Tải bản đầy đủ (.docx) (110 trang)

ĐÁNH GIÁ kết QUẢ PHẪU THUẬT cắt THẦN KINH LƯNG DƯƠNG vật điều TRỊ XUẤT TINH sớm tại TRUNG tâm NAM học BỆNH VIỆN hữu NGHỊ VIỆT đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 110 trang )

B GIO DC V O TO

B Y T

TRNG I HC Y H NI

Tễ HOI NAM

ĐáNH GIá KếT QUả PHẫU THUậT
CắT THầN KINH LƯNG DƯƠNG VậT ĐIềU TRị XUấT
TINH SớM
TạI TRUNG TÂM NAM HọC BệNH VIệN HữU NGHị
VIệT ĐứC

LUN VN THC S Y HC


HÀ NỘI - 2018


B GIO DC V O TO

B Y T

TRNG I HC Y H NI

Tễ HOI NAM

ĐáNH GIá KếT QUả PHẫU THUậT
CắT THầN KINH LƯNG DƯƠNG VậT ĐIềU TRị XUấT
TINH SớM


TạI TRUNG TÂM NAM HọC BệNH VIệN HữU NGHị
VIệT ĐứC
Chuyờn ngnh: Ngoi khoa
Mó s: 60720123

LUN VN THC S Y HC
Ngi hng dn khoa hc:
PGS.TS Nguyn Quang


HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
PGS.TS Nguyễn Quang – Giám đốc trung tâm nam học - Bệnh viện
Hữu nghị Việt Đức người thầy đã tận tình truyền đạt kiến thức, trực tiếp
hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Đảng ủy, Ban giám hiệu và phòng đào tạo
Sau đại học – Trường Đại học Y Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn.
Tôi vô cùng biết ơn các thầy cô trong Bộ môn Ngoại – Trường Đại học
Y Hà Nội đã truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu cũng như thời gian học cao học.
Tôi xin chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban giám đốc, Phòng kế hoạch tổng
hợp, phòng lưu trữ hồ sơ, tập thể Trung tâm nam học, phòng mổ C2, phòng mổ
Nam học – Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức đã quan tâm và dành nhiều sự giúp đỡ
quý báu cho tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới những người thầy đáng kính trong hội đồng
đã đóng góp cho tôi những ý kiến quý báu và xác đáng để hoàn thiện luận văn.

Và cuối cùng, tôi xin cảm ơn sâu sắc tới những người thân trong gia
đình, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ, chia sẻ, động viên tôi trong suốt quá
trình học tập và hoàn thành luận văn.
Hà Nội, ngày 11 tháng 09 năm 2018

TÔ HOÀI NAM


LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Tô Hoài Nam, học viên lớp Cao học khóa 25, Trường Đại học Y
Hà Nội, chuyên ngành Ngoại khoa, xin cam đoan:
1 Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS. Nguyễn Quang.
2 Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
được công bố tại Việt Nam.
3 Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung
thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 11 tháng 09 năm 2018
Tác giả luận văn

Tô Hoài Nam


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BN
DNS
IELT

ISSM
PDE 5
PEDT
QHTD
QoL
RLCD
SSRIs
XTS

:

Bệnh nhân
Selective Dorsal Neurectomy
:
(phẫu thuật cắt thần kinh lưng dương vật)
Intravaginal Ejaculation Latency Time
:
(thời gian xuất tinh)
International Society for Sexual Medicine
:
(hội y học giới tính thế giới)
: Phosphodiesterase type 5
Premature Ejaculation Diagnostic Tool
:
(công cụ chẩn đoán xuất tinh sớm)
: Quan hệ tình dục
Quality of life
:
(chất lượng cuộc sống)
: Rối loạn cương dương

Selective Serotonin Reuptake Inhibitors
:
(ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc)
: Xuất tinh sớm


MỤC LỤC
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC HÌNH


11

ĐẶT VẤN ĐỀ
Xuất tinh sớm (XTS) theo các hướng dẫn và khuyến nghị hiện nay đều
dựa trên định nghĩa theo Hội tiết niệu Hoa Kỳ giả định không có rối loạn tình
dục của đối tác: XTS là xuất tinh xảy ra sớm hơn mong muốn, trước hoặc
ngay sau khi người nam giới đưa dương vật vào được âm đạo của bạn tình,
dẫn tới sự hụt hẫng, lo lắng, phàn nàn của một hay cả hai người bạn tình. XTS
là một biểu hiện của rối loạn tình dục [1],[2],[3],[4].
Trong một số nghiên cứu, tỷ lệ nam giới phàn nàn về XTS có thể tới
30% [5],[6]. Một công trình nghiên cứu tại Mỹ trên một khối lượng dân cư
lớn trong cộng đồng, cho biết XTS chiếm 29% trong tổng số những người đàn
ông khỏe mạnh bình thường [7]. Theo một nghiên cứu ở nam giới trên 18 tuổi
tại Trung Quốc là 28,86% [8]. Ở Việt Nam tần suất XTS tại khu vực phía

Nam là 25% [9],[10], tại phòng khám Nam học – Bệnh viện Hữu nghị Việt
Đức là 14,38% [11],[12].
Khoảng 50% nam giới XTS kém hài lòng với đời sống tình dục của
mình, ít thỏa mãn khi QHTD và tần suất QHTD cũng ít hơn. Khoảng 50%
nam giới XTS mất tự tin khi QHTD và dễ dẫn đến căng thẳng, lo lắng, có khi
dẫn đến trầm cảm. Đối với nữ giới, sự hài lòng càng giảm khi nam giới có
XTS quá căng thẳng khi QHTD (khoảng 80%) [13],[14].
Nguyên nhân gây XTS có thể là thực thể hoặc tâm lý. Tuy nhiên, cơ
chế chính xác vẫn chưa được biết tới, đã có nhiều giả thuyết được đưa ra [1],
[15],[16].
Điều trị xuất tinh sớm bao gồm: liệu pháp hành vi – tâm lý như phương
pháp “dừng – bắt đầu”, kỹ thuật “bấm quy đầu”, thủ dâm trước quan hệ; liệu
pháp dùng thuốc gồm Dapoxetin là thuốc chính thống được phê duyệt điều trị
XTS, các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc và clomipramine, thuốc


12

gây tê tại chỗ, tramadol, thuốc nhóm ức chế phospho-diesterase type 5 và
phẫu thuật [1],[14],[15],[16]. Trong đó phẫu thuật cắt bao quy đầu hoặc cắt
thần kinh lưng dương vật trong điều trị XTS chỉ được thực hiện chủ yếu ở
một số nước châu Á còn chưa được phổ biến trên thế giới do chưa có nhiều
bằng chứng khoa học [17],[18],[19].
Trên thế giới đã có một số nghiên cứu về vấn đề này [20],[21], nhưng
tại Việt Nam hầu như chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này mà chỉ là các báo
cáo lẻ tẻ với số lượng BN ít [22]. Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Đánh
giá kết quả phẫu thuật cắt thần kinh lưng dương vật điều trị xuất tinh
sớm tại Trung tâm nam học Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức” nhằm 2 mục
tiêu:
1. Nhận xét đặc điểm chẩn đoán của nhóm bệnh nhân xuất tinh sớm

được điều trị bằng phẫu thuật cắt thần kinh lưng dương vật tại
Trung tâm nam học - Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức từ tháng
09/2017 đến tháng 07/2018.
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật cắt thần kinh lưng dương vật điều trị xuất
tinh sớm tại Trung tâm nam học - Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.


13

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Giải phẫu dương vật
Dương vật là một bộ phân quan trọng của cơ quan tiết niệu sinh dục,
thực hiện hai chức năng: tham gia bài tiết nước tiểu và hoạt động tình dục của
nam giới [23],[24],[25].
1.1.1. Hình thể ngoài [25],[26]
Dương vật gồm rễ, thân và quy đầu dương vật. Rễ dương vật nằm ở
đáy chậu và dính vào xương mu bởi dây chằng treo dương vật. Thân dương
vật hình trụ; khi cương, mặt trên của nó gọi là lưng dương vật và mặt dưới gọi
là mặt niệu đạo. Quy đầu dương vật được bao bọc trong một nếp nửa da nửa
niêm mạc có thể di động được gọi là bao quy đầu. Bao quy đầu ở trẻ em dài;
có trường hợp bao quy đầu hẹp không thể trật lên được gọi là bệnh hẹp bao
quy đầu. Ở đỉnh quy đầu có lỗ niệu đạo ngoài. Đáy của quy đầu lồi lên gọi là
vành quy đầu. Rãnh nằm giữa thân dương vật và vành quy đầu là cổ quy đầu.
1.1.2. Tổ chức bao quanh dương vật [23]

Hình 1.1. Thiết đồ qua thân của dương vật
(Nguồn: Atlat giải phẫu người Frank H. Netter, MD)



14

Da: bao quanh dương vật, bên ngoài cùng là một lớp da màu hơi sẫm,
mỏng, ít mô mỡ, không có nang lông, tính đàn hồi lớn.
Bao quy đầu gồm hai lá: lá ngoài có màu sắc như da dương vật, lá trong
nhẵn hồng nhạt có màng nhày và nhiều tuyến bã, đặc biệt có nhiều ở vùng
hãm. Chất tiết của tuyến bã là thành phần chính của chất bựa sinh dục. Chỗ
tiếp nối giữa 2 lá là lỗ bao quy đầu. Lỗ này khi hẹp thì quy đầu trật lộn ra
ngoài khó khăn, đặc biệt nếu kết hợp với hãm quy đầu ngắn thì càng khó hơn.
Dị tật bẩm sinh này là nguyên nhân của biến chứng nghẹt quy đầu, viêm dính
quy đầu – bao quy đầu.
Cân nông (cân Dartos) nằm dưới lớp da thân dương vật, bọc xung
quanh thể cương (vật hang + vật xốp). Ở gốc dương vật, cân nông tiếp nối với
dây chằng treo dương vật ở phía trên và cân nông của bìu ở phía dưới.
Cân sâu (cân Buck) còn gọi là màng trắng. Đó là một bao xơ trắng,
chắc bọc riêng lẻ vật hang và vật xốp. Ở gốc dương vật, màng trắng liên tiếp
với dây chằng treo dương vật và cân đáy chậu nông.
1.1.3. Các tạng cương [26],[27],[28]
Tạng cương bao gồm hai vật hang và một vật xốp.
Các vật hang phải và trái nằm song song với nhau về phía mặt mu (mặt
lưng) của dương vật. Vật hang dài 15 - 16 cm lúc dương vật mềm (không
cương), và dài 20 - 21 cm khi dương vật ở trạng thái cương. Vật hang hình
trụ, hai vật hang nằm sát và dính với nhau ở đoạn thân dương vật, nhưng tách
xa nhau ở phía sau (đoạn rễ); mỗi vật hang bám chắc vào ngoại cốt (cốt mạc)
của mặt trong của ngành dưới xương mu ở một bên; từ đây các vật hang đi ra
phía trước, lên trên và vào trong, để cùng với vật xốp hợp thành thân dương
vật. Phần sau (đoạn sau) của hai vật hang được gọi là các ngành vật hang hoặc
trụ dương vật; ở đoạn thân dương vật, giữa hai vật hang có một vách gọi là
vách dương vật, vách có những lỗ thủng qua đó hai vật hang thông với nhau.



15

Hình 1.2. Dương vật
(Nguồn: Atlat giải phẫu người Frank H. Netter, MD)
Trên mặt mu của dương vật có một rãnh dọc giữa gọi là rãnh mu dương
vật, trong rãnh có tĩnh mạch mu sâu dương vật nằm, tĩnh mạch này có ý nghĩa
quan trọng đối với cơ chế cương dương vật, đi kèm với tĩnh mạch mu sâu
dương vật có một động mạch và dây thần kinh cùng tên. Về phía mặt dưới


16

dương vật, ở giữa hai vật hang cũng hình thành một rãnh dọc giữa, rộng và
sâu hơn, trong đó có vật xốp nằm nên gọi là rãnh dưới hang hoặc rãnh niệu
đạo. Bao bọc xung quanh mỗi vật hang có một vỏ xơ, dai bền và dày khoảng
1 mm, gọi là màng trắng vật hang, bên trong màng trắng là một hệ thống các
bè, cấu tạo bởi các sợi liên kết, sợi chun và sợi cơ trơn, xuất phát từ màng
trắng và từ vách dương vật. Giữa các bè là một hệ thống những hang (hốc),
kích thước không đều nhau, thành hang có nội mô lát, các hang đều chứa đầy
máu và thông thương rộng rãi với nhau. Các hang có vai trò quan trọng trong
cơ chế cương dương vật, vì là cấu tạo nối tiếp động - tĩnh mạch đặc biệt.
Vật xốp nằm ở phía mặt dưới của dương vật, dài 12 - 16cm, bao gồm
ba phần: phần giữa nằm trong thân dương vật, được coi là vật xốp thật sự; đầu
sau phình to gọi là hành xốp hoặc hành dương vật có cơ hành xốp (hoặc hànhhang) bám vào, ở phần này có niệu đạo đi vào vật xốp và có ống bài xuất của
các tuyến hành - niệu đạo chui qua vật xốp và chui qua cả thành niệu đạo để
đổ vào niệu đạo; đầu trước của vật xốp cũng phình to tạo thành quy đầu, mặt
sau quy đầu lõm trong đó có đầu trước của các vật hang chui sâu vào. Ở mặt
dưới, ngang với vành quy đầu có một nếp da gọi là hãm bao quy đầu. Vật xốp
có cấu trúc tương tự như vật hang, chỉ có điều khác là lớp màng trắng của vật

xốp mỏng hơn, các bè và các hang ở bên trong cũng nhỏ hơn, vách giữa vật
xốp chỉ có ở phần hành xốp, phân chia hành xốp thành hai bán cầu, đó là bằng
chứng về nguồn gốc phát sinh của hai vật xốp, nhưng vách không còn nữa ở
phần vật xốp nằm trong thân dương vật.
1.1.4. Các mạch máu và dây thần kinh của dương vật [26],[27],[28]
Động mạch của dương vật được phân biệt thành hai nhóm: các động
mạch của các lớp vỏ (bao) và các động mạch của tạng cương. Các động mạch
của lớp vỏ (bao) dương vật xuất phát từ các động mạch thẹn, từ động mạch


17

đùi và từ động mạch mu dương vật. Các động mạch của vật xốp gồm có: động
mạch của phần hành xốp là động mạch hành xốp, động mạch của phần thân
vật xốp là các động mạch hành xốp và động mạch niệu đạo, động mạch quy
đầu là nhánh cùng của động mạch mu dương vật. Các động mạch của vật
hang là hai động mạch sâu vật hang (động mạch sâu dương vật) và hai động
mạch mu dương vật. Tất cả những động mạch này có nhiệm vụ cấp máu cho
tạng cương đều là nhánh của động mạch thẹn trong, và động mạch thẹn trong
lại là nhánh của động mạch chậu trong (hạ vị). Ở trạng thái mềm (không
cương), thì các động mạch này đi theo đường xoắn ốc, do đó được gọi là các
động mạch xoắn ốc hoặc hình cánh quạt (aa. Helicoidae).
Các tĩnh mạch được xếp thành hai hệ thống: hệ thống tĩnh mạch nông,
xuất phát từ các lớp vỏ (bao) của dương vật và tạo nên tĩnh mạch mu dưới
mạc dương vật, tĩnh mạch này đổ vào các tĩnh mạch thẹn ngoài, các tĩnh mạch
thẹn ngoài lại đổ vào tĩnh mạch hiển trong, nhóm tĩnh mạch sâu thì đổ vào
tĩnh mạch thẹn trong.
Các mạch bạch huyết cũng hình thành hai lưới mạch nông và sâu. Các
thân bạch huyết thu nhận bạch huyết đi tới các hạch bạch huyết bẹn nông và
sâu, thuộc nhóm bên trong, các hạch này có thể bị viêm, sưng gây ra viêm

hạch bạch huyết bẹn, bạch huyết của dương vật cũng có một phần đổ về các
hạch chậu ngoài.
Có hai hệ thống thần kinh chi phối cho dương vật: hệ thần kinh thực vật
và hệ thần kinh cảm giác vận động.
Các sợi thần kinh thực vật xuất phát từ các tế bào thần kinh ở tủy sống
và các hạch ngoại biên kết hợp với nhau tạo thành các dây thần kinh hang đi
vào thể hang và thể xốp, điều khiển quá trình cương dương vật.
Các sợi thần kinh cảm giác vận động chịu trách nhiệm về cảm giác và
co thắt các cơ hành hang và ngồi hang.


18

-

Đường thần kinh thực vật:
+ Đường giao cảm bắt nguồn từ đoạn tủy T11 - L2 có tác dụng co các
cơ thắt động mạch và cơ trơn quanh các xoang hang, gây ra co động mạch và
các xoang hang.
+ Đường phó giao cảm bắt nguồn từ S2 - S4 có tác dụng giãn các cơ
thắt động mạch và cơ trơn quanh các xoang hang gây giãn động mạch và giãn
các xoang hang.

- Đường thần kinh vận động và cảm giác:
+ Đường cảm giác bản thể bắt nguồn từ các thụ thể cảm giác trong
dương vật, quy đầu, niệu đạo. Các sợi thần kinh xuất phát từ các thụ thể hợp
thành các bó của dây thần kinh lưng dương vật sau đó kết hợp với các dây
thần kinh khác tạo ra dây thần kinh thẹn. Dây này đi vào tủy sống qua các rễ
từ S2 - S4 và kết thúc tại các tế bào thần kinh cảm giác của vùng chất xám
đoạn thắt lưng cùng. Các tế bào thần kinh này sẽ truyền cảm giác theo bó gaiđồi thị và lưới gai đến vùng đồi thị rồi lên vùng cảm giác của vỏ não.

+ Các nhân phó giao cảm trong đoạn tủy S2 - S4 là trung tâm chi phối
vận động bản thể của dương vật. Từ đây các sợi thần kinh sẽ theo các dây
thần kinh cùng đến dây thẹn chi phối các cơ hành hang và ngồi hang.
Trung tâm thần kinh chỉ huy hoạt động tình dục nằm ở đoạn tủy sống
bên dưới (gọi là trung tâm sinh dục - tủy sống). Trung tâm này nằm dưới sự
điều hành của não thông qua những kích thích thị giác, khứu giác, từ đó gây
ra cương dương vật và tiếp theo là phóng tinh do trung tâm sinh dục - tủy
sống phát động.


19

Hình 1.3. Các thần kinh của bộ phân sinh dục ngoài nam
(Nguồn: Atlat giải phẫu người Frank H. Netter, MD)
1.2. Sinh lý xuất tinh
Trong quá trình giao hợp, khi dương vật đủ cương đưa vào âm đạo
người phụ nữ, cùng với các “nhịp dập” đều đặn của dương vật, hiện tượng
xung huyết ở âm đạo, sự co bóp của các cơ vùng tầng sinh môn, sự co bóp âm
đạo từng nhịp, bóp chặt lấy dương vật gây kích thích cho người nam giới tăng
dần đến độ khoái cảm và xuất tinh [1].
Phần đầu của tinh dịch là dịch của tuyến hành niệu đạo và một ít dịch
của tuyến tiền liệt. Sau đó, thành phần chính của tinh dịch bao gồm tinh trùng
từ mào tinh và ống dẫn tinh, dịch tuyến tiền liệt và dịch túi tinh [15].


20

Xuất tinh gồm hai giai đoạn [1]:
Giai đoạn xuất tiết tinh dịch: các kích thích cảm giác từ dương vật tác
động vào dây thần kinh cùng, tới trung tâm ở phần trên của dây thắt lưng. Các

tác động liên tiếp kích thích qua dây thần kinh giao cảm ngực - thắt lưng làm
xuất tiết các dịch từ tuyến tiền liệt, ống dẫn tinh, túi tinh, ống phóng tinh đổ
vào đoạn niệu đạo tuyến tiền liệt.
Giai đoạn xuất tinh: Ngay sau khi tinh dịch đổ đầy vào niệu đạo tuyến
tiền liệt, lỗ cổ bàng quang đóng kín do tác động của thần kinh giao cảm vùng
cổ bàng quang. Hệ thần kinh thân thể (thần kinh thẹn) hoạt hóa đồng thời các
cơ quanh niệu đạo, cơ ngồi hang, cơ hành hang, cơ nâng hậu môn, cơ vân đáy
chậu co bóp mạnh đẩy tinh dịch từ vùng niệu đạo tuyến tiền liệt hướng ra
ngoài và xuất ra khỏi dương vật.
Mức độ hưng phấn cao độ (cực khoái) thường kết hợp với xuất tinh, là
một cảm giác khoan khoái xuất phát từ não do sự tăng áp lực trong niệu đạo
sau và do sự co thắt của hành niệu đạo và các cơ quan giới tính phụ [15].
Những trường hợp xuất tinh không nhịp nhàng như các giai đoạn trên là
những trường hợp có rối loạn xuất tinh có thể gặp các trường hợp: XTS, xuất
tinh muộn, khó xuất tinh, không xuất tinh, xuất tinh đau... [1]
1.3. Định nghĩa XTS
Có rất nhiều các định nghĩa về XTS
Theo Hội Y học Giới tính Thế giới (Internationnal Society for Sexual
Medicine - ISSM) [2],[3]: XTS là tình trạng rối loạn xuất tinh của nam giới
với các đặc trưng như sau:
-

Luôn luôn hoặc gần như luôn luôn xảy ra xuất tinh trước hoặc trong vòng 1
phút kể từ khi đưa dương vật vào âm đạo (XTS nguyên phát) hoặc giảm đáng
kể về thời gian trễ xuất tinh, thường khoảng 3 phút hoặc ít hơn (XTS thứ
phát), và


21


-

Không có khả năng trì hoãn xuất tinh trong tất cả hoặc gần như tất cả các lần
QHTD, và

-

Hậu quả gây tiêu cực cho cá nhân, chẳng hạn như đau khổ, buồn phiền, thất
vọng và/hoặc né tránh QHTD.
Định nghĩa này áp dụng được cho cả XTS nguyên phát và XTS thứ phát
nhưng lại giới hạn ở QHTD trong âm đạo, vì mối tương quan giữa giao hợp,
quan hệ bằng miệng và thủ dâm không phải là luôn cao. Ngoài ra, nó không
được dùng với nam giới QHTD với nam giới. Các ủy ban kết luận rằng không
có đủ thông tin để mở rộng định nghĩa cho các tình huống hoặc nhóm khác.
XTS trước khi đưa dương vật vào âm đạo được coi là hình thức nghiêm
trọng nhất của XTS. Những người đàn ông hay cặp đôi như vậy thường được
phát hiện khi họ gặp khó khăn về có thai và sinh con. Người ta ước lượng có từ
5% - 20% những người đàn ông XTS nguyên phát có XTS ngoài âm đạo [29].
Theo WHO – ICD10 (World Health Organization - Internaltional
Classification of Diseases 10, Phân loại Quốc tế về Bệnh tật) định nghĩa [30]:
XTS là tình trạng không thể kìm hãm được xuất tinh đủ để QHTD, biểu hiện
bằng các tình huống như:
Xuất tinh rất sớm trước khi hoặc ngay sau khi đưa dương vật vào âm đạo
(trong vòng khoảng 15 giây trước và khi bắt đầu đưa dương vật vào âm đạo).
- XTS trước khi dương vật đủ cương cứng.
Theo Hội tâm thần học Hoa Kỳ (Diagnostic and Statistical Manual of
Mental Disorders, 4th edition, revised) [31]: XTS là tình trạng kéo dài hay tái
diễn mà xuất tinh xảy ra trước hay ngay khi đưa dương vật vào âm đạo, chỉ
sau vài kích thích nhẹ, và trước khi được mong muốn; tình trạng này gây ra
ức chế hay khó khăn trong QHTD.

Các hướng dẫn và khuyến nghị hiện nay đều dựa trên định nghĩa theo
Hội tiết niệu Hoa Kỳ [4], giả định không có rối loạn tình dục của đối tác: XTS


22

là xuất tinh xảy ra sớm hơn mong muốn, trước hoặc ngay sau khi người nam
giới đưa dương vật vào được âm đạo của bạn tình, dẫn tới sự hụt hẫng, lo
lắng, phàn nàn của một hay cả hai người bạn tình.
1.4. Phân loại [15]
XTS được phân ra 2 loại: nguyên phát và thứ phát:
- Nguyên phát: XTS xuất hiện ngay từ khi bắt đầu lần đầu tiên QHTD và
thường xuyên gần như luôn luôn xuất hiện khi QHTD. Thời gian xuất tinh
khoảng 1 phút.
- Thứ phát: XTS thứ phát xuất hiện từ từ hoặc đột ngột trên nam giới đang có
cuộc sống QHTD bình thường. Thường thời gian xuất tinh không quá ngắn
như XTS nguyên phát.
Gần đây có thêm 2 khái niệm mới về XTS là XTS biến thể và XTS chủ
quan [32]:
- XTS biến thể: là sự thay đổi trong hoạt động tình dục được đặc trưng
bởi sự XTS bất thường và không nhất quán.
- XTS chủ quan: được đặc trưng bởi nhận thức chủ quan về sự xuất
tinh nhanh nhất quán hoặc không nhất quán trong khi giao hợp, trong khi
thời gian trễ xuất tinh là trong phạm vi bình thường hoặc thậm chí có thể
kéo dài hơn. Nó không nên được coi là triệu chứng hay biểu hiện của bệnh
lý y học thực sự.
1.5. Các dạng biểu hiện của XTS [1]
Nam giới vừa trông thấy người phụ nữ đẹp hoặc chỉ cần có cảm xúc
hay nghĩ đến tình dục đã xuất tinh.
Nam giới vừa chạm vào cơ thể người phụ nữ hoặc chỉ cọ xát bên ngoài

đã xuất tinh.
Dương vật người nam giới đủ cương cứng đưa vào âm đạo người phụ
nữ, nhưng chỉ qua vài nhịp dập đã xuất tinh.


23

Cuộc giao hợp có thể kéo dài hơn, nhưng chỉ được một vài phút, người
nam giới đã bị xuất tinh mặc dù cố gắng kìm hãm nhưng không được; trong
khi đó, người phụ nữ chưa kịp cảm nhận gì hoặc chưa tới giai đoạn cảm hứng
cao độ.
1.6. Nguyên nhân XTS [1],[15],[16]
1.6.1. Nguyên nhân tâm lý
Là nguyên nhân được nhiều tác giả nhắc đến. Để có thời gian giao hợp
được bình thường phải có sự thăng bằng nhịp nhàng giữa quá trình hưng phấn
và ức chế. Hưng phấn quá nhạy cảm có thể dẫn đến XTS.
Trước những tình huống quá xúc động, hồi hộp mà bản thân không đủ
sức để kiềm chế nổi. Nam giới ở lứa tuổi mới thành niên, trong những lần
giao hợp đầu tiên, vì chưa thể làm quen ngay với những xúc động hết sức mới
lạ và quá kích động cho nên XTS.
Cũng có trường hợp đột ngột gặp gỡ người bạn tình quá hấp dẫn ngoài
cả sự mong ước của mình đâm ra hấp tấp, luống cuống thiếu sự tự chủ rồi
cũng bị XTS.
Tại một số vùng trên thế giới, theo tập tục người đàn ông được quyền
lấy nhiều vợ và không hề quan tâm đến khoái cảm của người vợ. Trong giao
hợp, người chồng chỉ muốn kết thúc sớm để tiếp tục với người vợ khác. Và
cũng có thể do thiếu tri thức cho rằng thời gian XTS như vậy là một việc bình
thường của cơ thể con người.
Ảnh hưởng của một số tín ngưỡng cho rằng hoạt động tình dục là một
quá trình tội lỗi cho nên kết thúc càng nhanh càng tốt.

Sự mâu thuẫn trong hôn nhân gia đình gây ra chán chường chăn gối coi
như đó chỉ là những nghĩa vụ phải làm.
Những cuộc tình vụng trộm kéo dài cần phải trốn tránh gia đình và dư
luận xã hội cho nên khi hành xử cả đôi bên đều mong muốn và giục giã nhau


24

kết thúc cho nhanh. Tất cả những tâm lý đó tiếp diễn nhiều lần trong đời sống
tạo thành một cung phản xạ có điều kiện in hằn trong vỏ não, rất khó có thể
xóa bỏ được.
Sự thất bại trong mỗi lần giao hợp dẫn đến việc xuất tinh quá sớm do
một nguyên nhân cụ thể nào đó của từng người. Điều này đã dai dẳng ám ảnh
người bệnh gây ra bực bội, chán nản, lo lắng thành một mặc cảm vĩnh viễn
không thể nào xóa bỏ được mỗi khi nguyên nhân cụ thể đó lại xuất hiện.
Những khó chịu gây ra từ phía người phụ nữ trong cuộc giao hợp, thái độ
lãnh cảm miễn cưỡng, sự chểnh mảng trong việc vệ sinh cơ thể gây ra những
mùi hôi đặc biệt làm ức chế lòng ham muốn tiếp tục QHTD. Người chồng phải
cố xuất tinh nhanh để kết thúc. Thời gian đó lâu dần trở thành cố tật.
Một nguyên nhân còn đang tranh cãi đó là việc thủ dâm. Phần lớn
những BN XTS có tiền sử lúc thiếu thời đã thủ dâm nhiều lần. Cho đến nay,
chưa có một bằng chứng khoa học nào kết luận thủ dâm sẽ gây XTS, nhưng
người ta vẫn đưa ra một giả thuyết cho rằng: Việc thủ dâm lâu dài sẽ dần dần
hình thành nên một phản xạ XTS có điều kiện, từ đó dẫn đến việc XTS trong
những lần QHTD thực sự về sau.
1.6.2. Nguyên nhân thực thể
Quá tăng nhạy cảm vùng dương vật: trong quá trình giao hợp dương vật
được đưa vào âm đạo (lúc này cũng bị co bóp do kích thích). Đầu dương vật
tiếp xúc với cổ tử cung như một ổ gối đệm. Quá trình ma sát theo “nhịp dập’’
tạo nên cảm giác kích thích. Cảm giác đó truyền tới các hạch giao cảm gần cơ

quan xuất tinh rồi truyền tiếp theo cơ chế hưng phấn tăng dần. Quá tăng nhạy
cảm vùng dương vật, nhất là đầu dương vật, làm cho quá hưng phấn diễn ra
mau lẹ hơn dẫn tới việc xuất tinh nhanh hơn [33],[34].
Thay đổi giải phẫu dương vật: thay đổi giải phẫu dương vật làm dương
vật bị cong do bẩm sinh (như: ngắn hãm quy đầu dương vật, thiểu sản vật


25

hang, thiểu sản vật xốp,...) hoặc do mắc phải (như: chấn thương dương vật,
viêm nhiễm dương vật,...) có thể gây XTS.
Các bệnh viêm nhiễm vùng chậu hông: Viêm tuyến tiền liệt mạn tính,
trĩ tắc mạch và gây đau, trĩ nội viêm mạn tĩnh, nhiễm trùng tổ chức liên kết
quanh tuyến tiền liệt và rò quanh hậu môn... Điều này tác động lên các xung
động hướng tâm từ niệu đạo sau làm giảm ngưỡng cần thiết cho sự phóng tinh
qua phản xạ trung gian gây nên XTS.
Một số bệnh rối loạn nội tiết: suy sinh dục, mãn dục nam, tăng
prolactin máu, RLCD đều gây ảnh hưởng đến chức năng cương và xuất tinh.
Giả thiết về sự tăng nhạy cảm của các thụ cảm serotonin: sự tăng nhạy
cảm của các thụ cảm serotonin (thụ cảm 5 – HT2C và 5 – HT1A) ở thần kinh
trung ương dẫn đến hiện tượng XTS đã được nhiều tác giả thừa nhận. Dựa
trên giả thuyết này, đã có nhiều nghiên cứu ứng dụng các thuốc chống trầm
cảm để điều trị XTS cho hiệu quả khả quan [35],[36],[37],[38].
1.7. Chẩn đoán [14]
Chẩn đoán XTS chủ yếu dựa vào hỏi bệnh.
1.7.1. Công cụ chẩn đoán: IELT + các loại bảng kiểm
Thời gian xuất tinh IELT (Intravaginal Ejaculation Latency Time IELT) được tính từ lúc đưa được dương vật vào âm đạo đến khi phóng tinh.
Đơn vị là phút.
Các loại bảng kiểm:
- PEDT: Premature Ejaculation Diagnostic Tool (phụ lục 1).

- PEP: Premature Ejaculation Profile (phụ lục 2).
- PRO’S: Patient-reported outcome measures (phụ lục 3).
- PESI: Premature Ejaculation Severity Index (phu lục 4).


×