Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

đề cương ôn tập giáo dục học (tâm lý - giáo dục)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (708.57 KB, 86 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA TÂM LÝ – GIÁO DỤC HỌC

GIÁO DỤC HỌC
(ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP)

Người biên soạn: TS. Mai Quốc Khánh

Hà Nội, năm 2016
1


CÁC NỘI DUNG CƠ BẢN
Phần 1: Những cơ sở chung của giáo dục học
Chương 1. Giáo dục học là một khoa học về giáo dục con người
I.GD là hiện tượng đặc trưng của xã hội loài người
II.Một số khái niệm cơ bản của GDH
Chương 2: Giáo dục với sự phát triển xã hội và phát triển cá nhân
I.Vai trò của GD với sự PT xã hội
II.GD và sự phát triển nhân cách
Chương 3: Mục đích và nguyên lý giáo dục
I. Khái niệm, mục đích, mục tiêu giáo dục
II. Mục tiêu giáo dục Việt Nam
III. Nguyên lý giáo dục
Phần 2: Lý luận và tổ chức quá trình dạy học ở nhà trường phổ thông
Chương 1: Quá trình dạy học
I. Khái quát về quá trình dạy học
II. Bản chất của quá trình dạy học
III.Động lực và logic của quá trình dạy học
IV. Nhiệm vụ của quá trình dạy học ở phổ thông
VI.Các nguyên tắc dạy học


Chương 7. Phương pháp và phương tiện dạy học
I. Khái quát về phương pháp dạy học
II. Hệ thống các phương pháp dạy học
III.Các phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh
Chương 8. Tổ chức dạy học trong nhà trường phổ thông
1.Khái niệm về hình thức tổ chức dạy học
3.1.Hình thức tổ chức dạy học lên lớp
Phần 3: Lý luận và tổ chức quá trình giáo dục
Chương 10. Quá trình giáo dục
I. Khái niệm quá trình giáo dục
II. Bản chất và đặc điểm của quá trình giáo dục
III.Động lực và logic của quá trình giáo dục
IV.Các nguyên tắc giáo dục
Chương 12. Phương pháp giáo dục
I. Khái niệm phương pháp giáo dục
II.Hệ thống phương pháp giáo dục
III. Lựa chọn và sử dụng các phương pháp giáo dục
2


Phần 1
NHỮNG CƠ SỞ CHUNG CỦA GIÁO DỤC HỌC
Chương 1
GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC VỀ GIÁO DỤC CON NGƯỜI
Vấn đề 1: Tại sao nói giáo dục được nảy sinh từ nhu cầu tất yếu của sự tồn tại và phát triển xã hội
(Trình bày và phân tích nguồn gốc phát sinh của giáo dục)
- Từ khi xuất hiện con người trên trái đất, để có thể tồn tại và phát triển, loài người không ngừng
nhận thức thế giới xung quanh cũng như thế giới bên trong con người mình. Nhờ đó mà con người ngày
càng tích luỹ được nhiều kinh nghiệm phong phú, đa dạng trong mọi lĩnh vực hoạt động có liên quan đến
tự nhiên, xã hội và tư duy.

- Không phải chỉ nhận thức thế giới mà loài người còn tự giác tích cực vận dụng sáng tạo những kinh
nghiệm này để cải tạo thế giới xung quanh, đồng thời cải tạo chính bản thân mình, nhằm phục vụ mục đích sống
của mình, xây dựng và phát triển xã hội về mọi mặt để toàn xã hội và mỗi cá nhân ngày càng có cuộc sống văn
minh hơn. Qua đó kinh nghiệm của loài người lại không ngừng được phát triển.
- Xã hội loài người có sự nối tiếp giữa các thế hệ. Để xã hội có sự tồn tại và ngày càng phát triển lên những trình độ
cao hơn, loài người phải phấn đấu không mệt mỏi qua các thế hệ trong suốt quá trình phát triển lịch sử xã hội. Vì vậy,
những thế hệ trước phải truyền lại kinh nghiệm đã tích luỹ được cho thế hệ trẻ để họ có thể kế thừa, phát triển và
tiếp tục đưa xã hội không ngừng vận động đi lên, mang lại cho con người ngày càng nhiều phúc lợi, làm cho
chất lượng cuộc sống ngày càng cao.
- Sự truyển thụ và lĩnh hội hệ thống những kinh nghiệm đó về thực chất là sự giáo dục của thế hệ đi
trước đối với thế hệ đi sau.
- Nói khác đi, giáo dục là một nhu cầu tất yếu của xã hội cà sự xuất hiện hiện tượng giáo dục trong xã
hội là một tất yếu lịch sử.
Vấn đề 2: Tại sao nói giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt.
Cùng với sự xuất hiện xã hội loài người thì cũng nảy sinh một hiện tượng : người lớn “truyền lại”
cho trẻ em những kinh nghiệm của mình và trẻ em “lĩnh hội” những kinh nghiệm đó.
- Lúc đầu được thực hiện một cách tự phát, diễn ra theo cơ chế bắt chước.
- Sau đó được thực hiện một cách tự giác. Nhân loại đặt tên cho hiện tượng này là giáo dục.
Như vậy, bản chất của giáo dục chính là dạy học. Dạy học xuất hiện cùng với sự xuất hiện của xã
hội loài người, là hiện tượng tất yếu của xã hội loài người.
- Chủ thể của sự truyền đạt kinh nghiệm xã hội là thế hệ đi trước, là người lớn. Tương ứng với
hoạt động này, chủ thể của sự lĩnh hội là thế hệ sau, là trẻ em.
- Nội dung của sự truyền đạt và lĩnh hội là kinh nghiệm xã hội : là hệ thống tri thức, phương thức,
cách thức tiến hành hoạt động và hệ thống thái độ trong việc đánh giá cảm xúc, giá trị đối với nền văn hóa
được con người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử.
Kinh nghiệm của loài người có bản chất xã hội và mang tính lịch sử, do vậy, kinh nghiệm xã hội
chỉ có ở loài người.
Sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội của con người được thực hiện một cách sáng tạo và linh
hoạt, đa dạng và phong phú chứ không bài bản, thô cứng và duy nhất như của động vật khác.
- Mục đích của sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội là vì lợi ích chung của xã hội và cá nhân.

+ Với cá nhân, nhờ sự lĩnh hội kinh nghiệm xã hội mà mỗi cá nhân có thể tái tạo được năng lực
người cho bản thân nhờ đó có sự phát triển tâm lý, ý thức và phát triển nhân cách.
+ Với xã hội, nhờ sự lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội mà thế hệ đi sau mới bảo tồn được nên
văn hóa do thế hệ trước sáng tạo ra, trên cơ sở đó mới có thể phát triển nền văn hóa đó. Như vậy, một xã
hội muốn tồn tại, phát triển, xã hội đó buộc phải tổ chức giáo dục.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra những kết luận khẳng định giáo dục là một hiện tượng xã
hội đặc biệt chỉ có trong xã hội loài người.
- Giáo dục là hiện tượng nảy sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội loài người. Nó phản ánh một
hoạt động đặc biệt của con người và mối quan hệ của con người khi tham gia hoạt động đó trong xã hội.
Đó là hoạt động tái sản xuất những nhân cách, tái sản xuất những nhu cầu và năng lực của con người.
3


- Giáo dục là một chức năng của xã họi. Nhờ chức năng giáo dục mà xã hội có sự tái sản xuất các
hoạt động xã hội. Chức năng giáo dục đã góp phần tái sản xuất xã hội. Giáo dục là một nhu cầu sống còn
của xã hội. Vì thế, giáo dục mang bản chất xã hội và trước hết nó phải là công việc mà bất kì giai cấp nào
nắm quyền lãnh đạo xã hội đều phải thực hiện. Do đó, giáo dục mang tính lịch sử và giai cấp.
- Giáo dục là một hiện tượng tất yếu, do đó, nó mang tính phổ biến và vĩnh hằng đối với xã hội.
Đây là một trong những tính chất đặc trưng của giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội đặc biệt.
Vấn đề 3. Trình bày các tính chất của Giáo dục
Tính phổ biến, vĩnh hằng của giáo dục
- Giáo dục chỉ có ở xã hội loài người, nó là một phần không thể tách rời của đời sống xã hội, giáo
dục có ở mọi thời đại, mọi thiết chế xã hội khác nhau.
- Giáo dục xuất hiện cùng với sự xuất hiện của xã hội và nó mất đi khi xã hội không tồn tại, là
điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân và xã hội loài người.
- Như vậy, giáo dục tồn tại cùng với sự tồn tại của xã hội loài người, là con đường đặc trưng cơ
bản để loài người tồn tại và phát triển.
Tính lịch sử của giáo dục (Giáo dục chịu sự qui định của xã hội)
- Giáo dục là một hoạt động gắn liền với tiến trình đi lên của xã hội, ở mỗi giai đoạn phát triển của
lịch sử đều có nền giáo dục tương ứng, khi xã hội chuyển từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái

kinh tế – xã hội khác thì toàn bộ hệ thống giáo dục tương ứng cũng biến đổi theo.
- Giáo dục chịu sự quy định của xã hội, nó phản ánh trình độ phát triển kinh tế – xã hội và đáp ứng
các yêu cầu kinh tế – xã hội trong những điều kiện cụ thể. Giáo dục luôn biến đổi trong quá trình phát
triển của lịch sử loài người, không có một nền giáo dục rập khuôn cho mọi hình thái kinh tế – xã hội, cho
mọi giai đoạn của mỗi hình thái kinh tế – xã hội cũng như cho mọi quốc gia, chính vì vậy g iáo dục mang
tính lịch sử. Ở mỗi thời kì lịch sử khác nhau thì giáo dục khác nhau về mục đích, nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức giáo dục. Các chính sách giáo dục luôn được hoàn thiện dưới ảnh hưởng của những
kinh nghiệm và các kết quả nghiên cứu.
Tính giai cấp của giáo dục
- Trong xã hội có giai cấp, giáo dục bao giờ cũng mang tính giai cấp.
- Giáo dục thuộc về một giai cấp xác định – giai cấp thống trị xã hội.
- Giáo dục được sử dụng như một công cụ để duy trì và củng cố vai trò thống trị của mình.
- Giáo dục cũng được sử dụng như một công cụ, phương tiện để đấu tranh giai cấp – đối với giai
cấp bị bóc lột, bị thống trị.
- Giáo dục làm phương tiện đánh tranh, lật đổ giai cấp thống trị
- Tính giai cấp của giáo dục thường được biểu hiện qua mục đích giáo dục và nó chi phối, định
hướng chính trị đối với sự vận động và phát triển của giáo dục.
- Theo V.I.Lênin: Trong xã hội có giai cấp, không thể có thêm một nền giáo dục, một nhà trường
nào lại đứng trên hay đứng ngoài giai cấp.
Ở Việt Nam, mục đích của Nhà nước ta là hướng tới xoá bỏ áp bức bóc lột, từ đó hướng tới sự bình
đẳng, công bằng trong giáo dục. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực cơ bản vẫn
có những mặt trái khó tránh được, nhà nước ta đã cố gắng đưa ra những chính sách đảm bảo công bằng trong
giáo dục như:
– Mọi công dân đều có quyền tiếp cận hệ thống giáo dục.
– Đảm bảo cho những học sinh, sinh viên có năng khiếu, tài năng tiếp tục được đào tạo lên cao bất
kể điều kiện kinh tế, hoàn cảnh, giới tính, dân tộc, tôn giáo v.v. .
– Tiến hành xoá mù chữ, phổ cập giáo dục.
– Đa dạng, mềm dẻo các loại hình đào tạo, các loại hình trường lớp nhằm tạo cơ hội học tập cho
mọi tầng lớp nhân dân.
Vấn đề 4: Phân biệt các khái niệm: Giáo dục (theo nghĩa rộng), Dạy học và Giáo dục (theo nghĩa hẹp)

Giáo dục (theo nghĩa rộng) là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội dung và
bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong các cơ quan giáo dục, nhằm hình
thành nhân cách cho họ.
4


Giáo dục (theo nghĩa hẹp) là quá trình hình thành cho người được giáo dục lí tưởng, động cơ, tình
cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội
thông qua việc tổ chức cho họ các hoạt động và giao lưu.
Dạy học là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học nhằm giúp cho người học lĩnh hội
những tri thức khoa học, kĩ năng hoạt động nhận thức và thực tiễn, phát triển các năng lực hoạt động sáng tạo, trên
cơ sở đó hình thành thế giới quan và các phẩm chất nhân cách của người học theo mục đích giáo dục.
* Phân biệt các khái niệm trên
Các khái niệm trên gắn với các quá trình giáo dục (theo nghĩa rộng), quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp) và quá
trình dạy học được phân biệt ở sự khác nhau về việc thực hiện chức năng trội cuả chúng:
- Chức năng trội của giáo dục (theo nghĩa rộng): phát triển nhân cách toàn diện ở người học sinh bao
gồm cả năng lực và phẩm chất
- Chức năng trội của giáo dục (theo nghĩa hẹp) : phát triển về mặt phẩm chất ở người học sinh
- Chức năng trội của dạy học triển về mặt năng lực ở người học sinh
Chương 2
GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÀ PHÁT TRIỂN CÁ NHÂN
Vấn đề 1: Hãy trình bày và phân tích các chức năng xã hội của giáo dục, từ đó rút ra những kết luận sư
phạm cần thiết.
Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm hình
thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của xã hội.
Với tư cách là một hiện tượng xã hội, giáo dục tác động vào từng cá nhân để trở thành những nhân
cách theo yêu cầu phát triển của xã hội. Giáo dục tác động đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến
các quá trình xã hội mà con người là chủ thể. Những tác động đó, xét dưới góc độ xã hội học, được gọi
là những chức năng xã hội của giáo dục. Giáo dục trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã thực hiện 3 chức
năng xã hội của mình: Chức năng kinh tế- sản xuất; chức năng chính trị- xã hội và chức năng tư

tưởng- văn hóa.
1. Chức năng kinh tế - sản xuất
Giáo dục tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo nên sức lao động mới có chất lượng cao hơn, thay
thế sức lao động cũ đã lạc hậu, đã già cỗi hoặc đã mất đi bằng cách phát triển những năng lực chung và
năng lực chuyên biệt của con người, nhằm tạo ra một năng suất lao động cao hơn, thúc đẩy sản xuất,
phát triển kinh tế xã hội.
Xã hội hiện đại đặt ra những yêu cầu cao đối với chất lượng nguồn nhân lực: có trình độ học vấn
cao, có tay nghề vững vàng, năng động, sáng tạo, linh hoạt để thích nghi, đáp ứng được những yêu
cầu của tiến trình phát triển xã hội. Dạy học theo tiếp cận năng lực là một trong giải pháp quan trọng
để phát triển năng lực hành động cho người học trong các nhà trường, đáp ứng được yêu cầu của thị
trường lao động hiện nay.
Kết luận sư phạm:
- Giáo dục luôn gắn kết với thực tiễn xã hội.
- Tiếp tục thực hiện mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
- Hệ thống giáo dục nhà trường không ngừng đổi mới nhằm phát triển năng lực hành động cho
người học, đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn nghề nghiệp.
2. Chức năng chính trị - xã hội
Giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội, tức là tác động đến các bộ phận, các thành phần xã hội (các
giai cấp, các tầng lớp, các nhóm xã hội...) làm thay đổi tính chất mối quan hệ giữa các bộ phận, thành
phần đó bằng cách nâng cao trình độ văn hóa chung cho toàn thể xã hội.
Giáo dục trở thành phương tiện, công cụ để khai sáng nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, củng cố
niềm tin, kích thích hành động của tất cả các lực lượng xã hội, nhằm duy trì, củng cố thể chế chính trịxã hội cho một quốc gia nào đó.
Giáo dục xã hội chủ nghĩa góp phần làm cho cấu trúc xã hội trở nên thuần nhất, làm cho các giai
cấp, các tầng lớp, các thành phần xã hội.. ngày càng xích lại gần nhau.
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước, đại diện cho quyền lực “của dân, do dân,
vì dân” trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục là sự nghiệp của
5


Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Giáo dục phục vụ cho mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội

công bằng, dân chủ, văn minh.
Kết luận sư phạm:
- Người giáo viên luôn phải nắm vững quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của
nhà nước.
- Giúp học sinh hiểu, tin tưởng và thực hiện theo đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của
nhà nước
3. Chức năng tư tưởng – văn hóa
Với chức năng tư tưởng- văn hóa, giáo dục tham gia vào việc xây dựng một hệ tư tưởng chi phối
toàn xã hội, xây dựng một lối sống phổ biến trong xã hội bằng cách phổ cập giáo dục phổ thông với
trình độ ngày càng cao cho mọi tầng lớp xã hội.
Thông qua giáo dục, những tư tưởng xã hội được thấm đến từng con người, giáo dục hình thành ở
con người thế giới quan, giáo dục ý thức, hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội. Nhờ giáo dục,
tất cả các giá trị văn hoá của nhân loại, của dân tộc, của cộng đồng được bảo tồn và phát triển, trở thành
hệ thống giá trị của từng con người.
Kết luận sư phạm
- Đa dạng hóa các loại hình và phương thức đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân,nhằm tạo cơ
hội cho người dân được đi học và học suốt đời
- Sử dụng sức mạnh của các phương tiện thông tin đại chúng.
Trong ba chức năng xã hội của giáo dục, chức năng kinh tế - sản xuất là chức năng quan trọng
nhất, nó là cơ sở để thực hiện chức năng chính trị - xã hội, chức năng tư tưởng – văn hóa.
Vấn đề 2: Trình bày khái niệm cá nhân, nhân cách và sự phát triển nhân cách.
1. Khái niệm con người, cá nhân và nhân cách
- Con người là một thực thể sinh vật- xã hội mang bản chất xã hội, là chủ thể của hoạt động nhận thức
và thực tiễn, của những quan hệ xã hội và giao tiếp.
- Cá nhân là một thực thể sinh vật- xã hội- văn hóa với các đặc điểm về sinh lý, tâm lý và xã hội trong
sự liên hệ thống nhất với các chức năng xã hôi chung của loài người.
- Nhân cách là hệ thống giá trị làm người mà cá nhân đạt được với sự trưởng thành về phẩm chất và
năng lực trong quá trình thực hiện các chức năng xã hội của mình, được xã hội đánh giá và thừa nhận.
2. Khái niệm sự phát triển cá nhân
Phát triển cá nhân thực chất là khẳng định bản chất xã hội của con người, khẳng định trình độ

phát triển nhân cách của chính cá nhân. Sự phát triển nhân cách cá nhân được biểu hiện qua những
dấu hiệu sau:
- Sự phát triển về mặt thể chất: Thể hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao, trọng lượng, cơ bắp, sự
hoàn thiện chức năng các giác quan, sự phối hợp các chức năng vận động của cơ thể.
- Sự phát triển về mặt tâm lý: Thể hiện sự biến đổi cơ bản trong đời sống tâm lý của cá nhân: trình độ
nhận thức, khả năng tư duy, quan điểm, lập trường, thói quen, xúc cảm, tình cảm, tâm tư, nguyện vọng,
nhu cầu, ý chí, v.v...
- Sự phát triển về mặt xã hội: Thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử trong các mối quan hệ với những
người xung quanh, ở tính tích cực nhận thức tham gia vào các hoạt động cải biến, phát triển xã hội.
3. Các yếu tố và vai trò của nó đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân
Yếu tố
Vai trò
Sinh học (Di truyền – Bẩm sinh)
Tiền đề vật chất
Môi trường
Điều kiện
Giáo dục
Chủ đạo
Hoạt động cá nhân
Quyết định trực tiếp
Vấn đề 3: Hãy phân tích vai trò của yếu tố giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, từ
đó rút ra những kết luận sư phạm cần thiết.
Trả lời
1. Khái niệm con người, cá nhân và nhân cách
6


- Con người là một thực thể sinh vật- xã hội mang bản chất xã hội, là chủ thể của hoạt động nhận thức
và thực tiễn, của những quan hệ xã hội và giao tiếp.
- Cá nhân là một thực thể sinh vật- xã hội- văn hóa với các đặc điểm về sinh lý, tâm lý và xã hội trong

sự liên hệ thống nhất với các chức năng xã hôi chung của loài người.
- Nhân cách là hệ thống giá trị làm người mà cá nhân đạt được với sự trưởng thành về phẩm chất và
năng lực trong quá trình thực hiện các chức năng xã hội của mình, được xã hội đánh giá và thừa nhận.
2. Khái niệm sự phát triển cá nhân
Phát triển cá nhân thực chất là khẳng định bản chất xã hội của con người, khẳng định trình độ
phát triển nhân cách của chính cá nhân. Sự phát triển nhân cách cá nhân được biểu hiện qua những
dấu hiệu sau:
- Sự phát triển về mặt thể chất: Thể hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao, trọng lượng, cơ bắp, sự
hoàn thiện chức năng các giác quan, sự phối hợp các chức năng vận động của cơ thể.
- Sự phát triển về mặt tâm lý: Thể hiện sự biến đổi cơ bản trong đời sống tâm lý của cá nhân: trình độ
nhận thức, khả năng tư duy, quan điểm, lập trường, thói quen, xúc cảm, tình cảm, tâm tư, nguyện vọng,
nhu cầu, ý chí, v.v...
- Sự phát triển về mặt xã hội: Thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử trong các mối quan hệ với những
người xung quanh, ở tính tích cực nhận thức tham gia vào các hoạt động cải biến, phát triển xã hội.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân
- Yếu tố Di truyền – Bẩm sinh
- Yếu tố Môi trường
- Yếu tố hoạt động cá nhân
- Yếu tố giáo dục
4. Khái niệm giáo dục
Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa nhà giáo dục và người được giáo dục
nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của xã hội.
5. Vai trò của yếu tố giáo dục
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách, bởi vì nó được
thực hiện theo định hướng thống nhất vì mục đích nhân cách lí tưởng mà xã hội đang yêu cầu.
6. Vai trò của yếu tố giáo dục đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách được thể hiện:
- Giáo dục không chỉ vạch ra chiều hướng, mục tiêu hình thành và phát triển nhân cách của học
sinh mà còn tổ chức, chỉ đạo, dẫn dắt học sinh thực hiện quá trình đó đến kết quả mong muốn.
- Giáo dục là những tác động tự giác có điều khiển, có thể mang lại những tiến bộ mà các yếu tố di
truyền bẩm sinh hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể tạo ra được do tác động tự phát.

- Giáo dục có sức mạnh cải biến những nét tính cách, hành thành phẩm chất lệch lạc không phù
hợp vối yêu cầu, chuẩn mực của xã hội. Đó chính là kết quả quan trọng của giáo dục lại đối với trẻ em
hư hoặc người phạm pháp.
- Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết tật hoặc thiểu năng do bệnh tật, tai nạn
hoặc bẩm sinh, di truyền tạo ra. Nhờ có sự can thiệp sớm, nhờ có phương pháp giáo dục, rèn luyện đặc biệt
cùng với sự hỗ trợ của các phương tiện khoa học có thể giúp cho người khuyết tật, thiểu năng phục hồi một
phần chức năng đã mất hoặc phát triển các chức năng khác nhằm bù trừ những chức năng bị khiếm khuyết,
giúp cho họ hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng.
- Giáo dục là những tác động có điều khiển và điều chỉnh cho nên không những thích ứng với các
yếu tố di truyền, bẩm sinh, môi trường, hoàn cảnh trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách
mà nó còn có khả năng kìm hãm hoặc thúc đẩy các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình đó theo một gia tốc
phù hợp mã di truyền và môi trường không thể thực hiện được.
Chú ý: Liên hệ để xây dựng ví dụ minh họa cho từng nội dung
7 Kết luận sư phạm
- Cần có nhận thức đúng đắn về vai trò của giáo dục đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
- Biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục ở người học
- Tổ chức quá trình giáo dục một cách khoa học, hợp lý:
+ Phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý HS
+ Yêu cầu giáo dục mang tính vừa sức với HS
+ Tổ chức các hoạt động và giao lưu đa dạng, phong phú cho HS
7


+ Lựa chọn nội dung giáo dục phù hợp và các phương pháp giáo dục khoa học
+ Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa nhà giáo dục và người được giáo dục
+ Khơi dậy khả năng tiềm ẩn, tố chất di truyền, tính tích cực trong hoạt động cá nhân của học sinh
nhằm mang lại hiệu quả cho quá trình giáo dục
Chương 3
MỤC ĐÍCH VÀ NGUYÊN LÝ GIÁO DỤC
Vấn đề 1: Phân tích khái niệm mục đích và mục tiêu giáo dục

1. Khái niệm mục đích giáo dục
Mục đích của một hoạt động nói chung là kết quả dự kiến mà mỗi con người, mỗi hệ thống cần
phấn đấu để đạt được. Mục đích có tác dụng định hướng, chỉ đạo toàn bộ quá trình hoạt động. Chất lượng,
hiệu quả của một hoạt động phụ thuộc nhiều vào việc xác định mục đích ban đầu.
Mục đích giáo dục luôn được xem là một phạm trù cơ bản của Giáo dục học, có vị trí quan trọng
trong lý luận và thực tiễn giáo dục. Nó định hướng cho hệ thống giáo dục từ việc nghiên cứu lý luận đến
việc tổ chức các hoạt động thực tiễn giáo dục và quản lý giáo dục.
Mục đích giáo dục chính là mô hình lý tưởng về sản phẩm giáo dục. Đó là mô hình khách quan
về nhân cách người học sinh mà nhà trường và xã hội phải đào tạo, trong đó nêu lên những thuộc tính cơ
bản, những nét đặc trưng cơ bản về một kiểu người phù hợp với yêu cầu của xã hội trong từng giai đoạn
lịch sử cụ thể. Những yêu cầu thể hiện trong mục đích giáo dục chính là các chuẩn mực, bao hàm các hệ
thống giá trị về văn hóa, khoa học, kỹ thuật, về đạo đức, thẩm mỹ mà xã hội cũng như thời đại đặt ra cho
ngành giáo dục.
Mục đích giáo dục phản ánh kết quả mong muốn trong tương lai của quá trình giáo dục. Vì vậy,
mục đích giáo dục còn được là sản phẩm dự kiến của giáo dục, được xây dựng theo “đơn đặt hàng’ của xã
hội về một kiểu người (kiểu nhân cách). Mục đích giáo dục phải được xây dựng trước khi tiến hành các
hoạt động giáo dục cụ thể.
2. Khái niệm mục tiêu giáo dục
Mục đích giáo dục có phạm vi bao quát rộng đối với toàn bộ cấu trúc hệ thống và các lĩnh vực
khác nhau của hệ thống giáo dục quốc dân. Khi vận dụng vào từng cấp độ, từng bộ phận người ta đề cập
đến thuật ngữ mục tiêu giáo dục
Mục tiêu giáo dục là những tiêu chí, chỉ tiêu, những yêu cầu cụ thể đối với từng khâu, từng nhiệm vụ, từng
nội dung của quá trình giáo dục phải đạt được sau một hoạt động giáo dục.
Mục tiêu giáo dục là biểu hiện cụ thể của mục đích giáo dục. Mục tiêu giáo dục là những bậc
thang nối tiếp nhau dẫn đến mục đích giáo dục, khi các mục tiêu giáo dục đạt được có nghĩa là chúng ta
đã tiệm cận tới mục đích giáo dục.
3. Mối quan hệ giữa mục đích và mục tiêu giáo dục
Mục đích giáo dục và mục tiêu giáo dục có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó, chi phối lẫn nhau.
Hai khái niệm này được dùng trong lĩnh vực giáo dục, đồng thời nó cùng dùng trong một chu
trình, đều nói đến kết quả mong muốn đạt được của hoạt động giáo dục, giảng dạy, học tập.

Mục đích giáo dục chủ yếu nói về sự hướng tới nơi muốn đến, kết quả mong muốn đạt được. Mục tiêu
giáo dục nói về kết quả cụ thể cần phải đạt được trong thực tế, cho nên mục tiêu phải cụ thể hơn mục đích,
Xét tổng quát, hai khái niệm này có nội hàm tương tự, nhưng khác nhau ở mức độ rộng, hẹp và
phạm vi, cấp độ vận dụng. Xuất phát từ mục đích giáo dục để xác định mục tiêu giáo dục, nhưng mục
đích giáo dục sẽ được hoàn thiện ở sự thực hiện hệ thống các mục tiêu giáo dục.
Mục đích giáo dục có cấu trúc phức tạp do nhiều mục tiêu giáo dục tạo thành. Tuy nhiên, mục
đích giáo dục không phải là tổng số các mục tiêu giáo dục, không phải là phép cộng giản đơn mà là một
sự kết hợp có quy luật.
Vấn đề 2: Trình bày các đặc điểm của mục đích giáo dục
1. Mục đích giáo dục là một phạm trù mang tính lịch sử
Tính lịch sử của mục đích giáo dục thể hiện ở việc mục đích giáo dục được xác định căn cứ vào
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học- công nghệ và văn hóa, của sự khẳng định hệ tư
tưởng và lối sống trong từng giai đoạn nhất định của từng chế độ xã hội nhất định. Mục đích giáo dục
8


phản ánh một cách tập trung, cô đọng nhất các yêu cầu về nội dung giáo dục mà hệ thống giáo dục, hoạt
động thực tiễn giáo dục phải thực hiện.
Ở mỗi giai đoạn phát triển lịch sử xã hội sẽ có một nền giáo dục và có mục đích giáo dục tương ứng.
Mục đích giáo dục luôn thay đổi cùng sự phát triển của lịch sử để đáp ứng các yêu cầu của từng thời đại.
2. Mục đích giáo dục có tính giai cấp
Trong xã hội có giai cấp mục đích giáo dục mang tính giai cấp bởi giai cấp thống trị sử dụng giáo
dục như một công cụ của nó. Tính giai cấp của giáo dục thể hiện tập trung nhất ở mục đích giáo dục.
Trong xã hội có giai cấp, mục đích giáo dục phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị, nó phản ánh ý
chí, quyền lợi của giai cấp thống trị nhằm đào tạo những lớp người củng cố chế độ thống trị. Như vậy,
mỗi chế độ xã hội khác nhau có một mục đích giáo dục đặc thù.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, mục đích giáo dục là sự thống nhất giữa yêu cầu khách quan của sự
phát triển có tính quy luật của xã hội với nguyện vọng chủ quan của mỗi thành viên về sự phát triển
nhân cách bản thân. Sự thống nhất đó biểu hiện ở yêu cầu đồng thời là nguyện vọng phát triển toàn
diện và hài hòa nhân cách của mỗi thành viên trong xã hội

3. Mục đích giáo dục mang tính dân tộc.
Mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng có những đặc điểm riêng về truyền thống và bản sắc văn hóa, về tập
quán trong cuộc sống và lao động xã hội. Vì thế, mỗi quốc gia đều có một nền giáo dục riêng với
những đặc điểm độc đáo, có những yêu cầu phù hợp với giáo dục và điều đó cũng được thể hiện ở mục
đích giáo dục.
4. Mục đích giáo dục mang tính thời đại
Trong thời đại ngày nay, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, nền kinh tế tri
thức và xu thế toàn cầu hóa đang trở thành hiện thực, giáo dục thế kỷ XXI đang đặt ra nhiều thách thức
cần giải quyết, chúng có liên quan đến việc xác định mục đích giáo dục của mỗi quốc gia. Giáo dục
cần hướng tới mục đích giáo dục người công dân toàn cầu đáp ứng với yêu cầu của mỗi quốc gia và
thời đại.
Vấn đề 3: Hãy trình bày và phân tích mục tiêu giáo dục Việt Nam
Mục tiêu giáo Việt Nam được xác định theo từng cấp độ dưới dây:
1. Mục tiêu ở cấp độ tổng quát
Mục tiêu giáo dục tổng quát đối với sự phát triển xã hội là lời tuyên bố chính thức của Nhà nước về
cái đích phải hướng tới của nền giáo dục quốc gia. Mục tiêu giáo dục được ghi trong các Văn kiện
chính thức của Đảng và Nhà nước, được cả xã hội và nhà trường quán triệt,thực hiện một cách sáng
tạo. Đó là “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Mục tiêu
giáo dục được thể hiện ở 3 nội dung cơ bản sau đây.
- Nâng cao dân trí đồng nghĩa với việc nâng cao trình độ học vấn cho nhân dân và hình thành nếp
sống văn hóa cho cộng đồng xã hội.
- Vấn đề đào tạo nhân lực phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa được xem là mục tiêu có tầm chiến
lược trong phát triển giáo dục hiện nay. Chất lượng và hiệu quả lao động trong thời đại cách mạng khoa học –
công nghệ luôn phụ thuộc vào trình độ được đào tạo của nguồn nhân lực.
- Giáo dục phải có các biện pháp nhằm thực hiện tốt nhất tư tưởng chiến lược về đào tạo, bồi dưỡng nhân
tài. Việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài phải được tiến hành trên cơ sở phổ cập rộng rãi để có thể sàng lọc,
lựa chọn, đồng thời phải có điều kiện về cơ sở vật chất, kinh tế, tài chính.
Tóm lại, mục tiêu giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài được đặt trên cơ
sở phát triển nhân cách của thế hệ trẻ Việt Nam. Mỗi công dân Việt Nam phải là người lao động có lý

tưởng, có năng lực chuyên môn, có bản lĩnh làm chủ đất nước mình. Để phát triển và hội nhập toàn
cầu, Việt Nam đang cần một lớp thanh niên có ý chí vươn lên làm giàu vì sự thành đạt của bản thân, vì
hạnh phúc gia đình, cộng đồng và sự phồn vinh của đất nước.
2. Mục tiêu nhân cách
Nền giáo dục Việt Nam luôn luôn coi trọng việc xây dựng con người phát triển toàn diện, con
người vừa có đức, vừa có tài, hồng thắm chuyên sâu.

9


Mục tiêu giáo dục nhân cách của nước ta qua các thời kỳ lịch sử khác nhau đã được xác định rõ trong
các Văn kiện của Đảng, từ Cương lĩnh của Đảng năm 1930 đến Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX năm
2001.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mô hình nhân cách con người Việt Nam đã
được xác định trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII là:
“… xây dựng những con người và thế hệ thiết tha, gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hóa và hiện
đại hóa đất nước, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, có năng lực hấp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy
tính tích cực của cá nhân, làm chủ. Có tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có
kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật, có sức khỏe, là những
người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ”.
3. Mục tiêu ở cấp độ hệ thống giáo dục
Mục tiêu ở các cấp độ hệ thống giáo dục được cụ thể hóa như sau:
Mục tiêu giáo dục mầm non: Điều 22, Luật giáo dục (2009) quy định:
Mục tiêu giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành
những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào học lớp một.
Mục tiêu của giáo dục phổ thông: Điều 27, Luật giáo dục (2009) quy định:
1. Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con

người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục
học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia lao động và bảo vệ Tổ quốc.
2. Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và
lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất và các kỹ năng cơ bản, để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
3. Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những két quả của giáo dục
tiểu học, có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng
nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
4. Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo
dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và
hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại
học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp: Điều 33, Luật giáo dục (2009) quy định:
Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở
các trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có
sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người lao động có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp
tục học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, củng
cố quốc phòng an ninh.
Trung cấp chuyên nghiệp nhằm đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng thực hành cơ bản của
một nghề, có khả năng làm việc độc lập và có tính sáng tạo, ứng dụng công nghệ vào công việc..
Dạy nghề nhằm đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành
nghề tương xứng với trình độ đào tạo.
Mục tiêu của giáo dục đại học: Điều 39, Luật giáo dục (2009) quy định:
1. Mục tiêu của giáo dục đại học là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức
phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có
sức khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Đào tạo trình độ cao đẳng giúp sinh viên có kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành cơ bản
để giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành được đào tạo.
3. Đào tạo trình độ đại học giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành
thành thạo, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành
được đào tạo.

4. Đào tạo trình độ thạc sỹ giúp học viên nắm vững lý thuyết, có trình độ cao về thực hành, có khả
năng làm việc độc lập, sáng tạo và có năng lực phát hiện, giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành
được đào tạo.
10


5. Đào tạo trình độ tiến sĩ giúp nghiên cứu sinh có trình độ cao về lý thuyết và thực hành, có năng
lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, phát hiện và giải quyết những vấn đề mới về khoa học, công nghệ,
hướng dẫn nghiên cứu khoa học và hoạt động chuyên môn.
Như vậy, mục tiêu giáo dục bao gồm một hệ thống những yêu cầu cho từng ngành học, cấp học,
trình độ đào tạo. Chúng chuyển nối tay nhau để đưa sự nghiệp giáo dục Việt Nam ngày càng tiến gần
đến mục đích giáo dục tổng thể mang tính lý tưởng và đầy tính nhân văn.
4. Mục tiêu giáo dục ở cấp độ chuyên biệt
Mục tiêu giáo dục ở cấp độ chuyên biệt là những chỉ tiêu, những yêu cầu cụ thể cần phải đạt được
như mục tiêu dạy, mục tiêu học, mục tiêu của chương trình, của môn học…Những mục tiêu này cần
được lượng hóa để có thể đo lường được. Mục tiêu ở cấp độ này thường bao gồm ba mặt, đó là kiến
thức, kỹ năng và thái độ mà người học phải đạt được trong quá trình học tập.
Kiến thức là hệ thống những khái niệm, phạm trù, những thông tin khoa học theo nội dung từng
môn học, từng chuyên ngành cụ thể. Kết quả học tập của học sinh được đánh giá về số lượng và chất
lượng kiến thức mà họ đã tiếp thu được. Nền tảng kiến thức là cơ sở cho việc hình thành kỹ năng và
thái độ của người học.
Kỹ năng là khả năng thực hiện và kết quả thực hiện các công việc cụ thể sau khi học sinh đã qua một
chương trình học tập hay một khóa huấn luyện. Trình độ kỹ năng được đánh giá bằng chất lượng sản phẩm
do học sinh thể hiện.
Thái độ là biểu hiện ý thức của học sinh đối với kiến thức đã tiếp thu được và những dự định ứng dụng
chúng vào cuộc sống. Thái độ được biểu hiện trong mối quan hệ của bản thân với gia đình, với xã hội và
với công việc được giao. Thái độ là một mặt của phẩm chất nhân cách, được biểu hiện trong cuộc sống và
được đánh giá qua hành vi của con người trong cuộc sống hàng ngày.
Vấn đề 4: Trình bày những đặc điểm của nguyên lý giáo dục Việt Nam
1. Khái niệm về nguyên lý giáo dục

Nguyên lý giáo dục là những luận điểm chung nhất, có tính quy luật của lý thuyết giáo dục, có vai
trò định hướng, chỉ đạo các hoạt động giáo dục trong nhà trường.
2. Đặc điểm của nguyên lý giáo dục
Nguyên lý giáo dục có một số đặc điểm sau:
(1) Nguyên lý giáo dục là một tư tưởng giáo dục có tầm thời đại. Những nội dung của nguyên lý vừa
phản ánh phương châm giáo dục truyền thống của Việt Nam, đồng thời là tư tưởng có tầm thời đại.
(2) Nguyên lý giáo dục là tư tưởng giáo dục được khái quát từ bản chất của giáo dục - Là một hiện
tượng xã hội, chịu sự chi phối bởi các quy luật xã hội. Giáo dục là một bộ phận của hoạt động xã hội,
trình độ xã hội quy định trình độ giáo dục.
(3) Nguyên lý giáo dục được khái quát từ bản chất của quá trình dạy học, trong đó hoạt động học
tập của người học bao gồm hoạt động nhận thức và hoạt động thực hành; hoạt động giảng dạy của giáo
viên về thực chất là quá trình tổ chức các hoạt động học tập của người học một cách có ý thức.
(4) Nguyên lý giáo dục được rút ra từ bản chất của quá trình giáo dục – là quá trình tổ chức hoạt
động và giao lưu nhằm giúp người được giáo dục tự giác tích cực chuyển hóa những yêu cầu chuẩn
mực xã hội thành hành vi, thói quen tương ứng.
(5) Nguyên lý giáo dục chính là một tư tưởng giáo dục được xây dựng xuất phát từ mục đích giáo
dục và trở thành phương thức để thực thi mục đích giáo dục.
(6) Nguyên lý giáo dục còn được đúc rút từ những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục qua nhiều thời đại
Vấn đề 5: Phân tích nội dung của nguyên lý giáo dục Việt Nam
Điều 3, Luật giáo dục (2009) của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ghi: “Hoạt động
giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất,
lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”.
Nội dung của nguyên lý giáo dục có bốn điểm quan trọng cần lưu ý:
Học đi đôi với hành: Là một tư tưởng giáo dục vừa truyền thống vừa hiện đại, vừa có tính khoa
học vừa có tính thực tiễn. Bản chất của tư tưởng này như sau:

11


Quá trình dạy học ở các nhà trường cần tổ chức sao cho người học cần phải làm tốt, đồng thời việc

học (lĩnh hội hệ thống tri thức khoa học) và việc hành (luyện tập để vận dụng tri thức hình thành hệ
thống kỹ năng, kỹ xảo, đồng thời hình thành thái độ tình cảm tốt đẹp).
Học đi đôi với hành là một phương pháp học tập có hiệu quả. Bởi vì chúng hỗ trợ và thúc đẩy
nhau làm cho hiệu quả học tập cao hơn, có ý nghĩa thực tiễn hơn.
Học đi đôi với hành được thực hiện ở nhiều mức độ khác nhau. Trước hết, hành được tiến hành ở việc
vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các bài tập, nhiệm vụ học tập như hệ thống bài tập thực hành các
môn học, các giờ thực hành, thí nghiệm trong phòng thí nghiệm. Ví dụ, giáo viên có thể yêu cầu học sinh tiểu
học vận dụng công thức tính diện tích hình chữ nhật để giải một bài toán trong chương trình, vận dụng kỹ
năng thuyết trình để thuyết trình về một nội dung học tập.. . Mức độ hành cao hơn là người học phải vận
dụng tri thức để giải quyết các tình huống, nhiệm vụ trong thực tiễn mới mẻ. Học sinh cần biết vận dụng công
thức tính diện tích hình chữ nhật để tính diện tích phòng ở, sân nhà để biết tính toán cần bao nhiêu viên gạch
với các kích cỡ khác nhau lát đủ phòng ở và sân nhà…
Vì vậy, đòi hỏi các nhà trường cần tổ chức các hoạt động thực tiễn các hoạt động ngoại khóa,
người giáo viên trong dạy học cần đưa ra các loại bài tập, nhiệm vụ học tập phong phú, đa dạng, cần
nâng dần mức độ khó khăn yêu cầu người học có sự nỗ lực trong giải quyết, đảm bảo tốt mối quan hệ
học đi đôi với hành.
Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất là tư tưởng giáo dục của nhà trường hiện đại. Tư tưởng
này được thể hiện như sau:
Giáo dục lao động được xác định là một nội dung trong giáo dục toàn diện nhân cách người học.
Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất nhằm thực hiện nguyên tắc giáo dục “Giáo dục trong lao động và
bằng lao động” làm cho lao động sản xuất vừa là môi trường vừa là phương tiện giáo dục học sinh.
Lý luận gắn liền với thực tiễn là tư tưởng quan trọng đối với quá trình giáo dục và đào tạo trong
nhà trường Việt Nam.
Chúng ta biết rằng, giáo dục là một bộ phận của xã hội, mục đích giáo dục được xuất phát từ yêu
cầu của xã hội, hay nói cách khác phải đáp ứng sự phát triển của xã hội. Vì vậy, nội dung giáo dục của
nhà trường không tách rời thực tiễn đất nước đang biến động từng ngày.
Lý luận gắn liền với thực tiễn đòi hỏi trong quá trình giảng dạy lý luận, giáo viên cần phải chú ý
phân tích, lý giải các sự kiện, hiện tượng thực tiễn bằng những cơ sở khoa học xác đáng; biết tích hợp,
lồng ghép những nội dung có tính thực tiễn vào từng bài giảng giúp người học có cơ hội tiếp cận với
những vấn đề thực tiễn cấp thiết; cần thường xuyên liên hệ với thực tiễn sinh động của cuộc sống, với

những thành tựu về khoa học, công nghệ trong nước và trên thế giới, làm cho bài học mang hơi thở của
cuộc sống, lý luận không còn khô khan, khó hiểu, ngược lại bài học trở nên sinh động, giúp người học
nắm vững lý luận và hiểu rõ thực tiễn, làm cho chất lượng hiệu quả giáo dục được nâng cao..
Giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Giáo dục là quá trình chịu tác động từ nhiều nhân tố, trong đó có cả tác động của những yếu tố tự giác, tích
cực và những yếu tố tự phát, tiêu cực. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Sự phát triển
nhân cách của người học chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như bẩm sinh di truyền, môi trường, giáo dục và
hoạt động của cá nhân. Vì thế, một nguyên tắc mà quá trình giáo dục phải quán triệt đó là “Thống nhất giữa
giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và giáo dục của cộng đồng xã hội”.
Nhà trường có trách nhiệm chủ động phối hợp, huy động sự tham gia của gia đình, các tổ chức xã
hội để thực hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục.
Giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội sẽ phát huy sức mạnh của
phong trào xã hội hóa giáo dục, tạo điều kiện cho sự nghiệp giáo dục đi đến thành công. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng nói “Giáo dục nhà trường dù tốt đến mấy, nếu không có giáo dục gia đình thì kết quả
cũng không hoàn toàn”.
Vấn đề 6: Trình bày phương hướng quán triệt nguyên lý giáo dục Việt Nam
Quán triệt nguyên lý giao dục đòi hỏi các cấp từ trung ương, đến địa phương; từ nhà trường đến
gia đình, xã hội phải thực hiện các biện pháp sau:
- Cần chú ý xây dựng nội dung, chương trình giáo dục và đào tạo cho từng ngành học, cấp học,
trình độ đào tạo đảm bảo tính toàn diện, cân đối giữa các môn lý thuyết và môn thực hành; giữa nội dung
lý thuyết và nội dung thực hành; giữa nội dung chính khóa và nội dung ngoại khóa;
12


- Quy trình đào tạo đảm bảo và giáo dục đảm bảo tính chuẩn mực, tính hiện đại và tính thực tiễn,
đảm bảo sự thống nhất giữa các môn lý thuyết và thực hành; thống nhất giữa các môn kiến thức chung
(đại cương) với kiến thức nghề nghiệp, giữa kiến thức cơ sở và chuyên ngành;
- Nhà trường quán triệt cho mọi giáo viên thường xuyên sử dụng phương pháp giáo dục tích cực,
phát huy vai trò tự giác, tích cực, độc lập của người học, lấy người học làm trung tâm. Trong mỗi giờ dạy
đòi hỏi người giáo viên liên hệ các nội dung tri thức với thực tiễn cuộc sống;

- Nhà trường xây dựng các cơ sở thực hành, thí nghiệm, các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề cho
học sinh; giúp các em vừa được học lý thuyết vừa được học thực hành và bước đầu làm quen với một số
ngành nghề cơ bản mà xã hội đang cần và hình thành những kỹ năng cơ bản và nguyên lý của nền sản
xuất hiện đại;
- Nhà trường cần xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh trên cơ sở chủ động phối hợp với các
lực lượng giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.

13


Phần 2
LÝ LUẬN VÀ TỔ CHỨC QUÁ TRÌNH DẠY HỌC Ở NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG
Chương 1
QUÁ TRÌNH DẠY HỌC
Vấn đề 1: Phân tích khái niệm quá trình dạy học theo cách tiếp cận hệ thống (Trình bày và phân tích
cấu trúc của quá trình dạy học)
Hệ thống là một hệ toàn vẹn bao gồm các thành tố có mối liên hệ thống nhất, tác động qua lại với nhau.
Theo cách tiếp hệ thống, khi xem xét quá trình dạy học ở một thời điểm nhất định, nó bao gồm
những thành tố như sau:
- Mục đích dạy học
+ Mục đích dạy học phản ánh tập trung những yêu cầu của xã hội đề ra cho quá trình dạy học.
+ Mục đích dạy học là nhân tố giữ vị trí hàng đầu trong quá trình dạy học.
+ Mục đích dạy học có chức năng định hướng cho sự vận động và phát triển của từng thành tố nói
riêng, quá trình dạy học nói chung.
- Nhiệm vụ dạy học
+ Nhiệm vụ dạy học chịu sự chi phối của mục dích dạy học.
+ Nhiệm vụ dạy học là những việc phải làm cụ thể theo yêu cầu phát triển và bồi dưỡng hệ thống
tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và tư duy sáng tạo, trên cơ sở đó hình thành thế giới quan khoa học, lí tưởng,
phẩm chất đạo đức con người.
- Nội dung dạy học

+ Nội dung dạy học bao gồm hệ thống những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà người học phải nắm vững
trong quá trình dạy học và các hoạt động mà giáo viên tổ chức.
+ Nội dung dạy học chịu sự chi phối bởi mục đích, nhiệm vụ dạy học đồng thời nó lại qui định việc
lựa chọn và vận dụng phối hợp các phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học.
- Giáo viên
+ Trong quá trình dạy học, người giáo viên là chủ thể của hoạt động giảng dạy, giữ vai trò chủ đạo
trong quá trình dạy học.
+ Người giáo viên với hoạt động dạy có chức năng tổ chức, hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động học của học sinh, đảm bảo cho học sinh thực hiện đầy đủ và có chất lượng cao những yêu cầu
đã được quy định phù hợp với mục đích dạy học .
- Học sinh
+ Người học sinh (và tập thể học sinh) một mặt là đối tượng của hoạt động dạy, mặt khác lại là
chủ thể của hoạt động học.
+ Hoạt động học của học sinh là hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, tự tổ chức, tự điều khiển
nhằm thu nhận, xử lí và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức của bản thân, qua đó người học thể
hiện mình, biến đổi mình, tự làm phong phú những giá trị của mình.
- Phương pháp dạy học
`
+ Phương pháp dạy học là cách dạy của giáo viên và cách học của học sinh,
+ Phương pháp dạy học có vai trò quyết định đối với chất lượng quá trình dạy học
- Phương tiện dạy học
+ Phương tiện kĩ thuật dạy học là công cụ nhận thức, công cụ thực hành, hỗ trợ cho học sinh học
tập một cách tích cực, sáng tạo.
+ Phương tiện dạy học đầy đủ, đồng bộ, hiện đại góp phần quan trọng để tạo nên chất lượng dạy học
- Hình thức tổ chức dạy học
Hình thức tổ chức dạy học là toàn bộ những cách thức tổ chức hoạt động của giáo viên và học sinh
trong quá trình dạy học ở thời gian và địa điểm nhất định, với việc sử dụng những phương tiện và phương
tiện dạy học cụ thể nhằm thực hiện những nhiệm vụ dạy học
- Kết quả dạy học
+ Kết quả dạy học phản ánh sự vận động, phát triển của quá trình dạy học.

+ Kết quả dạy học thể hiện tập trung ở kết quả học sinh đạt được trong quá trình học tập.
- Môi trường dạy học
14


+ Môi trường dạy học bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Trong đó môi trường xã
hội đóng vai trò quyết định.
+ Các môi trường này không chỉ tác động đến hoạt động dạy học nói chúng mà còn ảnh hưởng
đến tất cả các thành tố cấu trúc bên trong quá trình dạy học. Ngược lại, quá trình dạy học phát triển sẽ góp
phần thúc đẩy sự vận động đi lên của các môi trường bên ngoài.
Trong các nhân tố cấu trúc nên quá trình dạy học, nhân tố người giáo viên với hoạt động dạy và học
sinh với hoạt động học là những nhân tố trung tâm. Các nhân tố này đặc trưng cho tính hai mặt của quá trình
dạy học, mối quan hệ giữa hai thành tố trung tâm này tạo nên tính chất hai mặt của quá trình dạy học.
Như vậy, theo quan điểm tiếp cận hệ thống, cấu trúc của quá trình dạy học bao gồm một hệ thống
các thành tố (trong đó, bản thân mỗi thành tố lại là một cấu trúc hệ thống bao gồm các yếu tố) vận động,
phát triển trong mối quan hệ biện chứng và thống nhất với nhau tạo nên sự vận động, phát triển
chung của cả quá trình dạy học.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Quá trình dạy học là một quá trình dưới sự tổ chức, hướng dẫn
của người giáo viên, người học tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận
thức – học tập của mình, nhằm thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ dạy học.
Vấn đề 2: Trình bày và phân tích vai trò của người giáo viên trong quá trình dạy học
Trong quá trình dạy học, người giáo viên là chủ thể của hoạt động giảng dạy, giữ vai trò chủ đạo
trong quá trình dạy học. Người giáo viên với hoạt động dạy có chức năng tổ chức, hướng dẫn, tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động học của học sinh, đảm bảo cho học sinh thực hiện đầy đủ và có chất lượng
cao những yêu cầu đã được quy định phù hợp với mục đích dạy học . Hoạt động của người giáo viên
trong quá tình dạy học thể hiện như sau:
– Đề ra mục đích, yêu cầu nhận thức – học tập.
– Xây dựng kế hoạch hoạt động của mình và dự tính hoạt động tương ứng của người học.
– Tổ chức thực hiện hoạt động dạy của mình với hoạt động nhận thức – học tập tương ứng của
người học.

– Kích thích tính tự giác, tính tích cực, độc lập, chủ động sáng tạo của người học bằng cách tạo
nên nhu cầu, động cơ, hứng thú, khêu gợi tính tò mò, ham hiểu biết của người học, làm cho họ ý thức rõ
trách nhiệm, nghĩa vụ học tập của mình.
– Theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của người học, qua đó mà có những biện pháp điều chỉnh,
sửa chữa kịp thời những thiếu sót, sai lầm của họ cũng như trong công tác giảng dạy của mình.
Vấn đề 3: Trình bày và phân tích vai trò của học sinh trong quá trình dạy học
Học sinh (và tập thể học sinh) một mặt là đối tượng của hoạt động dạy, mặt khác lại là chủ thể của
hoạt động học. Hoạt động học của học sinh là hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, tự tổ chức, tự điều
khiển nhằm thu nhận, xử lí và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức của bản thân, qua đó người học
thể hiện mình, biến đổi mình, tự làm phong phú những giá trị của mình.
Tính tự giác nhận thức trong quá trình dạy học thể hiện ở chỗ người học ý thức đầy đủ mục đích,
nhiệm vụ học tập, qua đó họ nỗ lực nắm vững tri thức trong việc lĩnh hội tri thức.
Tính tích cực nhận thức là thái độ cải tạo của chủ thể đối với khách thể thông qua huy động ở mức
độ cao các chức năng tâm lí nhằm giải quyết những nhiệm vụ học tập.
Tính chủ động nhận thức là sự sẵn sàng tâm lí hoàn thành những nhiệm vụ nhận thức – học tập, nó
vừa là năng lực, vừa là phẩm chất tự tổ chức hoạt động học tập cho phép người học tự giải quyết vấn đề,
tự kiểm tra, tự đánh giá hoạt động
Học sinh là chủ thể nhận thức, tính chất hành động của họ có ảnh hưởng quyết định tới chất lượng
tri thức mà họ tiếp thu.
Quá trình học của người học có thể diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của người giáo viên như
diễn ra trong tiết học, hoặc dưới sự tác động gián tiếp của giáo viên như việc tự học ở nhà của học sinh.
* Dưới sự tác động trực tiếp của giáo viên, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động nhận thức học
tập của học sinh thể hiện ở các mặt:
– Tiếp nhận những nhiệm vụ, kế hoạch học tập do giáo viên đề ra.
– Tiến hành thực hiện những hành động, thao tác nhận thức – học tập nhằm giải quyết những
nhiệm vụ học tập.
15


– Tự điều chỉnh hoạt động nhận thức – học tập của mình dưới tác động kiểm tra, đánh giá của giáo

viên và tự đánh giá của bản thân.
– Phân tích những kết quả hoạt động nhận thức – học tập dưới tác động của giáo viên, qua đó mà cải
tiến hoạt động học tập.
* Dưới sự tác động gián tiếp của giáo viên, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động nhận thức học
tập của học sinh thể hiện ở các mặt:
– Tự lập kế hoạch hoặc cụ thể hoá các nhiệm vụ học tập của mình.
– Tự tổ chức hoạt động học tập bao gồm việc lựa chọn các phương pháp và phương tiện của mình.
– Tự kiểm tra, tự đánh giá và qua đó tự điều chỉnh trong tiến trình hoạt động học tập của mình.
– Tự phân tích các kết quả hoạt động nhận thức – học tập mà cải tiến phương pháp học tập của mình.
Vấn đề 4: Trình bày và phân tích mối quan hệ thống nhất giữa hoạt động dạy và hoạt động học
Trong các nhân tố cấu trúc nên quá trình dạy học, nhân tố người giáo viên với hoạt động dạy và học sinh
với hoạt động học là những nhân tố trung tâm. Các nhân tố này đặc trưng cho tính hai mặt của quá trình dạy học,
mối quan hệ giữa hai thành tố trung tâm này tạo nên tính chất hai mặt của quá trình dạy học.
Trong quá trình dạy học, người giáo viên là chủ thể của hoạt động giảng dạy, giữ vai trò chủ đạo
trong quá trình dạy học. Người giáo viên với hoạt động dạy có chức năng tổ chức, hướng dẫn, tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động học của học sinh, đảm bảo cho học sinh thực hiện đầy đủ và có chất lượng
cao những yêu cầu đã được quy định phù hợp với mục đích dạy học.
Người học sinh (và tập thể học sinh) một mặt là đối tượng của hoạt động dạy, mặt khác lại là chủ
thể của hoạt động học. Hoạt động học của học sinh là hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, tự tổ chức,
tự điều khiển nhằm thu nhận, xử lí và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức của bản thân, qua đó
người học thể hiện mình, biến đổi mình, tự làm phong phú những giá trị của mình.
Hoạt động dạy học đạt được hiệu quả tối ưu trong trường hợp có sự thống nhất biện chứng giữa
hoạt động dạy và hoạt động học của học sinh, trong đó sự nỗ lực của giáo viên và của học sinh trùng với
nhau tạo nên sự cộng hưởng của chính quá trình dạy học đó.
Hai mặt hoạt động dạy và hoạt động học phối hợp chặt chẽ với nhau, kết quả của hoạt động này
phụ thuộc vào hoạt động kia và ngược lại.
Mối quan hệ thống nhất giữa hoạt động dạy và hoạt động học như sau:
– Giáo viên đưa ra nhiệm vụ, yêu cầu nhận thức, những nhiệm vụ yêu cầu này có tác dụng đưa
học sinh vào tình huống có vấn đề, kích thích tư duy của học sinh, học sinh tự đưa ra nhiệm vụ học tập
cho mình.

– Học sinh ý thức được nhiệm vụ cần giải quyết, có nhu cầu giải quyết nhiệm vụ, biến các nhiệm
vụ khách quan thành yêu cầu chủ quan, giải quyết nhiệm vụ dưới sự chỉ đạo của giáo viên ở các mức độ
khác nhau.
– Giáo viên thu các tín hiệu ngược từ học sinh để giúp cho học sinh điều chỉnh hoạt động học, đồng
thời giúp cho giáo viên tự điều chỉnh hoạt động dạy của mình. Học sinh cũng thu tín hiệu ngược (tín hiệu
ngược trong) để tự phát hiện, tự đánh giá, tự điều chỉnh hoạt động học tập của mình
– Trên cơ sở xử lí những tín hiệu ngược, giáo viên đưa yêu cầu mới, học sinh cũng đưa yêu cầu
cho bản thân. giúp học sinh hoàn thành những nhiệm vụ học tập nhất định.
– Giáo viên phân tích đánh giá kết quả học tập của học sinh và của mình.
Vấn đề 5: Trình bày và phân tích các đặc điểm của quá trình dạy học ngày nay
Quá trình dạy học là một quá trình dưới sự tổ chức, hướng dẫn của người giáo viên, người học tự
giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức – học tập của mình,
nhằm thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ dạy học.
Các đặc điểm cơ bản của quá trình dạy học hiện nay như sau:
(1) Học sinh hiện nay có năng lực nhận thức phát triển hơn so với học sinh cùng độ tuổi trước
kia
Những kết quả nghiên cứu của các nhà tâm lý học trong và ngoài nước đã cho thấy: So với học
sinh cùng độ tuổi ở các thế hệ trước, học sinh phổ thông hiện nay có năng lực nhận thức phát triển hơn,
thông minh hơn. N gư ờ i t a gọ i đó là hi ệ n tư ợ n g tă ng t ốc p há t tr iể n củ a t r ẻ e m . H i ện
tư ợ n g tăn g tốc p há t tri ể n c ủ a tr ẻ em n gày n ay bi ể u hi ệ n ở ba dấ u hi ệu :
16


- Hi ệ n t ượ n g t ăn g t ốc ph á t t ri ển c hi ều c ao v à t rọn g l ượ n g c ơ t hể ;
- S ự tr ư ở n g t hàn h si n h dụ c sớ m ;
- S ự ph á t t ri ển tr í tu ệ s ớ m .
Năng lực nhận thức của học sinh ngày nay được phát triển sớm hơn và nhanh hơn so với trẻ em
cùng độ tuổi trước đây do nhiều yếu tố sau:
+ Sự cải thiện điều kiện sinh hoạt vật chất, tinh thần, sự đô thị hóa của xã hội hiện đại, cùng nhịp
độ phát triển nhanh của kinh tế- xã hội trong thời đại thông tin;

+ Giao lưu được mở rộng, tạo điều kiện trao đổi, phối kết hợp với nhau giữa các cá nhân với cá
nhân, cá nhân với cộng đồng;
+ Những phương tiện thông tin đại chúng, phương tiện nghe nhìn làm cho trẻ sớm trưởng thành
về tư duy và có thể tiếp nhận những lượng thông tin mới một cách nhanh chóng;
+ Sự mở rộng các loại hình hoạt động văn hóa- xã hội tạo cơ hội cho học sinh tiếp nhận những
lĩnh vực yêu thích phù hợp với nhu cầu và khả năng;
+ Sự đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học trong nhà trường tác động
mạnh đến sự phát triển năng lực trí tuệ của trẻ;
+ Mặt bằng dân trí ngày càng được nâng cao đã tác động tích cực đến giáo dục gia đình, kiến thức và
kỹ năng nuôi dạy và giáo dục con của cha mẹ học sinh ngày càng trở nên khoa học hơn. Chất lượng giáo dục
gia đình được nâng cao có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển năng lực nhận thức của trẻ.
Năng lực nhận thức phát triển thúc đẩy học sinh trở thành chủ thể tích cực của quá trình dạy học
ngày nay. Những người làm công tác giáo dục cần nhận thức rõ đặc điểm này và quán triệt vận dụng vào
quá trình dạy học trong lý luận cũng như thực tiễn. Cụ thể, cần:
+ Thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá về năng lực nhận thức, kinh nghiệm của học sinh ngày nay;
+ Đổi mới, hoàn thiện quá trình dạy học về mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức
và phương tiện dạy học, phân hóa và cá biệt hóa trong dạy học... cho phù hợp với sự phát triển năng lực
nhận thức của học sinh.
(2) Hoạt động học tập của học sinh được tích cực hoá trên cơ sở nội dung dạy học ngày càng được
hiện đại hoá.
Sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học, kỹ thuật - công nghệ hiện nay khiến nội dung dạy
học không ngừng được đổi mới, được hiện đại hoá. Từ thực tế đó nảy sinh mâu thuẫn giữa khối lượng tri thức
tăng hơn, phức tạp hơn với thời lượng học tập của học sinh trong quá trình dạy học có giới hạn.
Hướng giải quyết tích cực mâu thuẫn này là đổi mới phương pháp dạy học nhằm tích cực hoá hoạt
động học tập của người học.
Từ đặc điểm này đòi hỏi người giáo viên trong quá trình dạy học không chỉ là người cung cấp
thông tin mà quan trọng hơn, họ phải là người hướng dẫn học sinh biết cách tự mình thu thập, xử lý và vận
dụng thông tin. Còn học sinh trong quá trình học tập phải chú trọng học cách thu thập, xử lý và vận dụng
thông tin để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra trong học tập cũng như cuộc sống.
(3) Trong quá trình học tập hiện nay, nhu cầu hiểu biết của học sinh có xu hướng vượt ra khỏi nội

dung tri thức, kỹ năng do chương trình quy định
Xu hướng này thể hiện ở chỗ học sinh thường chưa thoả mãn với những tri thức được cung cấp qua
chương trình học tập. Các em luôn muốn biết thêm, biết sâu hơn hững điều đã học và nhiều điều mới lạ của
cuộc sống muôn màu muôn vẻ nhằm thoả mãn nhu cầu hiểu biết và các nhu cầu cần thiết khác của cuộc
sống.
Nguyên nhân của xu hướng này là:
+ Năng lực nhận thức của học sinh đã phát triển hơn trước và hoạt động nhận thức của họ được
tích cực hóa trong điều kiện phương pháp dạy học ngày càng hiện đại, các em không thỏa mãn với nội
dung do chương trình quy định, và muốn tìm hiểu, khám phá thêm những cái mới;
+ Học sinh có điều kiện thuận lợi để tiếp cận với những thông tin phong phú, đa dạng, làm kích
thích óc tò mò, ham hiểu biết của các em;
+ Quá trình hiện đại hóa nội dung dạy học diễn ra chậm, chưa bắt kịp với những thay đổi của
khoa học kỹ thuật và xã hội ngày càng diễn ra nhanh chóng. Vì vậy, học sinh phải tìm thêm những tri
thức mới ngoài phạm vi chương trình nhằm thỏa mãn nhu cầu, nguyện vọng của cá nhân và đáp ứng
những đòi hỏi của xã hội;
17


+ Các hình thức phân hóa dạy học trong nhà trường hiện đại hướng học sinh đi sâu tìm hiểu các
môn học theo hứng thú, năng khiếu của bản thân;
+ Tâm lý muốn chuẩn bị cho cuộc chạy đua tìm kiếm việc làm trong nền kinh tế thị trường của xã
hội hiện đại.
Để đáp ứng xu hướng trên, ngoài “phần cứng”, chương trình dạy học cần thiết kế các “phần
mềm” trong các môn học và tăng cường môn học tự chọn; cần tổ chức các hoạt động ngoại khoá nhằm
phát huy tiềm năng và hứng thú của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh kiểm nghiệm và mở mang vốn
hiểu biết của mình, có khả năng thích ứng nhanh với cuộc sống sau này.
(4) Quá trình dạy học hiện nay được tiến hành trong điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện dạy học
ngày càng hiện đại, đa dạng
Trong xã hội hiện đại, các phương tiện dạy học đã có rất nhiều thay đổi so với trước. Với sự phát
triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, các phương tiện kỹ thuật dạy học mới đã ra đời: Phim ảnh, vô

tuyến truyền hình, máy vi tính, máy dạy học và kiểm tra, các phầm mềm dạy học, các thiết bị đa phương
tiện... Các thiết bị hiện đại này cho phép đưa vào quá trình dạy học những nội dung sinh động, làm thay
đổi phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, mang đến cho quá trình dạy học một nhịp độ, phong cách
và trạng thái tâm lý mới.
Vấn đề 6: Hãy phân tích bản chất của quá trình DH, từ đó rút ra những kết luận sư phạm cần thiết.
1. Cơ sở xác định bản chất của quá trình dạy học
Bản chất của Quá trình dạy học được xác định dựa trên những cơ sở sau:
- Căn cứ vào các lý thuyết học tập- cơ sở tâm lý của việc dạy học;
- Căn cứ vào mối quan hệ giữa hoạt động nhận thức có tính chất lịch sử xã hội loài người (thể hiện ở
hoạt động nghiên cứu của các nhà khoa học) với hoạt động dạy học.Trong quá trình phát triển của
lịch sử xã hội thì hoạt động nhận thức có trước, hoạt động dạy học có sau. Hoạt động học tập của
học sinh chính là hoạt động nhận thức trong môi trường dạy học (môi trường sư phạm).
- Căn cứ vào mối quan hệ giữa dạy và học, giữa giáo viên và học sinh. Quá trình dạy học là quá
trình tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh. Xét cho cùng thì mọi tác động giữa giáo viên và học
sinh đều nhằm thúc đẩy hoạt động nhận thức của học sinh. Kết quả dạy học phản ánh tập trung ở kết
quả nhận thức của học sinh, cụ thể ở sự chiếm lĩnh hệ thống tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo, phát
triển trí tuệ, qua đó mà hoàn thiện nhân cách bản thân người học.
2. Bản chất của quá trình dạy học
Bản chất của quá trình dạy học là quá trình nhận thức và thực hành có tính độc đáo của học sinh
dưới sự tổ chức, hướng dẫn của người giáo viên nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học.
Quá trình học tập của học sinh là một quá trình nhận thức:
- Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào não người – đó là sự phản ánh tâm lí của con người
bắt đầu từ cảm giác đến tư duy, tưởng tượng. Quá trình học tập của học sinh cũng là quá trình như vậy. Với tư cách
là một thực thể xã hội có ý thức, học sinh có khả năng phản ánh một cách khách quan về nội dung và chủ quan về
hình thức, nghĩa là về nội dung học sinh có khả năng phản ánh đúng bản chất và những quy luật của thế giới khách
quan, còn về hình thức mỗi học sinh có phương pháp phản ánh riêng của mình, có cách hình thành khái niệm, xây
dựng cấu trúc lôgic riêng của mình.
- Quá trình nhận thức của học sinh cũng diễn ra theo quy luật nhận thức chung của loài người.
Quy luật này được phản ánh trong công thức nổi tiếng của Lênin “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng duy nhất của sự nhận thức chân lý,

nhận thức hiện thực khách quan”.
- Trong quá trình học tập, muốn nhận thức đầy đủ một vấn đề, một sự vật, hiện tượng trong thế
giới khách quan, học sinh cần phải huy động các thao tác tư duy (cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng,
phán đoán, suy lý…) ở mức độ cao nhất. Việc huy động các thao tác tư duy cũng không theo một trình tự
đơn thuần mà đó là một sự phối hợp sáng tạo tùy thuộc vào mỗi cá nhân. Điều này cũng tương tự với quá
trình nhận thức chung của loài người.
- Kết quả của quá trình học tập ở học sinh và kết quả của quá trình nhận thức nói chung của loài người
đều có điểm chung là làm cho vốn hiểu biết của chủ thể tăng lên. Sau mỗi một giai đoạn nhận thức, vốn hiểu biết
của chủ thể tăng lên nhờ sự tích lũy những tri thức, hình thành những kinh nghiệm mới trong quá trình nhận thức
của mình.
18


Từ những phân tích trên cho thấy, hoạt động học tập của học sinh thực chất là hoạt động nhận thức
và hoạt động dạy của giáo viên là tổ chức hoạt động nhận thức.
Quá trình học tập của học sinh là một quá trình nhận thức độc đáo:
Quá trình nhận thức của học sinh, tuy có những nét cơ bản giống quá trình nhận thức của loài người,
của các nhà khoa học nhưng cũng có những đặc điểm riêng, cần đặc biệt chú ý trong quá trình dạy học.
- Quá trình học tập của học sinh là quá trình nhận thức cái mới đối với bản thân mình rút ra từ kho
tàng hiểu biết chung của nhân loại. Ở đây có điều đáng chú ý là trong thời gian học ở nhà trường phổ
thông, học sinh không thể nắm vững toàn bộ kho tàng hiểu biết đó, mà chỉ phải nắm vững những tri thức
phổ thông, cơ bản, cần thiết cho cá nhân, xã hội trong mỗi giai đoạn phát triển. Những tri thức này rút ra
từ các nhà khoa học và được người thầy gia công về mặt sư phạm đối với nội dung dạy học, vận dụng các
phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học một cách khoa học và nghệ thuật để thúc đẩy tối ưu hoạt
động nhận thức của học sinh, tránh được những vấp váp, sai lầm. Trên cơ sở đó, chỉ trong thời gian học
tập ngắn, học sinh đã nắm vững các tri thức một cách thuận lợi.
- Con đường nhận thức của học sinh về cơ bản là thuận lợi, tuy có những lúc quanh co, khúc
khuỷu do hoạt động tìm kiếm chân lý mới gây ra. Các nhà khoa học phải đảm đương nhiệm vụ khó khăn,
gian khổ nhưng cũng rất vinh quang là độc lập đi vào những bí ẩn của thế giới khách quan, phát hiện và
chứng mình những cái chưa hề biết trong tự nhiên, xã hội, tư duy…, từ đó nắm được bản chất và các quy

luật của chúng, nghĩa là tìm ra được những chân lý mới làm sâu sắc và phong phú thêm kho tàng tri thức
của nhân loại.
- Quá trình học tập của học sinh phải tiến hành theo các khâu của quá trình dạy học: Lĩnh hội tri thức
mới, củng cố, vận dụng, kiểm tra, đánh giá tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nhằm biến chúng thành tài sản của bản thân.
- Thông qua hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học, cần hình thành ở học sinh
thế giới quan, động cơ, các phẩm chất của nhân cách phù hợp với chuẩn mực xã hội.
- Quá trình nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học diễn ra dưới vai trò chủ đạo của giáo
viên (lãnh đạo, tổ chức, điều khiển) cùng với những điều kiện sư phạm nhất định.
Từ những phân tích trên cho thấy, quá trình học tập của học sinh là quá trình nhận thức độc đáo.
Quá trình thực hành của học sinh có tính độc đáo:
Hoạt động thực hành của học sinh trong quá trình dạy học do được tiến hành dưới sự tổ chức,
hướng dẫn, điều khiển của người giáo viên nên nó có những nét độc đáo. Nét độc đáo đó được thể hiện ở
chỗ, hoạt động thực hành được thực hiện ở nhiều mức độ khác nhau, gắn với nội dung các môn học, và
được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ.
Trước hết, hành được tiến hành ở việc vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các bài tập, nhiệm
vụ học tập như hệ thống bài tập thực hành các môn học, các giờ thực hành, thí nghiệm trong phòng thí
nghiệm.
Mức độ hành cao hơn là người học phải vận dụng tri thức để giải quyết các tình huống, nhiệm vụ
trong thực tiễn mới mẻ. Các nhiệm vụ, bài toán, tình huống trong thực tiễn luôn muôn hình, muôn vẻ,
luôn mới lạ, đòi hỏi người học phải linh hoạt, sáng tạo trên cơ sở nắm chắc kiến thức đã học. Nhờ vậy
hành của người học sẽ da dạng hơn, yêu cầu cao hơn, người học có cơ hội để luyện tập tốt hơn và phát
triển được năng lực nhận thức và thực hành ở những mức độ mới.
3. Kết luận sư phạm
- Không nên quá cường điệu những nét riêng biệt, độc đáo trong hoạt động học tập của người học.
Nếu như vậy sẽ rơi vào xu hướng sai lầm là chỉ chú trọng truyền đạt cho học sinh một số tri thức có sẵn,
quy trình hoạt động máy móc, mà coi nhẹ việc tổ chức cho học sinh độc lập nghiên cứu để nắm lấy tri
thức và rèn luyện phương pháp học tập, phương pháp nghiên cứu.
- Trong quá trình dạy học, bên cạnh việc trang bị cho học sinh những tri thức khoa học cơ bản, tổ
chức thực hành để hình thành kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống thì người giáo viên còn cần chú ý sử
dụng những phương pháp dạy học, đề xuất các bài tập nhận thức có tác dụng phát huy được tính tích cực,

chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập, giúp họ tiếp cận với hoạt động nhận thức của các
nhà khoa học.
Vấn đề 7: Chứng minh rằng quá trình học tập của người học sinh là một quá trình nhận thức.
- Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào não người – đó là sự phản ánh tâm lí của con người bắt
đầu từ cảm giác đến tư duy, tưởng tượng. Quá trình học tập của học sinh cũng là quá trình như vậy. Với tư cách là
19


một thực thể xã hội có ý thức, học sinh có khả năng phản ánh một cách khách quan về nội dung và chủ quan về
hình thức, nghĩa là về nội dung học sinh có khả năng phản ánh đúng bản chất và những quy luật của thế giới khách
quan, còn về hình thức mỗi học sinh có phương pháp phản ánh riêng của mình, có cách hình thành khái niệm, xây
dựng cấu trúc lôgic riêng của mình.
- Quá trình học tập của học sinh cũng diễn ra theo công thức nổi tiếng của V.I.Lênin về quá trình nhận thức
“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng
duy nhất của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thức khách quan”. Toàn bộ quá trình nhận thức chung của loài
người cũng như của học sinh đều thể hiện theo hướng đó, song trong từng giai đoạn cụ thể, tùy theo điểm xuất phát
trong quá trình nhận thức mà có thể hoặc đi từ cụ thể đến khái quát hoặc đi từ khái quát đến cụ thể.
- Trong quá trình học tập, muốn nhận thức đầy đủ một vấn đề, một sự vật, hiện tượng trong thế
giới khách quan, học sinh cần phải huy động các thao tác tư duy (cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng,
phán đoán, suy lý…) ở mức độ cao nhất. Việc huy động các thao tác tư duy cũng không theo một trình tự
đơn thuần mà đó là một sự phối hợp sáng tạo tùy thuộc vào mỗi cá nhân. Điều này cũng tương tự với quá
trình nhận thức chung của loài người.
- Kết quả của quá trình nhận thức nói chung của loài là làm cho vốn hiểu biết của chủ thể nhận
thức được tăng lên. Trong quá trình học tập của học sinh cũng vậy, sau mỗi một giai đoạn nhận thức, vốn
hiểu biết của học sinh tăng lên nhờ sự tích lũy những tri thức, hình thành những kinh nghiệm mới.
Kết luận sư phạm
Trong quá trình dạy học, giáo viên phải ý thức được trách nhiệm của mình là giúp học sinh nhận
thức, tức là giúp các em tìm tòi, khám phá ra những điều mới lạ trong cuộc sống để làm giàu thêm vốn
hiểu biết của bản thân. Trong quá trình hướng dẫn đó, giáo viên phải tuân theo con đường nhận thức
chung của nhân loại, cần coi trọng việc hướng dẫn học sinh tích lũy tri thức từ nhiều nguồn thông tin khác

nhau; tổ chức cho học sinh thực hành tri thức đã học; tích cực vận dụng các thao tác trí tuệ từ thấp đến cao
trong quá trình tích lũy và vận dụng tri thức; bồi dưỡng khả năng tự học, tự nghiên cứu và những phẩm chất
cần thiết của nhà khoa học tương lai.
Vấn đề 8: Chứng minh rằng quá trình học tập của người HS là một quá trình nhận thức độc đáo.
Quá trình nhận thức của học sinh, tuy có những nét cơ bản giống quá trình nhận thức của loài người, của
các nhà khoa học nhưng cũng có những đặc điểm riêng, cần đặc biệt chú ý trong quá trình dạy học.
- Quá trình học tập của học sinh là quá trình nhận thức cái mới đối với bản thân mình rút ra từ kho tàng
hiểu biết chung của nhân loại. Ở đây có điều đáng chú ý là trong thời gian học ở nhà trường phổ thông, học sinh
không thể nắm vững toàn bộ kho tàng hiểu biết đó, mà chỉ phải nắm vững những tri thức phổ thông, cơ bản, cần
thiết cho cá nhân, xã hội trong mỗi giai đoạn phát triển. Những tri thức này rút ra từ các nhà khoa học và được
người thầy gia công về mặt sư phạm đối với nội dung dạy học, vận dụng các phương pháp và các hình thức tổ
chức dạy học một cách khoa học và nghệ thuật để thúc đẩy tối ưu hoạt động nhận thức của học sinh, tránh được
những vấp váp, sai lầm. Trên cơ sở đó, chỉ trong thời gian học tập ngắn, học sinh đã nắm vững các tri thức một
cách thuận lợi.
- Con đường nhận thức của học sinh về cơ bản là thuận lợi, tuy có những lúc quanh co, khúc
khuỷu do hoạt động tìm kiếm chân lý mới gây ra. Các nhà khoa học phải đảm đương nhiệm vụ khó khăn,
gian khổ nhưng cũng rất vinh quang là độc lập đi vào những bí ẩn của thế giới khách quan, phát hiện và
chứng mình những cái chưa hề biết trong tự nhiên, xã hội, tư duy…, từ đó nắm được bản chất và các quy
luật của chúng, nghĩa là tìm ra được những chân lý mới làm sâu sắc và phong phú thêm kho tàng tri thức
của nhân loại.
- Quá trình học tập của học sinh phải tiến hành theo các khâu của quá trình dạy học: Lĩnh hội tri thức
mới, củng cố, vận dụng, kiểm tra, đánh giá tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nhằm biến chúng thành tài sản của bản thân.
- Thông qua hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học, cần hình thành ở học sinh
thế giới quan, động cơ, các phẩm chất của nhân cách phù hợp với chuẩn mực xã hội.
- Quá trình nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học diễn ra dưới vai trò chủ đạo của giáo
viên (lãnh đạo, tổ chức, điều khiển) cùng với những điều kiện sư phạm nhất định.
Từ những phân tích trên cho thấy, quá trình học tập của học sinh là quá trình nhận thức độc đáo.
Kết luận sư phạm
20



- Quá trình dạy học cần phải chú ý tới tính độc đáo trong quá trình nhận thức của học sinh để tránh sự đồng
nhất quá trình nhận thức chung của loài người với quá trình nhận thức của người học sinh.
- Cần quan tâm đến việc tổ chức cho học sinh dần dần tìm hiểu và tập tham gia các hoạt động tìm tòi
khám phá khoa học vừa sức, nâng cao dần để chuẩn bị cho họ tự khai thác tri thức, tham gia nghiên cứu khoa
học trong tương lai.
Vấn đề 9: Phân tích khái niệm động lực của quá trình dạy học
Theo triết học duy vật biện chứng, mọi quá trình trong thế giới khách quan không ngừng vận
động và phát triển. Sở dĩ như vậy là do có sự đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập, nghĩa là do có
mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong là nguồn gốc của sự phát triển, mâu
thuẫn bên ngoài là điều kiện của sự phát triển.
Quá trình dạy học trong hiện thực khách quan cũng vận động và phát triển do không ngừng giải
quyết các mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong của quá trình dạy học là mâu thuẫn giữa các thành tố và giữa các yếu tố
trong từng thành tố của quá trình dạy học.
- Mâu thuẫn giữa các thành tố của quá trình dạy học:
+ Giữa Mục đích, nhiệm vụ dạy học đã nâng cao và hoàn thiện và nội dung dạy học còn ở trình
độ lạc hậu
+Giữa mục đích dạy học được đề ra rất cao và phương tiện dạy học để đạt tới mục đích đó thường
còn hạn chế.
+ Giữa nội dung dạy học đã được hiện đại hóa và phương pháp, phương tiện còn lạc hậu, thô sơ.
+ Giữa nội dung, phương tiện dạy học đã được hiện đại hóa và trình độ giáo viên còn thấp
+ Giữa một bên là nhiệm vụ học tập do tiến trình dạy học đề ra và một bên là trình độ tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo và trình độ phát triển trí tuệ hiện có của người học
+Giữa những thành tố như trình độ của thầy và của trò,
+ Giữa nội dung dạy học đã được cải tiến nhưng phương pháp chưa được đổi mới,
+ Giữa phương pháp đổi mới với phương tiện dạy học chưa dảm bảo.
- Mâu thuẫn giữa những yếu tố của từng thành tố trong quá trình dạy học:
+ Trong mục đích dạy học: Mâu thuẫn giữa yêu cầu cao về nắm tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và yêu cầu
không đúng mức về mặt giáo dục

+ Trong hệ thống phương pháp dạy học: Phương pháp dạy học thuyết trình và phương pháp dạy
học vấn đáp
+ Trong phương pháp dạy học xuất hiện mâu thuẫn giữa việc sử dụng nhóm phương pháp dùng lời với
nhóm phương pháp trực quan. Nếu quá lạm dụng phương pháp trực quan sẽ làm giảm sự phát triển tư duy trừu
tượng, nếu quá lạm dụng phương pháp dùng lời bài giảng sẽ trở nên trừu tượng.
+ Trong nội dung dạy học: Yêu cầu đầy đủ về nắm tri thức và yêu cầu chưa đầy đủ về rèn luyện
kĩ năng kĩ xảo.
+ Giữa nội dung kiến thức mới và các kiến thức, kinh nghiệm cũ đã có của người học sinh.
Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa sự tiến bộ khoa học, công nghệ, văn hoá, sự phát triển
kinh tế – xã hội với từng thành tố của quá trình dạy học.
+ Giữa những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại và nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học lạc
hậu
+ Sự tiến bộ xã hội với nhiệm vụ dạy học chưa được nâng cao
Động lực của quá trình dạy học là kết quả của việc phát hiện và giải quyết tốt được những mâu thuẫn
bên ngoài, bên trong của quá trình dạy học, trong đó việc giải quyết các mâu thuẫn bên trong có ý nghĩa quyết
định sự phát triển, . Song trong những điều kiện nhất định, các mâu thuãn bên ngoài của quá trình dạy học lại có
ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự vận động và phát triển của quá trình dạy học.
Vấn đề 10: Phân tích mâu thuẫn cơ bản và những điều kiện để chúng trở thành động lực của quá
trình dạy học
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn tồn tại suốt từ đầu đến cuối quá trình, việc giải quyết các mâu thuẫn
khác, xét cho cùng đều phục vụ cho việc giải quyết nó.
21


Mâu thuẫn cơ bản của quá trình dạy học là mâu thuẫn giữa một bên là nhiệm vụ học tập do tiến
trình dạy học đề ra và một bên là trình độ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và trình độ phát triển trí tuệ hiện có
của người học.
Mâu thuẫn cơ bản khi xuất hiện dưới sự chỉ đạo của người giáo viên, học sinh tự lực hoặc được
sự hỗ trợ của giáo viên sẽ giải quyết nó. Nhờ đó người học được nâng cao trình độ và đáp ứng được
nhiệm vụ dạy học đề ra. Quá trình dạy học là quá trình liện tục đề ra các nhiệm vụ học tập và khi một

nhiệm vụ được giải quyết lại có nhiệm vụ khác xuất hiện và lại được giải quyết, cứ như vậy mà quá trình
dạy học không ngừng vận động và phát triển. Sự thúc đẩy giải quyết các mâu thuẫn cơ bản đó tạo ra
động lực cơ bản của quá trình dạy học.
Song, muốn quá trình dạy học phát triển thì quá trình học của học sinh phải tiến triển. Vì vậy,
mâu thuẫn cơ bản của quá trình dạy học phải chuyển hoá thành mâu thuẫn cơ bản của quá trình lĩnh hội
tri thức của học sinh.
Điều kiện để mâu thuẫn trở thành động lực của quá trình dạy học
- Mâu thuẫn phải được người học ý thức đầy đủ và sâu sắc. Điều đó có nghĩa là người học phải chuyển
hóa những mâu thuẫn của quá trình dạy học, những yêu cầu trong học tập và rèn luyện do người
dạy đưa ra thành mâu thuẫn và nhu cầu của chính bản thân mình, từ đó có mong muốn tự thân
giải quyết mâu thuẫn, tạo động lực cho sự phát triển.
- Mâu thuẫn đó phải vừa sức người học. Nói cách khác, yêu cầu, nhiệm vụ học tập phải phù
hợp với khả năng hoàn thành, phù hợp với “vùng phát triển trí tuệ gần nhất” của người học. Yêu
cầu cao quá hoặc thấp quá đều không có tác dụng thúc đẩy học sinh tích cực học tập. Nghệ thuật
của người dạy là biết dự đoán khả năng của người học để đề ra yêu cầu cho phù hợp.
- Mâu thuẫn phải do sự tiến triển tự nhiên của quá trình dạy học dẫn đến, phải di logic của nó quy định.
Nhiệm vụ của người dạy không phải là gạt bỏ mâu thuẫn cho người học, mà phải vạch rõ, khơi sâu mâu thuẫn,
làm cho người học thấy được sự cần thiết, có được hứng thú để giải quyết mâu thuẫn. Tiếp theo, người thầy
phải khéo léo và kiên nhẫn hướng dẫn người học tự lực giải quyết mâu thuẫn. Sau đó, làm xuất hiện mâu thuẫn
mới, mở ra viễn cảnh mới về việc học tập cho người học. Cứ như vậy, người học dần dần sẽ có được niềm vui
của nhận thức, tinh thần hăng say của học tập, khám phá những chân trời tri thức mới.
Ví dụ về cách xây dựng động lực của quá trình dạy học:
Hình thành phép cộng trong phạm vi 10
Điều kiện 1: Tồn tại mâu thuẫn và học sinh ý thức được mâu thuẫn.
Mâu thuẫn: Phép cộng trên phạm vi 10 (là tri thức cũ) mâu thuẫn với phép cộng trên phạm vi 10
(tri thức mới)
Điều kiện 2: Mâu thuẫn này là vừa sức với học sinh
- Tri thức cũ làm nền tảng, cơ sở cho tri thức mới, đã được học từ trước. Học sinh đã thành thạo sử
dụng phép tính cộng trong phạm vi 10.
- Số tự nhiên được cung cấp cho người học mang tính hệ thống : học sinh học 10 số đầu rồi mới

đến các số kế tiếp.
- Phép cộng các số nhỏ (dưới 10), rồi mới đến các số lớn hơn (trên 10)
Điều kiện 3: Mâu thuẫn này được nảy sinh từ chính logic của quá trình dạy học, chứ không phải
do giáo viên hoặc hoàn cảnh bên ngoài tác động vào quá trình dạy học.
- Các đơn vị tri thức (cái đã biết và cái chưa biết) được lần lượt cung cấp từ lớp trước
Vấn đề 11: Trình bày và phân tích các khâu của quá trình dạy học
1. Khái niệm về logic của quá trình dạy học
Logic của quá trình dạy học là trình tự vận động hợp qui luật của quá trình đó nhằm đảm bảo cho
người học đi từ trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và sự phát triển năng lực hoạt động trí tuệ ứng với lúc
ban đầu nghiên cứu môn học (hay một đề mục) nào đó, đến trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và sự
phát triển năng lực hoạt động trí tuệ ứng với lúc kết thúc môn học (hay đề mục) đó.
2. Các khâu của quá trình dạy học
Lý luận dạy học ở nước ta lâu nay đã xác định các khâu trong logic của quá trình dạy học để từ đó
xây dựng tiến trình của một bài học trên lớp (các bước lên lớp), bao gồm:
(1) Kích thích thái độ học tập tích cực của học sinh;
Thái độ tích cực trong học tập là sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lý (Sự chú ý; nhu
22


cầu, hứng thú học tập; các phẩm chất đạo đức; các phẩm chất trí tuệ; các phẩm chất thể chất...) để giúp
cho việc học tập đạt hiệu quả. Thái độ học tập tích cực thể hiện đặc trưng ở sự chú ý và nhất là ở hứng
thú của học sinh đối với việc học. Cho nên, kích thích học sinh tích cực học tập tức là kích thích sự chú
ý của học sinh, làm cho các em có hứng thú với việc học tập, các em nhận thấy việc học tập là nhu cầu
tự thân, từ đó có niềm vui trong học tập...Thái độ học tập tích cực của học sinh được coi là điều kiện,
động lực thúc đẩy quá trình học tập.
Từ nghiên cứu cấu trúc của quá trình dạy học, các nhà tâm lý, giáo dục học cho rằng các yếu tố
ảnh hưởng đến thái độ học tập tích cực của học sinh bao gồm: Môi trường học tập; yêu cầu, nhiệm vụ
học tập; nội dung học tập; giáo viên đặc biệt là phương pháp dạy học của giáo viên và từ chính bản thân
học sinh. Kích thích thái độ học tập tích cực của HS là quá trình điều khiển, điều chỉnh tất cả các yếu tố
tác động trên nhằm tạo nên thái độ tích cực của HS trong học tập.

(2) Tổ chức điều khiển học sinh nắm tri thức mới;
Việc tổ chức điều khiển học sinh nắm tri thức mới được bắt đầu từ chỗ:
+ Kích thích học sinh huy động các tri thức, kinh nghiệm có liên quan đã biết làm cơ sở cho việc
nắm tri thức mới;
+ Tổ chức, điều khiển học sinh thu thập thông tin về vấn đề nghiên cứu (hay nắm các tài liệu cảm
tính) với các biện pháp khai thác thông tin từ các nguồn như: Từ nội dung bài giảng phong phú, hấp
dẫn, lời nói sinh động, giàu hình tượng, dễ hiểu của giáo viên; từ việc sử dụng đúng các phương tiện
trực quan, hướng dẫn học sinh quan sát đúng; từ các nguồn tài liệu in ấn hay từ việc khai thác trải
nghiệm của học sinh...
+ Trên cơ sở những tài liệu cảm tính mà học sinh có được, tố chức, điều khiển học sinh vận dụng
các thao tác tư duy để hình thành khái niệm. Quá trình đó được tiến hành với các biện pháp giúp học
sinh biết huy động những kinh nghiệm đã có, những tài liệu cảm tính làm nguyên liệu cho nhận thức
lý tính; giúp các em thực hiện các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh...qua các câu hỏi,
các bài tập có vấn đề...
(3) Tổ chức, điều khiển học sinh củng cố và hệ thống hóa tri thức
Chỉ trong một thời gian ngắn của tiết học trên lớp, học sinh không thể nắm chắc tài liệu học tập
để biến tri thức thành kinh nghiệm của bản thân. Cho nên, phải hướng dẫn các em:
+ Biết cách ghi nhớ, nhất là ghi nhớ có chủ định, có ý nghĩa;
+ Biết cách ôn tập, ôn tập thường xuyên, liên tục và bằng nhiều cách;
+ Biết cách hệ thống hóa tri thức học được, từ đó đưa tri thức mới tiếp thu được vào hệ thống
những kinh nghiệm vốn có của mình.
(4) Tổ chức, điều khiển học sinh rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo và sử dụng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
một cách có hiệu quả.
Khâu này nhằm rèn luyện cho học sinh kỹ năng, kỹ xảo vận dụng tri thức và bồi dưỡng cho các
em khả năng sử dụng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đã có để giải quyết các vấn đề diễn ra trong học tập và
trong cuộc sống (Khả năng sử dụng tri thức cơ hiệu quả). Người giáo viên có thể tiến hành rèn luyện
kỹ năng, kỹ xảo cho người học bằng cách:
+ Giải quyết các bài tập, các nhiệm vụ học tập với các loại khác nhau;
+ Làm thí nghiệm, thực nghiệm;
+ Giải quyết các vấn đề, các tình huống xảy ra trong cuộc sống.

Khi tổ chức rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo và sử dụng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cần lưu ý:
- Luyện tập có mục đích, có kế hoạch;
- Luyện tập một cách có hệ thống;
- Luyện tập tuân theo quy trình nhất định, phù hợp với quy luật nhận thức của học sinh;
- Luyện tập có cơ sở khoa học...
(5) Tổ chức, điều khiển việc kiểm tra, đánh giá mức độ nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh
đồng thời tổ chức cho học sinh tự kiểm tra, đánh giá mức độ nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của bản
thân.
Khâu này nhằm đảm bảo các mối liên hệ xuôi, ngược diễn ra trong quá trình dạy học qua đó giúp
cho giáo viên có cơ sở để điều khiển, điều chỉnh quá trình dạy học; học sinh tự điều khiển, điều chỉnh
quá trình học tập của mình.
Khi tổ chức thực hiện khâu này cần lưu ý:
23


- Thực hiện một cách có mục đích, có kế hoạch và có hệ thống;
- Thực hiện kết hợp các phương pháp và hình thức khác nhau;
- Đảm bảo đúng các nguyên tắc cũng như các chức năng của việc kiểm tra đánh giá;
- Bồi dưỡng cho học sinh ý thức và năng lực tự kiểm tra, đánh giá.
Vấn đề 12: Trình bày và phân tích các nhiệm vụ dạy học ở phổ thông
1. Khái niệm về quá trình dạy học
Quá trình dạy học là một quá trình dưới sự tổ chức, hướng dẫn của người giáo viên, người học tự
giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức – học tập của mình,
nhằm thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ dạy học.
2. Cơ sở để xác định các nhiệm vụ dạy học ở phổ thông
- Dựa vào mục tiêu giáo dục và đào tạo;
- Dựa vào sự tiến bộ của cách mạng khoa học, kỹ thuật- công nghệ và cách mạng xã hội;
- Dựa vào đặc điểm tâm sinh lý học sinh, đặc điểm các loại trường, môn học.
3. Các nhiệm vụ dạy học ở phổ thông
(1) Nhiệm vụ giáo dưỡng – (Tổ chức, điều khiển học sinh chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ

năng, kỹ xảo)
- Nhiệm vụ của quá trình dạy học là giúp học sinh nắm vững những tri thức phổ thông, cơ
bản, hiện đại phù hợp với thực tiễn đất nước về tự nhiên, xã hội – nhân văn, đồng thời rèn luyện cho
họ hệ thống kĩ năng, kĩ xảo tương ứng.
+ Tri thức phổ thông là những tri thức thức thiết yếu nhất đối với cuộc sống và học tập, cần
phải phổ cập đối với mọi người.
+ Tri thức cơ bản là những tri thức quan trọng nhất, được chọn lọc từ các lĩnh vực khoa học,
làm cơ sở vững chắc cho học sinh học tập suốt đời.
+ Tri thức hiện đại là những tri thức phản ánh những thành tựu mới nhất của văn hoá, khoa
học công nghệ phù hợp với chân lí khách quan, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
+ Tri thức thực tiễn là hệ thống tri thức phù hợp với thực tiễn của đất nước cũng như phù
hợp với đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm hoạt động nhận thức của học sinh, đảm bảo được tính hệ thống,
tính lôgíc khoa học và mối liên hệ chặt chẽ giữa các môn học.
- Trong quá trình lĩnh hội những tri thức đó hình thành cho học sinh hệ thống kĩ năng, kĩ xảo
nhất định tương ứng với nội dung môn học, đặc biệt những kĩ năng, kĩ xảo có liên quan đến hoạt
động nhận thức – học tập và tập dượt nghiên cứu khoa học ở mức độ thấp nhằm giúp cho các em
không những nắm vững tri thức mà còn biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo chúng trong các tình
huống khác nhau.
Kĩ năng của học sinh phải được diễn ra theo các mức độ từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ nhận biết tái hiện đến kĩ năng sáng tạo.
Để đáp ứng được những yêu cầu của xã hội hiện đại, cần hình thành cho thế hệ trẻ các kĩ
năng cơ bản sau:
+ Kĩ năng nắm bắt thông tin và giao tiếp xã hội;
+ Kĩ năng làm việc có hiệu quả trong một nhóm cộng đồng;
+ Kĩ năng nhận thức về xã hội và nhân văn;
+ Kĩ năng vận dụng ngoại ngữ và vi tính;
+ Kĩ năng cảm thụ và sáng tạo nghệ thuật;
+ Kĩ năng phân tích và giải quyết các tình huống ứng xử;
+ Kĩ năng tổ chức và điều hành một guồng máy;
+ Kĩ năng phòng vệ sự sống và gia tăng sức khoẻ;

+ Kĩ năng tự học, tự nghiên cứu và nâng cao trình độ…
Hệ thống những kĩ năng trên cần được hình thành và rèn luyện thường xuyên trong các loại
hình trường, trong đó hoạt động dạy học ở phổ thông là một khâu cực kì quan trọng.
(2) Nhiệm vụ phát triển trí tuệ - Tổ chức, điều khiển học sinh hình thành và phát triển trí tuệ
Quá trình dạy học trên cơ sở cung cấp kiến thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo làm phát triển trí tuệ ở
người học sinh. Cụ thể là phát triển năng lực và phẩm chất hoạt động trí tuệ:
24


a. Năng lực hoạt động trí tuệ gồm:
- Năng lực nhận thức thể hiện ra ở khả năng tư duy trừu tượng và tư duy độc lập, dễ dàng di chuyển hoạt
động trí tuệ vào đối tượng và quá trình mới, có khả năng tiên đoán chính xác kết quả, suy lý và suy luận tốt.
- Năng lực hành động thể hiện ở khả năng chiếm lĩnh tri thức và vận dụng linh hoạt tri thức ở nhiều tình
huống khác nhau trong thực tiễn cuộc sống; khả năng tự học, tự nghiên cứu, và khả năng độc lập công tác…
b. Phẩm chất hoạt động trí tuệ
Trong quá trình dạy học, với vai trò tổ chức, điều khiển của giáo viên, học sinh không ngừng phát huy
tính tích cực nhận thức, tự mình rèn luyện các thao tác trí tuệ, dần dần hình thành các phẩm chất hoạt động trí
tuệ như: (đối với các phẩm chất của hoạt động trí tuệ anh chị chỉ cần nêu tên, nếu có thời gian và hiểu
về nó dài hơn thì mới mô tả thêm)
- Tính định hướng của hoạt động trí tuệ được thể hiện ở chỗ người học nhanh chóng xác định chính
xác được đối tượng của hoạt động trí tuệ, mục đích phải đạt tới và kịp thời phát hiện, điều chỉnh những lệch
lạc trong quá trình giải quyết các nhiệm vụ học tập.
- Bề rộng của hoạt động trí tuệ thể hiện ở chỗ, trong quá trình học tập, học sinh có thể lĩnh hội tri
thức, kĩ năng trên nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, đáp ứng nhu cầu mong muốn hiểu biết những vấn đề có
liên quan đến nội dung, chương trình dạy học trong phạm vi nhà trường.
- Chiều sâu của hoạt động trí tuệ phản ánh năng lực đi sâu tìm hiểu bản chất của các sự vật, hiện tượng
trong thế giới khách quan. Người học sinh học tốt phải là người biết cách tư duy sâu sắc, nắm vững được bản chất
vấn đề, phân biệt được các phạm trù nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, cái khách quan và cái chủ
quan..., để có thể chiếm lĩnh nội dung dạy học một cách có chất lượng và hiệu quả cao.
- Tính linh hoạt trong hoạt động trí tuệ của học sinh được thể hiện ở chỗ, các em không những tiến hành hoạt

động nhận thức một cách nhanh chóng, có hiệu quả mà còn có khả năng di chuyển hoạt động tư duy từ tình huống này
sang tình huống khác một cách sáng tạo. Nhờ đó, các em có thể thích ứng nhanh chóng với các tình huống nhận thức
khác nhau và đạt được kết quả tối ưu trong học tập.
- Tính mềm dẻo của hoạt động trí tuệ là nét đặc trưng của hoạt động nhận thức, đặc biệt là quá trình tư duy vì
quá trình đó được tiến hành một cách linh hoạt, sáng tạo theo các chiều hướng xuôi, ngược khác nhau; từ cụ thể đến trừu
tượng và ngược lại; từ cái riêng đến cái chung và ngược lại.v.v.
- Tính độc lập trong hoạt động trí tuệ của học sinh trong học tập thể hiện ở chỗ các em tự mình phát
hiện vấn đề, tự lực suy nghĩ tìm ra các phương án giải quyết vấn đề bằng chính hoạt động và thao tác của
mình và chọn phương án giải quyết tối ưu nhất.
- Tính nhất quán trong hoạt động trí tuệ phản ánh lôgíc hoạt động nhận thức của học sinh, đảm bảo
sự thống nhất tư tưởng chủ đạo từ đầu đến cuối, không mâu thuẫn.
- Tính phê phán của hoạt động trí tuệ thể hiện ở chỗ, trong quá trình học tập, học sinh biết nhận xét,
phân tích, đánh giá một vấn đề, một sự kiện, một hiện tượng hoặc nhận xét, đánh giá những quan điểm,
phương pháp, lí thuyết của người khác và nêu lên được ý kiến chủ quan của mình và bảo vệ được quan điểm
của chính mình.
- Tính khái quát của hoạt động trí tuệ thể hiện khi giải quyết một loại nhiệm vụ nhận thức nhất định, học
sinh có thể hình thành được mô hình giải quyết một cách khái quát tương ứng. Từ mô hình giải quyết khái quát đó,
các em có thể vận dụng để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể cùng loại và dễ dàng thích ứng với việc giải quyết các
nhiệm vụ học tập tương ứng để tìm tòi, phát hiện những tri thức, kĩ năng và phương pháp mới.
Sự phát triển trí tuệ có mối quan hệ biện chứng với hoạt động dạy học. Dạy học được tổ chức đúng sẽ thúc đẩy
sự phát triển năng lực và phẩm chất trí tuệ của học sinh và ngược lại, sự phát triển đó sẽ tạo điều kiện cho hoạt động dạy
học đạt chất lượng cao hơn. Đó cũng là một trong những quy luật của dạy học.
Điều kiện cần thiết để thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của học sinh là hoạt động dạy học phải luôn luôn đi
trước sự phát triển trí tuệ và dạy học phải luôn ở mức độ khó khăn vừa sức học sinh, tạo điều kiện để phát triển tối
đa những tiềm năng vốn có của họ.
(3) Nhiệm vụ giáo dục - Tổ chức, điều khiển học sinh hình thành cơ sở thế giới quan khoa học,
những phẩm chất đạo đức để phát triển nhân cách toàn diện

25



×