Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

Nghiên cứu chẩn đoán và điều trị chửa ngoài tử cung tại bệnh viện sản nhi tỉnh lào cai năm 2016 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.28 KB, 84 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Chửa ngoài tử cung (CNTC) là hiện tượng trứng thụ tinh và làm tổ
ngoài buồng tử cung. Đây là một bệnh phổ biến trong cấp cứu sản khoa với tỷ
lệ 1/250-1/200 phụ nữ mang thai và là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong
mẹ trong 3 tháng đầu thai kỳ [1].
CNTC là một cấp cứu sản khoa không những đe dọa tính mạng mà còn
ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của người phụ nữ. Nếu không được chẩn
đoán đúng và điều trị kịp thời thì có thể dẫn đến CNTC vỡ ngập máu trong ổ
bụng đe doạ đến tính mạng của người bệnh.
Tần suất CNTC ngày càng gia tăng ở Việt Nam cũng như trên thế giới
[2],[3]. Tại Hoa Kỳ tỷ lệ chửa ngoài tử cung từ 4,5/1000 các trường hợp mang
thai trong năm 1970 tăng lên 1,11% giai đoạn 1997 - 1999, 2% năm 2005 [4],
[5]. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Hòa năm 2004 và Thân Ngọc Bích năm
2009 tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương tỷ lệ CNTC lần lượt là 4,4% và 9,4%
[6],[7]. Nghiên cứu của Võ Mạnh Hùng tại Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa
(2008) là 2,66% [8]. Theo số liệu của phòng kế hoạch tổng hợp Bệnh viện
Sản Nhi tỉnh Lào Cai, số bệnh nhân chửa ngoài tử cung cũng không ngừng
tăng lên, số chửa ngoài tử cung trên số đẻ năm 2016 là 186/3821, tỷ lệ là
4,5%.
Sự gia tăng tần suất bệnh được nhiều tác giả cho rằng có liên quan đến
các yếu tố như viêm nhiễm tiểu khung, bệnh lây truyền qua đường sinh dục,
tiền sử nạo hút thai, tiền sử mổ vùng tiểu khung, các phương pháp mới trong
điều trị vô sinh hoặc hỗ trợ sinh sản. Tiên lượng của bệnh phụ thuộc vào thời
điểm chẩn đoán và thái độ xử trí vì vậy tỷ lệ chửa ngoài tử cung gia tăng
nhưng tỷ lệ tử vong lại giảm do tiến bộ của y học giúp cho chẩn đoán sớm,
chính xác và xử trí kịp thời [1],[9],[10].


2



Điều trị chửa ngoài tử cung trước đây thường là mổ mở cắt vòi tử cung,
những năm gần đây nhờ áp dụng siêu âm đầu dò âm đạo, định lượng hCG,
nội soi chẩn đoán, nên chửa ngoài tử cung ngày càng được chẩn đoán sớm
giúp điều trị có hiệu quả, được lựa chọn phương pháp điều trị tối ưu như điều
trị nội khoa, điều trị phẫu thuật nội soi bảo tồn vòi tử cung.
Lào Cai là tỉnh thuộc vùng Tây Bắc Việt Nam, có mật độ dân số không
cao, bao gồm 25 nhóm dân tộc, trong đó có dân tộc thiểu số chiếm 64,09%
dân số toàn tỉnh, tập trung ở các huyện miền núi, vùng cao, đi lại khó khăn.
Bệnh viện Sản Nhi Lào Cai là bệnh viện tuyến chuyên môn cao nhất về
chuyên ngành Sản Nhi của tỉnh, có nhiệm vụ chính là khám và điều trị chăm
sóc sức khỏe cho nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh đó, sự hiểu biết của người dân về chăm sóc sức khỏe còn hạn
chế, người bệnh thường đến muộn trong tình trạng khối chửa đã vỡ và điều trị
chủ yếu là mổ mở cắt vòi tử cung. Phương pháp điều trị phẫu thuật nội soi
được triển khai tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Lào Cai từ năm 2013, những năm
gần đây nhờ chẩn đoán sớm ngay từ khi khối chửa nhỏ chưa vỡ mà được áp
dụng nhiều hơn.
Trên cả nước đã có rất nhiều nghiên cứu về CNTC nhưng tại tỉnh Lào
Cai chưa có đề tài nào nghiên cứu đầy đủ về chẩn đoán cũng như điều trị
CNTC. Nhằm nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị CNTC, phù hợp với
điều kiện thực tế tỉnh Lào Cai, chúng tôi tiến hành đề tài:“Nghiên cứu chẩn
đoán và điều trị chửa ngoài tử cung tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Lào Cai
năm 2016 - 2017” với 02 mục tiêu như sau:
1.

Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân chửa ngoài tử

2.


cung tại Bệnh viện Sản nhi Lào Cai trong 2 năm 2016 – 2017.
Nhận xét về kết quả điều trị của bệnh nhân chửa ngoài tử cung tại Bệnh
viện Sản Nhi Lào Cai trong 2 năm 2016 – 2017.


3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Lịch sử chửa ngoài tử cung
Thuật ngữ CNTC bắt đầu từ tiếng Hy Lạp là ektopos, là trường hợp
noãn được thụ tinh và làm tổ ngoài buồng tử cung. Như vậy CNTC có thể gặp
ở nhiều vị trí khác nhau, tuy nhiên có tới 98% số trường hợp CNTC xảy ra ở
vòi tử cung. Ngoài ra có thể gặp chửa trong ổ bụng, chửa ở buồng trứng, chửa
ở ống cổ tử cung, chửa vết mổ [5],[11]. Trong các vị trí chửa ở vòi tử cung
thì chửa đoạn bóng chiếm 80%, đoạn eo chiếm 10%, đoạn loa chiếm 8% và
đoạn kẽ chiếm 2% [5],[12],[13].
Chửa ngoài tử cung đã được ghi nhận từ rất lâu, Albucasis là người đầu
tiên đề cập đến CNTC vào năm 936 sau công nguyên. Năm 1883, Robert
Lawon Tai điều trị thành công CNTC bằng phẫu thuật [14]. Năm 1973
Shapiro và Adler đã điều trị thành công CNTC bằng soi ổ bụng. Năm 1977
Bruhat MA là người đầu tiên thực hiện bảo tồn VTC qua nội soi [15],[16],
[17]. Năm 1982 Tanaka và cộng sự người Nhật Bản là những người đầu tiên
áp dụng MTX điều trị CNTC tại Hoa Kỳ [18].
Ở Việt Nam việc điều trị CNTC bằng MTX được áp dụng từ năm 1998
tại Bệnh viện Từ Dũ. Năm 2003 được áp dụng tại Bệnh viện Phụ sản Trung
ương và một số địa phương khác [13],[19].
1.2. Sơ lược về giải phẫu và sinh lý vòi tử cung
1.2.1. Cấu tạo vòi tử cung
Vòi tử cung là ống dẫn trứng từ buồng trứng tới tử cung, bắt đầu từ mỗi

bên sừng tử cung kéo dài tới sát chậu hông, mở thông với ổ bụng ở sát bề
mặt của buồng trứng. VTC nằm giữa hai lá của dây chằng rộng và được
treo vào phần còn lại của dây chằng rộng bởi mạc treo VTC. Người trưởng


4

thành, vòi tử cung dài khoảng 10 - 12cm. Lỗ thông với tử cung nhỏ 3mm,
lỗ thông ở phúc mạc tỏa rộng như một loa, kích thước 7 - 8mm [20], [21],
[22], [23], [24].
Vòi tử cung được chia thành 4 đoạn: đoạn kẽ, đoạn eo, đoạn bóng và
đoạn loa [25],[26].

Bóng

Thân tử cung

Kẽ

Eo
Loa

Tua vòi
Buồng trứng

Cổ tử cung

Hình 1.1. Phân đoạn của vòi tử cung [1]
Quá trình thụ tinh thường xảy ra ở 1/3 ngoài VTC. Sau thụ tinh, trứng di
chuyển trong lòng VTC từ 48 - 72 giờ. Ở đoạn eo, trứng di chuyển nhanh

hơn đoạn bóng. Trên đường di chuyển, trứng phân bào rất nhanh để trở
thành khối phôi dâu có 16 tế bào (sau khi phóng noãn khoảng 6 - 7 ngày)
nhưng không tăng thể tích [22],[27].
Cấu tạo mô học VTC: Thành VTC được cấu tạo 4 lớp từ ngoài vào.
- Ngoài cùng là lớp thanh mạc, nhẵn bóng tạo bởi lá tạng của phúc mạc.
- Lớp 2 là mô liên kết lỏng và mỏng, trong đó có mạch máu, thần kinh.


5

- Lớp thứ 3 gọi là áo cơ gồm 2 lớp, lớp cơ dọc ở ngoài, thớ cơ vòng ở trong.
- Trong cùng là lớp niêm mạc: có các nếp gấp thay đổi tùy theo từng
đoạn phân chia giải phẫu, gồm 3 loại tế bào: Tế bào hình trụ, tế bào chế tiết, tế
bào hình thoi.
1.2.2. Sinh lý và chức năng vòi tử cung
Sự thụ tinh thường xảy ra ở bóng VTC, quá trình di chuyển của phôi qua
vòi từ 6 đến 7 ngày. Những cản trở xảy ra tại thời điểm này có thể dẫn đến hậu
quả CNTC tức phôi làm tổ tại VTC [28].
Tinh trùng, noãn, phôi được vận chuyển qua vòi tử cung nhờ 3 yếu tố:
- Sự co bóp của lớp cơ vòi tử cung là chủ yếu.
- Sự chuyển động của vòi các lông ở bờ tự do của tế bào có lông đã đẩy
noãn và phôi đi theo hướng về buồng tử cung.
- Tác dụng của dòng nước trong lòng VTC, nhờ hệ thống mạch máu và
hệ thống bạch huyết phong phú trong lớp đệm, vòi tử cung đã hấp thụ nước
trong ổ bụng vào lòng vòi, dòng nước này chảy về buồng tử cung đã cuốn theo
cả trứng hoặc phôi khi nằm trong lòng vòi tử cung [24],[28],[29],[30].
Bất kỳ yếu tố nào cản trở sự di chuyển của noãn đã thụ tinh hoặc cản trở
sự làm tổ của noãn đều có khả năng gây CNTC [26],[30],[31].
1.2.3. Hình ảnh giải phẫu bệnh lý
- Về đại thể: nếu được chẩn đoán khi chưa vỡ, khối chửa tại VTC giống

như một khối dồi lợn màu tím, kèm theo xung huyết toàn bộ VTC, dài khoảng
5-6 cm, chiều ngang khoảng 2-3cm, mặt cắt theo chiều dọc có thể thấy túi ối,
bào thai, rau lẫn máu cục có chân bám ở thành VTC [27].
- Vi thể: Sự xung huyết toàn bộ VTC làm biến đổi màng đệm, đặc biệt
ở quanh những mạch máu và trở thành thoái hóa kính. Lớp cơ tăng sinh, phù
nề, xoắn vặn, cuối cùng là chia rẽ, tan rã và biến mất. Lớp thanh mạc tăng
sinh trung biểu mô làm cho thành vòi tử cung dày lên và ngấm đầy tơ huyết.


6

Những tế bào hình thoi có lớp đệm, nằm dưới màng đáy của vòi tử cung biệt
hóa thành những tế bào rụng, tạo thành một màng rụng rất mỏng nơi phôi làm
tổ. Những hợp bào nuôi xuyên qua lớp màng đệm mỏng vào tận các lớp cơ
của thành VTC. Những tế bào nuôi xuyên qua lớp màng đệm tạo thành hình
ảnh rau cài răng lược vào lớp cơ thành VTC hoặc cắm thẳng vào các hồ
huyết, vì vậy chỉ được chẩn đoán xác định là CNTC khi thấy gai rau và tế bào
nuôi ở tiêu bản bệnh phẩm[27],[32].
1.3. Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ của chửa ngoài tử cung
1.3.1.Viêm tiểu khung và bệnh lây truyền qua đường tình dục
Viêm VTC là nguyên nhân thường gặp nhất gây CNTC. Tác nhân gây
viêm làm hủy hoại lớp niêm mạc, làm tắc hoàn toàn hay không hoàn toàn vòi
tử cung, những tế bào biểu mô bong ra, tạo nên những ổ hoại tử và loét sâu
vào lớp biểu mô để lại những thương tổn nặng nề ở VTC, hậu quả của viêm là
làm hẹp lòng VTC, thành VTC dày và cứng nên nhu động giảm, mất hoặc
giảm các tế bào có lông và tế bào chế tiết, làm mất yếu tố “đẩy” của lông tế
bào cũng như luồng dịch trong vòi tử cung đặc lại và chảy chậm, góp phần
làm chậm sự di chuyển của trứng [30],[32],[33],[34].
Theo Dulin A. và Aker T. (2003), tại Mỹ một năm có gần một triệu phụ
nữ mắc bệnh viêm nhiễm vùng tiểu khung, hậu quả là có 10% gây vô sinh và

5% CNTC. Theo Lê Anh Tuấn, những phụ nữ có tiền sử viêm phần phụ có
nguy cơ CNTC gấp 3 lần so với những phụ nữ không có tiền sử viêm nhiễm.
Nhiễm Chlamydia cũng là một trong những yếu tố nguy cơ của CNTC [10],
[35].
- Dính xung quanh vòi tử cung là hậu quả của viêm tiểu khung, lạc nội
mạc tử cung.


7

1.3.2. Tiền sử phẫu thuật tiểu khung và vòi tử cung
Nhiều nghiên cứu cho rằng tiền sử phẫu thuật tiểu khung, các kỹ thuật
tạo thông vòi như: mở VTC, tạo hình vòi và loa vòi, gỡ dính quanh vòi và
buồng trứng, tất cả đều có mối liên quan khá chặt chẽ với CNTC. Tiền sử bị
CNTC trước đó thì tỷ lệ CNTC ở lần có thai sau tăng lên [30],[33],[34].
1.3.3. Sử dụng các biện pháp tránh thai
Dụng cụ tử cung: làm tăng nguy cơ CNTC, người mang dụng cụ tử
cung có nguy cơ bị CNTC cao gấp khoảng 2-3 lần so với người không mang
dụng cụ tử cung [36].
1.3.4. Nạo thai và sẩy thai tự nhiên
Tiền sử nạo hút thai nhiều lần cũng là một nguyên nhân góp phần làm
gia tăng CNTC. Số CNTC có tiền sử nạo hút thai ở các nghiên cứu vào các
thời điểm năm 1999-2000, 2000-2003 chiếm gần 50% trường hợp CNTC.
Năm 2008, 2009 là 47,8% và 52,5% [7],[10],[[37],[38],[39].
1.3.5. Vô sinh
Trong những năm gần đây, thụ tinh ống nghiệm (TTON) là một trong
những phương pháp hỗ trợ sinh sản được áp dụng rộng rãi trong điều trị vô
sinh. Những phụ nữ có tiền sử TTON thì CNTC chiếm 2 - 11% tùy từng
nghiên cứu [40]. Theo Nguyễn Thị Thủy Hà, tỷ lệ này là 1,4% [34].
1.3.6. Những nguyên nhân khác

Sự bất thường của VTC, do cấu trúc của VTC không hoàn chỉnh kém
phát triển, có túi thừa, thiểu sản [26].
Trào ngược dòng máu trong VTC, lạc nội mạc tử cung, khối u ở tiểu
khung, u buồng trứng sẽ làm rối loạn chức năng của vòi tử cung.
Thời gian di chuyển của noãn kéo dài hơn bình thường: ví dụ noãn
được phóng ra từ buồng trứng bên trái, nhưng sự thụ tinh lại xảy ra ở vòi tử
cung bên phải. Theo Phan Trường Duyệt và Đinh Thế Mỹ thì nguyên nhân
gây CNTC do trứng đi vòng chiếm tới 20 - 50% [29].


8

Do bản thân phôi phát triển quá nhanh trong quá trình phân bào hoặc
chửa nhiều thai, kích thước khối thai lớn nhanh và to hơn lòng VTC nên bị
giữ lại và làm tổ trong VTC[21],[30].
1.4. Chẩn đoán chửa ngoài tử cung.
Chẩn đoán CNTC dựa vào các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng và soi
ổ bụng. Chẩn đoán sớm CNTC là khối thai chưa vỡ hoặc rỉ máu một lượng máu
rất ít trong ổ bụng ≤ 100ml. Tại bệnh viện Trung Ương tỷ lệ chẩn đoán sớm
CNTC tăng qua hàng năm.
1.4.1. Triệu chứng lâm sàng
Các triệu chứng lâm sàng của CNTC rất đa dạng, tùy thuộc vào tình
trạng vỡ hay chưa vỡ khối chửa [41],[42].
1.4.1.1. Triệu chứng cơ năng
Ba triệu chứng thường gặp là chậm kinh, đau bụng và ra máu âm đạo.
Sự có mặt của cả 3 triệu chứng này gặp ở 65-75% các trường hợp CNTC [42].
- Chậm kinh là triệu chứng thường gặp, đôi khi bệnh nhân không lưu ý
đến vì kinh nguyệt không đều, không nhớ rõ ngày kinh cuối, ra máu âm đạo
trước ngày kinh dự kiến hoặc trùng với ngày kinh hoặc rối loạn kinh nguyệt
[3],[18],[43].

- Ra máu âm đạo là triệu chứng phổ biến, sau khi chậm kinh ít ngày đã
thấy ra máu, thường ra máu ít một, sẫm màu, liên tục hay không, có khi lẫn
màng, 80% bệnh nhân CNTC có ra máu âm đạo [21],[26],[27],[44].
- Đau bụng: triệu chứng luôn có trong CNTC, mức độ đau có thể rất
khác nhau theo các thể lâm sàng. Vị trí đau hố chậu phải hoặc trái hoặc cả
vùng tiểu khung hoặc đau khắp ổ bụng khi có vỡ khối thai chảy máu ồ ạt, đau
kèm theo mót rặn, đái buốt do khối máu tụ kích thích vào trực tràng, bàng
quang [27],[30]. Triệu chứng đau bụng có độ nhạy 90,2% nhưng có giá trị
chẩn đoán dương tính thấp 65% [26],[45].


9

1.4.1.2. Triệu chứng toàn thân
Khi CNTC vỡ biểu hiện có choáng mất máu, đau khắp bụng, bụng
chướng, mạch nhanh, huyết áp tụt, đôi khi bệnh nhân có ngất do đau và mất
máu. Khi khối chửa chưa vỡ, đây là triệu chứng hiếm gặp [21],[30].
1.4.1.3. Triệu chứng thực thể
Thăm âm đạo kết hợp sờ nắn bụng thấy: Sự thay đổi kích thước và mật độ
tử cung theo chiều hướng có thai: tử cung mềm, cổ tử cung tím, thân tử cung hơi
lớn hơn bình thường, khó đánh giá và chiếm tỷ lệ nhỏ, trong khi tử cung không
to chiếm hơn 60 -70 % các trường hợp CNTC [26],[30],[46],[47].
Cạnh tử cung có thể sờ thấy khối nề, danh giới rõ hoặc không nhưng ấn
đau, có giá trị trong chẩn đoán (độ nhạy 86,5% và giá trị chẩn đoán dương
tính 90%) [45].
Túi cùng Douglas thời kỳ đầu còn mềm mại nhưng nếu có máu, có dịch
trong túi cùng Douglas thì bệnh nhân rất đau [30].
1.4.2. Triệu chứng cận lâm sàng
Các phương pháp cận lâm sàng thường dùng tại Việt Nam hiện nay là
định tính và định lượng hCG, siêu âm với đầu dò âm đạo và nội soi ổ bụng.

1.4.2.1. hCG (human Chorionic Gonadotropin)
hCG là hormone glycoprotein do hợp bào nuôi chế tiết với chức năng
chính là duy trì và phát triển hoàng thể sau khi phóng noãn và giúp hoàng thể
chế tiết progesterone.
Định lượng hCG huyết thanh là kỹ thuật cho phép phát hiện hCG huyết
thanh từ ngày thứ 8 sau phóng noãn. Độ nhạy của phương pháp này là 94% và
độ đặc hiệu là 91,6%. Trong thai nghén bình thường, thời gian tăng gấp đôi của
hCG từ 36h-48h. Tỷ lệ tăng ít nhất là 66%. Nếu tăng quá cao hoặc quá thấp
hoặc không tăng là biểu hiện một thai nghén không bình thường.


10

Nhiều nghiên cứu cho thấy trong CNTC nồng độ hCG huyết thanh:
Tăng hoặc giảm ít hoặc ở dạng bình nguyên. Thời gian tăng gấp đôi kéo dài ≥
7 ngày. 15% bệnh nhân CNTC có nồng độ hCG huyết thanh biểu hiện giống
như thai trong tử cung. 10% có thai trong buồng tử cung, nhưng nồng độ
hCG huyết thanh biểu hiện như trường hợp bị CNTC. Nồng độ hCG và vị
trí CNTC hoàn toàn không liên quan đến nhau [48],[49],[50].
1.4.2.2. Siêu âm
Siêu âm là phương pháp cận lâm sàng rất có giá trị trong chẩn đoán
CNTC, siêu âm qua đường âm đạo phát hiện CNTC hiệu quả hơn đường
bụng. Những hình ảnh siêu âm về CNTC bao gồm:
Dấu hiệu trực tiếp là hình ảnh túi thai bên ngoài tử cung, có thể có âm
vang thai, tim thai.
- Hình ảnh khối thai điển hình: khối thai có hình nhẫn, bờ viền dày tăng
âm do 2 lớp màng nuôi phát triển tạo thành, bên trong có chứa túi thai, túi
noãn hoàng, phôi, có thể có hoạt động tim thai, tỷ lệ này trên siêu âm
chiếm <6%.
- Hình ảnh khối thai không điển hình: là hình ảnh khối khác biệt với

buồng trứng. Hình ảnh khối phần phụ thường đa dạng, nhiều hình thái,
thường gặp 3 loại sau: khối nhẫn, khối dạng nang và khối hỗn hợp âm vang
Dấu hiệu gián tiếp không có túi ối trong buồng tử cung, có thể có
dịch cùng đồ.
- Dịch ở túi cùng Douglas: là giai đoạn muộn của CNTC, là vùng thưa
âm vang ở sau thân tử cung thuộc túi cùng Douglas có thể do khối chửa đã vỡ
hoặc rỉ máu qua loa vòi tử cung vào cùng đồ, nếu vỡ chảy máu nhiều tạo
thành vùng thưa âm vang tại các điểm thấp ở tư thế nằm như cùng đồ
Douglas, rãnh đại tràng lên và xuống.


11

- Hình ảnh tử cung: kích thước tử cung có thể to hơn bình thường,
không có túi thai trong buồng tử cung, đôi khi có hình ảnh túi thai giả dễ nhầm
với thai chết trong buồng tử cung. Một số trường hợp sau hút thai, niêm mạc tử
cung mỏng, thường có lớp dịch giảm âm và đôi khi có dấu hiệu tăng âm vang
của máu cục đọng lại trong buồng tử cung.
1.4.2.3. Định lượng progesteron trong huyết thanh
Theo Bustor E.John thì nồng độ progesteron < 15ng/ml có hơn 80% là
CNTC. Khi nồng độ này nằm trong khoảng 15 - 25ng/ml thì cần phải theo dõi
và làm thêm các xét nghiệm khác [51].
Theo nghiên cứu của Phạm Thị Thanh Hiền năm 2007 tại BVPSTW:
khi khám lâm sàng, siêu âm, định lượnghCG huyết thanh chưa xác định
chính xác được chửa ngoài tử cung thì làm thêm xét nghiệm định lượng
progesteron huyết thanh [52].
Bệnh nhân có triệu chứng nghi ngờ CNTC, định lượng hCG huyết
thanh < 1500 IU/l, định lượng progesteron huyết thanh < 15 ng/ml, siêu âm
đầu dò âm đạo: không thấy túi thai trong buồng tử cung hoặc kèm theo 1 dấu
hiệu nghi ngờ phải nghĩ đến CNTC.

1.4.2.4. Chọc dò túi cùng sau
Thủ thuật này ngày càng ít thực hiện hơn do hiệu quả của các phương
pháp cận lâm sàng. Chọc dò có giá trị khi hút ra máu không đông chứng tỏ đã
có biến chứng. Nhưng khi kết quả chọc dò âm tính vẫn không loại trừ được
CNTC ngay khi khối chửa đã vỡ. Trường hợp chảy máu trong ổ bụng đã rõ
ràng thì không thực hiện thủ thuật này [28].
1.4.2.5. Hút buồng tử cung
Chỉ định hút buồng tử cung, chỉ đặt ra khi: bệnh nhân bị chảy máu
nhiều, kết quả siêu âm không phù hợp, progesteron huyết thanh nhỏ hơn
5ng/ml và hCG không tăng sau 48 giờ. Bệnh phẩm làm mô bệnh học có
phản ứng ngoại sản mạc và không có gai rau (phản ứng Arias - Stella)
[26],[27].


12

1.4.2.6. Soi ổ bụng
Là phương pháp chẩn đoán xác định CNTC đồng thời còn là phương
pháp điều trị CNTC.
Soi ổ bụng trong CNTC thấy có khối chửa căng phồng, tím sẫm, dài
theo chiều vòi tử cung, có rỉ máu qua loa hoặc có ít máu ở cùng đồ sau. Có
thể âm tính giả nếu soi quá sớm khối chửa còn nhỏ, khoảng 1,6 đến 4% (tùy
theo thống kê), hiếm khi dương tính giả [29].
1.5. Phân loại chửa ngoài tử cung
1.5.1. Phân loại theo lâm sàng
- Chửa ngoài tử cung chưa vỡ
Triệu chứng nổi bật nhất là đau vùng hạ vị âm ỉ, toàn trạng tốt, mạch,
huyết áp ổn định [30],[31]. Thăm âm đạo cổ tử cung tím, mềm, di động không
đau, hai phần phụ không đau, và rất ít khi sờ thấy khối chửa [26]. Siêu âm
không có thai trong buồng tử cung, cạnh tử cung có thể có khối âm vang không

đồng nhất, cùng đồ không có dịch, kết quả thử thai dương tính [30],[53].
Theo Vương Tiến Hoà (2002) là 69%. Theo Nguyễn Thị Tuyết Mai
(2000-2005) là 8,17% và 12,33%. Theo Thân Ngọc Bích (1999-2009) là 22,7%
và 41.8% [7],[27],[54].
- Chửa ngoài tử cung vỡ
Triệu chứng nổi bật là đau bụng dữ dội vùng bụng dưới , da xanh niêm
mạc nhợt, mạch nhanh huyết áp tụt. Có phản ứng thành bụng, gỡ đục vùng
thấp, tử cung bập bềnh trong nước, khám cùng đồ sau đầy đau chói. Cũng có
trường hợp ngập máu ổ bụng nhưng diễn ra từ từ, người bệnh thích nghi được
nên các dấu hiệu choáng không rõ [29],[31].
- Chửa ngoài tử cung thể giả sẩy
Dễ nhầm lẫn với sẩy thai, bệnh nhân có đau vùng hạ vị từng cơn, hết
đau khi mảnh tổ chức bị tống ra. Xét nghiệm giải phẫu bệnh tổ chức sẩy hoặc
nạo thấy hình ảnh màng rụng, không thấy gai rau [30].


13

- Thể huyết tụ thành nang
Biểu hiện lâm sàng là rong huyết kéo dài, toàn thân có tình trạng thiếu
máu, cạnh tử cung có khối, bờ không rõ, ấn rất đau, đôi khi có dấu hiệu rối
loạn tiêu hóa do kích thích của khối huyết tụ [29].
Siêu âm cạnh tử cung có khối âm vang không đồng nhất, ranh giới
không rõ, kích thước phụ thuộc vào khối máu tụ to hay nhỏ, có thể sâu hoặc
bên tử cung, định lượng βhCG dương tính [53].
1.5.2. Phân loại theo vị trí khối chửa

Hình 1.2: Vị trí khối chửa ngoài tử cung [1]
Chửa ngoài tử cung ở vòi tử cung chiếm khoảng 95% các trường hợp
CNTC, trong đó khối chửa ở đoạn bóng - loa là 93%, đoạn eo là 4%, đoạn kẽ

2 - 4% [26],[32].
Các vị trí khác (buồng trứng, ống cổ tử cung, ổ bụng, chửa vết mổ)
chiếm ít hơn 5%. Trong đó khối chửa ở buồng trứng chiếm khoảng 3%, chửa
trong ổ bụng chiếm 1%, chửa ở ống cổ tử cung < 1% [5].


14

1.6. Các phương pháp điều trị chửa ngoài tử cung.
1.6.1. Điều trị ngoại khoa
1.6.1.1. Mổ mở
Phương pháp cổ điển trong điều trị CNTC đã vỡ và chưa vỡ là cắt bỏ
vòi tử cung có khối chửa. Trong khi mổ, tuỳ từng trường hợp, phẫu thuật viên
có thể tiến hành bảo tồn vòi tử cung bằng cáchrạch dọc bờ tự do, lấy khối thai
sau đó cầm máu và không khâu lại vết rạch hay có khâu lại vết rạch vòi tử
cung bằng chỉ tiêu một lớp mũi rời. Có thể tiến hành cắt đoạn và nối tận - tận,
khi phẫu thuật viên có kinh nghiệm, có trang thiết bị và phần vòi tử cung còn
lại có độ dài trên 4cm. Tỷ lệ cắt bỏ vòi tử cung trong CNTC ở Viện bảo vệ bà
mẹ và trẻ sơ sinh vào năm 1998 là 95%, năm 2002 là 87,87%, năm 2009 là
82,1% [7],[32],[54].
- Thể chửa ngoài tử cung chưa vỡ: điều trị bảo tồn vòi tử cung hay cắt
vòi tử cungtùy từng trường hợp, phụ thuộc vào các yếu tố như: nhu cầu sinh
con, thương tổn tại chỗ và thương tổn của vòi tử cung bên đối diện, khả năng
của phẫu thuật viên [29],[30].
- Chửa ngoài tử cung thể lụt máu trong ổ bụng: cần tiến hành phẫu
thuật song song với các biện pháp hồi sức (truyền dịch, truyền máu…) [21],
[26].
- Thể huyết tụ thành nang: việc phẫu thuật có thể trì hoãn được, trong
khi phẫu thuật gỡ nhẹ nhàng các quai ruột khỏi khối máu tụ, cắt khối chửa
VTC, cầm máu bằng huyết thanh ấm [21],[26].

- Chửa trong ổ bụng: nếu thai dưới 7 tháng mổ lấy thai ngay không trì
hoãn, sau 7 tháng có thể chờ đợi thai 36- 38 tuần sẽ phẫu thuật lấy thai chủ
động. Khi mổ lấy thai, để lại bánh rau, trừ trường hợp rau đã bong. Chửa
trong ổ bụng vẫn còn là một biến chứng nặng nề của sản khoa, chẩn đoán sớm


15

và điều trị triệt để CNTC trong 3 tháng đầu là phương pháp tốt nhất để tránh
bệnh lý này [20],[30].
- Chửa ở ống cổ tử cung: khi thai làm tổ ở buồng cổ tử cung, bệnh
nhân chưa có con nên giữ tử cung, sau nạo chèn gạc cầm máu vùng rau bám,
nếu không kết quả thì cắt tử cung hoàn toàn, trường hợp đã đủ con phẫu thuật
cắt tử cung hoàn toàn. Kỹ thuật cắt tử cung khó khăn vì cổ tử cung phình to,
trong lúc phẫu thuật cấp cứu dễ gây tổn thương niệu quản. Trường hợp khối
thai nhỏ, ít chảy máu điều trị bằng MTX [26].
- Chửa ở vết mổ: xử trí sớm ngay trong quý đầu của thai nghén để
giảm nguy cơ rau cài răng lược, gây chảy máu dữ dội nguy hiểm đến tính
mạng bệnh nhân. Điều trị nội khoa bằng MTX toàn thân đơn thuần, diệt phôi,
hút thai kết hợp với điều trị nội khoa. Phẫu thuật mổ mở chỉ định trong các
trường hợp: bệnh nhân đến trong tình trạng băng huyết, đủ con, điều trị nội
khoa thất bại, hút thai phối hợp điều trị nội khoa thất bại.
1.6.1.2. Phẫu thuật nội soi (PTNS)
Hiện nay PTNS đã trở thành phương pháp điều trị chủ yếu trong điều
trị CNTC. Ở Việt Nam điều trị CNTC bằng PTNS được áp dụng lần đầu tiên
tại Bệnh viện Từ Dũ năm 1993 và đến năm 1998 phương pháp điều trị này
được áp dụng tại BVPSTW, đây là phương pháp chính trong phẫu thuật
CNTC. Phẫu thuật mổ mở chỉ đặt ra với những bệnh nhân CNTC có chống
chỉ định PTNS [55],[56],[57].
Chống chỉ định của PTNS [31]:

- Chống chỉ định tuyệt đối: bệnh nhân có chống chỉ định của gây mê
hồi sức, tình trạng choáng, chửa kẽ vòi tử cung.
- Chống chỉ định tương đối: béo bệu, dính nhiều ở tiểu khung, CNTC
thể huyết tụ thành nang.


16

Chỉ định điều trị bảo tồn vòi tử cung:
+ Bệnh nhân còn muốn có con trong tương lai.
+ Có đủ điều kiện cần thiết cho phép tiến hành nội soi bảo tồn VTC.
Chống chỉ định điều trị bảo tồn vòi tử cung:
- Chống chỉ định tuyệt đối: Chống chỉ định chung của gây mê hồi sức
trong PTNS, tình trạng sốc, kích thước khối chửa > 6cm, lượng βhCG ban
đầu ≥ 20.000UI/l
- Chống chỉ định tương đối: Có dấu hiệu chảy máu cấp, dính nhiều ở
tiểu khung, kích thước khối chửa > 4cm, chửa ở đoạn kẽ VTC.
1.6.2. Điều trị nội khoa
1.6.2.1. Điều trị chửa ngoài tử cung bằng methotrexat.
Năm 1982 Tanaka là người đầu tiên sử dụng MTX điều trị CNTC chưa
vỡ tại Hoa Hỳ. Từ đó đến nay trải qua hơn hai thập kỷ, điều trị CNTC bằng
MTX đã được áp dụng rộng rãi ở các nước châu Âu, châu Mỹ và được chỉ
định rộng rãi trong các trường hợp chửa góc, chửa ống cổ, chửa trong ổ bụng,
chửa tại vết mổ [18],[58],[59].
Methotrexat là chất đối kháng tác dụng với acid folic, ức chế sự tổng
hợp tự sinh của purin và pirimidin do vậy cản trở sự tổng hợp AND và sự
nhân lên của tế bào làm gián đoạn quá trình phân bào của phôi dẫn đến phôi
bị chết [59],[60],[61].
Tiêu chuẩn chọn lựa bệnh nhân theo một số nghiên cứu ở Việt Nam và
trên thế giới: Chửa ngoài tử cung chưa vỡ, βhCG < 5.000 mIU/ml, kích thước

khối chửa trên siêu âm < 3cm, không có tim thai, tuổi thai dưới 8 tuần.
Liều lượng:
- Phác đồ đa liều MTX 1mg/kg cân nặng tiêm bắp vào các ngày 1, 3, 5,
7 và giải độc leuco vocin 0,1mg/kg cân nặng tiêm bắp vào các ngày 2, 4, 6, 8.


17

Dùng liên tục đến khi hCG giảm >15% sau 48 giờ hoặc 04 liều MTX, có thể
nhắc lại liều 2 nếu hCG không giảm <40% giá trị ban đầu vào ngày thứ 14.
- Phác đồ đơn liều: MTX 50mg/m2 da tiêm bắp. Nhắc lại liều 2 nếu
hCG không giảm < 15% giữa ngày thứ 4 và ngày thứ 7, có thể dùng 4 liều
nếu hCG không giảm < 15% hàng tuần.
Năm 2003 Nguyễn Viết Tiến đã thông báo lâm sàng một trường hợp
chửa ống cổ tử cung được điều trị nội khoa bằng MTX thành công tại Bệnh
viện Phụ sản Trung ương [62]. Vũ Thanh Vân đã nghiên cứu trên 105 trường
hợp CNTC chưa vỡ từ tháng 3/2005 đến 7/2006 có nồng độ hCG 
5.000mIU/ml, siêu âm khối chửa đường kính  3cm đạt tỷ lệ thành công
91,4% [63]. Kết quả điều trị 103 trường hợp CNTC chưa vỡ bằng MTX tại
Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng năm 2004, 2008 tỷ lệ thành công là 83% và
86,9%, năm 2011: 86,0% (đơn liều), 90,7% (đa liều) mở ra hy vọng mới cho
bệnh nhân bị CNTC được điều trị bảo tồn mà không phải phẫu thuật [64],
[65],[66].
Các trường hợp được xác định thành công là các trường hợp được điều
trị bằng MTX, được theo dõi tại viện hoặc ngoại trú đến khi các triệu chứng
lâm sàng, siêu âm, xét nghiệm nồng độ βhCG trở về bình thường mà không
có can thiệp gì khác.
Điều trị không thành công:
- CNTC vỡ: Bệnh nhân đau nhiều, có sự biến đổi về mặt huyết động,
siêu âm thấy ổ bụng có nhiều dịch tự do.

- Huyết tụ thành nang: Khám thấy khối dính ở cùng đồ, siêu âm khối
chửa kích thước tăng lên sau nhiều lần liên tiếp.
- Khối chửa tiến triển: Xét nghiệm nồng độ βhCG tăng lên sau tuần thứ 2.


18

1.6.2.2. Theo dõi không can thiệp.
Khối chửa ngoài tử cung có thể chết sau đó có thể tự tiêu dần đi.
Theo Phan Trường Duyệt - Đinh Thế Mỹ thì khi lượng hCG thấp (≤
1000mUI/ml) hay giảm dần thai có thể teo đi. Theo dõi nếu đau tăng hoặc
hCG tăng hoặc có dịch túi cùng sau và kích thước khối chửa qua siêu âm
tăng phải soi ổ bụng 29. Với các phương tiện chẩn đoán hiện đại, tỷ lệ
CNTC thoái triển đến 50 - 60% và diễn biến âm thầm khó biết [67].
Theo Nguyễn Đức Hinh CNTC thoái triển không can thiệp điều trị gì
nếu lượng hCG rất thấp và giảm đi sau mỗi lần xét nghiệm [31].
1.7. Các nghiên cứu về điều trị chửa ngoài tử cung trên
thế giới và Việt Nam
- Năm 1759 hai nhà quân đội John Bard và Huck đã chẩn đoán và mổ
thành công một trường hợp CNTC ở New York city.
- Năm 1973 Shapiro và Adler đã điều trị thành công CNTC bằng soi
ổ bụng.
- Năm 1980 BRuhat, Manches nghiên cứu đề tài “Điều trị CNTC bằng
phẫu thuật nội soi”. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thành công đạt 67%.
- Năm 1982 Tanaka và cộng sự người Nhật Bản đã điều trị thành công
CNTC bằng MTX tại Hoa Kỳ.
- Năm 2003 Nguyễn Viết Tiến đã thông báo lâm sàng một trường hợp
chửa ống cổ tử cung được điều trị nội khoa bằng MTX thành công tại BVPSTW.
- Năm 2004 Nguyễn Văn Hà nghiên cứu đề tài: “Đánh giá giá trị chẩn
đoán sớm và kết quả điều trị CNTC bằng PTNS tại BVPSTW”. Kết quả nghiên

cứu cho thấy tỷ lệ chẩn đoán CNTC 90%, tỷ lệ bảo tồn VTC là 15,6%.


19

- Năm 2007 Nguyễn Thị Tuyết Mai nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu những
tiến bộ trong chẩn đoán và xử trí chửa ngoài tử cung năm 2005 so với năm 2000
tại BVPSTW”. Bệnh nhân CNTC năm 2005 được chẩn đoán và xử trí sớm hơn
năm 2000. Tỷ lệ CNTC chưa vỡ năm 2005 là 12,33%, năm 2000 là 8,17%.
PTNS được áp dụng điều trị CNTC năm 2005 (78,06%) nhiều hơn so với năm
2000 (41,9%).
- Theo nghiên cứu của Đỗ Bình Trí năm 2008, tỷ lệ CNTC được mổ nội
soi bảo tồn VTC tại BVPSTW năm 2007 là 11,6%, thành công 87,1%.
- Năm 2009 Hồ Văn Việt “Nghiên cứu chẩn đoán và xử trí CNTC năm
2008 và năm 2003 tại bệnh viện phụ sản Trung Ương”. Kết quả cho thấy chẩn
đoán CNTC năm 2008 sớm hơn so với năm 2003. Năm 2003 chỉ điều trị CNTC
bằng phuong pháp ngoại khoa, năm 2008 đã có 9,9% bệnh nhân dduocj điều trị
nội khoa bằng MTX.
- Theo nghiên cứu của Thân Ngọc Bích năm 2010, tỷ lệ CNTC được điều
trị tại BVPSTW năm 2009 là 9,40% tăng hơn so với năm 1999 (7,15%). Chẩn
đoán và điều trị năm 2009 đã tiến bộ nhiều so với năm 1999. Khối chửa chưa vỡ
năm 2009 chiếm 41,8%, năm 1999 là 22,7%. Điều trị bằng PTNS năm 2009 cao
hơn năm 1999 (72,7% so với 33,1%), tỷ lệ bảo tồn VTC khi phẫu thuật năm
2009 cao hơn năm 1999 (14,7% so với 8,5%).
- Năm 2014 Bùi Minh Phúc “Nghiên cứu chẩn đoán và điều trị CNTC tại
bệnh viện đa khoa tỉnh Hòa Bình trong 3 năm 2011- 2013” tỷ lệ chẩn đoán sớm
là 23,7%, 100%CNTC được điều trị bằng phẫu thuật, PTNS chiếm 79,5%.
1.8. Một vài thông tin chung về địa điểm nghiên cứu
Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Lào Cai được tách ra từ khoa Sản của bệnh
viện Đa khoa tỉnh Lào Cai. Bệnh viện được thành lập theo quyết định số

3105/ QĐ-UBND ngày 1/11/2012 của UBND tỉnh Lào Cai. Bệnh viện gồm
14 khoa, phòng chức năng, có quy mô 150 giường bệnh, là bệnh viện chuyên


20

khoa có chức năng tiếp nhận, khám bệnh, chữa bệnh chuyên khoa về phụ sản,
nhi cho bệnh nhân trên địa bàn tỉnh và các khu vực lân cận. Ngoài ra bệnh
viện còn hướng dẫn chuyên môn, kỹ thuật nghiệp vụ về lĩnh vực phụ sản, nhi
cho các cơ sở khám chữa bệnh tuyến dưới.
Phương pháp phẫu thuật nội soi trong điều trị CNTC đã được áp dụng
ngay từ đầu những năm thành lập bệnh viện.
Theo số liệu của phòng kế hoạch tổng hợp Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Lào
Cai, số bệnh nhân chửa ngoài tử cung cũng không ngừng tăng lên, số chửa
ngoài tử cung trên tổng số đẻ năm 2016 là 186/3821.
Tuy nhiên do trình độ chuyên môn, cơ sở vật chất còn hạn chế cùng với
những khó khăn về điều kiện đi lại, trình độ dân trí còn thấp nên tỷ lệ phẫu
thuật mổ mở trong điều trị CNTC vẫn còn cao.


21

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Hồ sơ bệnh án người bệnh được chẩn đoán CNTC và điều trị tại Bệnh
viện Sản Nhi Lào Cai, lưu trữ tại phòng kế hoạch tổng hợp thời gian từ ngày
01/01/2016 đến 31/12/2017.
 Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng

- Bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị chửa ngoài tử cung tại Bệnh
viện Sản Nhi Lào Cai trong thời gian trên.
- Các thông tin và các yếu tố nghiên cứu được ghi đầy đủ trong hồ sơ.
- Tiêu chuẩn chẩn đoán CNTC dựa vào:
+ Triệu chứng lâm sàng: Rối loạn kinh nguyệt (chậm kinh, kinh ra đúng
kỳ, kinh ra sớm), đau bụng, ra máu âm đạo, có khối cạnh tử cung.
+ Cận lâm sàng: hCG dương tính (nước tiểu hoặc máu), siêu âm trong buồng
tử cung không có túi ối, có khối cạnh tử cung, cùng đồ có dịch hoặc không.

 Tiêu chuẩn loại trừ đối tượng
- Bệnh án không đủ tiêu chuẩn lựa chọn trên.
- Chửa ngoài tử cung được điều trị ở tuyến khác chuyển đến vì bất cứ
lí do gì
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện Sản Nhi Lào Cai.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
Dự kiến tiến hành nghiên cứu từ tháng 09/2017 đến tháng 09/2018.


22

2.2. Phương pháp nghiên cứu và thu thập số liệu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu mô tả.
2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu nghiên cứu
Cỡ mẫu:
Cỡ mẫu được chọn là tất cả các trường hợp CNTC có đủ tiêu chuẩn đã
nêu trên dựa theo hồ sơ được lưu trữ tại Bệnh viện Sản Nhi tình Lào Cai thời
gian từ ngày 01/01/2016 đến 31/12/2017.
Phương pháp chọn mẫu

- Chúng tôi chọn theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện cho nghiên cứu:
Bao gồm những hồ sơ bệnh án thỏa mãn điều kiện nghiên cứu, nên không áp
dụng công thưc tính cỡ mẫu (chọn mẫu toàn bộ).
2.2.3. Công cụ thu thập sô liệu
- Phiếu thu thập thông tin (Xem phần phụ lục)
2.2.4. Kỹ thuật thu thập thông tin
Lấy thông tin có sẵn từ hồ sơ.
- Xây dựng phiếu thu thập số liệu dựa trên mục tiêu nghiên cứu và các
biến số nghiên cứu.
- Các thông tin từ hồ sơ sẽ được ghi chép vào phiếu thu thập thông tin.
2.2.5. Các biến số nghiên cứu
2.2.5.1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của đối tượng nghiên cứu
- Tuổi: ghi theo lịch dương phân nhóm theo tiêu chuẩn quốc tế
+  24 tuổi
+ Từ 25 - 29 tuổi
+ Từ 30 - 34 tuổi
+ Từ 35 - 39 tuổi
+  40


23

- Nghề nghiệp: cán bộ công chức, công nhân, làm ruộng, HSSV, nghề tự do.
- Tiền sử sản khoa:
+ Số lần có thai gồm: đẻ, nạo thai, sẩy thai, phá thai và hút thai.
+ Tiền sử đẻ: đẻ thai trên 22 tuần, đẻ đường dưới hay mổ đẻ.
+ Tiền sử sảy, nạo thai, hút thai: có, không.
+ Có tiền sử hút thai liên quan đến lần CNTC này: có, không.
- Tiền sử phẫu thuật tiểu khung: gồm các phẫu thuật khối u phụ khoa, mổ
đẻ, mổ CNTC, mổ viêm ruột thừa, viêm phúc mạc ruột thừa, viêm mủ VTC.

- Tiền sử điều trị vô sinh: điều trị nội khoa, mổ nội soi gỡ dính, tạo
VTC, nối VTC sau đình sản, các phương pháp hỗ trợ sinh sản.
- Triệu chứng cơ năng CNTC: rối loạn kinh nguyệt (chậm kinh, kinh ra
sớm, kinh ra đúng kỳ), đau bụng, ra máu âm đạo.
- Triệu chứng toàn thân: sốc (M > 100 l/ph, HA < 90/60 mmHg), không
sốc (M ≤ 100 l/ph, HA ≥ 90/60 mmHg).
- Triệu chứng thực thể: khối nề phần phụ, phản ứng thành bụng, cùng đồ
đầy đau, di động tử cung đau, tử cung và hai phần phụ bình thường.
- Cận lâm sàng:
+ hCG: số bệnh nhân được thử Quickstick và xét nghiệm βhCG.
+ Siêu âm: số bệnh nhân siêu âm, kết quả siêu âm:
. Không có túi thai trong buồng tử cung.
. Hình ảnh điển hình: là một khối nằm ở vòi tử cung giống hình chiếc
nhẫn vòng, có vỏ hơi dày là do hợp bào nuôi phát triển tạo thành những gai
rau, viền quanh một vùng chứa dịch thuần nhất là nước ối, nên thưa âm vang.
. Hình ảnh không điển hình: khối âm vang không đồng nhất, vùng
thưa âm xen lẫn đậm âm.
. Dịch Douglas: có, không.


24

- Các thủ thuật can thiệp để chẩn đoán:
+ Số bệnh nhân được chọc dò cùng đồ (Có máu điển hình và máu không
điển hình), hút buồng tử cung, nội soi ổ bụng chẩn đoán.
2.2.5.2. Kết quả điều trị CNTC
- Các phương pháp điều trị: Ngoại khoa (PTNS, mổ mở).
- Lượng máu trong ổ bụng khi phẫu thuật:
+ ≤ 100ml
+ 100-500 ml

+ > 500 -1000 ml
+ > 1000 ml.
- Vị trí khối chửa ở VTC (kẽ, eo, bóng, loa), buồng trứng, ổ bụng.
- Tình trạng khối chửa khi phẫu thuật: chưa vỡ, vỡ, rỉ máu, huyết tụ
thành nang.
- Kích thước khối chửa khi phẫu thuật (chiều dài): < 3cm, 3 - 5 cm và > 5cm.
- Cách thức xử trí trong phẫu thuật:


25

+ Bảo tồn VTC: Bệnh nhân mong con, khối chửa nhỏ chưa vỡ.
+ Cắt VTC: Bệnh nhân đủ con, khối chửa đã vỡ, khích thước khối chửa lớn.
+ Cầm máu buồng trứng.
+ Chuyển mổ mở, kết hợp triệt sản.
- Số bệnh nhân truyền máu và lượng máu truyền : 1 đơn vị, 2 đơn vị, ≥3
đơn vị.
- Thời gian từ khi vào viện đến khi phẫu thuật (thời gian trung bình):
<24h, từ 24h - 48h, >48h.
- Thời gian nằm viện sau mổ: tính theo ngày.
- Biến chứng trong và sau mổ:
+ Tràn khí dưới da
+ Chảy máu
+ Tổn thương các tạng: bàng quang, ruột, niệu quản.
+ Nhiễm trùng vết mổ
- Điều trị nội khoa: + MTX đơn thuần
+ MTX +Hút thai
+ MTX đơn thuần chuyển phẫu thuật
+ MTX + hút thai chuyển phẫu thuật
2.3. Xử lý số liệu

- Số liệu được làm sạch trước khi được nhập trên phầm mềm Epidata 3.1.
- Số liệu được mã hóa, chỉ thành viên trực tiếp nghiên cứu được quyền
tiếp cận số liệu.
- Dữ liệu được phân tích trên phần mềm thống kê SPSS 16.0 với các test
thống kê y học.


×