MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở nước ta, trong những năm qua, ngành du lịch luôn được Đảng và Nhà
nước rất quan tâm và được xem là ngành “công nghiệp không khói”, coi phát
triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển
kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng
thời xác định phát triển du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn
trên cơ sở “đa dạng hóa sản phẩm và các loại hình du lịch, nâng cao chất
lượng để đạt tiêu chuẩn quốc tế”.
Hà Nội - Thủ đô ngàn năm văn hiến - là trung tâm kinh tế, chính trị, văn
hóa của cả nước. Trong những năm qua, ngành du lịch thủ đô đã góp phần quan
trọng vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm, thúc đẩy quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế. Năm 2010, Hà Nội đã vinh dự được Tạp chí Du lịch trực
tuyến Smart Travel Asia bình chọn là một trong 10 điểm du lịch hấp dẫn nhất
châu Á. Đây là những yếu tố thuận lợi để kinh tế du lịch Thủ đô phát triển lên
tầm cao mới hướng đến các mục tiêu phát triển bền vững.
Ba Vì, là vùng đất địa linh, nhân kiệt, có truyền thống văn hoá lâu đời,
độc đáo, đặc trưng bởi 3 dân tộc Kinh - Mường - Dao với những phong tục,
tập quán, văn hoá riêng biệt. Không những thế, Ba Vì được thiên nhiên ban
tặng sơn thuỷ hữu tình, với hệ sinh thái phong phú, thảm thực vật đa dạng,
được coi là “lá phổi xanh” phía Tây thủ đô Hà Nội. Đến với Ba Vì, ấn tượng
đầu tiên du khách sẽ được chứng kiến nhiều di tích văn hoá dân gian vật thể
và phi vật thể độc đáo. Đó là truyền thuyết về vị thần được ngưỡng kính trong
tâm thức ngàn đời người dân đất Việt là Đệ Nhất Phúc Thần Tản Viên, hay
còn gọi là Nam Thiên Thần Tổ, vị Thần đứng đầu trong Tứ Bất Tử. Nơi
đây có rất nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp như: Núi rừng, Thác suối,
Sông, Hồ gắn với truyền thuyết “Sơn Tinh - Thuỷ Tinh” và nhiều di tích lịch
sử - văn hoá như: Cụm di tích: Đền Thượng - Đền Trung - Đền Hạ thờ Tam vị
Tản Viên Sơn Thánh, Đình Tây Đằng, Đình Chu Quyến, Đình Thụy Phiêu,
Đền thờ Bác Hồ, Khu di tích lịch sử K9 cùng nhiều di tích văn hoá, lịch sử có
giá trị đặc biệt khác. Nơi có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Ao
Vua, Khoang Xanh, Thiên Sơn - Suối Ngà, Khu du lịch Tản Đà, Vườn Quốc
Gia Ba Vì, Thác Đa, Hồ Suối Hai, Hồ Tiên Sa, Suối Mơ, Hồ Cẩm Quỳ, Rừng
nguyên sinh Bằng Tạ - Đầm Long, Đồi cò Ngọc Nhị... Nơi có nhiều trang trại
đồng quê, nhiều sản phẩm nông nghiệp phong phú. Có nguồn nước khoáng
nóng thiên nhiên tại Thuần Mỹ rất thuận lợi cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.
Trong những năm gần đây, Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân Huyện đặc biệt quan tâm đến ngành du lịch với mục tiêu du lịch
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Huyện. Tuy nhiên, trong thời gian qua
kinh tế du lịch Ba Vì phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của
huyện, các khu du lịch quy mô còn khiêm tốn, sản phẩm du lịch chủ yếu vẫn
dựa vào các yếu tố tự nhiên, khai thác những tiềm năng sẵn có và chưa được
đầu tư thỏa đáng; thêm vào đó việc khai thác quá mức không theo quy hoạch
bảo tồn đang đặt ra những vấn đề báo động về ô nhiễm môi trường sinh thái,
hệ lụy bức xúc về văn hóa - xã hội, suy giảm chất lượng cuộc sống cộng
đồng tại các khu, điểm du lịch.
Vì vậy, để kinh tế du lịch huyện Ba Vì phát triển và phát triển một cách
toàn diện theo hướng tích cực, ngành Du lịch Ba Vì cần giải quyết hài hòa mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế du lịch, gắn với bảo tồn, giữ gìn các di sản, bảo vệ
môi trường sinh thái, sớm đưa du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
của Huyện đóng góp không nhỏ cho kinh tế du lịch Thủ đô. Đây cũng chính là
vấn đề cấp thiết hiện nay. Với lý do trên tác giả chọn đề tài: “Phát triển kinh tế
du lịch ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ
kinh tế của mình.
2
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình khoa học cả trong nước và
quốc tế nghiên cứu về du lịch và phát triển kinh tế du lịch, trong đó, tiêu biểu
có các công trình khoa học sau:
“Du lịch bền vững”, tác giả Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu, Đại học
Quốc gia Hà Nội, năm 2001. Học viên đã tìm được những vấn đề về mối quan
hệ giữa du lịch và môi trường. Khái niệm, nguyên tắc, chính sách của du lịch
bền vững, du lịch bền vững ở những vùng sinh thái nhạy cảm như du lịch
miền núi, du lịch ven biển, du lịch sinh thái.
“Cơ sở khoa học và giải pháp phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam”,
đề tài cấp Nhà nước do Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Trung Lương - Viện Nghiên
cứu Phát triển Du lịch làm Chủ nhiệm đề tài, năm 2002. Thông qua đề tài, có
thể nhìn thấy khá toàn diện về phát triển du lịch bền vững từ trước tới nay,
trong đó đã hệ thống hoá các vấn đề lý luận về phát triển du lịch bền vững; xác
định những vấn đề cơ bản đặt ra đối với phát triển du lịch bền vững thông qua
phân tích thực trạng phát triển du lịch Việt Nam từ năm 1992. Tổng quan một
số kinh nghiệm quốc tế về phát triển du lịch bền vững. Đồng thời, học viên
cũng tìm thấy hệ thống các giải pháp đảm bảo phát triển du lịch bền vững trong
điều kiện cụ thể ở Việt Nam; thử nghiệm nghiên cứu mô hình phát triển du lịch
bền vững ở khu vực cụ thể.
“Một số giải pháp phát triển du lịch bền vững thành phố Hồ Chí Minh
đến năm 2010”, tác giả Đoàn Liêng Diễm, Trường Đại học Kinh tế thành phố
Hồ Chí Minh, năm 2003. Học viên có cái nhìn tổng quan những vấn đề lý
luận - thực tiễn về phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam; thực trạng và tiềm
năng phát triển, giải pháp và phác họa mô hình phát triển du lịch bền vững.
“Phát triển du lịch bền vững ở Phong Nha - Kẻ Bàng”, tác giả Trần
Tiến Dũng, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, năm 2006. Học viên
3
được học cách phân tích, luận giải những cơ sở lý luận và kinh nghiệm
quốc tế về phát triển du lịch bền vững. Đồng thời có cái nhìn hệ thống
tổng quan, cách đánh giá thực trạng phát triển du lịch ở vùng núi miền
Trung, đăc biệt là phát huy tiềm năng du lịch dựa vào danh lam thắng cảnh,
di tích lịch sử... của địa phương. Phát triển kinh tế du lịch gắn với quốc phòng
- an ninh, những năm vừa qua đã có một số công trình đi sâu nghiên cứu. Luận
án tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Đình Sơn, hoàn thành năm 2007 về:
“Phát triển kinh tế du lịch ở vùng du lịch Bắc Bộ và tác động của nó tới quốc
phòng - an ninh”. Học viên có caí nhìn tổng thể về những vấn đề lý luận chung
và kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch kết hợp với củng cố quốc phòng - an
ninh. Thực trạng phát triển kinh tế du lịch ở vùng du lịch Bắc Bộ và tác động
tới quốc phòng - an ninh. Đăc biệt những giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế
du lịch ở Vùng Bắc Bộ kết hợp với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh.
“Phát triển kinh tế du lịch và tác động tới quốc phòng - an ninh trên
địa bàn tỉnh Hà Tây”, tác giả Nguyễn Đình Sơn, hoàn thành năm 2003; luận
văn đã cho học viên cái nhìn tổng thể về một cách đánh giá tiềm năng thế
mạnh du lịch của vùng núi, trung du Bắc bộ, có nhiều điểm tương đồng với
miền núi trung du Bắc bộ, có Ba Vì.
Các công trình trên đã đi sâu nghiên cứu khái niệm du lịch, kinh tế du
lịch, một vài công trình đã phân tích tác động của việc phát triển kinh tế du
lịch đến quốc phòng - an ninh; đồng thời chỉ ra thực trạng và giải pháp nhằm
phát triển kinh tế du lịch, phát triển kinh tế du lịch gắn với củng cố quốc
phòng - an ninh ở một địa phương cụ thể.
Ở thành phố Hà Nội, đã có một số công trình nghiên cứu về địa chất,
địa mạo, đa dạng sinh học cũng như việc đẩy mạnh phát triển du lịch. Tiêu
biểu có những công trình sau:
“Du lịch Thăng Long - Hà Nội” của Tiến sĩ Trương Sỹ Vinh làm chủ biên,
Nhà xuất bản Hà Nội, năm 2010. Cuốn sách giới thiệu tổng quan những giá trị tự
4
nhiên, văn hóa lịch sử có ý nghĩa với sự phát triển du lịch của Hà Nội; khái quát
những thành tựu của ngành Du lịch Hà Nội qua các thời kỳ phát triển. Phân tích
những cơ hội, thách thức đối với du lịch Thủ đô trong quá trình hội nhập và phát
triển, đồng thời đưa ra phương hướng phát triển du lịch Hà Nội trong thời gian tới.
“Những giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch trên địa bàn Hà Nội”,
tác giả Bùi Thị Nga, Luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế, Học viện Quân y,
Hà Nội, năm 1996; Tác giả đã cho học viên nhìn nhận vấn đề tổng thể về
những tiềm năng, thế mạnh, giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch trên địa
bàn Thủ đô Hà Nội, huyện Ba Vì trong tương lai, trong thời hội nhập.
“Giải pháp cơ bản khai thác tiềm năng du lịch của Thủ đô và phụ cận
nhằm phát triển du lịch Hà Nội đến năm 2010”, tác giả Nguyễn Thị Nguyên
Hồng, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Thương mại, Hà Nội, năm
2004; Tác giả đã cho học viên cách nhìn riêng khác biệt về tiềm năng du lịch
của Hà Nội, thủ đô ngàn năm văn hiến, trong đó có Ba Vì, vùng đất linh kiệt,
lịch sử ngàn năm với tiềm năng đặc biệt để phát triển một ngành du lịch
không khói, sánh tầm khu vực và thế giới.
Bài viết: Chương trình xúc tiến, quảng bá với chủ đề: "Du lịch Ba Vì đổi mới,
thân thiện và phát triển" của tác giả Hà Xuân Hưng- Bí thư Huyện ủy Ba Vì
nhân buổi lễ khai trương du lịch năm 2014. Bài viết không chỉ để giới thiệu về
Ba Vì với tiềm năng du lịch đặc biệt mà còn cho học viên và người đọc tiếp cận
với quan điểm, chủ trương, chính sách của Hà Nội nói chung và Ba Vì nói
riêng trong việc đẩy mạnh phát triển du lịch để Ba Vì là một điểm đến đầy hấp
dẫn của Việt Nam, du khách bạn bè quốc tế.
Các luận văn, luận án trên đã hệ thống hóa lý luận cơ bản về du lịch, phát
triển du lịch, nguồn nhân lực du lịch, xúc tiến đầu tư du lịch… chỉ ra những tiềm
năng và lợi thế (tài nguyên thiên nhiên và truyền thống văn hóa lịch sử của Thủ
đô ngàn năm văn hiến); thực trạng phát triển du lịch Hà Nội về quy hoạch, chính
sách đầu tư, điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ lao động, thị trường, vai trò quản lý
5
nhà nước… đồng thời đưa ra những định hướng và giải pháp để phát triển du
lịch Hà Nội từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
Ngoài các công trình, luận văn, luận án nêu trên, một số bài báo khoa
học có liên quan đến chủ đề của luận văn đã được công bố trên một số tạp chí
chuyên ngành, đặc biệt một số bài báo về du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế như:
“Phát triển bền vững du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế”, tác giả Nguyễn Văn Mạnh, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 1/2008; “Du
lịch Hà Nội: Hội nhập và hướng tới phát triển bền vững,
Nội dung các bài báo khoa học, các bài viết của các tác giả kể trên đã đề
cập một cách chung nhất về phát triển du lịch, đồng thời chỉ ra các mối liên hệ,
tác động giữa phát triển du lịch với các yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, môi
trường sinh thái, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, đường lối đối ngoại,
đổi mới…
Tóm lại, với phương châm phát triển du lịch là một hoạt động kinh tế
trong phạm vi cả nước và từng địa phương đã có một số công trình nghiên cứu
cả về lý luận và thực tiễn nêu trên. Đây là cơ sở khoa học quan trọng giúp tác giả
làm tư liệu tham khảo trong luận văn của mình. Song tác giả thấy rằng, cho đến
nay có nhiều đề tài về phát triển kinh tế du lịch nhưng chưa có công trình nào
nghiên cứu riêng về phát triển kinh tế du lịch ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
Vì vậy, đề tài của luận văn không trùng lắp với bất kỳ công trình nào đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Phân tích cơ sở lý luận chung về kinh tế du lịch, các vấn đề thực tiễn
của kinh tế du lịch ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội; trên cơ sở đó đề xuất quan
điểm, giải pháp nhằm phát triển kinh tế du lịch của huyện Ba Vì, thành phố Hà
Nội trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ:
- Luận giải những vấn đề lý luận về phát triển kinh tế du lịch.
- Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế du lịch của huyện Ba Vì thời
gian qua.
6
- Quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh phát triển kinh
tế du lịch ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu: phát triển kinh tế du lịch.
4.2.Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Nghiên cứu phát triển kinh tế du lịch cả về số lượng,
chất lượng, cơ cấu kinh tế du lich.
- Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu phát triển kinh tế du lịch ở
huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, số liệu điều tra khảo sát giai đoạn 2006 - 2014.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam và các Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ, Ban Chấp hành
Thành ủy, HĐND thành phố Hà Nội, Huyện ủy- HĐND -UBND huyện Ba Vì
về phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô và của huyện Ba Vì.
5.2.Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở
phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; phương pháp nghiên
cứu đặc thù của khoa học kinh tế chính trị là phương pháp trừu tượng hóa khoa
học. Ngoài ra, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: phương
pháp thống kê, so sánh, thu thập, phân tích, tổng hợp tài liệu, phương pháp điều
tra khảo sát thực tiễn.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa học cho việc xác định
chủ trương, giải pháp phát triển kinh tế du lịch ở huyện Ba Vì, thành phố Hà
Nội và các địa phương khác.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
học tập, giảng dạy môn Kinh tế Chính trị, Kinh tế du lịch trong các Học viện,
trường đại học.
7. Kết cấu của đề tài
7
Luận văn gồm: Phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Quan niệm về du lịch và kinh tế du lịch
1.1.1. Quan niệm về du lịch
Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như một sở
thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Thuật ngữ du lịch bắt
nguồn từ tiếng Hy Lạp: “Tonos” - nghĩa là đi một vòng. Sau này được La tinh
hoá thành “Turnur” và sau đó thành “Tour” (tiếng Pháp), nghĩa là đi vòng
quanh, cuộc dạo chơi. Theo Robert Langquar, từ Tourism (du lịch) lần đầu
tiên xuất hiện trong tiếng Anh vào khoảng năm 1800 và được quốc tế hoá nên
nhiều nước đã sử dụng trực tiếp mà không dịch nghĩa.
Về khái niệm du lịch, do hoàn cảnh (thời gian, khu vực) khác nhau, góc
độ nghiên cứu khác nhau, mỗi tác giả lại có một cách hiểu khác nhau. Khi điểm
lại các công trình nghiên cứu về du lịch, Giáo sư, Tiến sĩ Berkener, một chuyên
gia uy tín về lĩnh vực du lịch trên thế giới, đã đưa ra nhận xét: “Đối với du lịch,
có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa” [8, tr.9]. Tuy nhiên,
trong phạm vi luận văn, tác giả không đi sâu phân tích các quan niệm khác nhau
về du lịch mà chỉ đưa ra quan niệm chung nhất, bảo đảm tính hệ thống cho luận
văn mà thôi.
Khi bàn về mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng, theo Các Mác:
“Sản xuất, coi là trực tiếp đồng nhất với tiêu dùng và tiêu dùng coi là trực tiếp
ăn khớp với sản xuất, cái đó các nhà kinh tế học gọi là tiêu dùng sản xuất”,
“Tiêu dùng đồng thời cũng trực tiếp là sản xuất, cũng giống như trong tự
nhiên, tiêu dùng các nguyên tố hóa chất là sự sản xuất ra thực vật” [13,
tr.600]. Du lịch cũng vậy, đây là hoạt động của con người luôn diễn ra đồng
8
thời cả hai mặt sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm du lịch, trong đó, người
kinh doanh du lịch tạo ra và cung ứng các sản phẩm du lịch đảm bảo nhu cầu
của du khách, còn khách du lịch là những người trả tiền để được tiêu dùng các
sản phẩm đó. Chỉ khi hai hoạt động diễn ra đồng thời thì mới đảm bảo một
tour du lịch hoàn chỉnh. Như vậy, du lịch là một hoạt động có sự thống nhất
biện chứng giữa người cung cấp và người tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ du
lịch. Dựa trên cách tiếp cận trên có thể tách thuật ngữ “Du lịch” thành hai
phần để định nghĩa nó, qua đó “Du lịch” được hiểu như sau:
Thứ nhất, du lịch là “sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong
thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích
phục hồi sức khoẻ, nâng cao nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không
kèm theo việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hoá và dịch vụ do
các cơ sở chuyên nghiệp cung ứng” [12, tr.18].
Thứ hai, du lịch là “một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thoả mãn
nhu cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong
thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi
sức khoẻ, nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh” [12, tr.18].
Từ những phân tích trên, tác giả có quan điểm ngắn gọn riêng của mình
về du lịch như sau: Du lịch là mối quan hệ cung, cầu giữa đơn vị cung cấp dịch
vụ với người sử dụng dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu nghỉ ngơi, ăn, chơi giải
trí và nhận thức của con người.
1.1.2. Quan niệm về kinh tế du lịch và đặc điểm của kinh tế du lịch
* Quan niệm về kinh tế du lịch
Trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về kinh tế du lịch. Theo các
tác giả Đổng Ngọc Minh và Vương Lôi Đình (Trung Quốc): về bản chất “Kinh
tế du lịch là một hoạt động kinh tế, là tổng thể các hành vi phối hợp với nhau
của hoạt động kinh tế nói chung với hoạt động kinh tế du lịch nhằm đáp ứng
các nhu cầu về du lịch” [13, tr.228].
9
Ở Việt Nam, Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Kinh tế du lịch
là một loại hình kinh tế có tính đặc thù mang tính dịch vụ và thường được xem
như ngành công nghiệp không khói, gồm du lịch quốc tế và du lịch trong nước,
có chức năng nhiệm vụ tổ chức việc khai thác các tài nguyên và cảnh quan của
đất nước (tài nguyên thiên nhiên, phong cảnh, kinh tế, văn hóa, lịch sử…)
nhằm thu hút khách du lịch trong nước và ngoài nước tổ chức buôn bán xuất,
nhập khẩu tại chỗ hàng hóa dịch vụ cho khách du lịch” [14, tr.586].
Từ các quan niệm trên cho thấy, cách tiếp cận của các tác giả trên mới chỉ
đề cập đến mặt kinh tế - kỹ thuật là chủ yếu mà chưa đề cập hoặc có đề cập thì
cũng chưa thực sự rõ nét mặt kinh tế - xã hội trong hoạt động kinh doanh du lịch.
Đó là yếu tố con người, mối quan hệ, tác động lẫn nhau giữa con người với con
người, con người với tự nhiên trong vai trò là chủ thể sáng tạo ra các sản phẩm
du lịch và đồng thời cũng là lực lượng tiêu thụ những sản phẩm đó. Đứng trên
góc độ của kinh tế chính trị học, tác giả cho rằng kinh tế du lịch là tổng hòa các
mối quan hệ giữa các hiện tượng kinh tế với kinh tế, kinh tế với xã hội, nó được
hình thành trên cơ sở phát triển sản xuất, trao đổi hàng hóa cùng nhu cầu về vật
chất, tinh thần ngày càng nâng cao của con người. Từ góc tiếp cận đó, tác giả
nhất trí cao với quan điểm của Tiến sĩ Nguyễn Đình Sơn: “Kinh tế du lịch là một
ngành kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực du lịch dịch vụ, nó là một loại hình kinh
tế phản ánh bước tiến mới của lực lượng sản xuất, là quá trình tổ chức khai thác
các tài nguyên du lịch của đất nước thành sản phẩm du lịch nhằm thu hút khách
du lịch trong và ngoài nước, tổ chức buôn bán, xuất nhập khẩu tại chỗ hàng hóa
và dịch vụ thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng cho du khách, góp phần nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho con người, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Ở
các quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau thì có mục đích, tính chất và
chiến lược phát triển kinh tế du lịch khác nhau” [15, tr.23].
Từ những phân tích trên, tác giả có quan điểm ngắn gọn riêng của mình
về kinh tế du lịch như sau: Hoạt động của ngành du lịch với mục đích thúc đẩy
10
kinh tế - xã hội phát triển, mang lại lợi nhuận và chịu ảnh hưởng của nền kinh tế
thị trường gọi là kinh tế du lịch.
* Đặc điểm của kinh tế du lịch
So với các ngành kinh tế khác, kinh tế du lịch có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, kinh tế du lịch là một loại hình kinh tế có tính đặc thù.
Nó đề cập đến các hoạt động kinh doanh thuộc lĩnh vực du lịch, trong đó
loại hình dịch vụ là chủ yếu. Trên cơ sở tài nguyên du lịch, chủ thể kinh doanh
tạo ra những sản phẩm hàng hóa du lịch đáp ứng nhu cầu thưởng ngoạn, hưởng
thụ của du khách. Trên thị trường du lịch, ngoài những đặc điểm như hàng hóa
nói chung, sản phẩm du lịch còn có các đặc điểm riêng: nó có thể là vật chất
hoặc phi vật chất, khi đem ra trao đổi giữa nhà cung cấp du lịch với khách du
lịch và cái được đối với du khách là sự cảm giác, trải nghiệm hay hưởng thụ.
Sự trao đổi này cũng không làm thay đổi quyền sở hữu sản phẩm du lịch, trong
quá trình chuyển đổi cũng không xảy ra sự dịch chuyển sản phẩm, chỉ là du
khách có quyền sở hữu tạm thời sản phẩm du lịch tại nơi mình đến. Cùng một
sản phẩm du lịch có thể bán được nhiều lần cho nhiều du khách khác nhau sử
dụng, còn quyền sở hữu trước sau vẫn thuộc về người cung cấp sản phẩm đó.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của kinh tế du lịch mang tính thời vụ cao.
Tính thời vụ trong kinh doanh du lịch tồn tại bởi tác động của tập hợp
nhiều nhân tố như các nhân tố tự nhiên, kinh tế - xã hội, cách thức tổ chức, kỹ
thuật, tâm lý, phong tục, tập quán, cung - cầu trên thị trường… Ngoài ra, tình
hình thời tiết, biến đổi khí hậu, thiên tai, quốc phòng - an ninh… cũng là nhân
tố tác động đến tính thời vụ trong kinh doanh du lịch. Một số nhân tố tác động
chủ yếu lên cung du lịch, một số khác tác động chủ yếu lên cầu du lịch, có nhân
tố tác động lên cả cung và cầu du lịch. Tính thời vụ trong kinh doanh du lịch
được biểu hiện ra là: các khu du lịch nghỉ mát thường vắng khách vào mùa
đông nhưng lại rất đông khách vào mùa hè; các khu du lịch tâm linh thu hút
được nhiều khách du lịch vào các mùa lễ hội; các nhà hàng trong khách sạn
11
thường đông khách ăn vào trưa hoặc chiều tối; hoặc các khách sạn gần trung
tâm thành phố thường đông khách vào ngày nghỉ cuối tuần…
Thứ ba, chức năng, nhiệm vụ của kinh tế du lịch là tổ chức khai thác các
tài nguyên du lịch của đất nước
Các tài nguyên du lịch gồm: các tài nguyên du lịch thiên nhiên (đất đai,
khí hậu, sông suối, rừng núi…); tài nguyên du lịch nhân văn (các di tích cổ,
kiến trúc cổ, ẩm thực, tôn giáo, hội họa…) trên cơ sở đó xây dựng nên những
sản phẩm du lịch hấp dẫn nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước;
thực hiện các quan hệ trao đổi, mua bán hàng hóa và dịch vụ du lịch, thu ngoại
tệ góp phần tăng thu nhập quốc dân cho địa phương và quốc gia đó.
Thứ tư, quá trình phát triển của kinh tế du lịch gắn liền với quá trình vận
động phát triển của lực lượng sản xuất.
Kinh tế du lịch là một trong những nhân tố phản ánh lực lượng sản xuất xã
hội ở một trình độ phát triển trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nó luôn gắn
liền với quá trình phát triển của con người, thể hiện quá trình sản xuất và tiêu dùng
của con người ở một trình độ cao hơn, sản xuất hàng hóa và dịch vụ đa dạng,
phong phú hơn. Khi lực lượng sản xuất càng phát triển thì kinh tế du lịch càng có
môi trường hoạt động rộng rãi và khả năng liên kết cao với các ngành kinh tế
khác, giữa các vùng miền, khu vực, các quốc gia dân tộc với nhau thông qua mối
quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, tiêu dùng các hàng
hóa, dịch vụ du lịch. Nó thúc đẩy việc mở rộng mối quan hệ giữa con người với
con người, con người với thiên nhiên, giúp con người chinh phục, cải tạo, bảo vệ
thiên nhiên có hiệu quả bền vững hơn.
Thứ năm, các quốc gia có điều kiện kinh tế và chế độ chính trị - xã hội
khác nhau thì quan điểm, mục đích và chiến lược phát triển kinh tế du lịch khác
nhau.
Ở mỗi một quốc gia lại có điều kiện kinh tế, văn hóa lịch sử, tài
nguyên và chế độ chính trị - xã hội khác nhau nên việc xác định quan
12
điểm, mục đích, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế du lịch không
một quốc gia nào giống quốc gia nào. Tùy vào điều kiện riêng, từng
nước sẽ xác định quan điểm, mục tiêu (trước mắt, trung hạn, dài hạn),
quy mô phát triển, sản phẩm du lịch đặc thù… trong chiến lược phát
triển kinh tế du lịch của quốc gia mình. Các quốc gia có chế độ chính trị
- xã hội khác nhau có mục đích phát triển kinh tế du lịch khác nhau. Ở
các nước tư bản chủ nghĩa, mục đích hàng đầu, tối thượng là tối đa hóa
lợi nhuận trên cơ sở khai thác một cách triệt để, cùng kiệt các tài nguyên
du lịch (trong thời hạn hợp đồng kinh doanh du lịch) và tất nhiên, hầu
hết phần lợi nhuận đó thuộc về nhà tư bản nắm quyền sở hữu về những
tư liệu sản xuất chủ yếu; các tiêu chí về văn hóa - xã hội, bảo tồn tài
nguyên du lịch, môi trường sinh thái thường ít được quan tâm và coi
trọng đúng mức. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, việc phát triển kinh
tế du lịch bền vững luôn được cân nhắc, tính toán cẩn thận trong việc ưu
tiên hợp lý, thỏa đáng đối với cả 3 tiêu chí: kinh tế, văn hóa - xã hội, môi
trường sinh thái. Những lợi ích mang lại được phân chia công bằng, bình
đẳng cho cả doanh nghiệp, cơ quan quản lý Nhà nước, chính quyền và
nhân dân địa phương. Tất cả mọi người đều có cơ hội được thụ hưởng
những giá trị đích thực từ chiến lược phát triển kinh tế du lịch.
Thứ sáu, phát triển kinh tế du lịch đòi hỏi phải gắn với việc phát triển
kinh tế - xã hội; an ninh quốc phòng - trật tự an toàn xã hội; bảo tồn di sản
thiên nhiên, văn hóa và bảo vệ môi trường
Đảm bảo phát triển về kinh tế - xã hội: Nếu chỉ đơn thuần phát triển
kinh tế du lịch thì sẽ không bền vững và rất rễ bị phá vỡ cơ cấu kinh tế, vì vậy
sự phát triển của kinh tế du lịch phải luôn đề cao nhiệm vụ là phải bảo đảm
tăng trưởng một cách hiệu quả, ổn định và lâu dài về kinh tế. Phát triển kinh
tế du lịch phải đảm bảo không ngừng nâng cao và cải thiện chất lượng cuộc sống
cho tất cả mọi người trong suốt quá trình phát triển, đồng thời tạo ra nguồn thu
13
đáng kể cho ngân sách nhà nước, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế xã hội nói chung và đóng vai trò tích cực vào sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia, của địa phương có tiềm năng về du lịch.
Đảm bảo an ninh quốc phòng - trật tự an toàn xã hội:
Quốc gia nào, dân tộc nào có môi trường hoà bình, hữu nghị, hợp tác
giữa các dân tộc thì du lịch mới có thể phát triển tốt. Chính sách đa phương
hóa, đa dạng hoá hoạt động kinh tế đối ngoại, muốn hợp tác và là bạn với tất
cả các nước trên thế giới của Đảng, Nhà nước ta trong những năm qua đã tạo
điều kiện cho nền kinh tế đất nước nói chung, kinh tế du lịch nói riêng không
ngừng phát triển. An ninh chính trị tốt, trật tự an toàn xã hội, quốc phòng- an
ninh được bảo đảm, hoà bình bền vững là đòn bẩy, là điều kiện thúc đẩy hoạt
động du lịch, làm cho kinh tế du lịch không ngừng phát triển. Do vậy, trong
hoạt động kinh doanh du lịch không chỉ bằng chính sách mềm dẻo để thu hút
dòng khách du lịch mà phải đặc biệt quan tâm đến an ninh quốc phòng - trật
tự an toàn xã hội, nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối cho du khách.
Đảm bảo bảo tồn di sản thiên nhiên, văn hóa
Trong quá trình khai thác du lịch, một mặt phải đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế du lịch hiện tại, mặt khác không làm thay đổi hoặc tổn hại đến các di sản
thiên nhiên, văn hóa , không làm suy thoái các giá trị văn hóa truyền thống đã có và
đặc biệt không để lại hậu quả xấu cho các thế hệ mai sau.
Đảm bảo sự bền vững về môi trường: Để đảm bảo bền vững về môi
trường, phát triển kinh tế du lịch phải tuyệt đối không làm suy thoái hay hủy diệt
môi trường đồng thời phải bảo tồn tài nguyên thiên nhiên vốn có của đất nước.
Việc sử dụng các tài nguyên không vượt quá khả năng tự phục hồi của nó, vừa
đáp ứng được nhu cầu phát triển hiện tại song không làm suy yếu khả năng tái
tạo cho tương lai để đáp ứng được nhu cầu lâu dài cho các thế hệ mai sau.
1.2. Quan niệm, nội dung, tiêu chí phát triển kinh tế du lịch ở huyện
Ba Vì, thành phố Hà Nội
14
1.2.1. Quan niệm về phát triển kinh tế du lịch ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
* Phát triển là: khuynh hướng vận động đã xác định về hướng của sự
vật; hướng đi lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn...
Trong khi xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng phải tôn trọng nguyên
tắc phát triển của chúng, không được thành kiến định kiến... Luôn lạc quan tin
tưởng vào khuynh hướng vận động của sự vật, tạo mọi điều kiện để sự vật
phát triển...
* Phát triển kinh tế du lịch ở huyện Ba vì, thành phố Hà Nội là: tổng
thể những giải pháp mà chính quyền các cấp và nhân dân trong huyện tiến
hành,
nhằm phát triển về quy mô ngày càng lớn hơn của các sản phẩm du
lịch, thu hút ngày càng nhiều du khách, góp phần tăng nguồn thu, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân trong huyện; thúc đẩy văn hóa - xã
hội, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn tài nguyên du lịch và bảo đảm ổn
định về quốc phòng - an ninh trên địa bàn.
Khái niệm trên chỉ rõ: Chủ thể phát triển kinh tế du lịch ở huyện Ba Vì
là chính quyền các cấp ở huyện Ba Vì và các chủ thể kinh doanh du lịch trên
địa bàn huyện. Trong đó chính quyền các cấp thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về du lịch; còn các chủ thể kinh doanh du lịch (cá nhân, tổ chức, đơn vị
được pháp luật cho phép) thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của
quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên
thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Sản phẩm du lịch là loại sản phẩm đặc biệt,
nó được kết tinh một cách tổng hòa giữa sản phẩm hữu hình và vô hình nên đòi
hỏi các cá nhân, tổ chức, đơn vị tham gia vào quá trình tạo ra sản phẩm đều
phải có trách nhiệm cao thì mới có sản phẩm hoàn hảo, đáp ứng được tâm lý,
nhu cầu của du khách.
Mục đích, phát triển kinh tế du lịch:
Thứ nhất, phát triển kinh tế du lịch phải đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự
phong phú về tinh thần và văn hoá, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng
15
thuận của xã hội, sự hài hoà giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp
chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển văn hóa xã hội và bảo vệ môi trường.
Thứ hai, phát triển kinh tế du lịch phải bền vững về kinh tế tức là phải đạt
được sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu
nâng cao đời sống của nhân dân, tránh được sự suy thoái hoặc đình trệ trong
tương lai, tránh để lại gánh nặng nợ nần lớn cho các thế hệ mai sau.
Thứ ba, phát triển kinh tế du lịch phải bền vững về xã hội, tức là phải
đạt được kết quả cao trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo
đảm chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân ngày càng được nâng cao, mọi
người đều có cơ hội được học hành và có việc làm, giảm tỷ lệ đói, nghèo và
hạn chế khoảng cách giàu, nghèo giữa các tầng lớp và nhóm xã hội, giảm các
tệ nạn xã hội, nâng cao mức độ công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các
thành viên và giữa các thế hệ trong một xã hội, duy trì và phát huy được tính
đa dạng và bản sắc văn hoá các dân tộc trên địa bàn thành phố Hà Nội nói
chung và huyện Ba Vì nói riêng, không ngừng nâng cao trình độ văn minh về
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Thứ tư, phát triển kinh tế du lịch phải bền vững về môi trường, tức là khai
thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên của huyện;
phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô nhiểm môi trường
sống; bảo vệ được các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên trên địa bàn
huyện; bảo tồn sự đa dạng sinh học của các cánh rừng Ba Vì; khắc phục suy
thoái và cải thiện chất lượng môi trường.
Biện pháp phát triển kinh tế du lịch: Gồm các biện pháp sau:
Thứ nhất, biện pháp về quảng bá: Ngành Văn hóa – Thông tin phải chủ trì
thuê hoặc hợp tác với các nhà tư vấn, thiết kế, các chuyên gia có trình độ chuyên
môn cao, để thiết kế các nội dung xúc tiến du lịch đúng đối tượng, đúng thị
trường thông qua các hoạt động xúc tiến du lịch. Tuyên truyền quảng bá, quảng
16
cáo du lịch Ba Vì trên các phương tiện thông tin đại chúng trên đài phát thanh,
truyền hình, trên mạng internet… để nhiều người trong nước và quốc tế được
biết đến Ba Vì.
Thứ hai, nâng cao chất lượng sản phẩm truyền thống, đồng thời phát triển sản
phẩm du lịch mới hấp dẫn kết hợp với phong tục tập quán vùng miền, với phương
châm đa dạng hóa các loại hình du lịch, như Du lịch kết hợp với hội nghị, hội thảo;
du lịch lửa trại về mùa thu và mùa đông; du lịch tâm linh về mùa xuân; du lịch dành
cho học sinh, sinh viên đi tham quan, nghiên cứu thực tế tại các vườn trại; du lịch các
làng nghề truyền thống ở Ba Vì ... tránh tình trạng khách du lịch chủ yếu đến Ba Vì
vào mùa hè như hiện nay.
Thứ ba, biện pháp về việc mở rộng kết nối, liên kết với các công ty lữ
hành. Tiếp tục phát huy các mối quan hệ với các công ty du lịch trên địa bàn
Hà Nội và các công ty lữ hành ở các tỉnh khu vực phía Bắc bởi họ có rất
nhiều kinh nghiệm trong việc xúc tiến và quảng bá tới khách hàng. Phấn đấu
ngày càng nhiều khách đến Ba Vì ở lại dài ngày.
Thứ tư, biện pháp về giá: Thị trường du lịch là một thị trường cạnh tranh
sôi động, có tầm quan trọng trong việc xác định giá của sản phẩm dịch vụ.
Ngoài nhu cầu của khách lẻ, họ ít quan tâm hơn đến sự chênh lệch giá thì
công ty lữ hành lại rất nhạy cảm với giá mà các đơn vị kinh doanh dịch vụ lưu
trú và ăn uống định ra. Do đó, các đơn vị kinh doanh dịch vụ lưu trú cần đặc
biệt chú ý đến mức giá cho dịch vụ của mình tại các thời điểm khác nhau. Để
kích cầu trong giai đoạn vắng khách thì các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
ở Ba Vì nên định giá theo phương châm “Đảm bảo tồn tại” hoặc cơ cấu lãi ít,
để thu hút đối tượng khách đến thị trường Ba Vì vào những dịp cuối tuần
hoặc các ngày trong dịp nghỉ lễ.
1.2.2. Nội dung, phát triển kinh tế du lịch ở huyện Ba Vì, thành phố
Hà Nội
Để phát triển kinh tế du lịch huyện Ba Vì, cần tập trung vào một số nội dung,
tiêu chí cơ bản sau:
17
Một là, tập trung công tác quy hoạch,quản lý du lịch, điều kiện cho phát
triển các sản phẩm du lịch quy mô ngày càng lớn(cơ sở, các điểm du lịch, các
dịch vụ du lịch).
Đây là tiêu chí quan trọng và là cơ sở đầu tiên để xây dựng các tiêu chí
tiếp theo. Để phát triển kinh tế du lịch một cách hiệu quả và bền vững phải có
một chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đề án phát triển khoa học khả thi. Bắt đầu
từ việc lập quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết và phải quan tâm rà soát kỹ
lưỡng việc tư vấn thiết kế sau đó đến việc lựa chọn nhà thầu và tổ chức thi công
cơ sở hạ tầng các khu, điểm du lịch đảm bảo kỹ, mỹ thuật và tiến độ đề ra.
Về quản lý du lịch: Phát triển kinh tế du lịch phải tuân thủ những quy định về
bảo tồn di sản tại địa phương; tôn trọng những di sản thiên nhiên và phong tục
tập quán của địa phương trong công tác thiết kế; đánh giá được những tác động
cả tích cực, tiêu cực và áp dụng các phương pháp xây dựng bền vững phù hợp.
Trong công tác quản lý du lịch, cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch, các doanh
nghiệp kinh doanh du lịch cần thực hiện hệ thống quản lý chặt chẽ, phù hợp với
quy mô và khả năng của mình để góp phần giải quyết tốt các vấn đề về môi
trường, văn hóa xã hội, sức khỏe và an toàn cho cộng đồng; tuân thủ luật pháp
và các quy định có liên quan đến lĩnh vực du lịch; tất cả nhân viên phục vụ phải
được đào tạo định kỳ về nhiệm vụ của họ trong quản lý môi trường, văn hóa xã
hội, sức khỏe và các thói quen an toàn; cần lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của
khách hàng để có các biện pháp điều chỉnh phù hợp; quảng cáo đúng sự thật về
các sản phẩm du lịch; cung cấp thông tin cho khách hàng về môi trường du lịch,
di sản, văn hóa địa phương, đồng thời giải thích cho họ những quy định khi tham
quan các khu vực tự nhiên, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể.
Ba Vì, là vùng đất địa linh, nhân kiệt, có truyền thống văn hoá lâu đời,
độc đáo, đặc trưng, với những phong tục, tập quán, văn hoá riêng biệt. Không
những thế, Ba Vì được thiên nhiên ban tặng sơn thuỷ hữu tình, với hệ sinh
18
thái phong phú, thảm thực vật đa dạng, có nhiều cảnh quan tươi đẹp được coi
là “lá phổi xanh” phía Tây thủ đô Hà Nội. Ở đây có nhiều điểm du lịch, mỗi
điểm lại có đăc trưng riêng và gắn với các sản phẩm du khác nhau. Hiện nay
Ba Vì đang có trên 10 điểm du lịch sở hữu một số sản phẩm du lịch như: Du
lịch sinh thái – nghỉ dưỡng, du lịch tâm linh, du lịch trang trại và làng nghề...
Theo đánh giá của Trung tâm Xúc tiến du lịch Hà Nội: Ba Vì có nhiều
khu du lịch sinh thái, trong đó đặc biệt là Vườn quốc gia Ba Vì có diện tích
rộng 10.782 ha, với 1.201 loài thực vật bậc cao, 342 loài động vật, trong đó có
3 loài đặc hữu và 66 loài động vật rừng quý hiếm, được coi là hạt nhân để tạo
nên cảnh quan sinh thái của cả vùng vốn có nhiều phong cảnh đẹp với các
thác nước, hồ, hệ sinh thái còn được bảo tồn.
Ba Vì còn có các làng nông nghiệp, các trang trại và làng nghề truyền
thống lâu đời như các trang trại nuôi bò sữa, nuôi đà điểu, dê, thỏ; làng thảo
dược của người Dao với hơn 300 loài cây cỏ được sưu tầm trên núi Ba Vì,
trong đó có 2 bài thuốc tắm phục hồi sức khỏe.
Bên cạnh đó là nguồn nước khoáng nóng 40-50 độ C ở xã Thuần Mỹ
với vi lượng khoáng và thành phần radon tốt cho sức khỏe, có tác dụng chữa
các bệnh ngoài da, xương cốt, tiêu hóa. Ba Vì bước đầu hình thành 9 làng
trồng chè và làm chè khô từ búp tươi ở xã Ba Trại rộng gần 500 ha.
Cùng với phong cảnh đẹp, vùng đất này mang đậm dấu ấn ngàn năm
lịch sử còn lưu lại từ thuở Sơn Tinh - Thủy Tinh giao chiến. Ba Vì hiện có 3
dân tộc là Kinh - Mường - Dao sinh sống và tại các bản làng dân tộc còn lưu
giữ được một số nét văn hóa phi vật thể nổi bật như: Múa Chuông, Tết
Nhảy… của người Dao; cồng chiêng, múa sắc bùa của người Mường.
Không dừng lại ở những địa điểm và các sản phẩm du lịch hiện có, Ba
Vì cần phải thu hút các nhà đầu tư lớn để xây dựng các khu du lịch cao cấp
mang tầm cỡ quốc gia và quốc tế như: khu du lịch hồ Cẩm Quỳ; sối nước
khoáng nóng ở Thuần Mỹ và đặc biệt là khu du lịch Quốc tế cao cấp Tản
19
viên tại Suối Hai, Ba Vì đã được Chính phủ đồng ý và UBND Thành phố phê
duyệt. Quy hoạch Dự án này với quy mô diện tích 158ha chưa kể mặt nước
nhằm phát triển khu vực hồ Suối Hai, huyện Ba Vì thành Khu du lịch quốc tế
cao cấp, với các chức năng chính như dịch vụ tổng hợp, vui chơi giải trí, thể
thao, nghỉ dưỡng, công viên cây xanh… đồng thời đưa khu vực hồ Suối Hai
trở thành trung tâm chính và là động lực thúc đẩy sự phát triển của khu du
lịch quốc gia hồ Suối Hai, núi Ba vì trở thành một khu du lịch, dịch vụ có vai
trò quan trọng của đất nước và khu vực, nhằm thu hút và hấp dẫn du khách
trong nước và ngoài nước.
Hai là, xây dựng cơ cấu sản phẩm du lịch hợp lý mang tính độc đáo và đặc
trưng của vùng miền Ba Vì, đảm bảo yêu cầu về phát triển kinh tế du lịch của
ngành công nghiệp không khói.
Về kinh tế: Số lượng, chất lượng các sản phẩm du lịch; số và chất lượng
nguồn nhân lực phục vụ trong ngành du lịch; số lượng khách du lịch đến tham
quan; doanh thu, lợi nhuận từ kinh doanh du lịch…
Kinh tế là tiêu chí được đánh giá dựa trên sự phát triển ổn định và lâu dài
của sản phẩm du lịch, tạo ra nguồn thu đáng kể, góp phần tích cực vào tăng trưởng
kinh tế của xã hội và đem lại lợi ích cho cộng đồng, đặc biệt là cho người dân địa
phương nơi có tiềm năng du lịch. Lấy doanh thu hay mức tăng GDP, GNP từ
ngành Du lịch là tiêu chí quan trọng để bảo đảm sự tồn tại cho hoạt động kinh tế
du lịch, song phải đảm bảo sự tăng trưởng ổn định, hiệu quả và bền vững. Tổ chức
kinh doanh các sản phẩm du lịch dựa trên điều kiện về thiên nhiên, lịch sử và văn
hóa địa phương (bao gồm thức ăn, nước uống, sản phẩm thủ công, nghệ thuật biểu
diễn và các mặt hàng nông sản) nhằm không ngừng thu hút, gia tăng số lượng du
khách đến tham quan và quay trở lại các điểm du lịch; chú trọng việc sử dụng hợp
lý tài nguyên du lịch trong quá trình sản xuất kinh doanh, tận dụng tối đa các
nguồn tài nguyên có thể tái tạo; chủ động chia sẻ lợi nhuận thu được từ kinh
doanh du lịch (tài chính, nhân lực hoặc vật chất) để hỗ trợ các hoạt động phục vụ
cộng đồng với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
20
Hiện nay trên địa bàn huyện Ba Vì có 15 đơn vị tham gia hoạt động
kinh doanh du lịch. Tổng giá trị đầu tư cơ sở hạ tầng cho du lịch ngày một
tăng, từ năm 2007 đến nay bình quân đạt khoảng 60 tỷ đồng/năm.
Những đơn vị có mức đầu tư lớn như: Ao Vua, Khoang Xanh, Thiên
Sơn - Suối Ngà, Thác Đa, Đầm Long… hoạt động du lịch đã góp phần vào
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện, tăng thu nhập cho người dân. Hiện du
lịch, dịch vụ chiếm 44% trong tỷ trọng cơ cấu kinh tế của huyện và phấn đấu
đến năm 2016, du lịch, dịch vụ chiếm 50-52% trong cơ cấu kinh tế.
Theo đánh giá của Ông Trương Minh Tiến, Phó Giám đốc Sở
VH,TT&DL Hà Nội thì: Du lịch sinh thái là thế mạnh của Ba Vì. Vườn Quốc
gia Ba Vì là đơn vị đầu tiên được giao thí điểm dự án “Thuê môi trường để
làm du lịch”.
Thực tế, mô hình này đang mang lại hiệu quả tại khu du lịch Thiên
Sơn - Suối Ngà nhưng cần phải có sự tổng kết trước khi nhân rộng. Hiện
nay, hạ tầng giao thông tuyến đường Láng - Hòa Lạc đang được hoàn thiện
và hạ tầng về lưu trú cơ bản đáp ứng được nhu cầu du khách sẽ là nền tảng
để hấp dẫn du khách.
Tuy nhiên, để lượng khách quay lại nhiều lần và thu hút được khách
quốc tế cần phải có sự đa dạng sản phẩm, cũng như tạo sản phẩm đặc trưng.
Một trong những điểm nhấn của tour du lịch này là các trang trại vùng núi Ba
Vì và tìm hiểu cuộc sống, tập quán sinh hoạt, văn hóa của đồng bào dân tộc
Dao, Mường.
Bên cạnh đó là phát triển loại hình nông nghiệp sinh thái mà điển hình
là chè sạch Ba Trại, phát triển nuôi bò sữa Ba Vì. Việc phát triển nông nghiệp
sinh thái không chỉ cung cấp sản phẩm sạch ngay cho vùng du lịch mà cả
trung tâm Hà Nội.
21
Ba là, nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch, quan tâm phát triển thị
trường du lịch; đảm bảo tiêu chí về văn hóa- xã hội, môi trường, sinh thái,
quốc phòng - an ninh:
Nội dung quan trọng nhất trong phát triển kinh tế du lịch là tạo ra được
thị trường ổn định và phát triển về. Muốn vậy phải tạo ra được nhiều các sản
phẩm du lịch độc đáo, chất lượng cao. Hiện nay mặc dù Ba Vì có rất nhiều
tiềm năng thế mạnh về phát triển du lịch, song nhìn chung chất lượng các sản
phẩm du lịch còn nhiều hạn chế so với các địa phương khác trong cả nước. Vì
vậy, khách du lịch đến với Ba vì chủ yếu là vào mùa hè, thời gian lưu trú
ngắn. Để kinh tế du lịch phát triển nhất thiết phải nâng cao chất lượng các sản
phẩm du lịch hiện có và tạo nhiều sản phẩm có chất lượng cao mới và đặc biệt
phải quan tâm đến phát triển thị trường du lịch.
Về văn hóa: Phát triển kinh tế du lịch mà các giá trị văn hóa bị hủy
hoại hoặc biến dạng sẽ không còn đủ sức thuyết phục, hấp dẫn du khách. Do
vậy, kinh tế du lịch bền vững phải dựa trên cơ sở gia tăng lợi ích đối với các
di sản văn hóa và giảm nhẹ các tác động tiêu cực; quá trình khai thác vừa
đáp ứng nhu cầu hiện tại nhưng không làm tổn hại, suy thoái các giá trị văn
hóa truyền thống đã có và để lại hậu quả xấu cho các thế hệ tiếp theo.
Tiêu chí về văn hóa đòi hỏi phải: Tuân thủ các hướng dẫn và quy định
về hành vi ứng xử khi tham quan các điểm văn hóa hay lịch sử, nhằm giảm
nhẹ các tác động từ du khách; cung cấp, hướng dẫn và giải thích cho du khách
thông tin về di sản văn hóa, di sản thiên nhiên tại địa phương để du khách có thái
độ và hành vi phù hợp khi tham quan các điểm du lịch; thể hiện nét văn hóa,
truyền thống của địa phương trong kiến trúc, các dịch vụ của cơ sở lưu trú;
tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của dân cư bản địa khi sử dụng nghệ thuật, kiến
trúc, các di sản văn hóa của địa phương trong hoạt động kinh doanh, thiết kế,
trang trí, ẩm thực; có trách nhiệm đóng góp cho công tác bảo tồn di tích lịch
sử, văn hóa, khảo cổ hay các sản vật có ý nghĩa quan trọng về tinh thần, hỗ trợ
22
địa phương phát triển các loại hình văn hóa dân tộc; không mua bán, trao đổi và
vận chuyển trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, di sản văn hóa vật thể thuộc sở
hữu nhà nước hoặc đưa trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ra nước ngoài;
không lấn chiếm đất đai thuộc di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh.
Về xã hội (góp phần giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, nâng
cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân)
Phát triển kinh tế du lịch phải không ngừng nâng cao và cải thiện chất
lượng cuộc sống cho tất cả mọi người, góp phần ổn định xã hội. Nó phải là
công cụ trong việc xóa đói, giảm nghèo, tạo công ăn việc làm cho lực lượng
lao động dư thừa địa phương. Theo đó, trong quá trình phát triển kinh tế du
lịch cần ưu tiên sử dụng các dịch vụ và hàng hoá là sản phẩm nội địa hoặc sản
phẩm, nguyên liệu được sản xuất tại địa phương nhưng không làm cạn kiệt tài
nguyên; hỗ trợ các nhà cung ứng của địa phương phát triển, xúc tiến và bán các sản
phẩm du lịch độc đáo, đặc thù của địa phương tại cơ sở lưu trú du lịch; thực hiện
tốt chính sách chống bóc lột thương mại, bóc lột tình dục, đặc biệt đối với trẻ
em chưa đến tuổi thành niên; công bằng trong việc tuyển dụng phụ nữ, người
dân tộc thiểu số ở địa phương, kể cả vị trí quản lý, có chính sách riêng hỗ trợ
nhân viên nữ (chế độ thai sản, đào tạo, tư vấn sức khỏe sinh sản…); tuân thủ
luật pháp quốc tế và quốc gia về bảo vệ nhân công và chi trả lương đầy đủ.
Về môi trường, sinh thái: Kinh tế du lịch có mối quan hệ gắn bó mật
thiết với môi trường, sinh thái. Vì vậy, phát triển kinh tế du lịch muốn được
hiệu quả cao và bền vững đòi hỏi phải khai thác và sử dụng một cách hợp lý
(không vượt quá khả năng tự phục hồi) các nguồn tài nguyên tái sinh và
không tái sinh, tìm cách gia tăng sự bền vững của môi trường và giảm nhẹ tác
động tiêu cực, vừa đảm bảo nhu cầu hiện tại cũng như nhu cầu của thế hệ mai
sau. Có biện pháp tích cực trong bảo vệ tài nguyên thiên nhiên (ưu tiên phát
triển những sản phẩm du lịch, dịch vụ thân thiện môi trường; cân nhắc thận
trọng khi xây dựng các sản phẩm tiêu dùng khó phân hủy và hạn chế sử dụng
23
các sản phẩm ảnh hưởng không tốt tới môi trường sinh thái; thực hiện các
hoạt động tiết kiệm năng lượng đồng thời ứng dụng các công nghệ tiết kiệm
năng lượng mới, khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo; có biện pháp sử
dụng lượng nước hợp lý, lắp các thiết bị tiết kiệm nước, thu hồi và sử dụng
nước mưa); giảm thiểu ô nhiễm môi trường (kiểm soát lượng khí thải, thay
mới các công nghệ sản xuất nhằm hạn chế hiệu ứng nhà kính, hướng đến cân
bằng khí hậu; phân loại rác thải để xử lý riêng; sử dụng sản phẩm thân thiện
môi trường (sản phẩm làm từ vật liệu tái chế, chất tẩy rửa có nguồn gốc hữu
cơ, sản phẩm có nhãn xanh), hạn chế sử dụng các hóa chất độc hại như thuốc
trừ sâu, sơn, thuốc tẩy, thay thế bằng các sản phẩm không độc hại, quản lý
chặt chẽ các hóa chất được sử dụng; áp dụng các quy định giảm thiểu ô
nhiễm tiếng ồn, ánh sáng, nước thải, chất gây xói mòn, hợp chất gây suy giảm
tầng ôzôn và chất làm ô nhiễm không khí, đất; tham gia vào các chiến dịch về
môi trường hay biến đổi khí hậu của địa phương và quốc tế (chương trình Giờ
trái đất, trồng cây xanh, đi xe đạp…); bảo tồn đa dạng sinh học, hệ sinh thái
và cảnh quan tự nhiên (không bắt giữ và tiêu thụ động vật hoang dã; không
bán quà lưu niệm, thực phẩm, món ăn làm từ động, thực vật hoang dã được
bảo vệ theo pháp luật và các công ước quốc tế; có chính sách, chương trình
đào tạo, bảng thông tin phổ biến luật về bảo tồn đa dạng sinh học, hệ sinh
thái, cảnh quan, khai thác, mua bán động, thực vật hoang dã cho nhân viên và
khách hàng; đóng góp ủng hộ cho hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học; hạn
chế mọi tác động tiêu cực lên hệ sinh thái tự nhiên, cảnh quan môi trường).
Về quốc phòng - an ninh: Kinh tế du lịch phát triển, mở cửa thu hút khách
du lịch trong và ngoài nước, là điều kiện để các thế lực thù địch, tội phạm quốc tế,
đối tượng hình sự và tệ nạn xã hội trà trộn, len lỏi theo con đường du lịch để tiến
hành các hoạt động gây rối an ninh, trật tự tại địa phương.
Theo Luật Du lịch Việt Nam, một trong những nguyên tắc về phát triển
du lịch phải “bảo đảm chủ quyền quốc gia, quốc phòng - an ninh, trật tự - an
24
toàn xã hội”. Do vậy, cần sự phối hợp chặt chẽ, liên ngành từ Trung ương đến
địa phương, giữa lực lượng quân đội, công an, cơ quan quản lý du lịch, doanh
nghiệp kinh doanh du lịch, chính quyền, nhân dân địa phương trong phát triển
kinh tế du lịch. Kết hợp phát triển kinh tế du lịch với tăng cường, củng cố
quốc phòng - an ninh ngay từ công tác quy hoạch, xây dựng chiến lược, kế
hoạch phát triển của mỗi ngành, mỗi cơ quan, đơn vị; tổ chức triển khai thực
hiện tốt “Quy chế phối hợp đảm bảo an ninh trật tự” trên các tuyến, điểm du
lịch, đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo vệ an ninh
trật tự khu du lịch; xây dựng lực lượng quân đội và công an thực sự là lực
lượng nòng cốt trong củng cố quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính
trị, trật tự - an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế du
lịch; tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động du lịch, không để kẻ
địch lợi dụng phá hoại các mục tiêu, công trình kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng hay thực hiện “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, chống đối
Đảng, chính quyền, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân; nghiêm cấm các hoạt
động tuyên truyền, phát triển đạo trái pháp luật hay truyền bá văn hoá phẩm
đồi truỵ, mê tín, dị đoan; đấu tranh có hiệu quả với bọn tội phạm hình sự, tệ
nạn xã hội, đảm bảo an ninh trật tự trên các tuyến, điểm du lịch, không để tồn
tại băng nhóm gây rối an ninh trật tự…
1.3. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế du lịch ở huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế du
lịch trên địa bàn huyện
1.3.1. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế du lịch ở huyện Ba Vì
thành phố Hà Nội:
Ba Vì cần phải đẩy mạnh phát triển kinh tế du lịch vì các lý do sau:
Một là, xuất phát từ vai trò của kinh tế du lịch đối với sự phát triển
kinh tế-xã hội của địa phương
25