nhu cầu và phân tích một số yếu tố liên quan tới bệnh răng
miệng của người cao tuổi trên.

Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm giải phẫu và mô học vùng quanh răng
1.1.1. Giải phẫu vùng quanh răng


3

Cement răng
Dây chằng quanh răng

xương ổ răng
Rãnh lợi

Lợi tự do
Lợi dính
Niêm mạc miệng
Bờ lợi
Lõm dưới túi lợi
Vùng tiếp giáp niêm mạc


4

Hình 1.1: Giải phẫu răng và vùng quanh răng [8]
Gồm có 4 phần:
 Lợi.
 Dây chằng quanh răng.
 Xương ổ răng.
 Xương răng.
1.1.1.1. Lợi

Lợi là vùng đặc biệt của niêm mạc miệng, được giới hạn ở phía cổ răng
bởi bờ lợi và phía cuống răng bởi niêm mạc miệng. Ở phía ngoài của cả hai
hàm và phía trong của hàm dưới, lợi liên tục với niêm mạc miệng bởi vùng
tiếp nối niêm mạc di động, ở phía khẩu cái lợi liên tục với niêm mạc khẩu cái
cứng. Lợi được chia thành 2 phần: lợi dính và lợi tự do [9]:
* Lợi tự do: Gồm nhú lợi và đường viền lợi.
Nhú lợi là phần lợi che kín các kẽ răng. Có một nhú phía ngoài, một
nhú phía trong, giữa hai nhú là một vùng lõm.
Đường viền lợiôm sát cổ răng, và cùng với cổ răng tạo nên một khe sâu
khoảng 0,5-3 mm, gọi là rãnh lợi.
Hình thể của nhú lợi và đường viền lợi phụ thuộc hình thể của chân
răng và xương ổ răng, nó còn phụ thuộc vào sự liên quan giữa các răng và vị
trí của răng trên xương hàm.
* Lợi dính: là phần lợi bám dính vào chân răng và xương ổ răng. Bề
rộng của lợi dính có ý nghĩa quan trọng đối với việc giữ cho vùng quanh răng
bình thường.
- Tổ chức lợi: bao gồm biểu mô và tổ chức đệm.
Phủ bề mặt lợi dính và mặt ngoài viền lợi là lớp biểu bì sừng hoá. Từ
sâu ra nông gồm 4 lớp tế bào: TBđáy, TB gai, TB hạt và TB sừng hoá.


5

Phủ mặt trong rãnh lợi là biểu mô không sừng hoá, liên tiếp với phía
trên bởi biểu mô sừng hoá của lợi tự do và phía dưới bởi biểu mô bám dính.
Biểu mô bám dính là biểu mô ở đáy rãnh lợi bám dính vào răng. Lớp biểu mô
này không sừng hoá, không có các lồi ăn sâu vào tổ chức đệm ở dưới, và bám
vào men răng, xương răng bởi các bán Desmosom.Tổ chức đệm: là tổ chức
liên kết nhiều sợi keo ít sợi chun. Những sợi keo xếp thành những bó sợi lớn
tạo nên hệ thống sợi của lợi, trong đó đáng chú ý là các nhóm sợi răng- lợi,

xương ổ răng- lợi và nhóm sợi vòng.
1.1.1.2. Dây chằng QR
Dây chằng quanh răng là mô liên kết có cấu trúc đặc biệt,nối liền răng
với xương ổ răng. Dây chằng quanh răng bao gồm các tế bào, sợi liên kết,
chất căn bản và mạch máu, thần kinh [10].
Nó giữ răng trong ổ răng và đảm bảo sự liên quan sinh lý giữa răng vàổ
răng nhờ những TB liên kết đặc biệt trong tổ chức dây chằng. Bề rộng của
dây chằng quanh răng khoảng 0,15- 0,21mm. Tuỳ theo sự sắp xếp và hướng
đi của các bó sợi mà người ta phân ra thành 5 nhóm sau:
* Nhóm cổ răng (hay nhóm mào ổ răng): Gồm những bó sợi đi từ mào xương ổ
răng đến xương răng gần cổ răng.
* Nhóm ngang: Gồm những sợi đi từ xương răng ở chân răng thẳng góc với trục
của răng đến xương ổ răng.
* Nhóm chéo: Gồm những bó sợi đi từ xương ổ răng chếch xuống dưới phía
chân răng, bám vào xương răng. Nhóm này chiếm số lượng nhiều nhất trong
dây chằng QR.
* Nhóm cuống răng: Gồm những bó sợi đi từ xương răng ở cuống răng, toả
hình nan quạt để đến bám vào xương ổ răng vùng cuống răng.
* Nhóm giữa các chân răng: Đối với răng nhiều chân còn có các bó sợi đi từ kẽ
giữa 2 hay 3 chân răng đến bám vào vách xương ổ răng. Giữa các bó sợi trên
là tổ chức liên kết lỏng lẻo, trong đó người ta thấy có TB tạo xương răng, TB


6

xơ non, TB xơ già, TB liên kết dạng bào thai, những đám biểu bì Mallassez.
Ngoài ra còn có mạng lưới rất giàu các mạch máu, bạch mạch, thần kinh.
Theo Weski, những lưới này có tác dụng như một cái hãm nước. Trong tổ
chức liên kết của dây chằng thường thấy có 3 thành phần là: TB chất tựa, sợi,
chất nền.Dây chằng QR cấu tạo bởi những sợi Collagen, những sợi đó lồng

vào trong xương răng, chùm lên chân răng giải phẫu và từ đó chạy vào lá đáy
của túi lợi, màng xương phủ huyệt răng và xương ổ răng, xương răng của răng
bên cạnh, quan trọng nhất là trực tiếp vào trong xương ổ răng riêng biệt.
1.1.1.3. Xương ổ răng
Xương ổ răng là một bộ phận của xương hàm gồm có:
* Bản xương: có cấu tạo là xương đặc. Bản xương ngoài là xương vỏ ở mặt ngoài và
mặt trong của xương ổ răng, được màng xương che phủ. Còn bản xương trong (gọi
là lá sàng) nằm liền kề với chân răng, có nhiều lỗ thủng (lỗ sàng).
* Xương xốp: nằm giữa hai bản xương trên và giữa các lá sàng [9].
Hoạt động chuyển hoá của xương ổ răng rất mạnh. Quá trình tạo xương
liên tục, nếu xương khoẻ, chiều cao của mào xương ổ răng phát triển liên tục
phù hợp với sự mòn sinh lý của răng, tức là khớp cắn không bị giảm, kể cả ở
lứa tuổi cao. Can xi xương ở trong xương, giữa các sợi là những tinh thể
apatit, ngoài việc đảm bảo độ cứng của xương nó còn là nguồn dự trữ mức
canxi trong máu. Thành phần hữu cơ của xương là chất keo và những TB như
tạo cốt bào, TB xương đa nhân. Xương ổ răng cũng có quá trình tiêu và phục
hồi luôn cân bằng thì xương luôn chắc và đảm bảo chức năng. Nếu mất thăng
bằng, quá trình tiêu xương lớn hơn phục hồi thì dẫn đến tiêu xương (gặp ở
quá trình bệnh lý QR, sang chấn khớp cắn…).
1.1.1.4. Xương răng


7

Xương răng bọc phần ngà răng ở chân răng. Là một dạng đặc biệt của
xương, trong đó thành phần vô cơ và hữu cơ chiếm tỷ lệ ngang nhau, nhưng
không có hệ thống Havers và mạch máu [9].
Xương răng bao phủ chân răng và đi qua phần men răng, phủ trên bề
mặt men ở cổ răng. Bề dày của xương răng thay đổi theo tuổi, tuỳ vùng và
chức năng, dày nhất là vùng cuống răng, mỏng nhất là vùng cổ răng. Zander

nghiên cứu và đo bề dày xương răng giữa các vùng khác nhau của chân răng,
giữa người già và người trẻ cho thấy: sự đắp dày thêm của xương răng xảy ra
từ từ và đều đặn theo tuổi. Ngoài ra còn do các yếu tố khác như: kích thích
của quá trình viêm, hoá chất vùng cuống răng và do chuyển hoá.
Về cấu trúc, xương răng gồm 2 loại: Xương răng không có tế bào và
xương răng có tế bào. Xương răng không có tế bào là lớp đầu tiên được tạo ra
trong quá trình tạo ngà ở chân răng, phủ lên chân răng bởi xương răng thứ
phát (hay xương răng có tế bào). Quá trình tạo xương răng có tế bào nhanh,
những tế bào tạo xương răng non bám chắc và giữ lại tới lúc phát sinh lớp
xương răng mới và tế bào xương răng được trưởng thành. Sự bồi đắp xương
răng liên tục, suốt đời, ở cuống răng thì nhanh hơn ở cổ răng, những lớpđược
bồi đắp tạo điều kiện cho sự bám chắc của những dây chằng mới giữ cho bề
rộng vùng QR, xương răng không bị tiêu sinh lý và thay đổi cấu trúc như
xương. Về mặt chức phận, xương răng tham gia vào sự hình thành hệ thống
cơ học nối liền răng với xương răng, cùng với xương ổ răng giữ bề rộng cần
thiết cho vùng QR, bảo vệ ngà răng và tham gia sửa chữa ở một số trường hợp
tổn thương ngà chân răng.
1.1.2. Tuần hoàn quanh răng
Răng, dây chằng QR và xương ổ răng thường có một mạch máu nuôi
dưỡng. Mỗi răng và khe QR được nuôi dưỡng bởi một động mạch nhỏ là một


8

nhánh của động mạch chính trong xương tới lỗ cuống răng, trước khi vào lỗ
cuống răng nó tách ra các nhánh vào trong xương ổ răng, một nhánh vào khe
QR nuôi các dây chằng QR. Nhánh chính đi vào tuỷ răng qua lỗ cuống răng,
động mạch tuỷ răng không có nhánh nối với bên ngoài. Còn trong xương ổ răng
thì có nhiều mạng nối chằng chịt với nhau, ở vùng dây chằng QR cũng vậy, có
những nhánh xuyên qua bản xương thành trong huyệt răng nối với mạng lưới

tuần hoàn trong khe QR. Tĩnh mạch đi song song với động mạch và đặc biệt là
mạng lưới nối tĩnh mạch ở vùng QR tập trung quanh lỗ cuống răng.
1.1.3. Thần kinh vùng quanh răng: Có hai loại:
- Các sợi giao cảm chạy song song với mạch máu, điều hoà máu chảy
trong các mao mạch.
- Các sợi cảm giác hầu hết là các nhánh có Myelin của nhánh II hoặc
nhánh III của dây thần kinh tam thoa. Vùng dây chằng QR giàu mạng lưới
mạch máu và cũng giàu các sợi cảm giác. Người ta tìm thấy có hai loại thần
kinh tận cùng: là có vỏ bọc và không có vỏ bọc ở đầu tận cùng. Nhánh tận
đầu tự do đáp ứng với cảm giác đau, trong khi đó đầu có vỏ bọc đáp ứng với
thay đổi áp lực; ở những đầu có vỏ bọc cấu trúc phức tạp hơn nhiều so với ở
da và niêm mạc miệng, hơn nữa phần lớn nó đáp ứng với khả năng nhạy cảm
của dây chằng quanh răng.
1.2. Một số đặc điểm biến đổi sinh lý, bệnh lý vùng quanh răng ở người
cao tuổi
1.2.1. Biến đổi sinh lý chung
Lão hóa đưa đến những thoái triển biến đổi dần và không phục hồi về
hình thái và chức năng ở các cơ quan, khả năng thích nghi với những biến đổi
của môi trường xung quanh ngày càng bị rối loạn [11],[12],[13].
Lão hóa bắt đầu từ da: Da cứng và nhăn nheo, tăng lớp mỡ dưới da ở
bụng, ngực, đùi, mông.


9

Tóc chuyển bạc, trước ít và chậm sau nhiều và nhanh hơn.
Mắt điều tiết kém đi gây lão hóa và thị lực giảm. Thính lực kém đi.
Hoạt động chức năng các cơ quan, phủ tạng giảm dần, bài tiết dịch vị
kém ăn uống kém ngon và chậm tiêu, hoạt động chức năng gan, thận cũng
giảm dần, hệ thống nội tiết yếu đi.

Sự thích ứng với những thay đổi ngoại cảnh kém dần như thời tiết
nóng, lạnh. Chức năng hô hấp giảm, chức năng tim mạch kém thích ứng với
lao động nặng.
Giảm khả năng làm việc trí óc, nhanh mệt, tư duy nghèo dần, liên
tưởng kém, trí nhớ giảm hay quên, kém nhạy bén, chậm chạp.
Thời gian phục hồi vết thương kéo dài, xương dễ gãy do chứng loãng
xương. Khả năng đáp ứng của cơ thể trước các kháng nguyên ngoại lai, vi khuẩn
giảm dễ dẫn đến nhiễm trùng và nổi lên là hiện tượng tự miễn [10].
Tất cả những lão hóa đó là nguyên nhân làm cho sức khỏe người cao
tuổi giảm sút và hay mắc các bệnh mãn tính và cấp tính.
1.2.2. Biến đổi ở mô niêm mạc miệng
* Niêm mạc miệng:
Biểu mô phủ và mô liên kết ở khoang miệng teo và mỏng, giảm mối
liên kết giữa các protein và Mucoprotein theo tuổi. Tăng số lượng tương bào
và hậu quả là giảm tính đàn hồi và tăng sự nhạy cảm của mô đối với sang
chấn. Tổ chức niêm mạc phủ khoang miệng ở người cao tuổi có những biến
đổi dạng phù nề, các nhú biểu mô mất dần làm cho vùng tiếp giáp giữa biểu
mô và mô liên kết bị xẹp xuống làm cho lớp biểu mô dễ bị bong trước.Thời
gian thay thế tế bào biểu mô kéo dài số lượng tế bào Langerhans ít đi. Vì các
biến đổi nêu trên, nên bề mặt của niêm mạc miệng kém chịu đựng trước các


10

kích thích như nóng, lạnh, sức đề kháng với nhiễm trùng giảm đi, niêm mạc
dễ bị tổn thương và khi bị tổn thương thì cũng lâu lành.


11


* Niêm mạc lưỡi:
Các nghiên cứu cho thấy các gai lưỡi có hiện tượng giảm và teo. Số gai
hình dây của lưỡi giảm làm cho lưỡi có vẻ trơn láng, gai lưỡi hình đài bị teo
nhiều nhất với số lượng giảm hoặc mất dần các nụ vị giác gây ra những rối loạn
vị giác với các chất ngọt, chua, mặn….Nói chung, niêm mạc lưỡi miệng nhợt
nhạt, teo mỏng do giảm chất gian bào, giảm khả năng tăng sinh tế bào và giảm
đáp ứng miễn dịch tại chỗ cũng như toàn thân thường thấy ở người cao tuổi.
1.2.3. Biến đổi ở khớp thái dương hàm, xương hàm, tổ chức cứng của răng
* Khớp thái dương hàm:
Ở khớp thái dương hàm thường gặp sự xơ hóa và thoái hóa khớp, thể
tích lồi cầu xương hàm giảm, diện khớp trở lên phẳng, các dây chằng dão.
Cùng với sự thoái triển nêu trên, trương lực của các cơ nâng hàm và hạ hàm
mất dần làm cho khớp mất tính ổn định, vận động của hàm bị ảnh hưởng,
khớp cắn mất cân bằng dẫn đến khả năng nhai, nghiền thức ăn kém, dễ gây
đau, mỏi và có tiếng kêu ổ khớp.
* Xương hàm
Xương hàm cũng có những biến đổi thoái triển chung theo hệ xương
của cơ thể. Trước hết, xương hàm giảm khối lượng do độ đậm đặc bởi hiện
tượng loãng xương sinh lý. Trên phim X-quang xương, người già ít cản
quang, có những vạch sáng chiều rộng vài mm. Xương hàm người cao
tuổiyếu và dễ gãy, khi bị gãy thường can xấu và chậm. Sống hàm trên tiêu
nhiều hơn theo chiều hướng tâm, sống hàm dưới ít tiêu hơn theo chiều ly tâm.
Như vậy, sau khi mất răng, hình thái các xương hàm trên và dưới sẽ có những
biến đổi sâu sắc.
* Tổ chức cứng của răng
- Sự thay đổi cấu trúc lợi như là kết quả của sự lộ chân răng. Bề mặt
chân răng bị lộ trong miệng sẽ thu hút những khoáng chất vô cơ từ những chất


12


lỏng trong miệng hình thành những lớp trên bề mặt.Hiện tượng này xảy ra dù
bề mặt chân răng là ngà răng hay xương răng (Halls- 1977). Quá trình bào
mòn bề mặt chân răng diễn ra ở giai đoạn đầu của vết thương với sự phá hủy
bề mặt ở nhiều vị trí khác nhau [14].
- Hình dáng răng thay đổi, sự thay đổi tiếp xúc giữa các răng hoặc mất
tiếp xúc [14].
- Sự mòn răng có thể định nghĩa như việc mất đi chất khoáng hóa trên
bề mặt răng, là kết quả của việc bào mòn chất hóa học. Sự mòn răng sẽ tăng
lên cùng với sự gia tăng của tuổi tác [14].
1.2.4. Biến đổi trên các chức năng vùng miệng
* Chức năng nhai:
Tốc độ và biên độ chuyển động của hàm dưới giảm trong quá trình vận
động há, ngậm và độ rộng lên xuống trong khi chiều sang bên thì vẫn giữ
nguyên. Vì vậy, thời gian của chu kì nhai không có khác nhiều so với thời kỳ
trung niên. Tuy nhiên, hiệu quả của nhai bị giảm sút do răng suy yếu, hệ
thống môi, má, lưỡi và các cơ giảm sự khéo léo, khả năng phối hợp.
* Chức năng nuốt:
Chức năng nuốt liên quan nhiều tới hoạt động của lưỡi. Lưỡi giảm sự
khéo léo làm cho việc đưa thức ăn chuyển động giảm hơn nữa việc nuốt cũng
bị ảnh hưởng do những thoái triển về vận động cơ và thần kinh.
* Chức năng phát âm:
Có những sự thay đổi nhất định về giọng điệu và khả năng nói theo tuổi.
Nhưng, nếu không có các bệnh lý liên quan thì đặc điểm này ít được chú ý.
* Chức năng tạo dáng khuôn mặt:
Các biến đổi nét mặt là do mất răng và do giảm hoặc mất trương lực
các cơ ở mặt. Thường có sự thấp tầng mặt dưới, những thay đổi này không chỉ
là thẩm mỹ mà còn là sự trở ngại tới chức năng nhai, nuốt.



13

* Chức năng tiết nước bọt:
Nhu mô tuyến nước bọt suy thoái dẫn đến giảm tiết về số lượng nước
bọt kể cả chức năng tổng hợp các protein nước bọt, IgA giảm 2/3. Trên thực tế
tình trạng khô miệng còn do 1 số bệnh lý ở tuyến, đặc biệt do hậu quả một số
thuốc điều trị cao huyết áp, tâm thần….
1.2.5. Ảnh hưởng của lão hóa trên cấu tạo mô nha chu
1.2.5.1. Biểu mô lợi
Nhiều nghiên cứu cho thấy sự mỏng đi và giảm sừng hóa của biểu mô
lợi theo tuổi, vì vậy làm tính thấm của biểu mô với kháng nguyên vi khuẩn và
giảm sức đề kháng với các sang chấn chức năng có thể ảnh hưởng lâu dài đến
vùng quanh răng. Ngoài ra, còn có một số thay đổi khác liên quan đến lão hóa
như các gai biểu bì phẳng hơn và thay đổi mật độ tế bào biểu mô.
Tác động của quá trình lão hóa lên vị trí của biểu mô nối là chủ đề
được nghiên cứu nhiều nhất. Một số nghiên cứu cho thấy sự di chuyển về phía
chóp của biểu mô nối trên bề mặt chân răng ở người có men răng bình thường
đi kèm với sự tụt lợi. Cùng với sự tụt lợi, chiều rộng của lợi dính sẽ giảm theo
tuổi. Ngoài ra, sự di chuyển của biểu mô nối về phía chóp có thể là hậu quả
của sự mọc răng liên tục qua biểu mô lợi trong nỗ lực duy trì mặt phẳng cắn
với răng đối diện để thích nghi với sự mòn răng (sự mọc răng thụ động). Tuy
nhiên, tụt lợi không phải là một quá trình sinh lý không thể tránh khỏi của
người già mà do hậu quả tích lũy của quá trình viêm hoặc chấn thương mô
nha chu [9].
1.2.5.2. Mô liên kết lợi
Mô liên kết lợi ngày càng thô hơn và dày đặc hơn theo tuổi, ngoài ra
còn có sự thay đổi về số lượng và chất lượng sợi collagen. Những thay đổi
này bao gồm sự tăng tỷ lệ chuyển đổi từ collagen hoàn thành collagen không



14

hoàn toàn, tăng sức mạnh cơ học và tăng nhiệt độ làm biến tính collagen. Như
vậy, có sự tăng tính ổn định của collagen do những thay đổi trong cấu trúc
phân tử.
Tuy nhiên, tỷ lệ collagen được tổng hợp lại giảm đi theo tuổi.
1.2.5.3. Dây chằng nha chu
Những thay đổi trong dây chằng nha chu do lão hóa bao gồm giảm số
lượng nguyên bào sợi và tăng bất thường cấu trúc. Ngoài ra, có sự giảm sản
xuất các chất hữu cơ căn bản, ngừng hoạt động các tế bào biểu mô và tăng số
lượng sợi đàn hồi. Nhiều kết quả trái chiều đã được ghi nhận về sự thay đổi
chiều rộng của dây chằng nha chu theo tuổi trong các mẫu vật của người và
động vật. Một điều chắc chắn là chiều rộng của khoảng quanh răng sẽ giảm
nếu răng không được nhai đến (giảm chức năng) hoặc chịu lực nhai quá mức.
Cả hai tình huống trên đều dẫn đến sự mất răng sớm.
1.2.5.4. Xương răng
Có sự gia tăng chiều dày xương răng theo tuổi do sự bồi đắp liên tục sau
khi mọc răng. Sự gia tăng chiều dày này nhiều hơn ở vùng chóp và mặt lưỡi.
Khả năng sửa chữa xương răng là hạn chế, những bất thường trên bề mặt xương
răng như những hõm tiêu xương răng xuất hiện ngày càng nhiều theo tuổi.
1.2.5.5. Xương ổ răng
Hình thái lá cứng xương ổ răng thay đổi liên quan với tuổi, có ngày
càng nhiều bất thường trên bề mặt xương ổ răng và giảm số lượng kết nối bất
thường với sợi collagen. Ngoài ra, có sự giảm mạch máu trong xương, giảm
trao đổi chất và khả năng tự sữa chữa, tăng quá trình hủy xương và giảm tái
tạo xương. Trong ghép xương đồng loại đông khô khử khoáng, nếu sử dụng
vật liệu ghép từ người cho trên 50 tuổi thì khả năng tạo mô xương ít hơn so
với vật liệu lấy từ người cho trẻ hơn.



15

Tuy nhiên, tỷ lệ lành xương (can xương) của xương vùng ổ răng đã nhổ
không liên quan tới tuổi tác. Thật vậy, những thành công trong tích hợp xương
trong cấy ghép nha khoa dựa trên đáp ứng lành thương ở mọi mô xương lành,
không liên quan với tuổi tác.
1.2.5.6. Mảng bám vi khuẩn
Sự tích tụ mảng bám ở lợi-răng được cho là tụt lợi làm tăng diện tích bề
mặt mô cứng lộ ra và đặc điểm bề mặt chân răng bị lộ khác so với men răng.
Đối với mảng bám trên lợi, không có sự khác biệt thực sự về chất lượng
các thành phần mảng bám. Đối với mảng bám dưới lợi, một số nghiên cứu cho
thấy có sự gia tăng số lượng trực khuẩn đường ruột và pseudomonas ở người
lớn tuổi. Tuy nhiên, cần thận trọng trong việc giải thích kết quả này do sự gia
tăng của những chủng loại vi khuẩn trên trong miệng của những người lớn tuổi.
Có sự thay đổi một số tác nhân gây bênh nha chu với tuổi tác, đặc biệt là
vai trò ngày càng tăng của Porphyromonas ginggivalis và vai trò ngày càng giảm
của Actinobacillus actinomycetemcomitans.Tuy nhiên, tác động của lão hóa lên sự
thay đổi sinh thái học vi khuẩn quanh răng vẫn còn chưa thực sự rõ ràng.
1.2.5.7. Đáp ứng miễn dịch
Những tiến bộ mới đây trong sự nghiên cứu về tác động của quá trình
lão hóa trên các phản ứng miễn dịch cho thấy yếu tố tuổi có ảnh hưởng lên
đáp ứng miễn dịch của vật chủ ít hơn so với suy nghĩ trước đây.
Ở người lớn tuổi có sự giảm đáp ứng miễn dịch của tế bào T và B, các
cytokine và tế bào diệt tự nhiên nhưng không có sự khác biệt về đáp ứng miễn
dịch của tế bào đa nhân và đại thực bào hoạt động. Nếu có sự hiện diện của
mảng bám, phản ứng viêm của vùng quanh răng của người lớn tuổi sẽ diễn ra
nhanh hơn và mạnh hơn.


16


1.2.6. Ảnh hưởng quá trình lão hóa lên sự tiến triển của bệnh nha chu
Sự nhạy cảm của bệnh nha chu tăng theo tuổi. Trong một nghiên cứu
thực nghiệm kinh điển về viêm lợi, đối tượng nghiên cứu được loại trừ hoàn
toàn mảng bám và viêm bằng các phương pháp làm sạch và điều trị chuyên
biệt. Sau đó đối tượng không thực hiện bất kỳ biện pháp vệ sinh răng miệng
nào trong thời gian 3 tuần để tạo điều kiện cho viêm lợi phát triển. So sánh sự
phát triển viêm lợi giữa các cá thể trẻ tuổi và lớn tuổi đã được chứng minh
phản ứng viêm mạnh hơn ở những đối tượng nghiên cứu lớn tuổi hơn, kể cả
người và chó. Trong nhóm người lớn tuổi hơn (từ 65 đến 80 tuổi), người ta
nhận thấy khoảng mô liên kết bị thâm nhiễm lớn hơn, gia tăng dịch rỉ viêm và
tăng chỉ số lợi. Ngay cả khi các đối tượng đều có tình trạng lợi hoàn toàn bình
thường trước thử nghiệm, sự khác biệt vẫn có thể tồn tại giữa các nhóm tuổi
trong đó những người càng lớn tuổi thì tình trạng viêm càng nhiều. Ở người
cao tuổi, bệnh viêm lợi thường tiến triển thầm lặng dẫn tới viêm quanh răng
và hậu quả là tiêu xương và mất răng [9].
Rõ ràng khi tuổi cao sẽ không tránh khỏi việc gia tăng sự mất mô liên
kết bám dính. Tuy nhiên điều này còn phụ thuộc vào sự phơi nhiễm với một
số yếu tố gây phá hủy tổ chức quanh răng như: mảng bám, sang chấn cơ học
mạn tính do đánh răng, những tác động không mong muốn do thầy thuốc gây
ra trong phục hình răng, lấy cao răng, kiểm soát bề mặt chân răng. Ảnh hưởng
của những phơi nhiễm này đi theo một hướng duy nhất là làm gia tăng mất
bám dính.
Một số nghiên cứu đã được thiết kế để loại bỏ những yếu tố nhiễu và
hướng tới làm rõ câu hỏi tuổi cao có phải là yếu tố nguy cơ của bệnh nha chu
(yếu tố nguy cơ được định nghĩa là một phơi nhiễm hoặc tác nhân làm tăng
xác suất xảy ra bệnh). Những nghiên cứu này đều cho thấy tác động của tuổi


17


tác là không tồn tại hoặc ít có ý nghĩa lâm sàng làm gia tăng sự mất bảo vệ
vùng nha chu: tỷ suất chênh của tình trạng vệ sinh răng miệng kém đối với
viêm quanh răng là 20,52 trong khi tỷ suất chênh của tuổi tác chỉ là 1,24. Như
vậy, có thể nói tuổi cao không phải là một yêu tố nguy cơ thực sự nhưng là
nền tảng hoặc một yếu tố kết hợp của sự phát triển viêm quanh răng.
1.3. Phân loại bệnh quanh răng
Việc phân loại bệnh quanh răng có ý nghĩa quan trọng trong việc chẩn
đoán, tiên lượng và làm kế hoạch điều trị. Có rất nhiều cách phân loại bệnh
quanh răng. Nhưng theo các xu hướng chung và các quan điểm hiện đại,người
ta chia bệnh quanh răng thành ra làm 2 loại chính là: bệnh của lợi và các bệnh
của cấu trúc chống đỡ răng [9].
* Các bệnh lợi bao gồm các bệnh mà chỉ có tổn thương ở lợi.
* Các bệnh của cấu trúc chống đỡ bao gồm các bệnh liên quan tới cấu trúc
chống đỡ răng như: dây chằng quanh răng, xương ổ răng và xương răng.
Sau đây là phân loại bệnh quanh răng theo hội nghị quốc tế năm
1999,bao gồm 8 nhóm bệnh dưới đây:









Các bệnh lợi.
Viêm quanh răng mạn.
Viêm quanh răng phá hủy.
Viêm quanh răng là biểu lộ các bệnh toàn thân.

Các bệnh quanh răng hoại tử.
Các apxe vùng quanh răng.
Viêm quanh răng do các tổn thương nội nha.
Các biến dạng và tình trạng mắc phải hay trong quá trình phát triển


18

1.4. Dịch tễ học bệnh quanh răng
Dịch tễ trong bệnh nha chu vẫn còn là khoa học khá trẻ. Các nghiên cứu
trong những thập niên qua cho thấy bệnh nha chu là một trong những nỗi
phiền phức lớn nhất của con người.
Các nghiên cứu thuộc phương pháp dịch tễ học được chú trong để giải
quyết các vấn đề về nha chu hiện nay. Các nghiên cứu cần thiết hiện nay là
xác định tình trạng nha chu, nhu cầu điều trị và đánh giá nhu cầu điều trị ở
các nhóm có nguy cơ bị bệnh nha chu cao. Điều chính yếu là làm sao sử dụng
kiến thức tổng hợp có sẵn về bệnh nha chu để đem lại lợi ích cao nhất cho
cộng đồng. Cuối cùng, các phương pháp dịch tễ học ccòn được đòi hỏi để
theo dõi sức khỏe nha chu, đánh giá hiệu quả của các phương pháp và chương
trình dự phòng bệnh nha chu [14].
1.5. Các cấp dự phòng bệnh quanh răng
Theo WHO, giáo dục sức khỏe bệnh quanh răng và vệ sinh răng miệng là
nội dung chủ yếu nhất, là nền tảng cho 3 cấp dự phòng bệnh quanh răng [14].
1.5.1. Dự phòng cấp 1: tiền sinh bệnh
Nội dung chủ yếu là hướng dẫn vệ sinh răng miệng. Cụ thể là:
- Giáo dục sức khỏe để cải tiến việ vệ sinh răng miệng và chế độ dinh
dưỡng hợp lý.
- Khám răng định kỳ để đề phòng viêm lợi.
Bác sỹ có nhiệm vụ và vai trò: giáo dục sức khỏe trong dân, chẩn đoán
viêm lợi và lấy cao răng, hướng dẫn chải răng, hàn răng sâu và sửa chữa sai

sót điều trị.


19

1.5.2 Dự phòng cấp 2: điều trị sớm
- Dự phòng cấp 2 gồm có: điều trị những dấu hiệu hoặc triệu chứng
đầu tiên của bệnh quanh răng nhằm ngăn chặn bệnh phát triển. Cấp dự phòng
này cũng bao gồm cả việc giáo dục vệ sinh răng miệng, dùng fluor, lấy cao
răng, loại bỏ yếu tố lưu giữ mảng bám.
- Ở giai đoạn này, công việc chủ yếu là tập trung vào khâu theo dõi,
khám kiểm soát vệ sinh răng miệng và điều trị răng sâu.
+ Trong điều trị cho cá nhân: dự phòng cấp 2 đồng nghĩa với việc
điều trị duy trì như : khám định kỳ 6 tháng/ lần.
+ Trong điều trị cho cộng đồng: dự phòng cấp 2 tương đương với
mức độ chăm sóc CL2 (care level 2): hướng dẫn tự chăm sóc, đặt lịch hẹn
khám định kỳ 2-3-6 tháng…
1.5.3 Dự phòng cấp 3: điều trị phục hồi tránh tái phát
- Dự phòng cấp 3 là điều trị phục hồi chức năng cho răng đã trải qua thời
kỳ bị bệnh quanh răng đồng thời phòng ngừa không cho bệnh tái phát hoặc có
những biến chứng khác.
- Điều trị để dự phòng cấp 3: có thể là phẫu thuật nha chu, phục hình
răng, điều chỉnh khớp cắn…
1.6. Một số yếu tố liên quan tới tình trạng bệnh vùng quanh răng ở người
cao tuổi
1.6.1. Vấn đề kiến thức, thái độ và thực hành đối với sức khoẻ răng miệng
của người cao tuổi
Đánh giá chung về nhận thức đối với SKRM của người cao tuổi, nhiều
nghiên cứu đã chỉ ra rằng: kiến thức SKRM của người cao tuổi chủ yếu là
những kinh nghiệm tích luỹ của bản thân hoặc do người khác truyền lại. ở

nhiều quốc gia, nguồn kiến thức này thường đến từ kinh nghiệm dân gian,


20

theo quan điểm Y học truyền thống, nhiều khi đối lập với các thông tin cơ bản
theo quan điểm Y học hiện đại. Có thể do các thông tin giáo dục nha khoa còn
hạn chế nên người cao tuổi hiểu biết rất ít về các vấn đề răng miệng cơ bản,
thông thường. Vì vậy, kiến thức RM của họ phụ thuộc rất nhiều vào trình độ
văn hoá, nghề nghiệp, mức sống, khu vực sống, sự tự tìm hiểu của từng cá
nhân. Thông thường, ý niệm về bệnh tật chỉ được quan tâm khi có cảm giác
đau, thẩm mỹ bị ảnh hưởng, giao tiếp xã hội bị hạn chế. Đây là những nhận
biết có thể có ở hầu hết người cao tuổi. Nhưng nếu để hiểu nguyên nhân, hậu
quả và các biện pháp phòng chống bệnh thì đa số tỏ ra không biết, hoặc hiểu
sai các kiến thức bản, thông thường. Thực tiễn này, đặt ra trách nhiệm cho nội
dung giáo dục nha khoa trong chương trình nâng cao hiểu biết đối với SKRM
người cao tuổi [15],[16].
1.6.2. Các yếu tố tác động tới kiến thức, thái độ, thực hành đối với sức khoẻ
răng miệng người cao tuổi
Sức khoẻ răng miệng người cao tuổi chịu sự tác động của nhiều yếu tố.
Sức khoẻ kém có thể bắt nguồn từ những nguy cơ nội tại do sự ngấm vôi kém
ở men răng, răng mọc lệch lạc, chen chúc, hở… Nguy cơ cũng đến từ các thói
quen có hại: hút thuốc, uống rượu, ăn trầu. Các yếu tố ảnh hưởng khác có thể
do trình độ học vấn thấp, mức thu nhập không cao, sức khoẻ chung suy yếu,
tập quán văn hoá và nhất là yếu tố không được chăm sóc bởi cơ sở dịch vụ
nha khoa. Các yếu tố này liên quan chặt chẽ với nhau và cần được nhận định,
đánh giá để tìm ra các giải pháp can thiệp. Nhằm tăng cường nhận thức, thay
đổi thái độ, xây dựng hành động đúng, chúng ta cần phân tích, phê phán, sửa
chữa những hành động, thói quen chưa đúng hay có hại. Trên cơ sở đó, giáo
dục các đối tượng tự chăm sóc SKRM có khoa học và có ý thức thăm khám

định kỳ tại các cơ sở nha khoa. Đây là một quá trình cần có sự tác động nhiều
mặt, nhưng ý thức bản thân luôn luôn là yếu tố quyết định quan trọng nhất [17].


21

1.6.3. Tình tình nghiên cứu về giáo dục nha khoa, thái độ và thực hành
của người cao tuổi đối với sức khoẻ răng miệng
* Đối với các đối tượng còn tự lực trong các sinh hoạt cá nhân
Đánh giá các chương trình can thiệp trên cộng đồng người cao tuổi về
giáo dục, mạng lưới cơ sở dịch vụ nha khoa và thực trạng hành vi SKRM qua
số liệu điều tra ở một số quốc gia cho thấy: chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi
nói chung đã được quan tâm triển khai, nhưng riêng với SKRM là công việc
mà hầu như mới có rất ít quốc gia thực hiện. Ngay tại Mỹ, nước giàu có và
dân số già rất đông, nhưng các cơ sở dịch vụ nha khoa vẫn thiếu thốn, chưa
thuận lợi và phí tổn chăm sóc chưa hợp lý.
* Đối với các đối tượng không thể tự lực được trong các sinh hoạt cá nhân
Những người bị suy nhược hay có những biến chứng do bệnh toàn thân
phải nhờ vào sự giúp đỡ (gia đình, điều dưỡng viên tại các trung tâm chăm
sóc…) có tình trạng kém hơn nhiều so với người tự lập trong sinh hoạt và
việc tổ chức các dịch vụ chăm sóc cho các đối tượng này thường bị bỏ quên.
Điều này do thiếu sự giúp đỡ thích hợp của dịch vụ chăm sóc răng miệng
cùng với sức khoẻ thể chất hay tâm thần kém.
* Một số lý do không đến với dịch vụ răng miệng của các đối tượng
nghiên cứu
Để giải thích sự khác nhau giữa yêu cầu chăm sóc răng miệng của bản
thân người cao tuổi với nhu cầu thực sự về tình trạng răng miệng của họ,
nhiều công trình đã phân tích các yếu tố thực tiễn nhằm đề ra phương hướng,
biện pháp tổ chức, phát triển nhân lực, giáo dục nha khoa, chính sách ưu
tiên... một cách thích hợp để có thể mang lại hiệu quả chăm sóc.

Nhiều nghiên cứu đã phỏng vấn lý do tại sao các đối tượng không đến
với dịch vụ răng miệng. Câu trả lời đa số liên quan tới hiểu biết (họ không
biết mình có bệnh). Có một số rào cản khác thuộc về phí tổn khám chữa răng
được cho là quá cao, chờ đợi lâu, xa xôi không thuận lợi, tâm lý e ngại sợ nhổ
răng đau, lây nhiễm.


22

1.7. Nghiên cứu về bệnh quanh răng ở người cao tuổi trên Thế Giới và
Việt Nam
* Ở Việt Nam:
Tại Việt Nam, từ năm 1960 đến nay đã có nhiều công trình điều tra về
bệnh quanh răng ở một số địa phương. Các kết quả điều tra đều cho thấy bệnh
quanh răng chiếm tỷ lệ cao và ở mức báo động [18],[23],[24],[25].Trần Văn
Trường và Lâm Ngọc Ấn đã tiến hành điều tra sức khỏe răng miệng toàn
quốc qua 2 đợt thì nhận thấy rằng qua 2 lần tỷ lệ bệnh quanh răng của nhóm
tuổi >45 tuổi không biến đổi nhiều, đều trên 90% [7].
Về tình hình bệnh tổ chức quanh răng, theo điều tra cơ bản tại khu vực
Hà Nội của Nguyễn Đức Thắng [26] với lứa tuổi 45-64 và cỡ mẫu (n=150) thì
có CPITN 1 tỉ lệ là 1,33% và CPITN 2 chiếm tỷ lệ cao nhất 64,67%. Nguyễn
Văn Cát và Renneberg T và cs (1992) khám 181 người từ 44 đến 64 tuổi
không thấy người nào có mô quanh răng lành mạnh, chỉ số CPITN 1 tỉ lệ là
1,2 cao nhất là chỉ số 3 có tỉ lệ 45,8. Theo tác giả Dương Thị Hoài Giang năm
2009 khám trên 303 người từ 60 tuổi trở lên tại Hoàng Mai – Hà Nội thấy tỷ
lệ người mắc bệnh quanh răng là 93,1% [17].
* Trên thế giới:
Bảng 1.1: Tình trạng túi lợi ở người cao tuổi của các nghiên cứu trên thế giới
Quốc gia, tác giả
Bergman J.D và Cs,

Australian [24]
Galan D. và Cs,
Canada [25]
Miyazaky H. và Cs,
Japan [26]
Trần Văn Trường, Việt
Nam [27]

Năm

Túi lợi
Trung Trung
Túi lợi
Tuổi Người nông
bình cao bình túi
sâu (%)
(%)
răng
lợi

1990 60-69

303

15,2

1993

54


37,0

49,0

60,0
35,7

≥ 60

1994 65-74
2000

≥ 45

999

2,00

1,60

10,0

2,70

1,10

10,5

2,86


1,83


23

Một số điều tra khác như: theo điều tra sức khỏe quốc gia 1971-1974
của Mỹ, tình hình bệnh nha chu theo độ tuổi [28] như sau: với độ tuổi 55-64
(có nam bệnh nha chu chiếm 46,9%, còn nữ chiếm 35,8%).Theo điều tra của
P.D.Barnard năm 1988 ở Astraulia [29] thì số trung bình lục phân có số
CPITN cao nhất ở lứa tuổi từ 65 tuổi trở lên thì thấy tỷ lệ CPITN 4 chiếm tới
70%.Theo Brown và cộng sự 1981 ở Mỹ 65% người lứa tuổi từ 19-65 có túi
lợi sâu ≥ 3mm, 28% có túi lợi sâu 4-6mm và 8% có túi lợi sâu > 6mm [30].
1.8. Một số đặc điểm sinh thái của tỉnh Cần Thơ
Thành phố Cần Thơ nằm ở vùng hạ lưu của Sông Mê Kông và ở vị trí trung tâm
đồng bằng châu thổ Sông Cửu Long, nằm cách thành phố Hồ Chí Minh 169 km, cách
thành phố Cà Mau hơn 150 km, cách thành phố Rạch Giá gần 120 km, cách biển khoảng
hơn 80 km theo đường nam sông Hậu (quốc lộ 91C).
Cần Thơ có tọa độ địa lý 105013’38" - 105050’35" kinh độ Đông và
9055’08" - 10019’38" vĩ độ Bắc, trải dài trên 60 km dọc bờ Tây sông Hậu. Phía bắc
giáp tỉnh An Giang, phía đông giáp tỉnh Đồng Tháp và tỉnh Vĩnh Long, phía tây
giáp tỉnh Kiên Giang, phía nam giáp tỉnh Hậu Giang. Diện tích nội thành là 53 km².
Thành phố Cần Thơ có tổng diện tích tự nhiên là 1.409,0 km², chiếm 3,49% diện
tích toàn vùng và dân số vào khoảng 1.200.300 người, mật độ dân số tính đến 2011
là 852 người/km². Cần Thơ là thành phố lớn thứ tư của cả nước, cũng là thành phố
hiện đại và lớn nhất của cả vùng hạ lưu sông Mê Kông.
Thành phố Cần Thơ có các điểm cực sau:
Cực Bắc là phường Thới Thuận, quận Thốt Nốt.
Cực Tây là xã Thạnh Lợi, huyện Vĩnh Thạnh.
Cực Nam là xã Trường Xuân A, huyện Thới Lai.
Cực Đông là phường Tân Phú, quận Cái Răng.



24

Hình 1.2: Bản đồ tỉnh Cần Thơ [31]
Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc Hội Việt Nam thông qua Nghị quyết số
22/2003/QH11 [16] về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh.
Theo đó, chia tỉnh Cần Thơ thành thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương và tỉnh
Hậu Giang như sau:
Thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương có diện tích tự nhiên là
138.959,99 ha và dân số hiện tại là 1.112.121 ngưười, bao gồm: diện tích và số dân
của thành phố Cần Thơ cũ; huyện Ô Môn; huyện Thốt Nốt; một phần của huyện
Châu Thành, bao gồm: thị trấn Cái Răng; các ấp Thạnh Mỹ, Thạnh Huề, Thạnh
Thắng, Yên Hạ và 176 ha diện tích cùng với 2.216 ngưười của ấp Phú Quới thuộc
xã Đông Thạnh; các ấp Thạnh Hóa, Thạnh Hưưng, Thạnh Thuận, An Hưng, Thạnh
Phú, Phú Khánh, Khánh Bình và 254,19 ha diện tích cùng với 1.806 người của ấp
Phú Hưng thuộc xã Phú An; các ấp Phú Thành, Phú Thạnh, Phú Thuận, Phú Thuận
A và 304,61 ha diện tích cùng với 1.262 người của ấp Phú Lợi thuộc xã Đông Phú;


25

một phần của huyện Châu Thành A, bao gồm: xã Trưường Long; xã Nhơn ái; xã
Nhơn Nghĩa; ấp Tân Thạnh Đông và 84,7 ha diện tích cùng với 640 người của ấp
Tân Thạnh Tây thuộc xã Tân Phú Thạnh.
Tỉnh Hậu Giang có diện tích tự nhiên là 160.772,49 ha và dân số hiện tại là
766.105 người, bao gồm: diện tích và số dân của thị xã Vị Thanh; huyện Phụng
Hiệp; huyện Long Mỹ; huyện Vị Thuỷ; phần còn lại của huyện Châu Thành và
huyện Châu Thành A, trừ phần diện tích và số dân của hai huyện này đã được điều
chỉnh về thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương quy định như trên. Tỉnh lỵ tỉnh

Hậu Giang đặt tại thị xã Vị Thanh.

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm nghiên cứu
30 xã được chọn ngẫu nhiên ở tỉnh Cần Thơ và Viện đào tạo Răng hàm
mặt Đại học Y Hà Nội.
2.2. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 9/2014 đến tháng 9/2015.
2.3. Đối tượng nghiên cứu
2.3.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
Những người có độ tuổi từ 60 trở lên tại thời điểm điều tra và có khả năng
tham gia vào nghiên cứu (trả lời được phỏng vấn và tham gia vào khám răng
miệng).

2.3.2. Tiêu chuẩn loại trừ


×