Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Thực hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia đình ở huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 98 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HOÀI TÂM

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG
BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở HUYỆN ĐỨC PHỔ,
TỈNH QUẢNG NGÃI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HOÀI TÂM

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG
BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở HUYỆN ĐỨC PHỔ,
TỈNH QUẢNG NGÃI HIỆN NAY

Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số

: 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TĂNG VĂN THẠNH


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn thạc sĩ chính sách công “Thực hiện
chính sách phòng, chống bạo lực gia đình ở huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi
hiện nay” là kết quả qua quá trình học tập, nghiên cứu của bản thân. Các số
liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và không
trùng lặp với các đề tài khác trong cũng lĩnh vực. Tôi xin chịu trách nhiệm lời
cam đoan của mình./.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hoài Tâm


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là kết quả tiếp thu kiến thức của tôi sau hai năm theo học
chương trình đào tạo Thạc sĩ của Học viện Khoa học Xã hội. Trước tiên, xin
được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy giáo, cô giáo trong khoa Chính sách
công và các thầy, cô giáo trong và ngoài Học viện Khoa học Xã hội đã hết
lòng giúp đỡ, truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu trong quá trình học
tập tại trường.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Tăng Văn Thạnh, là

người đã hướng dẫn tận tình, giúp đỡ, chỉ bảo cho tôi trong quá trình hoàn
thành luận văn tốt nghiệp này. Tôi xin chân thành bày tỏ lời cảm ơn đến các
cơ quan, các tổ chức, các cá nhân ở huyện Đức Phổ và tỉnh Quảng Ngãi đã hỗ
trợ, cung cấp, giúp tôi thu thập số liệu để viết và hoàn thành luận văn này.
Với thời gian có hạn, luận văn này không thể tránh khỏi những sai sót,
khiếm khuyết, hạn chế, chính vì vậy bản thân tôi rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp quý báu của các thầy cô cùng tất cả bạn đọc.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hoài Tâm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG,
CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ........................................................................ 8
1.1. Khái niệm nội dung phòng, chống bạo lực gia đình ...................................... 8
1.2. Khái niệm nội dung của chính sách phòng, chống bạo lực gia đình ............16
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG,
CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở HUYỆN ĐỨC PHỔ, TỈNH QUẢNG
NGÃI ...................................................................................................................29
2.1. Khái quát về huyện Đức Phổ ........................................................................29
2.2. Thực trạng về tình hình bạo lực gia đình ở huyện Đức Phổ .........................33

2.3. Tình hình thực hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia đình ở huyện Đức
Phổ ........................................................................................................................38
2.4. Một số đánh giá về kết quả thực hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia
đình ở huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi .............................................................58
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở HUYỆN ĐỨC
PHỔ, TỈNH QUẢNG NGÃI.............................................................................64
3.1. Quan điểm, phương hướng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước trong việc thực hiện
Chính sách phòng, chống bạo lực gia đình ..........................................................64
3.2. Một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả việc thực hiện Chính sách phòng,
chống bạo lực gia đình ở huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi hiện nay .................65
KẾT LUẬN .........................................................................................................80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLGĐ

Bạo lực gia đình

BĐG

Bình đẳng giới

CLB

Câu lạc bộ

CSC


Chính sách công

Hội LHPNVN

Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam

KHHGĐ

Kế hoạch hóa gia đình

PCBLGĐ

Phòng, chống bạo lực gia đình

UBND

Ủy ban nhân dân

VH,TT&DL

Văn hóa, Thể thao và Du lịch

VH&TT

Văn hóa và Thông tin

VH–XH

Văn hóa – xã hội



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số bảng

Tên bảng

hiệu

Trang

2.1

Tổng hợp tình hình phòng, chống bạo lực gia đình

33

2.2

Tổng hợp một số vụ án hôn nhân và gia đình có liên

37

quan đến bạo lực gia đình
2.3

Tổng hợp về hoạt động của các cơ sở hỗ trợ nạn nhân

51


bạo lực gia đình
2.4

Tổng hợp về hoạt động hòa giải trong PCBLGĐ

52

2.5

Tổng hợp tình hình kinh phí thực hiện nhiệm vụ

53

PCBLGĐ
2.6

Tổng hợp công tác xử lý người có hành vi bạo lực gia
đình

57


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số biểu

Tên biểu đồ

Trang

Diễn biến số vụ bạo lực gia đình ở huyện Đức Phổ (từ


34

đồ
2.1

năm 2013-2018)
2.2

Các hình thức BLGĐ tại huyện Đức Phổ qua các năm

34

(2013-2018)
2.3

Độ tuổi bị bạo lực gia đình tại huyện Đức Phổ qua các

35

năm (2013-2018)
2.4

Giới tính bị bạo lực gia đình tại huyện Đức Phổ qua

35

các năm (2013-2018)
2.5


Giới tính gây ra BLGĐ tại huyện Đức Phổ qua các
năm (2013-2018)

36


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền tảng của một xã hội bền vững được xây dựng từ các thành viên trong
mỗi gia đình luôn yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và nhất là không có bạo lực. Đảng
ta rất quan tâm đến công tác gia đình, đã luôn nhấn mạnh: “Xây dựng gia đình no
ấm, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội”. Tuy nhiên, bên cạnh
những gia đình được xem là tổ ấm thực sự thì tình trạng bạo lực gia đình vẫn xảy ra
ở khắp mọi nơi đến mức báo động. Riêng ở huyện Đức Phổ, theo số liệu điều tra
thống kê từ năm 2008 đến nay, số vụ bạo lực gia đình được phát hiện và xử lý là
391 vụ, trong đó nạn nhân phần lớn là nữ giới, độ tuổi bị bạo lực nhiều nhất là từ 16
đến 59 tuổi. Bạo lực gia đình đã gây cho không ít gia đình phải tan vỡ hạnh phúc,
nhiều người vợ phải chịu đau đớn thể xác lẫn tinh thần, những đứa trẻ phải bỏ
học,.v.v… từ đó làm hạn chế mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của
huyện.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều sự quan tâm tới
việc phòng, chống bạo lực gia đình và đã ban hành nhiều đạo luật trực tiếp và gián
tiếp liên quan đến công tác PCBLGĐ. Qua 10 năm triển khai thực hiện Luật
PCBLGĐ và 8 năm triển khai thực hiện Đề án “Tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối
sống trong gia đình Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020” đã tạo sự chuyển biến về nhận
thức và hành động của cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể, cán bộ và các
tầng lớp nhân dân trên địa bàn cả nước nói chung và huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng
Ngãi nói riêng đối với lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Mặc dù đạt được
những kết quả bước đầu trong thực hiện Luật phòng, chống bạo lực gia đình, song
công tác này vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại. Trong đó, nhận thức và sự quan tâm

lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư cho công tác gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình ở
một số địa phương, một số cấp ủy, chính quyền của huyện còn hạn chế; công tác
phối hợp giữa các ngành, đoàn thể ở cơ sở trong việc triển khai và tổ chức thực hiện
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình có nơi chưa chặt chẽ và hiệu quả chưa cao. Các
văn bản thực hiện công tác phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn huyện tuy

1


được thực hiện nhiều nhưng thiếu tập trung, chưa tạo được sự tác động mạnh mẽ để
đẩy nhanh sự chuyển đổi, nâng cao nhận thức chung về tầm quan trọng của hoạt
động PCBLGĐ còn tồn tại ở một số địa phương, đơn vị. Đội ngũ cán bộ phụ trách
công tác PCBLGĐ hầu như chưa được đào tạo đúng chuyên ngành và còn phải
kiêm nhiệm thêm nhiều công tác khác dẫn đến chất lượng, hiệu quả công việc trong
hoạt động này không cao.
Năm 2008, Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Đức Phổ tiếp nhận công tác
Gia đình từ Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em huyện. Xuất phát từ chức năng
nhiệm vụ của ngành, đồng thời nhận thấy được tầm quan trọng và ảnh hưởng của
bạo lực gia đình đối với gia đình và xã hội cũng như việc thực hiện chính sách
phòng, chống BLGĐ của huyện đang đứng trước những khó khăn, thách thức vô
cùng to lớn, đòi hỏi cần có sự chung tay góp sức của các ngành, các cấp, thông qua
luận văn này, bản thân em muốn tìm hiểu rõ hơn về thực trạng bạo lực gia đình,
chính sách phòng, chống bạo lực gia đình ở huyện Đức Phổ và đồng thời mạnh dạn
nêu lên một số kiến nghị để góp phần làm thay đổi thực trạng nói trên. Đó là lí do
em chọn đề tài “Thực hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia đình ở huyện
Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bên cạnh các phóng sự điều tra của các cơ quan báo chí đề cập đến thực
trạng bạo lực gia đình với số vụ và mức độ nghiêm trọng ngày càng gia tăng và
những báo cáo sơ kết, tổng kết hàng năm của các cơ quan quản lý nhà nước về tình

hình phòng, chống bạo lực gia đình. Việc nghiên cứu về công tác Phòng, chống bạo
lực gia đình còn được thể hiện trong các tài liệu sách chuyên khảo, các bài báo trên
các tạp chí khoa học, các đề tài nghiên cứu khoa học, các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ,…
như:
“Thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực gia đình ở Việt Nam
hiện nay” (2018) của Vụ Gia đình, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Cuốn sách
được biên soạn từ kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ triển khai năm 2015
với mục tiêu hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về công tác gia đình,

2


đánh giá thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về gia đình hiện nay và đề xuất
định hướng, giải pháp trong công tác quản lý nhà nước về gia đình ở Việt Nam
trong thời gian tới.
"Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam - thực trạng, diễn tiến và
nguyên nhân" (2009) của Nguyễn Hữu Minh, Trần Thị Vân Anh (đồng chủ biên).
Nội dung sách gồm 03 phần và 09 chương, trình bày tổng quan các nghiên cứu đã
công bố về bạo lực gia đình đồng thời đi sâu phân tích định lượng về bạo lực gia
đình từ 3 cuộc khảo sát: điều tra của ngân hàng thế giới (1999); điều tra SAVY
(2003) và điều tra thực trạng bình đẳng giới (2005). Cuối cùng, tác giả đưa ra những
phát hiện chính của cuộc khảo sát định tính về diễn tiến của bạo lực gia đình, các
yếu tố thúc đẩy và hạn chế bạo lực gia đình và hoạt động phòng ngừa, can thiệp từ
các tổ chức.
“Hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay” (2015) của
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch do ThS. Trần Tuyết Ánh chủ biên. Nội dung sách
gồm 5 chương và phần kết luận, những vấn đề cần quan tâm. Sách đi sâu phân tích,
hệ thống hóa văn bản pháp luật hiện hành; phân tích, đánh giá những hoạt động
được Bộ, ngành Trung ương và các địa phương thực hiện từ năm 2008 – 6/2015 và
đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động PCBLGD trong thời

gian tới.
“Công tác phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay” (2018) của
Bộ VHTTDL gồm nhiều bài viết của các tác giả là những nhà khoa học, nhà quản lý
thực hiện nghiên cứu và giảng dạy về pháp luật, phòng chống bạo lực gia đình. Nội
dung sách đề cập đến các vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình; bức tranh về thực
trạng bộ máy quản lý nhà nước về gia đình, các hình thức bạo lực gia đình.
Báo cáo nghiên cứu đánh giá việc thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình (nghiên cứu trên địa bàn 4 xã thuộc các tỉnh, thành phố: Yên Bái, Hà Nam, Đà
Nẵng, Tp Hồ Chí Minh) của Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường
trong Phát triển (CGFED, năm 2010). Báo cáo đã cung cấp cho các nhà hoạch định
chính sách, các cơ quan thực hiện pháp luật, cơ quan tài trợ, các nhà tư vấn, nghiên

3


cứu, các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực bình đẳng giới nói chung và bạo lực gia
đình nói riêng, thông tin khách quan về những thuận lợi, khó khăn - thách thức của
việc thực thi Luật PCBLGĐ, nhằm góp phần hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao
hiệu quả thực hiện và hiệu quả tài trợ cho việc thực hiện Luật PCBLGĐ.
"Quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh", luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Tú (TP Hồ Chí Minh,
2017): tác giả tập trung làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về bạo lực gia đình và
quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Đồng thời kiến nghị các giải pháp nhằm tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về
vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ trong thời gian tới.
“Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - từ thực tiễn tỉnh Tuyên
Quang”, Luận văn thạc sĩ Luật của tác giả Đào Xuân Cường (Hà Nội, 2016): tác giả
tập trung làm rõ những vấn đề cơ sở lý luận về pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình hiện nay, đánh giá thực trạng bạo lực gia đình và pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình tại tỉnh Tuyên Quang, đề xuất giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện

pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở nước
ta.
Và một số tài liệu khác như Báo cáo qua các năm của huyện Đức Phổ cũng
như của tỉnh Quảng Ngãi trong quá trình thực hiện công tác gia đình tại địa phương.
Có thể nói, ở các tài liệu nghiên cứu này, các tác giả chủ yếu nghiên cứu,
đánh giá thực trạng bạo lực gia đình đang diễn ra như thế nào, tình hình xử lý tình
trạng này ra sao trên các góc độ pháp luật, tâm lý và giới nói chung; hoạt động
phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay như thế nào hoặc đi sâu phân
tích vấn đề quản lý nhà nước đối với công tác phòng, chống BLGĐ ở phạm vi tỉnh,
thành phố. Các công trình nghiên cứu trên đây đã có những đóng góp nhất định
trong việc cung cấp lý luận chung về thực trạng bạo lực gia đình hiện nay, việc thực
hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia đình nhằm nâng cao hiệu quả công tác
này. Song, đối với loại đề tài thực hiện chính sách PCBLGĐ vẫn là mới, nhất là ở
địa bàn huyện ven biển Miền Trung như huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phòng, chống
bạo lực gia đình và phát huy vai trò của chính sách phòng, chống bạo lực gia đình ở
huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở của mục đích nghiên cứu, đề tài thực hiện những nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
- Hệ thống hóa và phân tích để làm rõ cơ sở lý luận, lý thuyết cơ bản về
chính sách phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam;
- Làm rõ tình hình bạo lực gia đình, các yếu tố ảnh hưởng đến việc bạo lực
gia đình ở huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi; Đánh giá tình hình thực hiện chính

sách phòng, chống bạo lực gia đình ở huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi;
- Đề xuất các giải pháp thực hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia đình
phù hợp với điều kiện thực tế ở huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian
tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực hiện chính sách phòng, chống bạo
lực gia đình ở huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu việc thực hiện chính sách phòng,
chống bạo lực gia đình ở huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi từ góc nhìn của các gia
đình và cán bộ thực hiện chính sách (xã, huyện) thông qua việc phỏng vấn sâu.
Về không gian: Các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Đức Phổ.
Về thời gian: Tìm hiểu thực trạng việc thực hiện chính sách phòng, chống
bạo lực gia đình từ năm 2013 đến 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận

5


Luận văn dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, các quan điểm của Đảng ta về xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam.
Từ đó, phân tích thực trạng thực hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia đình ở
huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi và đề xuất những giải pháp khả thi trong thời gian
tới.
Tiếp cận chính sách công: giúp cho việc nghiên cứu tình hình thực hiện
chính sách phòng, chống bạo lực gia đình được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau,
từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao việc thực hiện chính sách về phòng,
chống bạo lực gia đình hiện nay ở huyện Đức Phổ.

Tiếp cận hệ thống: Tiếp cận hệ thống dựa vào định hướng chính trị, vào năng
lực thực tế của chủ thể tham gia thực hiện, vào môi trường thực hiện, tồn tại của
chính sách và tình trạng pháp luật trong xã hội đó.
Tiếp cận liên ngành: Tiếp cận liên ngành được vận dụng trên nền tảng những
phân tích đa ngành, đa chiều nhằm tránh nhìn nhận phiến diện, chủ quan. Phân tích
thực hiện chính sách PCBLGĐ rất cần sự tiếp cận của các chuyên ngành khác, gần
gũi với xã hội trong triển khai nghiên cứu đề tài (như xã hội học, tâm lý học, nghiên
cứu gia đình, .v.v…).
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết (nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp
luật, các quy định của nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình).
Phân tích tư liệu, văn bản thứ cấp: Thu thập và phân tích các tài liệu nghiên
cứu, các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định của nhà nước về phòng, chống
bạo lực gia đình, các số liệu được tập hợp và phân tích thống kê thông dụng trong
xã hội học.
Phân tích thống kê, so sánh: Là thực hiện việc tổng hợp, trình bày các số liệu
và đánh giá tính khả thi, hiệu quả của chính sách cũng như những khó khăn, hạn chế
nhằm điều chỉnh cho phù hợp với mục tiêu và điều kiện thực tế của địa phương.
Phỏng vấn sâu các nhà quản lý và công dân nhằm đánh giá về các bước thực
hiện chính sách, những bất cập, hạn chế trong triển khai thực hiện chính sách để đề

6


xuất các giải pháp khắc phục.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Trên cơ sở việc phân tích những nội dung về chính sách công, chính sách
phòng, chống bạo lực gia đình, luận văn cung cấp thêm những hiểu biết, góc nhìn
khác của chính sách này về mặt lý luận thông qua việc hệ thống hóa các nội dung

nghiên cứu gắn với thực tiễn của địa phương cụ thể ở Việt Nam.
- Ðề tài cung cấp những tài liệu, số liệu trên cơ sở khảo sát thực tế tại huyện
Ðức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý luận về
Chính sách công.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua thực tiễn nghiên cứu chính sách PCBLGĐ tại huyện Đức Phổ, tỉnh
Quảng Ngãi, luận văn chỉ ra được những khó khăn, hạn chế trong việc thực thi
chính sách, đồng thời kết quả nghiên cứu giúp cho Lãnh đạo UBND tỉnh và UBND
huyện, các bộ phận liên quan, các nhà hoạch định chính sách có cơ sở khoa học và
thực tiễn để tham khảo trong việc tổ chức thực hiện và điều chỉnh chính sách
PCBLGĐ tại huyện Đức Phổ một cách hiệu quả hơn trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục
tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu theo 03 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia
ðình
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia đình ở
huyện Ðức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi hiện nay
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phòng,
chống bạo lực gia đình ở huyện Ðức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi

7


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.1. Khái niệm nội dung của Phòng, chống bạo lực gia đình
1.1.1. Bạo lực gia đình
1.1.1.1. Khái niệm gia đình

Gia đình là một khái niệm phức hợp bao gồm các yếu tố sinh học, tâm
lý, văn hóa, kinh tế, v.v… Từ mỗi một góc độ nghiên cứu khác nhau mà ta có thể
đưa ra một khái niệm gia đình cụ thể, phù hợp với nội dung nghiên cứu.
Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội nên có thể
coi gia đình như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như một thiết chế xã hội mà có vai
trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xã hội hóa con người.
Hai học giả G.Endrweit và G.Trommsdorff đã đưa ra định nghĩa: “Gia đình
là một nhóm thuộc loại đặc biệt vì nó biểu hiện một cấu trúc vai trò nhất định
(bố/mẹ/con gái/con trai/cháu/em,…), với nó thì sự tách biệt về giới tính và thế hệ là
tiêu chí của cơ cấu gia đình (một hay nhiều thế hệ; nam/nữ) và qua đó sẽ chuyển
hóa một quan hệ hợp tác và đoàn kết rất đặc biệt mà ở tất cả các xã hội đều tổ chức
theo nghi lễ sự thành lập của nó. Ngoài ra, xã hội cũng trao cho nhóm đặc biệt này
những chức năng rất đặc biệt” [12, Tr.13-14]
Theo Khoản 2, Điều 3, Chương I Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 định
nghĩa: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ
huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ
với nhau theo quy định...”.
1.1.1.2. Khái niệm bạo lực
Bạo lực là một hiện tượng xã hội, trong Tiếng Việt, bạo lực được hiểu là “Sức
mạnh dùng để cưỡng bức, trấn áp hoặc lật đổ” [31, tr.6]. Với ý nghĩa chung đó, bạo
lực có thể được sử dụng với cả nghĩa tiêu cực (bạo lực với trẻ em, bạo lực gia đình,
bạo lực giới…) hoặc tích cực (bạo lực cách mạng, bạo lực để trấn áp tội phạm…).

8


Bạo lực nói chung theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) có thể được hiểu là
việc đe dọa hay dùng sức mạnh thể chất hay quyền lực đối với bản thân, người khác
hoặc đối với một nhóm người, một cộng đồng người mà gây ra hay làm tăng khả
năng gây ra tổn thương, tử vong, tổn hại về tâm lý, ảnh hưởng đến sự phát triển hay

gây ra sự mất mát.
1.1.1.3. Khái niệm bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực trong xã hội. Nó là việc các
thành viên trong gia đình vận dụng sức mạnh để xử lý các vấn đề gia đình. Nếu gia
đình là một thiết chế xã hội đặc biệt, là hình thức thu nhỏ của xã hội thì BLGĐ cũng
là một hình thức thu nhỏ và đặc biệt của bạo lực xã hội. Sự khác biệt giữa BLGĐ
với các dạng thức bạo lực xã hội là ở chỗ BLGĐ lại diễn ra giữa những người thân,
những người có cùng một huyết thống hoặc dưới cùng một mái nhà.
Theo định nghĩa của Đại hội đồng Liên hiệp quốc thì Bạo lực gia đình bao
gồm bất kỳ một hành động bạo lực dựa trên cơ sở giới nào dẫn đến, hoặc có khả
năng dẫn đến những tổn hại về thân thể, tình dục hay tâm lý, hay những đau khổ của
phụ nữ, bao gồm cả sự đe dọa có những hành động như vậy, sự cưỡng bức hay tước
đoạt một cách tùy tiện sự tự do, dù nó xảy ra nơi công cộng hay cuộc sống riêng tư.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 của Việt Nam được Quốc hội
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 21 tháng 7
năm 2007, tại Điều 1, Khoản 2 quy định như sau: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý
của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh
thần, kinh tế đối với các thành viên khác trong gia đình” [36, tr.18].
Như vậy, bạo lực gia đình bao gồm các yếu tố bạo hành về thể chất, bạo hành
về tinh thần, bạo hành tình dục và cả bạo hành về kinh tế. Những hành vi bạo lực
gia đình gây ra để lại nhiều tổn hại đối với cộng đồng xã hội, đối với con người, đặc
biệt đối với phụ nữ và trẻ em.
1.1.2. Những hành vi và hậu quả của bạo lực gia đình
1.1.2.1. Hành vi của bạo lực gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội, là hình thức thu nhỏ của xã hội nên bạo lực gia

9


đình có thể coi như là hình thức thu nhỏ của bạo lực xã hội với rất nhiều dạng thức

khác nhau. Xét về phương cách ứng xử, có thể phân chia bạo lực gia đình thành các
hình thức chủ yếu sau:
Bạo lực thể chất: được hiểu là việc một người sử dụng sức mạnh cơ bắp
(tay, chân) hoặc công cụ (thậm chí cả vũ khí) để bạo hành như đánh, đấm, đá, tát
gây nên sự đau đớn về thân thể của nạn nhân, .vv… hoặc các hình thức khác mà gây
tổn hại tới sức khỏe thể chất của người bị bạo hành như là hắt nước sôi, bắt chui vào
cũi,.vv… hoặc ngăn cản việc đi khám, chữa sức khỏe.
Bạo lực về tinh thần: loại hình bạo lực không sử dụng vũ lực, tác động lên
tinh thần của nạn nhân. Bạo lực tinh thần là những biểu hiện nhằm gây tổn thương
tới danh dự, nhân phẩm, tâm lý của thành viên gia đình bởi những lời nói và không
lời như quát tháo, đe dọa, chửi rủa, sỉ nhục, bỏ rơi không quan tâm; nói những lời
xúc phạm đến nhân phẩm, trừng phạt con cái để làm cho người mẹ đau đớn hoặc tự
trừng phạt mình; lăng mạ, hạ thấp giá trị một người trước những người khác; kiểm
soát hoặc ngăn cấm người phụ nữ tham gia các hoạt động xã hội hoặc kinh tế,.vv…
Trong loại bạo hành này đáng chú ý là loại bạo hành ngôn ngữ.
Bạo lực về kinh tế: một thành viên trong gia đình dùng quyền lực để ép buộc
các thành viên khác, tạo sự lệ thuộc của họ về kinh tế, gồm các hành động hoặc
quyết tâm thực hiện để đưa nạn nhân phụ thuộc vào tài chính, bao gồm các hành vi
sau: ngưng hỗ trợ về tài chính và ngăn cản nạn nhân có một nghề nghiệp, công việc
hợp pháp; kiểm soát tiền bạc, tước đoạt hay đe dọa tước đoạt các nguồn tài chính về
quyền sử dụng, thừa hưởng của vợ, chồng, cộng đồng và quyền sở hữu tài sản nói
chung; phá hủy tài sản trong gia đình; cưỡng ép các thành viên gia đình lao động
quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ,.vv…
Bạo lực về tình dục: là hành động hoặc hành vi trong tình dục mà không
được sự chấp nhận của người kia, bao gồm những hành động như cưỡng ép quan hệ
tình dục, ngăn chặn sử dụng các biện pháp tránh thai hay bắt ép mang thai hoặc phá
thai theo ý muốn của người chồng, bạn tình,… Hành vi này có thể diễn ra một lần
hoặc lặp đi lặp lại nhiều lần và diễn ra cả trong quan hệ vợ chồng hoặc bạn tình.

10



Trong các hình thức bạo hành, bạo hành tình dục ít bị phát hiện và nạn nhân không
được bảo vệ, vì ở nước ta tình dục là vấn đề hết sức tế nhị, khó tìm hiểu.
Mỗi hình thức bạo lực được biểu hiện dưới nhiều hành vi khác nhau. Hành vi
BLGĐ có thể nhìn thấy hoặc không nhìn thấy. Hành vi bạo lực nhìn thấy có thể bao
gồm bạo lực thân thể, bạo lực tình dục. Hành vi bạo lực không nhìn thấy được bao
gồm các hành vi bạo lực về tâm lý, tình cảm, tinh thần. Tuy nhiên, cách phân loại
này chỉ là tương đối, trong thực tế rất khó để xác định vụ việc nào là bạo lực thể
xác, vụ việc nào là bạo lực tinh thần,.vv…, bởi hành vi bạo lực thường đan xen
nhau, vừa nhìn thấy được thể hiện qua những tổn thương về cơ thể, sức khỏe, vừa
không nhìn thấy được thể hiện qua những tổn thương về tình cảm, tinh thần.
Tại Khoản 1 Điều 2, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 chỉ rõ
các hành vi bạo lực gia đình:
- Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức
khoẻ, tính mạng;
- Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
- Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả
nghiêm trọng;
- Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông,
bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
- Cưỡng ép quan hệ tình dục;
- Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ;
- Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài
sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên
gia đình;
- Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả
năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ
thuộc về tài chính;

- Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.

11


1.1.2.2. Hậu quả của bạo lực gia đình đối với gia đình và xã hội
Thứ nhất, bạo lực gia đình đã xâm phạm đến quyền con người, danh dự nhân
phẩm tính mạng của mỗi cá nhân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Thậm chí nó còn
làm ảnh hưởng xấu đến thế hệ tương lai, xói mòn về đạo đức, mất tính dân chủ xã
hội. Bạo lực gia đình dưới bất kỳ hình thức nào cũng để lại những tác động tiêu cực
đến sức khỏe về thể chất, tinh thần không chỉ của nạn nhân mà còn cả các thành
viên khác trong gia đình.
Thứ hai, bạo lực gia đình tác động tiêu cực đến lực lượng lao động và do đó
cũng tác động đến các hoạt động kinh tế. Bạo lực gia đình trực tiếp gây ra những
tổn thất nặng nề như gia tăng bệnh tật và tự tử, mất sức lao động, mất khả năng
tham gia sản xuất.
Thứ ba, bạo lực gia đình làm gia tăng gánh nặng lên hệ thống y tế, an sinh,
bảo trợ xã hội. Bạo lực gia đình đặt ra yêu cầu với hệ thống bảo trợ xã hội của quốc
gia về việc trợ giúp và bảo vệ những nạn nhân là phụ nữ và trẻ em.
Thứ tư, bạo lực gia đình làm gia tăng gánh nặng cho ngành giáo dục. BLGD
có thể gây ra cho những đứa trẻ trong gia đình, cũng là những học sinh đang tuổi ăn
tuổi học; tác động rất xấu đến sự phát triển thể chất, trí tuệ và đạo đức, ảnh hưởng
nặng nề đến việc học tập, kỹ năng sống, hòa nhập xã hội của trẻ em. Những vết
thương tâm hồn ấy sẽ in sâu vào tiềm thức và điều khiển hành vi của trẻ trong quá
trình lớn lên, thậm chí có thể gây nên hiện tượng "chuyển giao hành vi bạo lực gia
đình cho thế hệ sau".
Thứ năm, bạo lực gia đình làm gia tăng gánh nặng lên hệ thống các cơ quan
tư pháp khi phải tốn thời gian, công sức, chi phí để điều tra, truy tố, xét xử các vụ
việc liên quan đến BLGĐ. Bên cạnh đó, hầu hết các vụ án ly hôn thường bắt đầu
nguyên do từ bạo lực gia đình.

1.1.3. Phòng, chống bạo lực gia đình
1.1.3.1. Khái niệm phòng, chống bạo lực gia đình
- Phòng bạo lực gia đình:
Phòng bạo lực gia đình nhằm mục đích tìm ra được những biện pháp tác

12


động vào quy luật phát sinh, tồn tại và phát triển của bạo bực gia đình, đồng thời
khắc phục được nguyên nhân và điều kiện xuất hiện, yếu tố tác động gây ra bạo
lực gia đình. Phòng bạo lực gia đình là để bảo vệ, duy trì trật tự và công bằng xã
hội, góp phần bảo vệ các lợi ích chung của cộng đồng và xã hội.
- Chống bạo lực gia đình:
Khi bạo lực gia đình đã tiến triển lên mức độ trầm trọng hơn, tần suất cũng
như cường độ mạnh hơn, hoặc ở vào tình thế nguy hiểm thì nạn nhân thường nhờ
cậy các tổ chức đoàn thể, chính quyền, công an, với hi vọng là các tổ chức này gây
áp lực và có biện pháp hữu hiệu cũng như mong muốn chống lại bạo lực gia đình.
- Phòng, chống bạo lực gia đình:
Phòng, chống bạo lực gia đình là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội, cá nhân và gia đình trong việc phòng ngừa và ngăn chặn các hành vi
bạo lực gia đình; xử lý các hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về phòng
chống bạo lực gia đình.
1.1.3.2 Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình
- Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình,
lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư
vấn, hoà giải phù hợp với truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân
tộc Việt Nam.
- Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo
quy định của pháp luật.
- Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp với điều

kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ.
- Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ
chức trong phòng, chống bạo lực gia đình [36, Tr.19].
1.1.3.3. Nội dung cơ bản về phòng, chống bạo lực gia đình
Việc PCBLGĐ không chỉ thể hiện qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình và hệ thống cơ quan quản lý nhà nước có

13


chức năng PCBLG mà còn có sự tham gia của các tổ chức chính tị - xã hội, tổ chức
xã hội nghề nghiệp, tổ chức phi Chính phủ trong nước và các tổ chức quốc tế. Bên
cạnh đó, các mô hình can thiệp, hình thức tư vấn và hỗ trợ nạn nhân cũng đã được
thiết lập, tập trung vào nâng cao nâng cao nhận thức xóa bỏ định kiến giới, tăng
quyền cho phụ nữ,… Các hoạt động can thiệp phổ biến như: truyền thông, tập huấn,
tư vấn, hỗ trợ nạn nhân, xây dựng mô hình, câu lạc bộ,… là những hoạt động cơ bản
về phòng, chống bạo lực gia đình.
- Hoạt động thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình:
Tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt Nam; tác hại của bạo
lực gia đình; các kiến thức về hôn nhân và gia đình, kỹ năng ứng xử xây dựng gia
đình văn hóa,… cho mọi công dân, tổ chức. Việc PCBLGĐ thông qua các hoạt
động truyền thông bằng nhiều hình thức, từ truyền thông đa phương tiện đến cổ
động trực quan như băng-rôn, biểu ngữ, áp-phích, tờ rơi, tuyên truyền miệng, các
buổi mít-tinh, tọa đàm, tuần hành, các buổi biểu diễn nghệ thuật, chiếu phim, các
hội thi dành cho gia đình,… để mỗi người cảm nhận ý nghĩa to lớn của tổ ấm gia
đình, hạn chế và giảm thiểu tối đa hành vi bạo lực để xây dựng gia đình hạnh phúc.
- Thu thập, khai thác thông tin số liệu về PCBLGĐ. Khai thác thông tin, số
liệu, bằng chứng về tiến độ và kết quả thực hiện Chương trình từng năm để góp

phần ra những quyết định tạm thời; phục vụ xây dựng kế hoạch hoạt động và hoạch
định chính sách về PCBLGĐ. Ngoài ra, thông tin, số liệu chính xác còn giúp chứng
minh kết quả và nâng cao trách nhiệm giải trình, tránh sự trùng chéo có thể xảy ra,
tăng sự phối hợp khi có nhiều cơ quan cùng tham gia. Đồng thời, công tác này còn
giúp nâng cao khả năng điều phối, theo dõi, đánh giá của các cơ quan tham gia
trong việc PCBLGĐ thuộc lĩnh vực quản lý.
- Hoạt động hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình.
Trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày, do sự khác biệt về lợi ích kinh tế,
nhận thức, lối sống, tính cách… nên khó tránh khỏi những va chạm, xích mích, mâu
thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình, trong họ tộc. Những mâu

14


thuẫn, tranh chấp này nếu không giải quyết kịp thời thì từ mâu thuẫn nhỏ sẽ thành
mâu thuẫn lớn, từ tranh chấp thuần tuý dân sự có thể trở thành vụ án hình sự, gây
mất đoàn kết trong nội bộ gia đình. Vì vậy, việc hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa
các thành viên gia đình nhằm phòng ngừa BLGĐ cũng được Luật PCBLGĐ đề cập
đến. Hòa giải các mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình là trách
nhiệm của gia đình, người đứng đầu hoặc người có uy tín trong dòng họ, người có
uy tín trong cộng đồng dân cư, cơ quan, tổ chức nơi công tác hoặc nơi sinh sống của
các thành viên gia đình; của tổ hòa giải ở cơ sở.
- Hoạt động tư vấn, góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư về phòng ngừa
bạo lực gia đình
Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích các tổ chức, cá nhân tiến hành các
hoạt động tư vấn về gia đình ở cơ sở cho các thành viên trong cộng đồng dân cư.
Nội dung tư vấn chủ yếu là cung cấp thông tin, kiến thức, pháp luật về hôn nhân,
gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình; hướng dẫn kỹ năng ứng xử trong gia
đình; kỹ năng ứng xử khi có mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình.
Việc góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư nhằm làm chuyển biến nhận thức của

người có hành vi bạo lực gia đình để họ không tiếp tục có hành vi bạo lực gia đình.
- Bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình
Việc bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình được Luật PCBLGĐ 2007
qui định tại Chương III, với 13 điều, từ Ðiều 18 đến Ðiều 30. Trong đó có các biện
pháp ngăn chặn, bảo vệ được áp dụng kịp thời để bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình,
chấm dứt hành vi bạo lực gia đình, giảm thiểu hậu quả do hành vi bạo lực gây ra,
và một số biện pháp rất đặc thù trong việc hỗ trợ, bảo vệ nạn nhân, đó là biện pháp
cấm tiếp xúc giữa người gây bạo lực và nạn nhân bạo lực gia đình.
Để trợ giúp nạn nhân khi bị BLGĐ, nhà nước thành lập các cơ sở chăm sóc, tư
vấn, tạm lánh, hỗ trợ những điều kiện cần thiết khác cho nạn nhân bạo lực gia đình,
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở bảo trợ xã hội; cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia
đình; cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình; địa chỉ tin cậy ở cộng đồng.
- Hoạt động xử lý vi phạm pháp luật về PCBLGĐ và khiếu nại, tố cáo

15


Trong nội dung của PCBLGĐ thì công tác kiểm tra, thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về PCBLGĐ là một khâu không thể thiếu nhằm
kịp thời phát hiện hành vi trái pháp luật để áp dụng các biện pháp xử lý thích hợp,
bảo vệ nạn nhân BLGĐ. Có tác dụng răn đe, giáo dục những người gây ra BLGĐ.
1.2. Khái niệm nội dung của chính sách phòng, chống bạo lực gia đình
1.2.1. Khái niệm chính sách công
- Chính sách
Chính sách là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các tài liệu, các
phương tiện truyền thông và trong đời sống xã hội. Chính sách là của nhà nước, được
xây dựng trên cơ sở chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia theo từng thời kỳ lịch
sử, mỗi quốc gia đều có những chính sách để điều hành.
Theo Từ điển tiếng Việt “chính sách” được hiểu là “sách lược và kế hoạch
cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và

tình hình thực tế mà đề ra chính sách…” [26, tr.157].
“Chính sách là hệ thống các thể chế, các định hướng, các quy định tạo nên
những thực hành của Nhà nước vào một đối tượng quản lý nào đó. Công cụ thực
hành chính của các chính sách là luật pháp và phương pháp hành chính, ngân sách
và hệ thống thuế. Các dạng tồn tại của chính sách gồm có các định hướng mang tính
nguyên tắc, các văn bản thể chế, các chính sách đầu tư và thuế, các phương pháp
hành chính khác” [22, tr.19].
Tóm lại, chính sách được hiểu là những quy định, quyết định đã được thể chế
hoá bởi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm điều chỉnh những quan hệ kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội của con người, giải quyết những vấn đề xã hội đang đặt ra,
thực hiện những mục tiêu đã được xác định.
- Chính sách công
Cụm từ “chính sách” khi gắn với vai trò, chức năng của “khu vực công”
được gọi là chính sách công. CSC là chính sách của nhà nước, ra đời, tồn tại và phát
triển cùng với sự ra đời, tồn tại, phát triển của nhà nước. CSC có vai trò quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đến nay, đã có nhiều định nghĩa

16


về CSC, Thomas Dye (1972) đưa ra một định nghĩa khá súc tích về chính sách
công: “CSC là bất kỳ những gì Nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm” [20, tr.47].
William Jenkins đưa ra định nghĩa: “CSC là một tập hợp các quyết định liên
quan với nhau được ban hành bởi một hoặc một nhóm các nhà hoạt động chính trị
cùng hướng đến lựa chọn mục tiêu và các phương thức để đạt được các mục tiêu
trong một tình huống xác định thuộc phạm vi thẩm quyền” [20, tr.48]. Theo tác giả,
CSC là một quá trình chứ không chỉ đơn giản là một sự lựa chọn; đồng thời, định
nghĩa này cũng cho thấy một cách rõ ràng CSC là “một tập hợp các quyết định có liên
quan với nhau” và quá trình chính sách là hành vi định hướng mục tiêu của nhà nước.
Chính sách công cũng có thể được hiểu “là một tập hợp các quyết định chính

trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp, công cụ chính
sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định” [21,
Tr.12].
Từ quan niệm trên, chính sách công có thể được hiểu theo nghĩa là kết quả
của việc cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng cầm quyền thành các quyết
định, tập hợp các quyết định chính trị với mục tiêu, giải pháp, công cụ nhằm giải
quyết các vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, duy trì sự tồn tại và phát
triển của nhà nước, phát triển kinh tế, xã hội và phục vụ người dân.
1.2.2. Khái niệm chính sách phòng, chống bạo lực gia đình
Chính sách phòng, chống bạo lực gia đình cũng là một loại hình của chính sách
công. Trên cơ sở đó, khái niệm Chính sách phòng, chống bạo lực gia đình được xác
định là:
Chính sách phòng, chống bạo lực gia đình là một tập hợp các quyết định của
Nhà nước nhằm đưa ra các mục tiêu và giải pháp, công cụ chính sách để giải quyết
các vấn đề về phòng, chống bạo lực gia đình nhằm thực hiện các mục tiêu xây dựng
gia đình phát triển, bình đẳng, tiến bộ, đất nước phát triển bền vững.
1.2.3. Nội dung thực hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia đình
1.2.3.1. Nội dung của chính sách phòng, chống bạo lực gia đình
Chính sách phòng, chống bạo lực gia đình được qui định tại Điều 6 của Luật

17


×