ĐẶT VẤN ĐỀ
Chửa ngoài tử cung là một bệnh thường gặp trong cấp cứu sản phụ khoa
với tỷ lệ: 1/200-1/250 phụ nữ mang thai [5], là nguyên nhân hàng đầu gây tử
vong mẹ trong ba tháng đầu của thai kỳ. CNTC luôn là một thách thức đối với
công tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản tại cộng đồng, không chỉ riêng ở Việt
Nam mà trên toàn thế giới vì ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, khả năng sinh
sản thậm chí đến tính mạng của người phụ nữ. Bệnh có chiều hướng gia tăng,
tại Mỹ trong thời gian 17 năm (1972-1989), CNTC tăng gấp 4 lần, tuy nhiên
tử vong mẹ giảm từ 35/1000 xuống còn 9,4/1000 do được chẩn đoán và xử trí
sớm. Tại Việt Nam, theo Dương Thị Cương năm 1991, tỷ lệ CNTC dao động
từ 0,25% đến 0,35% thực tế còn cao hơn. Theo thống kê tại Bệnh viện phụ
sản Trung ương, năm 1990 có 193 trường hợp CNTC, năm 1995 đã tăng lên
397 trường hợp. Năm 2000 có 661 ca (5,5%). Năm 2002 chiếm 9,7% tổng số
đẻ. Tại Từ Dũ thành phố HCM trong 3 năm liên tục (1991- 1994) trung bình
mỗi năm có khoảng 500 trường hợp CNTC [22]. Tại các nước Châu Âu và
khu vực Bắc Mỹ ở thập niên 70-80 tỷ lệ CNTC tăng rất nhanh giao động
khoảng 25% trên tổng số trẻ đẻ ra sống – ở Anh tỷ lệ CNTC từ năm 1966-
1996 cũng tăng từ 0,3% đến 1,6% Mỹ trong mười năm (từ 1981- 1991) tỷ lệ
CNTC tăng từ 1,9 đến 2,2% [81].
Sự gia tăng tần suất bệnh được nhiều tác giả cho rằng có nhiều yếu tố
như viêm nhiễm tiểu khung, tiền sử mổ vùng tiểu khung. Các biện pháp sinh
đẻ kế hoạch, các tiến bộ trong điều trị vô sinh, hỗ trợ sinh sản và các kỹ thuật
tiến bộ trong y học can thiệp nhiều hơn vào vòi tử cung đều góp phần làm
tăng tần suất bệnh [86],[87].
Tại bệnh viện phụ sản Trung ương, số bệnh nhân CNTC không ngừng
tăng lên hàng năm từ 673 trờng hợp năm 2000 tăng lên 1272 năm 2005 [35].
1
- Các triệu trứng bệnh khi chưa có biến chứng thường nghèo nàn.
Không đặc hiệu và không rầm rộ nên bệnh nhân vào viện thường trong tình
trạng muộn, đã có biến chứng chảy máu trong ổ bụng đôi lúc rất trầm trọng
nên việc điều trị mang tính chất sống còn của bệnh nhân là chủ yếu. Chẩn
đoán sớm CNTC ở giai đoạn khối chửa chưa vỡ thì sẽ giảm được tỷ lệ tử
vong của bệnh và bệnh nhân sẽ được áp dụng những phương pháp điều trị
tối ưu như: phẫu thuật nội soi bảo tồn vòi trứng hay điều trị nội khoa, bảo
vệ khả năng sinh sản cho người phụ nữ còn có nhu cầu sinh con [55],[58].
- Ngày nay nhờ áp dụng các phương tiện hiện đại trong chẩn đoán như:
siêu âm đầu dò âm đaọ, siêu âm Dopler màu, định lượng βhCG, nội soi chẩn
đoán, nên CNTC ngày càng được chẩn đoán sớm và điều trị có hiệu quả. Do
vậy, chúng tôi tiến hành đề tài "Nghiên cứu chẩn đoán và điều trị chửa
ngoài tử cung tại bệnh viện phụ sản Trung ương trong 2 năm 1999 và
năm 2009"
Với hai mục tiêu:
1. So sánh chẩn đoán CNTC tại Bệnh viện phụ sản Trung ương
trong 2 năm 1999 và năm 2009.
2. So sánh các phương pháp xử trí CNTC tại Bệnh viện Phụ sản
Trung ương trong hai năm 1999 và năm 2009.
2
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Lịch sử nghiên cứu chửa ngoài tử cung
- CNTC là trường hợp noãn được thụ tinh nhưng làm tổ ngoài buồng tử
cung. Có tới 98% vị trí khối thai nằm ở vòi tử cung, trong đó khối thai làm tổ
tại đoạn bóng chiếm 79,6%- đoạn eo 12,3% đoạn loa chiếm 6,2% đoạn
ké1,9%. Ngoài ra có thể gặp ở chửa trong ổ bụng ở buồng trứng chửa ở ống
cổ tử cung, ở vết mổ cũ [15].
Albucasis là người đầu tiên đề cập đến CNTC vào năm 936 sau công
nguyên. CNTC được mô tả đầu tiên vào năm 1637 trong cuốn bài giảng sản
khoa của Manniceau do mổ xác một nữ tù nhân. Sau đó được mô tả chi tiết
CNTC trên tử thi do Rilani (1661), và Vassal (1669)[72] [76].
- Năm 1759 hai nhà ngoại khoa quân đội John Bard và Huck đã chẩn
đoán và mổ thành công một trường hợp CNTC ở NewYork City [76].
- 1812 Heim là người đầu tiên chẩn đoán được CNTC trên phụ nữ còn
sống tuy nhiên chưa tìm ra được các tiêu chuẩn thích hợp cho chẩn đoán [76].
- Năm 1884 Schroder.M đã thực hiện phẫu thuật trong điều trị CNTC.
- Năm 1937 Hope. M là người đầu tiên khởi xướng soi ổ bụng trong chẩn
đoán nghi ngờ là CNTC [76].
Năm 1955 Lund lần đầu tiên mô tả 119 ca CNTC được điều trị bằng
phương pháp theo dõi, khối chửa tự thoái triển và tỷ lệ thành công là 57%.
3
- Năm 1957 Strome. N mô tả phương pháp cắt dọc một phần vòi tử cung
là một bịên pháp bảo tồn vòi TC trong chữa ngoài tử cung chưa vỡ.
- Năm 1973 Shapiro và Adler đã điều trị thành công CNTC bằng soi ổ
bụng và ngày nay soi ổ bụng là phương pháp điều trị chuẩn mực CNTC [80]
[58].
- Năm 1977 Braunch và Manhes công bố kết quả đầu tiên điều trị CNTC
bằng phương pháp phẫu thuật nội soi [76].
- Năm 1982 lần đầu tiên các nhà khoa học Nhật bản đã điều trị thành
công CNTC bằng Methotrexate (MTX) [37],[65],[66],[77].
Một số nghiên cứu trong nước
Năm (2002), Vương Tiến Hoà nghiên cứu ở 120 trường hợp CNTC về
một số yếu tố góp phần chẩn đoán sớm CNTC sớm cho thấy 92% người
bệnh CNTC được chẩn đoán sớm khi thăm khám có máu ở âm đạo, 65%
người bệnh có triệu chứng đau bụng. β hCG huyết thanh tất cả các trường
hợp CNTC > 25 mUI/ml. Nồng độ βhCG rất phân tán, thay đổi, không theo
quy luật chuẩn, độ lệch lớn hơn giá trị trung bình, nên giá trị tuyệt đối
không có ý nghĩa trên lâm sàng [24].
- Năm (2003), Nguyễn Thị Hoà nghiên cứu các yếu tố liên quan và giá trị
của triệu chứng lâm sàng trong chẩn đoán sớm chửa CNTC tại bệnh viện phụ
sản trung ương 2003, tỷ lệ CNTC là 4,4% CNTC trên tổng số có thai vào
viện. Triệu chứng lâm sàng rất có giá trị gợi ý để chẩn đoán, siêu âm đầu dò
âm đạo rất có giá trị trong chẩn đoán CNTC. Nội soi là tiêu chuẩn vàng để
chẩn đoán CNTC, còn có giá trị điều trị [21].
- Theo Lê Thị Hoà mối liên quan của chửa ngoài tử cung với tiền sử nạo
hút thai cho thấy số lần nạo hút thai càng nhiều thì nguy cơ chửa ngoài tử
cung càng lớn với OR = 2,59 (p < 0,01) [20].
4
- Lê Anh Tuấn nghiên cứu một quần thể phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ tại Hà
Nội có có tiền sử hút điều hoà kinh nguyệt, hút thai sớm có nguy cơ CNTC
cao hơn phụ nữ không có tiền sử nạo hút với tỷ suất chênh lệch là 1.9. Còn
tiền sử hút điều hoà kinh nguyệt ngay trước lần có thai này là một yếu tố nguy
cơ rất quan trọng của CNTC với tỷ suất chênh OR là 5,1 [42].
Tại Việt Nam, điều trị CNTC bằng MTX được áp dụng từ 1998, đến năm
2003 phương pháp này được áp dụng tại BVPSTƯ ngày càng phổ biến và
hoàn thiện [12]
1.2. Giải phẫu vòi tử cung và quá trình thụ tinh
1.2.1 Cấu tạo vòi tử cung
- VTC là ống dẫn noãn từ buồng trứng đến buồng tử cung một đầu mở
vào ổ bụng. Một đầu thông với buồng tử cung dài khoảng 10-12cm đường
kính khoảng 3mm (lỗ thông với buồng tử cung). Lỗ thông với ổ bụng toả rộng
hình loa có kích thước 7 đến 8mm [5].
5
Hình 1.1. Mô tả hình ảnh giải phẫu và tổ chức học vòi tử cung.
- Vũi t cung c chia lm 4 on
+ on k nm trong thnh c t cung chy chch lờn trờn v ra ngoi,
di khong 1cm ng kớnh lũng hp 1mm.
+ on eo: Chy ra ngoi di 3-4cm õy l phn cao nht ca vũi t cung
tip ni vi on k, thng nh mt si thng, khu kớnh 1mm.
+ on búng di khong 5cm 7cm chy dc b trc ca bung trng
tip ni gia on eo v on loa. Lũng ca ng khụng u v hp li do
nhng np gp cao ca niờm mc l ni xy ra hờn tng th tinh gia noón
v tinh trựng.
+ on loa: L on tn cựng ca tai vũi t cung, di 2cm, to hỡnh phu
cú khong 10-12 tua vũi, mi tua vũi di 1 - 1,5 cm, di nht l tua Richard
dớnh vo dõy chng vũi - bung trng. Cú nhim v hng ly noón khi ó
c phúng ra khi bung trng vo vũi t cung [5].
* Cu to mụ hc: Thnh vũi t cung c cu to 4 lp t ngoi vo
- Ngoi cựng l lp thanh mc, nhn búng to bi lỏ tng ca phỳc mc
- Lp 2 l mụ liờn kt lng v mng trong ú cú mch mỏu, thn kinh
- Lp th 3 gi l ỏo c gm 2 lp, lp c dc ngoi, th c vũng
trong lm cho vũi cú nhu ng theo hng v phớa t cung hoc v phớa
bung trng tu theo tng thi im thớch hp.
- Trong cựng l lp niờm mc: cú cỏc np gp thay i tu theo tng on
phõn chia gii phu gm 3 loi t bo:
6
+ Tế bào hình trụ có những lông dài 8 - 9 µm cắm vào thể đáy và chuyển
động theo một hướng nhất định về phía tử cung.
+ Tế bào chế tiết: chế tiết dịch để nuôi dưỡng trứng và góp phần vận
chuyển trứng về buồng tử cung.
+ Tế bào hình thoi: ở lớp đệm có tiềm năng phát triển giống như những tế
bào ở lớp đệm của nội mạc tử cung, do đó có thể biệt hoá thành những tế bào
màng rụng trong những trường hợp CNTC [26],[78].
- Động mạch vòi tử cung: xuất phát từ 2 nguồn đó là động mạch buồng
trứng và động mạch tử cung tiếp nối với nhau ở mạc treo vòi tử cung tạo
thành những vòng nối cung cấp máu phong phú cho vòi tử cung [77], [28].
1.2.2. Sinh lý và chức năng vòi tử cung
- Sự thụ tinh thường xẩy ra ở bóng vòi tử cung quá trình di chuyển của
phôi qua vòi từ 6 đến 7 ngày. Những cản trở xảy ra tại thời điểm này có thể
dẫn đến hậu quả CNTC tức phôi làm tổ tại vòi tử cung.
- Tinh trùng, noãn, phôi được vận chuyển qua vòi tử cung nhờ 3 yếu tố:
+ Sự co bóp của áo cơ vòi tử cung là chủ yếu.
+ Sự chuyển động của vòi các lông ở bờ tự do của tế bào có lông đã đẩy
noãn và phôi đi theo hướng về buồng tử cung.
+ Tác dụng của dòng nước trong lòng vòi tử cung, nhờ hệ thống mạch
máu và hệ thống bạch huyết phong phú trong lớp đệm, vòi tử cung đã hấp thụ
nước trong ổ bụng vào lòng vòi, dòng nước này chảy về buồng tử cung đã
cuốn theo cả trứng hoặc phôi khi nằm trong lòng vòi tử cung. [6] [15].
1.3. Những nguyên nhân dẫn đến CNTC
Những nguyên nhân dẫn đến CNTC đựơc phân chia làm 4 loại
1.3.1. Những nguyên nhân thường gặp:
* Viêm nhiễm vòi tử cung
7
- Viêm vòi tử cung đặc biệt là viêm niêm mạc vòi tử cung gây dính làm
hẹp hoặc tắc không hoàn toàn hoặc tắc hoàn toàn. [50], [63], [73].
Hậu quả của viêm là làm hẹp lòng vòi tử cung, thành VTC dầy và cứng
nên nhu động giảm, mất hoặc giảm các tế bào có lông và tế bào chế tiết,
làm mất yếu tố “đẩy” của lông tế bào cũng như luồng dịch trong VTC đặc
lại và chảy thậm, góp phần làm chậm sự di chuyển của trứng [27], [34],
[53], [15], [3].
- Dính quanh vòi tử cung, do viêm tiểu khung, lạc nội mạc tử cung [6]
-Viêm tiểu khung đặc biệt do Chlamydia [33]
- Tiền sử nạo, hút thai – sảy thai [64],[73], [74].
- Tiền sử mổ chửa ngoài tử cung. Ở những bệnh nhân đã mổ CNTC, thì tỷ lệ
CNTC ở lần có thai sau tăng lên 5 – 10% [15].
- Các khối u ở tiểu khung, u buồng trứng, LNMTC tại VTC sẽ làm rối
loạn chức năng cửa vòi tử cung [9],[22],
- Đặt dụng cụ tử cung
1.3.2. Những nguyên nhân hiếm gặp
- Sự bất thường của vòi tử cung, do cấu trúc vòi tử cung không hoàn
chỉnh kém phát triển, có túi thừa, thiểu sản [71].
Trứng đi vòng: noãn phóng ra từ buồng trứng bên này nhưng lại đi vòng
qua vòi tử cung bên kia. để vào buồng tử cung [56].
- Do phôi phát triển nhanh trong lòng vòi, hoặc chửa nhiều thai lên
đường kính của nó lớn hơn vòi tử cung và bị giữ lại làm tổ trong VTC.
1.3.3. Những nguyên nhân CNTC có liên quan đến kỹ thuật
* Sinh sản hỗ trợ
8
- Các phương pháp sinh sản hỗ trợ làm tăng tỷ lệ CNTC như thụ tinh
trong ống nghịêm, chuyển phôi qua vòi tử cung theo nhóm nghiên cứu của
Australia về thụ tinh trong ống nghiệm năm 1985 có 5% số bệnh nhân bị
CNTC sau khi làm thủ thuật này.
* Tiền sử phẫu thuật vòi tử cung
- Một số phẫu thuật vòi tử cung hay tạo hình và những người có tiền sử
phẫu thụât ở bụng trước đây là nguyên nhân gây CNTC [61], [75].
- Theo Greenhill, theo dõi 405 tổng hợp phẫu thuật vòi tử cung cả phẫu
thuật bằng nội soi và mổ mở thì tỷ lệ CNTC là 15% trong tổng số có thai [56].
- CNTC sau triệt sản: vẫn có một tỷ lệ có thai lại trong tử cung và
CNTC sau phẫu thuật triệt sản, nhất là triệt sản qua phẫu thuật nội soi ổ
bụng, đốt điện đơn cực hoặc lưỡng cực. Theo Cauland (1980) trong số
những trường hợp thất bại sau triệt sản bằng đốt điện VTC khi soi ổ bụng
có 16 - 50% là CNTC.
Kleppinger nghiên cứu 2300 trường hợp đốt điện đơn cực để triệt sản thì
có 5 trường hợp thất bại. 4 trong 5 trường hợp này bị CNTC. Cả 5 trường hợp
này đều tìm thấy lỗ dò ở phía tử cung - VTC đã đốt điện.
1.4. Chẩn đoán CNTC
Chẩn đoán CNTC dựa vào các triệu trứng lâm sàng, cận lâm sàng và soi ổ
bụng, tuy nhiên CNTC có nhiều thể lâm sàng và vị trí khác nhau nên đôi khi
rất khó chẩn đoán.
Chẩn đoán sớm CNTC là khối thai chưa vỡ hoặc rỉ một lượng máu rất ít
trong ổ bụng ≤ 50ml. Tại bệnh viên Trung ương, tỷ lệ chẩn đoán sớm CNTC
tăng qua hàng năm. Theo Nguyễn Minh Nguyệt (1999) Tỷ lệ này là 49,63%.
9
Theo Phạm Thanh Hiền (1998) tỷ lệ là 69,9% [19]. Theo Nguyễn Thị Tuyết
Mai (2005) tỷ lệ 76,33% [35].
1.4.1 Triệu chứng lâm sàng CNTC
- CNTC có các thể lâm sàn khác nhau, có những triệu chứng đặc thù
riêng, cần kết hợp nhiều dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng để chẩn đoán.
+ Triệu chứng mang thai: bệnh nhân tắt kinh, có thể nôn nghén, căng vú.
Chậm kinh là triệu chứng thường gặp. Có một số bệnh nhân ra máu âm đạo
trùng với ngày kinh nên rất khó phân biệt, cần khai thác rõ tiền sử kinh nguyệt
để có thể phân biệt. [3].
+ Ra máu âm đạo là triệu chứng phổ biến, thường xuất hiện sau khi chậm
kinh ít ngày đã thấy ra huyết vì chức năng nội tiết không hoàn chỉnh của rau
thai, huyết ra ít một liên tục hoặc không liên tục, máu màu đen, sẫm màu có
khi lẫn màng, có đến 80% CNTC có triệu chứng này [15], [24].
+ Đau bụng: đây là triệu chứng luôn có tuỳ từng mức độ rất khác nhau
theo các thể lâm sàng. Vị trí đau hố chậu phải hoặc trái hoặc cả vùng tiểu
khung hoặc đau khắp ổ bụng khi có vỡ khối thai chảy máu ồ ạt, đau kèm
theo mót rặn, đái buốt do khối máu tụ kích thích vào trực tràng, bàng quang
[15], [24].
+ Triệu chứng toàn thân: khi chửa ngoài tử cung vỡ có choáng mất máu,
đau khắp bụng, bụng chướng, biểu hiện là mạch nhanh, huyết áp tụt đôi khi
bệnh nhân có ngất do đau và mất máu. Khi khối chửa chưa vỡ đây là triệu
chứng hiếm gặp nhưng có giá trị chẩn đoán [15], [2].
+ Triệu chứng thực thể:
Thăm âm đạo kết hợp sờ nắn bụng thấy cổ tử cung, thân tử cung mềm tử
cung to hơn bình thường, mềm nhưng không tương xứng với tuổi thai [9].
10
Cạnh tử cung có thể sờ thấy khối, danh giới rõ hoặc không nhưng ấn rất
đau. Túi cùng sau thời kỳ đầu còn mềm mại nhưng nếu có máu thì bệnh nhân
rất đau [15].
1.4.2 Cận lâm sàng trong chẩn đoán CNTC
Cận lâm sàng ngày nay ngày càng hữu ích và có giá trị hơn trong chẩn
đoán CNTC sớm. Các phương pháp thường dùng hiện nay tại Việt Nam gồm:
định tính và định lượng hCG, siêu âm, nội soi ổ bụng [7] [4].
hCG trong chẩn đoán CNTC (hCG - human Chorionic - GonadoTropin)
- HCG được chế tiết sau thụ tinh 6 đến 9 ngày nhưng với 1 hàm lượng
nhỏ vì vậy khó phát hiện. Xét nghiệm thường có gía trị sau chậm kinh 1 tuần
khi mà phôi thai đã làm tổ chắc chắn trong buồng tử cung [69] [70].
- Theo Pittaway, nếu toàn bộ tế bào nuôi đã lấy ra khỏi buồng tử cung thì
sau 48 – 72 giờ nồng độ β hCG chỉ còn lại 25% so với nồng độ ban đầu.
Kadlar và cộng sự (1981) là những người đầu tiên định lượng β hCG
hàng loạt kết hợp với siêu âm đầu dò đường bụng như là một phương pháp để
chuẩn đoán sàng lọc CNTC, và đã đưa ra một ngưỡng phân biệt
(Discriminatory) giữa thai nghén bình thường và thai nghén bất thường và kết
luận rằng: khi nồng độ β hCG huyết thanh ≥ 6000m mUI /ml thì phải thấy túi
thai trong buồng tử cung bằng siêu âm đầu dò đường bụng. Khi βhCG ≥ 6000
mUI /ml và siêu âm đường bụng không thấy túi thai trong tử cung thì phải
nghĩ đến CNTC [69] [70].
- Nyberg và cộng sự (1985) kết hợp siêu âm đo âm đạo và định lượng β
hCG huyết thanh đã đưa ra một ngưỡng phân biệt mới, ở nồng độ β hCG huyết
thanh là 1800 mUI/ml thì phải thấy túi thai trong buồng tử cung. Nếu sau 48 giờ
nồng độ β hCG huyết thanh tăng dưới 66% hoặc không tăng hay tăng ít hoặc
11
giảm ít và siêu âm đường âm đạo không thấy túi thai trong buồng tử cung thì
phải nghĩ tới CNTC. Nồng độ β hCG và vị trí CNTC hoàn toàn không liên quan
đến nhau. Ngay cả những người bình thường, có một lựơng rất ít nồng độ β hCG
huyết thanh phân bố cũng rất phân tán [35] vì vậy định lượng β hCG huyết
thanh sẽ giúp ích rất nhiều cho vịêc phân biệt giữa một CNTC hoặc xảy thai
không hoàn toàn, với một thai nghén bình thường, hoặc là theo dõi một CNTC
còn tồn tại, sau phẫu thuật bảo tồn vòi tử cung [58],[62],[85].
Theo Vương Tiến Hoà [25] thì tất cả các bệnh nhân bị CNTC đều có
nồng độ β hCG huyết thanh > 25MUI/ml. Nồng độ β hCG huyết thanh trong
CNTC rất thay đổi, phân bố phân tán không theo quy luật chuẩn. Độ lệch
chuẩn > trên giá trị trung bình cho nên giá trị tuyệt đối không có ý nghĩa trên
lâm sàng. Diễn biến của nồng β hCG huyết thanh có giá trị hơn là trị số tuyệt
đối trong một thời điểm.
Nồng độ β hCG huyết thanh ≥700mUI/ml có giá trị trong chẩn đoán sớm
CNTC với độ đặc hiệu là 75%, giá trị tiên đoán dương tính là 91,3% và là
ngưỡng kết hợp với siêu âm đều dò âm đạo nếu không thấy túi thai trong
buồng tử cung thì SOB, tuy nhiên có tới 20% không phải là CNTC.
Siêu âm trong chẩn đoán CNTC
- Siêu âm là phương pháp cận lâm sàng rất có giá trị trong chẩn đoán
CNTC, tuy nhiên hình ảnh của siêu âm cũng chưa khẳng định chắc chắn là
CNTC mà cần phải kết hợp với các xét nghiệm hCG trong nước tiểu hoặc
định lượng β hCG trong huyết thanh. [25], [4]
* Những hình ảnh siêu âm về CNTC:
12
Hình 1.2.Hình ảnh siêu âm chửa ngoài tử cung
1. Hình ảnh tử cung
- Kích thước có thể to hơn bình thường
- Không có túi thai trong buồng tử cung
- Niêm mạc tử cung phát triển do tác dụng của nội tiết đã tạo nên một vệt
dài âm vang dày đặc giữa hai lớp cơ tử cung. Có thể có dịch trong buồng tử
cung do máu đọng lại, bờ hơi dày giống túi ối (túi ối giả) như vậy chậm kinh
2 tuần mà siêu âm không thấy túi ối trong buồng tử cung là một gợi ý chẩn
đoán chửa ngoai tử cung [7], [26].
- Hình ảnh vòi tử cung
+ Ở giai đoạn đầu của thai kỳ: vòi tử cung còn nguyên vẹn nhưng túi
thai đã phát triển, lớp tế bào nuôi quanh túi thai đã hình thành và ăn vào
lớp cơ của VTC tạo nên một khối kích thước 1-3cm, có âm vang dày, đều,
viền quanh một vùng thưa âm vang của túi thai tạo hình ảnh như một cái
nhẫn một vòng.
- Hình ảnh chắc chắn là có túi ối ở vòi tử cung có âm vang thai – tim thai biệt
lập với tử cung.
13
- Dịch ở túi cùng Douglas: là giai đoạn muộn của chửa ngoài tử cung là
vùng thưa âm vang ở sau thân tử cung thuộc túi cùng Douglas có thể do khối
chửa đã vỡ hoặc rỉ máu qua loa VTC vào cùng đồ, nếu vỡ chảy máu nhiều tạo
thấy vùng thưa âm vang ở các điểm thấp ở tư thế nằm như cùng đồ Douglas
hai mang sườn phải và trái [7], [15]
- Hình ảnh chửa góc tử cung. Bình thường trứng làm tổ ở đáy hay gần
đáy buồng tử cung và phát triển to dần vào giữa buồng tử cung. Khi trứng
làm tổ ở vùng sừng tử cung nối với VTC gọi là chửa ở góc khi trứng làm tổ
ở đoạn VTC nằm trong cơ sừng tử cung ở bờ ngoài dây chằng tròn gọi là
chửa ở kẽ.
Siêu âm xác định chửa góc khi thấy khối thai nằm lệch một góc ở
buồng tử cung làm cho hình dạng tử cung lệch lồi hẳn sang phía chửa. Siêu
âm xác định chửa ở kẽ khi thấy khối âm vang nằm ở ngoài niêm mạc buồng
tử cung tuy nhiên việc chẩn đoán phân biệt giữa chửa góc và chửa kẽ rất
khó khăn [7].
Hình ảnh chửa ống cổ tử cung.
- Khối thai nằm thấp trong ống CTC hình ảnh siêu âm thấy tử cung to
hơn bình thường, niêm mạc tử cung phát triển tạo âm vang dày giữa buồng tử
cung phần dưới tử cung phình ra làm tử cung biến dạng, thai thường không
phát triển chết và sảy ra ngoài [7].
- Hình ảnh chửa ổ bụng
Một số trường hợp thai chửa ở đoạn bóng, loa và TC rồi sảy vào trong ổ
bụng. Các gai rau lại tiếp tục bám vào các bộ phận lân cận như ruột, phúc
mạc, mạc nối lớn để tiếp tục nhận chất dinh dưỡng để cung cấp cho thai phát
triển. Thai có thể phát triển gần đủ tháng hoặc đủ tháng. Biến chứng vỡ khối
chửa gây chảy máu thường gặp và phải phẫu thuật cấp cứu lấy thai để rau
trong ổ bụng vì vậy cần chẩn đoán sớm, để có chỉ định chủ động [7].
14
Siêu âm chẩn đoán chửa trong ổ bụng
+ Tử cung to – niêm mạc phát triển nhưng không thấy thai trong tử cung
+ Bờ khối thai không đều mặt rau không phẳng
+ Nước ối thường ít
+ Hình ảnh mạc nối, ruột, tổ chức rau tạo thành một vỏ dày khó phân biệt
với cơ thể tử cung.
Soi ổ bụng trong chẩn đoán chửa ngoài tử cung
Soi ổ bụng là phương pháp chẩn đoán xác định CNTC tốt nhất hiện nay
đồng thời còn là một phương pháp điều trị CNTC.
Soi ổ bụng trong CNTC thấy khối chửa trong ổ bụng thấy vòi tử cung
phình lên, màu tím sẫm, dài theo chiều VTC, có rỉ máu qua loa hoặc ít máu ở
cùng đồ sau Có thể âm tính giả nếu soi quá sớm khối chửa còn bé. Tỷ lệ âm
tính giả tử 1,6 đến 4% tuỳ theo thống kê hiếm khi dương tính giả [6], [32].
Vương Tiến Hoà cho rằng điều quan trọng là dựa vào những triệu chứng
lâm sàng và cận lâm sàng như thế nào để hướng tới soi ổ bụng. Những trường
hợp nghi ngờ CNTC nồng độ βhCG huyết thanh ≥700mUI/ml, siêu âm đầu
dò âm đạo không thấy túi thai trong buồng tử cung, có khối biệt lập với tử
cung là ngưỡng chỉ định soi ổ bụng để chẩn đoán sớm CNTC. Tuy nhiên cũng
phải chấp nhận một tỷ lệ chẩn đoán nhầm khoảng 20% [25].
Mối liên quan giữa triệu chứng lâm sàng, βhCG siêu âm và nội soi
trong chẩn đoán CNTC.
- Phan Trường Duyệt cho rằng: chẩn đoán sớm CNTC chủ yếu dựa vào
triệu chứng lâm sàng, xét nghiệm HCG dương tính và chẩn đoán siêu âm
không có thai trong buồng tử cung [7].
- Theo Vương Tiến Hoà: lâm sàng nghi ngờ CNTC và siêu âm không
thấy túi thai trong buồng tử cung ở nồng độ β hCG huyết thanh ≥700mUI/ml
15
nên chỉ định soi ổ bụng để chẩn đoán sớm CNTC [24].
Chọc dò cùng đồ sau
Chọc dò có giá trị khi hút ra máu không đông chứng tỏ đã có biến chứng.
Nhưng khi kết quả chọc dò âm tính vẫn không loại trừ được chửa ngoài tử
cung ngay cả khi nó đã vỡ [9][8] hiện nay thủ thuật này ít thực hiện hơn do
hiệu quả của các phương tiện cận lâm sàng.
Định lượng Progesteron trong huyết thanh
Trong 8-10 tuần đầu thai nghén, hàm lượng Progesteron thay đổi ít phản
ánh sự hoạt động của hàng thể thai nghén. Đây là một xét nghiệm có thể dùng
để kiểm soát CNTC, theo Buster Ejohn thì nồng độ Progesteron nhỏ hơn
15ng/ml có hơn 80% là chửa ngoài tử cung. Khi nồng độ này nằm trong
khoảng 15-25 ng/ml cần phải theo dõi và làm các xét nghịêm khác [19], [54].
Nạo buồng tử cung
- Chỉ đặt ra khi bệnh nhân bị chảy máu nhiều và kết quả siêu âm không
phù hợp, khi nồng độ Progesteron máu nhỏ hơn 5ng/ml (thai hỏng) β hCG
không tăng khi xét nghiệm định kỳ, bệnh phẩm làm xét nghiệm vi thể có phản
ứng ngoại sản mạc và không có gai rau (hiện tượng Arias Stella) [9] [24].
Ngoài ra còn làm một số xét nghiệm bổ sung khác như số lượng hồng cầu
bạch cầu, huyết sắc tố thể tinh hồng cầu, chức năng gan thận để đánh giá toàn
trạng chung của bệnh nhân [52].
1.5. Phân loại CNTC
1.5.1 Phân loại theo lâm sàng
- CNTC chưa vỡ
+ Lâm sàng: triệu chứng nổi bật đau âm ỉ hạ vị toàn trạng bình thường.
+ Siêu âm: buồng tử cung rỗng (không có túi thai). Cạnh tử cung có
khối âm không đồng nhất. Cùng đồ không có dịch. Quickstick hCG (+)
16
β hCG(+) [41].
- Chửa ngoài tử cung thể rỉ máu:
Đau bụng âm ỉ – ra máu tươi loãng ít một.
- Thể giả sẩy: đau bụng dưới từng cơn ra huyết âm đạo ít một, sau đó sảy ra
mảnh màng rụng giống như tổ chức rau thai
- Thể chảy máu cấp trong ổ bụng
+ Trịêu chứng nổi bật: đau bụng dữ dội vùng bùng dưới, da xanh, niêm
mạc nhợt, mạch nhanh - huyết áp tụt. Có phản ứng thành bụng, gõ đục vùng
thấp, tử cung bập bềnh trong nước, khám cùng đồ sau đầy đau chói. Cũng có
trường hợp ngập máu ổ bụng nhưng diễn ra từ từ, người bệnh phần nào thích
nghi được nên các dấu hiệu choáng không rõ [7].
- Thể huyết tụ thành nang.
Biểu hiện lâm sàng là rong huyết kéo dài, toàn thân có tình trạng thiếu
máu, cạnh tử cung có khối bờ không rõ, ấn rất đau, đôi khi có dấu hiệu rối
loạn tiêu hóa. Siêu âm cạnh tử cung có khối âm vang không đồng nhất, danh
giới không rõ, kích thước phụ thuộc vào khối to hay nhỏ, thử thai nhanh
dương tính
1.5.2. Phân loại theo vị trí khối chửa:
- CNTC ở đoạn loa - bóng vòi trứng
+ Ở vị trí này có đủ cả 5 thể lâm sàng là: chưa vỡ – rỉ máu – giả sảy-
chảy máu cấp trong ổ bụng và huyết tụ thành nang.
- CNTC đoạn eo vòi tử cung
+ Chiếm 4% trong CNTC vỡ rất sớm.
17
- Chữa đoạn kẽ: 2 - 4% vì đoạn kẽ rất hẹp, các thớ cơ bao quanh lại
dầy nên khi vỡ làm tổn thương cơ tử cung nhiều gây ngậm máu ổ bụng
nhanh chóng
- CNTC ở vị trí buồng trứng: chỉ chẩn đoán được khi mổ mở hoặc mổ
nội soi. Buồng trứng có điểm chẩy máu còn hai VTC bình thường
- Chửa trong ổ bụng
- Giả thuyết có thể do sảy qua vòi tử cung mà thai vẫn sống và tự cấy ghép
trên phúc mạc [82]. Có thể chết sớm tự tiêu đi, [53]. Hay chảy máu cấp.
Chửa ống cổ tử cung: rất hiếm gặp tỷ lệ 1/18000, thường nhầm lẫn với
sẩy thai. Chẩn đoán xác định bằng giải phẫu bệnh lý. Rau bon thường gây
chẩy máu rữ dội thường phải cát tử cung để cầm máu. Nếu phát hiện sớm thì
điều trị bằng MTX cho kết quả tốt.
- Phân loại theo diễn biến của bệnh
Tại “Hội thảo quốc tế chuyên đề về chửa ngoài tử cung và vô sinh do
nguyên nhân ống dẫn trứng – Vichy, pháp 1995” các tác giả đề nghị phân biệt
ba mức độ hoạt năng sinh học khác nhau của CNTC dựa vào β hCG và
progesteron trong máu mẹ [33]
CNTC có hoạt năng sinh học cao: nồng độ β hCG tăng đáng kể trong
vòng 48h hay nồng độ β hCG lớn hơn 10000 mUI/ml và progesteron lớn hơn
10ng/ml: CNTC đang tiến triển mạnh (có hoạt năng sinh học cao) với nguy cơ
thất bại cao khi điều trị bảo tồn. Những trường hợp này đòi hỏi thái độ trị liệu
triệt để như cắt bỏ VTC hoặc mở vòi tử cung lấy tổ chức thai phối hợp với
điều trị bổ xung bằng Methotrexate.
CNTC không có hoạt năng sinh học.
18
Nồng đọ β hCG giảm, nồng độ progesteron <5ng/ml: chứng tỏ CNTC
không tiến triển, những trường hợp này cho phép một thái độ chờ đợi sự thoái
triển tự nhiên của bệnh.
- CNTC có hoạt năng sinh học trung bình:
Các trường hợp khác được xem như là CNTC có hoạt năng sinh học
trung bình có thể được điều trị bảo tồn với nội soi ổ bụng hoặc Methotrexate.
1.6. Hình ảnh mô bệnh học của CNTC
- Vòi tử cung chưa vỡ:
a. Hình ảnh đại thể:
- Khối chửa giống như một khúc dồi lợn dài khoảng 4cm - 6cm, đường
kính khoảng 2-3cm, sung huyết tím sẫm toàn bộ. Cắt dọc vòi tử cung có thể
thấy túi ối, bào thai và rau bám ở trong lòng vòi tử cung [83].
19
b. Hình ảnh vi thể.
- Toàn bộ bộ vòi tử cung sung huyết lan toả làm biến đổi màng đệm đặc
biệt ở quanh những mạch máu và trở thành thoái hoá kính. Lớp cơ của VTC
tăng sinh, phù nề, xoắn vặn. Cuối cùng là bị chia rẽ tan rã và biến mất, còn
lớp thanh mạc có sự tăng sinh của trung biểu mô làm cho thành của VTC dày
lên và ngấm đầy tơ huyết. Những tế bào hình thoi ở lớp đệm, nằm dưới màng
đáy của vòi tử cung đã biệt hoá thành những tế bào rụng, tạo thành một màng
rụng rất mỏng ở nơi phôi làm tổ. Những hợp bào nuôi của phôi đã xuyên qua
lớp màng đệm mỏng mảnh này vào tận các mạch máu ở lớp cở của thành vòi
tử cung. Phía trong màng đệm là túi phôi điển hình, có hình dây quả cầu, kích
thước từ 1 đến 2 cm gồm có phôi và túi ối, màng ối.
Những tế bào nuôi xuyên qua lớp màng đệm tạo thành hình ảnh rau cài
răng lược với lớp cơ của thành vòi tử cung hoặc là cắm thẳng vào hố huyết.
CNTC chỉ được khẳng định khi thấy các gai rau với các tế bào nuôi hoặc
tổ chức thai ở trên tiêu bản bệnh phẩm . CNTC chưa vỡ là hợp bào nuôi chưa
đâm thủng lớp thanh mạc làm vỡ VTC [68], [83].
- Vòi tử cung rỉ máu
+ Giống như ảnh VTC chưa vỡ.
+ Do các tế bào nuôi xâm lấn đục thủng cơ dọc, thanh mạc gây chảy máu
các ổ bụng khoảng vài chục đến trăm minilit máu.
- Vòi tử cung bị vỡ
+ Hình ảnh đại thể: khối chửa vỡ ra chỗ vỡ tím đen sẫm tại chỗ có nhiều
máu cục và máu loãng , có thể thấy khối thai hoặc rau thai đã bong ra ngay tại
chỗ vỡ.
+ Hình ảnh vi thể : các gai rau ăn sâu vào các lớp cơ của VTC đục thủng
phá vỡ thanh mạc hoặc ứ máu căng to làm vỡ VTC, đồng thời các mạch máu
20
cũng bị vỡ làm chảy máu vào ổ bụng tuỳ từng mức độ khác nhau.
1.7. Điều trị chửa ngoài tử cung
1.7.1. Điều trị ngoại khoa
Điều trị CNTC nhằm những mục đích sau:
- Giải quyết khối chửa
- Giảm tối đa tỷ lệ tử vong
- Ngừa tái phát CNTC
- Duy trì khả năng sinh sản cho người bệnh khi có nguyện vọng.
1.7.1.1 Mổ mở
- Phương pháp truyền thống trong điều trị CNTC chưa vỡ và vỡ là cắt bỏ
VTC tận gốc nhất là đã vỡ VTC gây chảy máu vào trong ổ bụng, hoặc có thể
tiến hành bảo tồn VTC bằng cách rạch dọc bờ tự do của VTC lấy khối thai,
cầm máu không khâu hoặc khâu lại VTC bằng chỉ tiêu một lớp mũi rời. Phẫu
thuật viên có kinh nghiệm có thể tiến hành nối tận - tận VTC khi đoạn còn lại
có độ dài trên 4 cm.
- CNTC thể lụt máu trong ổ bụng cần tiến hành phẫu thuật song song với
các biện pháp hồi sức (truyền dịch truyền máu….) không bắt buộc phải chờ
huyết áp lên mới phẫu thuật, khi mổ bụng cần nhanh chóng tìm ra chỗ chảy
máu để cầm máu. Trong những trường hợp này trước hết là cứu sống người
bệnh vì vậy không đặt ra vân đề điều trị bảo tồn VTC đã vỡ: cách xử lý là cắt
VTC để cầm máu. Hồi sức trong CNTC thể lụt máu thường cho kết quả tốt.
Rối loạn đông máu có thể sảy ra nhưng không nặng nề.
Trong thể huyết tụ thành nang, phẫu thuật thường khó khăn do khối
CNTC dính với các cơ quan lân cận, bóc tách cầm máu khó khăn sau khi bóc
tách cần đặt ống dẫn lưu để theo dõi sau PT [9].
Khi thai làm tổ trong ổ bụng, nếu thai còn sống mẹ chưa có biến chứng
một số tác giả khuyên nên chờ đến tuần 36-38 sẽ phẫu thuật lấy thai chủ
động. Trong phẫu thuật sau khi lấy thai, kẹp cuống rốn cắt sát gốc rau sau khi
21
đã để máu trong rau chảy ra hết, để lại bánh rau là phương phương cách xử
dụng hiện nay. (Sau phần rau còn lại sẽ tự tiêu huỷ hay thúc đẩy tiến trình này
nhanh hơn bằng Methotrexate)…. Tuy nhiên việc để lại bánh rau có thể là
nguyên nhân của nhiễm trùng, áp xe ổ bụng, tắc ruột [6],[9]. Đôi khi lấy thai
ra làm bánh rau bị bong ngay gây chảy máu rất khó cần giải pháp tình thế lúc
này là chèn gạc thật chặt chẽ để cầm máu tạm thời rút dần gạc này trong
những ngày sau phẫu thuật. Chửa trong ổ bụng vẫn còn là một biến chứng
nặng nề của sản khoa. chẩn đoán sớm và điều trị triệt để CNTC trong 3 tháng
đầu là phương pháp tốt nhất để tránh bệnh lý này [15].
Đối với CNTC ở ống cổ tử cung: khi bệnh nhân chưa có con nên giữ TC
sau nạo chèn gạc cầm máu vùng rau bám. Nếu không kết quả thì cắt tử cung
hoàn toàn. Trường hợp người mẹ đã có con thì phẫu thuật cắt tử cung hoàn
toàn. Kỹ thuật cắt tử cung khó khăn vì cổ tử cung phình to trong lúc phẫu
thuật cấp cứu rễ gây tổn thương niệu quản do hai niệu quản bắt chéo ngay khu
vực này. Nếu chẩn đoán được CNTC ở ống cổ tử cung có thể áp dụng kỹ
thuật như khâu vòng VTC (kỹ thụât Mc Douald) để cầm máu rồi mới lấy thai
và rau hoặc khối thai nhỏ, ít chảy máu điều trị bằng Methotrexate [15], các
phương pháp hiện nay hay áp dụng.
1.7.1.2. Phẫu thuật nội soi
Ngày nay, phẫu thuật nội soi là một phương pháp rất được ưa chuộng
trong điều trị CNTC ở các nứơc phát triển. Ở Việt Nam, điều trị CNTC
bằng phẫu thuật nội soi đã được áp dụng ở bệnh viện Từ Dũ từ năm 1993
tại phụ sản trung ương từ năm 1998 và là phương pháp điều trị chính cho
điều trị CNTC [32].
Phẫu thụât mở bụng chỉ làm khi khả năng can thiệp phẫu thụât nội soi
không có chỉ định [31]. Ngoài ra nội soi còn có vai trò chẩn đoán xác định
trong những trường hợp khó, không rõ ràng. Trong nội soi có thể tiến hành
22
cắt vòi tử cung hay bảo tồn VTC bảo tồn vòi tử cung là rạch bỏ tự do của
VTC lấy khối thai, rửa cầm máu không cần thiết phải khâu lại VTC [15].
Những trường hợp không nên chỉ định điều trị bảo tồn vòi tử cung trong
phẫu thụât nội soi CNTC [31]: nên tuỳ theo tình trạng bệnh nhân, tay nghề
của thầy thuốc (phẫu thuật viên) trình độ của nguời gây mê hồi sức - điều kiện
phương tiện:
* Kỹ thuật
Cắt VTC
+ Đánh giá ổ bụng hút hết máu, rửa ổ bụng nếu có máu chảy, đánh giá
VTC bên đối diện.
+ Cầm máu từ eo VTC, vừa cầm máu vừa cắt bằng kéo dọc theo bờ mạc
treo của VTC.
+ Cho bệnh phẩm vào túi plastic rồi lấy qua thành bụng.
+ Rửa, hút sạch ổ bụng.
* Bảo tồn VTC
+ Rửa và hút sạch ổ bụng nếu có chảy máu.
+ Bộc lộ khối chửa, đánh giá VTC bên đối diện.
+ Mở dọc bờ tự do của VTC ở vị trí khối chửa khoảng 1 cm.
+ Lấy mô rau thai ra.
+ Cầm máu: dùng dao lưỡng cực cầm máu tối thiểu mép vết rạch.
- Nội soi điều trị CNTC bằng MTX
+ Nội soi ổ bụng, đưa một kim chọc dò tuỷ sống cỡ 19 qua thành bụng
vào khối chửa, bơm qua kim này 2 - 5 ml dung dịch chứa 10-40mg MTX
1.7.2. Điều trị nội khoa bằng Methotrexate (MTX).
Điều trị CNTC bằng MTX được áp dụng ở các nước Âu - Mỹ từ những
năm 80 của thế kỷ 20 và hiện nay được áp dụng hầu hết ở các cơ sở sản khoa
hiện đại. MTX có thể dùng toàn thân (tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch) hoặc phối
hợp tiêm tại chỗ chữa cho kết quả thành công cao. Ở Việt Nam việc điều trị
23
CNTC chưa vỡ bằng MTX được áp dụng từ năm 1998 mức độ thành công
liên quan chặt chẽ với tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân.
- Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân điều trị nội khoa bằng thuốc Methotrexate
[22], [38].
- CNTC chưa vỡ
Nồng độ βhCG ban đầu ≤ 5000 UI/l
Siêu âm đầu dò âm đạo: kích thước khối chửa ≤ 3cm, không có hoạt
động tim thai không có túi noãn hoàn. Dịch cung đồ ≤ 15mm
* Đường đưa thuốc
- Đường toàn thân hay trực tiếp bằng cách tiêm trực tiếp vào khối thai
dưới sự hướng dẫn của siêu âm hay qua soi ổ bụng, soi buồng tử cung.
- Ở Việt Nam, từ 1998 bắt đầu điều trị MTX cho bệnh nhân CNTC đến
nay tỷ lệ thành công là trên 90%, đã mở ra hy vọng mới cho bệnh nhân CNTC
được điều trị bảo tồn mà không phải phẫu thuật.
Liều lượng - phác đồ điều trị:
- Phác đồ đa liều: MTX 1mg/ kg cân nặng tiêm bắp vào các ngày 1,3,5,7
và giải độc leuco vocin 0,1mg/kg cân nặng tiêm bắp vào các ngày 2,4,6,8.
Dùng liên tục đến khi β hCG giảm >15%, sau 48h hoặc 04 liều MTX có thể
nhắc lại liều 2 nếu β hCG không giảm <40% giá trị ban đầu vào ngày thứ 14.
- Phác đồ đơn liều: MTX 50mg/m
2
da tiêm bắp. Nhắc lại liều 2 nếu β
hCG không giảm dưới 15% giữa ngày thứ 4 và ngày thứ 7 có thể dùng 4 liều
β hHCG không giảm dưới 15% hàng tuần.
Theo dõi sau điều trị:
- Định lượng β hCG hàng tuần cho tới khi âm tính.
24
- Không giao hợp hoặc khám tiểu khung cho tới khi thành công
- Tránh thai trong vòng 3 tháng vì nguy cơ dị dạng do MTX.
Năm 2004, Nguyễn Văn Học nghiên cứu tại Hải Phòng thấy tỷ lệ thành
công của MTX liều đơn là 83,5%.
- Năm 2002, Tạ Thị Thanh Thuỷ nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh
thấy tỷ lệ thành công của tiêm MTX liều đơn là 91% [39].
1.7.3. Điều trị CNTC bằng phương pháp theo dõi không can thiệp:
Điều trị CNTC bằng phương pháp theo dõi được áp dụng cho những
bệnh nhân được chẩn đoán sớm và khối chửa chưa vỡ với tỷ lệ thành công là
từ 50-70%. Trong một nghiên cứu với β hCG nhỏ hơn 175IU/L tỷ lệ thành
công là 96%. Trong khi tỷ lệ này chỉ đạt 60% nếu β hCG từ 175-1500IU/L.
Quá trình theo dõi phải thường xuyên làm siêu âm đầu dò âm đạo và định
lượng β hCG cho tới khi âm tính. Bệnh nhân được coi là phù hợp nếu β hCG
giảm trong theo dõi.
Chỉ định của phương pháp theo dõi.
+ Không có dấu hiệu vỡ khối chửa, túi thai khu trú ở VTC
+ β hCG giảm sau 48 h
+ Bệnh nhân hợp tác với thầy thuốc và có thể theo dõi trong thời gian dài.
Phác đồ điều trị:
- Bệnh nhân được theo dõi sát
- Định lượng β hCG và siêu âm đầu dò âm đạo mỗi 48h.
Theo dõi:
- Định lượng β hCG tới khi âm tính
- Không giao hợp hoặc khám tiểu khung cho tới khi thành công
- MTX hoặc phẫu thuật nếu chửa NTC tồn tại.
25