Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

So sánh giá trị thang điểm richmond và thang điểm ramsay ở bệnh nhân thông khí nhân tạo xâm nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.98 KB, 54 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Thông khí nhân tạo xâm nhập trong các khoa hồi sức tích cực là một
trong những biện pháp điều trị hỗ trợ được sử dụng nhiều và vô cùng quan
trọng [1]
Thông khí nhân tạo có nhiều lợi ích, nhưng khi phải thở máy trong một
thời gian dài sẽ gây nhiều ảnh hưởng không có lợi cho bệnh nhân như viêm
phổi liên quan thở máy, biến chứng hô hấp, xuất huyết tiêu hoá.[2] Người
bệnh luôn trong tình trạng đau đớn khó chịu từ bệnh tật, từ ống nội khí quản,
từ các các thủ thật can thiếp xâm lấn, từ các thiết bị y tế hỗ trợ, và rối loạn
giấc ngủ, làm cho bệnh nhân trở lên lo lắng, dễ bị kích động, và mất đồng bộ hô
hấp giữa bệnh nhân với máy thở, ảnh hưởng xấu đến kết quả điều trị bệnh [3]
Việc sử dụng thuốc an thần giúp cho bệnh nhân cảm thấy thoải mái, dễ
chịu, bình tĩnh, hợp tác và hô hấp đồng bộ với máy thở, đồng thời giảm thiểu
được những ảnh hưởng không có lợi do thông khí nhân tạo xâm nhập gây nên
[4]; [5]; [6]. Trường hợp bệnh nhân do tình trạng bệnh lý sau khi đã loại trừ
các nguyên nhân có thể khác phục được gây thở chống máy song vẫn thở
không theo máy thì có thể cần an thần sâu hơn để đồng bộ hô hấp. Vấn đề là
dùng thuốc an thần như thế nào. Nếu dùng thuốc không đủ liều thì bệnh nhân
sẽ vẫn lo âu, căng thẳng, thậm trí kích động, hô hấp mất đồng bộ với máy thở
[7]. Còn nếu sử dụng lượng thuốc an thần quá nhiều thì nguy cơ gây ức chế
hô hấp kéo dài, lệ thuộc thuốc, kéo dài thời gian thở máy, gia tăng nguy cơ
viêm phổi bệnh viện, tăng thời gian nằm viện, tăng tỷ lệ tử vong và tri phí y tế
[8]. Do đó việc đánh giá chính xác mức độ an thần của bệnh nhân đang phải
thông khí nhân tạo xâm nhập để sử dụng lượng thuốc an thần phù hợp là rất
quan trọng [9]
Từ những năm 1970 một số thang điểm an thần đã được sử dụng để đánh
giá mức độ an thần của bệnh nhân làm căn cứ cho việc sử dụng thuốc an thần.
Thang điểm Ramsay [10] ra đời năm 1974 đến nay vẫn thường được sử dụng



2

tại các khoa hồi sức cấp cứu trên thế giới và ở Việt Nam bởi tính đơn giản dễ
sử dụng, nhưng chưa đánh giá được khách quan, chính xác tình trạng an thần
người bệnh do các miêu tả chưa rõ ràng giữa các mức độ an thần, và mới chỉ
có một mức độ cho trạng thái kích động [11] [12]. Trong khi đó thang điểm
Richmond [13] được phát triển từ năm 2002, ngày càng được sử dụng nhiều
trên thế giới, thang điểm Richmond có 10 điểm số đánh giá đã đưa ra được
nhiều mức độ an thần khác nhau, việc mô tả giữa các mức độ an thần cũng rất
rõ ràng, chi tiết, việc đánh giá cũng dễ dàng, nhanh chóng. Nhiều nghiên cứu
đã chỉ ra đây là thang điểm có giá trị và đáng tin cậy trong theo dõi đánh giá
mức độ tình trạng tinh thần ở bệnh nhân Hồi sức tích cực và bệnh nhân thở
máy[14]; [15]; [16]; [17]. Trong hưỡng dẫn thực hành lâm sàng của Hội hồi
sức Hoa Kỳ từ năm 2002 đến năm 2013 cũng đưa ra khuyến cáo nên sử dụng
thang điểm Richmond trong việc đánh giá an thần ở bệnh nhân nặng và bệnh
nhân thở máy.[18] [19]
Tại Việt Nam chưa có nghiên cứu chính thức nào về thang điểm
Richmond trong thông khí nhân tạo xâm nhập. Vì vậy chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài với mục tiêu sau:
1.

So sánh giá trị thang điểm Richmond và thang điểm Ramsay ở bệnh
nhân thông khí nhân tạo xâm nhập.

2.

Nhận xét mức độ tin cậy của việc cho điểm Richmond trong theo dõi an
thần bệnh nhân thông khí nhân tạo xâm nhập.



3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Thông khí nhân tạo xâm nhập
1.1.1. Các nguyên nhân gây thở chống máy trong quá trình TKNTXN
1.1.1.1. Các nguyên nhân khách quan.[5]; [24]
* Do đau đớn :
- Từ các vết mổ, vết thương.
- Do thủ thuật như : nội khí quản, mở khí quản, ống thông dạ dầy, ống
thông bàng quang, catheter tĩnh mạch trung tâm, catheter tĩnh mạch đùi, arline
động mạch để đo huyết áp động mạch xâm lấn, dẫn lưu màng phổi, dẫn lưu
màng bụng…
- Các vết loét trợt ở những vị trí tỳ đè do bệnh nhân nằm lâu và không
được chăm sóc tốt, các loét ở miệng lưỡi vách ngăn mũi do ống nội khí quản
và ống thông dạ dầy…
- Một số bệnh tật làm cho bệnh nhân đau đớn : nhồi máu cơ tim, tràn khí
tràn máu màng phổi, mun nhọt, áp xe phổi…
* Tác động của môi trường ( khoa phòng nơi bệnh nhân được theo dõi
điều trị)
- Mùi cồn, thuốc, dung dịch lau rửa sàn nhà, khử khuẩn dụng cụ máy
móc trang thiết bị y tế
- Trang thiết bị, máy móc y tế : người bệnh lo lắng, hốt hoảng khi nhìn
thấy những máy móc và thiết bị y tế tại khoa phòng bệnh nhân nằm điều trị.
- Ánh sáng từ các thiết bị máy móc y tế, ánh sáng của các thiết bị chiếu sáng
cho phòng bệnh làm bệnh nhân căng thẳng, mất tập chung và không ngủ được.
- Nhiệt độ tại phòng bệnh thay đổi ở những nơi chưa được trang bị máy
điều hoà không khí.



4

- Tiếng ồn của các thiết bị máy móc y tế, tiếng la hét kích động của bệnh
nhân khác, hay của nhân viên y tế.
- Bệnh nhân luôn nằm trong những tư thế phải bất động lâu.
* Do thuốc
- Adrenalin, Atropin, Salbutamon… gây cường giao cảm làm bệnh nhân
kích thích
- Kaliclorid truyền tĩnh mạch ngoại biên thường gây đau buốt tại chỗ và
dọc đường đi của tĩnh mạch
- Thừa dịch hoặc thiếu dịch làm cho bệnh nhân mệt mỏi khó chịu…
- Giấc ngủ: các bệnh nhân được TKNT không thể có được giấc ngủ bình
thường. Mức độ nặng của rối loạn giấc ngủ ở các bệnh nhân này ở mức tương
tự như được gặp ở bệnh nhân bị mất ngủ quá mức và các rối loạn hành vi
nhận thức ở bệnh nhân bị mất ngủ tạm thời. Tình trạng này gây sảng.
- Do cài đặt thông số thở máy không phù hợp, do auto-PEEP.
Tất cả các yếu tố trên làm cho người bệnh lo lắng, khó chịu, làm cho
bệnh nhân kích động, thở chống máy và làm giảm hiệu quả điều trị.
1.1.1.2. Yếu tố chủ quan ( tâm lý bệnh nhân) [25]; [26]
- Bệnh nhân lo lắng sợ hãi, kích thích khi bản thân phải trải qua một
hoàn cảnh khó khăn khi biết mình đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính
mạng, cơ thể chưa kịp thích nghi khi tiếp xúc với môi trường bệnh viện. Các
mức độ của yếu tố tâm lý này thay đổi, và khác nhau ở từng bệnh nhân, từng
giai đoạn bệnh, cũng như tác động của các yếu tố khách quan.
1.1.1.3. Do bệnh
- Trung tâm hô hấp bị kích thích do thiếu ôxy trong các bệnh gây suy
hô hấp, làm mất đồng thì giữa bệnh nhân và máy thở dẫn tới giảm hiểu quả
điều trị.



5

1.2. Các biện pháp khắc phục thở chống máy cho bệnh nhân TKNTXN.
[1]; [7]; [9]; [10]; [11]; [27];[31];[32]
1.2.1. Khắc phục các yếu tố khách quan.
- Cài đặt thông số máy thở phù hợp với tình trạng người bệnh.
- Hạn chế hoặc loại bỏ ánh sáng, tiếng ồn, thay đổi nhiệt độ môi trường
phù hợp
- Chăm sóc hô hấp tốt: đảm bảo hút đờm dãi chống tắc, tư thế nằm
thích hợp tránh bất động quá lâu…
- Nuôi dưỡng hợp lý, truyền đủ dịch, kháng sinh chống nhiễm khuẩn
1.2.2. Khắc phục các yếu tố chủ quan
- Sử dụng thuốc an thần hợp lý sẽ làm cho bệnh nhân thoải mái và cảm
thấy dễ chịu, qua đó người bệnh hết lo lắng, yên tâm về tình trạng hiện tại,
được ngủ nghỉ đầy đủ, bệnh nhân dễ thích ứng với máy thở hơn, góp phần vào
hiệu quả điều trị.
1.2.3. Do bệnh
- Điều trị tình trạng bệnh lý ngyên nhân gây suy hô hấp dẫn tới thiếu
thiếu oxy não kích thích trung tâm hô hấp
1.3. Sử dụng thuốc an thần trong thông khí nhân tạo xâm nhập.[1]; [7];
[27]; [33]
1.3.1. Mục đích của việc dùng thuốc an thần.
- Trong thông khí nhân tạo xâm nhập, một điều rất quan trọng cần được
bảo đảm là bệnh nhân và máy thở phải hoạt động đồng bộ với nhau. Nếu hoạt
động hô hấp của bệnh nhân không đồng bộ với máy thở, tình trạng suy hô hấp
không những cải thiện mà còn nặng thêm, hơn nữa mệt cơ hô hấp tăng lên,
kèm theo các biến chứng khác xuất hiện (hoặc nặng thêm) như hiện tượng
“bẫy khí” và auto-PEEP, rối loạn tinh thần.



6

- Bệnh nhân thở theo máy nghĩa là hoạt động hô hấp của bệnh nhân
phải hoàn toàn đồng bộ với máy thở (cả thì thở vào và thở ra) và tần số thở phải
thích hợp. Trong nhiều trường hợp bệnh nhân thở yếu, do đó không có hiện tượng
chống máy (máy vẫn đẩy vào đủ Vt qui định do bệnh nhân không tạo nên được
một áp lực đủ lớn để chống lại thì thở vào của máy), nhưng nếu thì hô hấp của
bệnh nhân không đồng bộ với máy vẫn không thể coi là theo máy. Khi đó động
tác thở ra của bệnh nhân, dù yếu, vẫn đủ để kết thúc thì thở ra. Thì thở ra đó bị
ngắn lại và làm xuất hiện hoặc nặng thêm tình trạng “bẫy khí”.
Trong trường hợp đã tìm và giải quyết các nguyên nhân có thể gây nên
tình trạng chống máy mà bệnh nhân vẫn không thở theo máy thì cần dùng
thuốc an thần và / hoặc giãn cơ để ức chế hô hấp. Hơn nữa dùng thuốc an thần
có thể làm giảm căng thẳng thần kinh và stress cho bệnh nhân, giúp bệnh
nhân có giấc ngủ tốt hơn, từ đó giảm công hô hấp, giảm mệt cơ hô hấp giúp
bệnh nhân nhanh chóng hồi phục. Việc chăm sóc, hút đờm, lật chở cũng dễ
dàng thuận lợi và an toàn hơn cho người bệnh.
Mục tiêu cần đạt
* Khi thông khí theo phương thức hỗ trợ/điều khiển: Bệnh nhân ngủ yên
nhưng không quá sâu. Tần số thở giảm đến mức thích hợp. Bệnh nhân dễ
chịu, giảm đau đớn, lo lắng kích thích, vật vã. Trong thông khí nhân tạo hỗ
trợ/điều khiển không có chỉ định dùng giãn cơ.
* Khi thông khí theo điều khiển hoàn toàn: Bệnh nhân ngủ yên. Ngừng
thở hoàn toàn. Bệnh nhân dễ chịu, giảm đau đớn, lo lắng, kích thích vật vã. Để
bệnh nhân ngừng thở hoàn toàn nên phối hợp thuốc giãn cơ với thuốc an thần.
1.3.2 Các tác dụng không mong muốn của thuốc an thần
- Tụt huyết áp ( khi huyết áp trung bình < 50 mmHg, và không đáp ứng
với các biện pháp điều trị ).
- Các phản ứng dị ứng tại chỗ hoặc toàn thân từ nhẹ, vừa, nặng hoặc

thậm chí tới nguy kịch.


7

- Chướng bụng do giảm trương lực cơ trơn đường tiêu hoá.
- Bí tiểu.
- Ức chế trung tâm hô hấp làm giảm tần số hô hấp, giảm thông khí phế
nang (giảm Vt).
- Mệt cơ kéo dài nếu dùng thuốc thải trừ chậm.
- Giảm phản xạ ho khạc dẫn tới không đào thoát được đờm dãi gây tắc
đờm dãi cản trở thông khí, tăng nguy cơ chấn thương phổi, xẹp phổi, nguy cơ
kéo dài và nặng nề hơn trong nhiễm khuẩn phổi.
- Tăng triglyceride máu ( > 5,6 mmol/l ) và hội chứng Propofol (khi sử
dụng Propofol liều cao và kéo dài). Có thể làm nặng thêm tình trạng suy tạng
nếu có (gan, thận )
- Việc dùng thuốc làm khó cho việc theo dõi ý thức cũng như các dấu
hiệu khác của bệnh nhân. Do đó mỗi ngày phải ngừng thuốc một thời gian,
kiểm tra đánh giá mức độ ý thức của bệnh nhân và đánh giá khả năng cai hoặc
thôi thở máy.
1.3.3. Một số loại thuốc an thần thường dùng trong TKNTXN ở Việt Nam.
[1]; [27]; [33]
Các thuốc nhóm Benzodiazepin
* Diazepam: Tác dụng kéo dài, thải trừ chậm. Có ảnh hưởng tớii gan,
gây hạ huyết áp. Gây nghiện nếu dung kéo dài. Do đó hiện nay ít khi được
dùng chỉ với mục đích an thần cho bệnh nhân thở máy
* Midazolam: Tác dụng không mong muốn ít hơn diazepam. Thời gian
tác dụng ngắn, thải trừ nhanh hơn diazepam. Đây là loại thuốc thường được
lựa chọn hiện nay để an thần cho bệnh nhân thở máy. Liều lượng 0,04 – 0,2
µg/kg/giờ

Các thuốc nhóm opiate
* Morpin: Trước đây morphin hay được dùng với mục đích ức chế hô
hấp và giảm đau cho bệnh nhân thở máy. Tuy nhiên do có nhiều tác dụng
không mong muốn và gây nghiện nên hiện nay không còn được dùng.


8

* Fentanyl: Tác dụng ức chế hô hấp và giảm đau tốt hơn morphin. Biến
chứng ít hơn. Không gây nghiện. Fentanyl thường được dùng kết hợp với
midazolam cho bệnh nhân thở máy.
Các thuốc gây mê
* Propofol: Đây là một thuốc gây mê có tác dụng nhanh, thời gian tác
dụng ngắn, thải trừ nhanh. Bệnh nhân tỉnh nhanh sau khi ngừng thuốc. Ít tác
dụng không mong muốn trên gan thận. Ít ảnh hưởng đến huyết áp. Propofol
cũng là một loại thuốc được khuyên dùng trong thông khí nhân tạo để giúp
bệnh nhân an thần và thở theo máy.
Liều lượng: Khởi đầu Bolus 5 – 10
khoảng 35 – 40

. Liều có hiệu quả thường

Liều tối đa là khoảng 80

.

1.3.4. Một số khuyến cáo sử dụng các thuốc an thần trong thông khí nhân
tạo xâm nhập.
- Trong thông khí nhân tạo xậm nhập, việc sử dụng các thuốc an thần,
giảm đau, gây mê, giãn cơ phụ thuộc vào tình trạng bệnh nhân, tính chất, tác

dụng, dược động học của từng loại thuốc ( an toàn, dễ điều chỉnh, dễ sử dụng,
tác dụng nhanh mạnh, êm dịu, ít tác dụng phụ, ít ảnh hưởng đến chức năng
các cơ quan, đặc biệt là tim mạch, gan, thận, não…) và việc đánh giá áp dụng
sao cho vừa đạt được mục tiêu an thần tối ưu vừa phù hợp với tình trạng bệnh
không làm tồi thêm kết cục bệnh.
- Những khuyến cáo sử dụng thuốc an thần: Thuốc an thần thường
được dùng để điều trị cơn kích động lo lắng sợ hãi và những hệ luỵ của nó
[39]. Việc phát hiện nhanh chóng và điều trị kịp thời các nguyên nhân gây ra
tình trạng kích thích không yên như đau đớn, mê sảng, hạ đường huyết, thiếu
ô xy máu, tụt huyết áp, hoặc hội chứng cai rượu và tác dụng của một số loại
thuốc khác là rất quan trọng. Do vậy trước tiên nên cố gắng giảm bớt tình
trạng lo lắng bồn chồn và kích thích của bệnh nhân bằng cách làm cho bệnh


9

nhân thoải mái dễ chịu như giảm đau kịp thời nếu có, động viên người bệnh
thường xuyên, giảm tiếng ồn, tránh ánh sáng mạnh, nhiệt độ môi trường phù
hợp tạo điều kiện cho người bệnh có được giấc ngủ tốt nhất trước khi chỉ định
dùng thuốc an thần. Thuốc an thần có thể được điều chỉnh để duy trì một trong
hai mục tiêu ý thức của bệnh nhân là an thần nhẹ vừa đủ (bệnh nhân bình tĩnh,
thoải mái dễ chịu và có thể thực hiện một số lệnh đơn giản) hoặc an thần sâu
(không đáp ứng với kích thích đau). Nhiều nghiên cứu đã chứng minh cho hậu
quả xấu nếu của việc sử dụng thuốc an thần kéo dài, và những lợi ích của việc
duy trì mức an thần nhẹ ở bệnh nhân trong ICU [40]; [41]; [42]; [43]; [44]. Việc
sử dụng các thang điểm an thần, các phác đồ thuốc an thần là nhằm giảm thiểu
sử dụng thuốc an thần.[40]; [45]; [46]; [47]; [48]; [49]; [50]; [51]; [52]; [53];
[54]; [55]; [56]
- Hiệp hội hồi sức cấp cứu Hoa Kỳ (Society of critical care medicine)
năm 2013 đưa ra một số khuyến cáo trong theo dõi, đánh giá, kiểm soát, quản

lý sử dụng thuốc an thần cho bệnh nhân thở máy hoặc không thở máy trong
ICU: [5]
+ Độ sâu của an thần ảnh hưởng kết cục lâm sàng: Duy trì mức độ an
thần nhẹ ở các bệnh nhân giảm thời gian thở máy và thời gian nằm tại ICU
cũng như thời gian nằm viện ( khuyến cáo B).
+ Lựa chọn thuốc an thần : Nên sử dụng các thuốc không phải nhóm
benzodiazepine (như propofol hoặc dexmedetomidine) cho an thần hơn là
thuốc nhóm benzodiazepine (midazolam hoặc lorazepam) để cải thiện kết cục
lâm sàng ở bệnh nhân thở máy trong ICU (khuyến cáo + 2B)
1.4. Thang điểm đánh giá mức độ an thần.
1.4.1. Vai trò thang điểm an thần
Tất cả các bệnh nhân nặng nói chung và bệnh nhân cần thở máy xâm
nhập nói riêng cần phải được đánh giá thường xuyên mức độ an thần, và các


10

thuốc an thần cần phải được điều chỉnh liều lượng sao cho đạt được sự an
thần tối ưu với tác dụng không mong muốn xẩy ra ít nhất. Do vậy cần phải có
các hưỡng dẫn thực hành lâm sàng cụ thể cho việc sử dụng thuốc an thần,
chính vì vậy nhiều thang điểm an thần đã được xây dựng để cung cấp một hưỡng
dẫn cho việc chuẩn độ an thần.(Barr et al, 2013; Jacobi et al, 2002).[5]; [23]
Các thang điểm an thần là công cụ dùng để đánh giá chính xác tình trạng
mức độ an thần hiện tại của bệnh nhân tại thời điểm thăm khám. Chúng cho
phép điều chỉnh liều thuốc an thần để đạt được mục tiêu an thần của bệnh
nhân phù hợp với từng giai đoạn bệnh, bên cạnh đó các thang điểm an thần
được xây dựng và áp dụng cũng nhằm hạn chế các biến chứng của việc sử
thuốc an thần, đảm bảo tính an toàn và thoải mái cho bệnh nhân.
Việc sử dụng thang điểm an thần là để thống nhất mức độ an thần bệnh
nhân giữa bác sĩ và các điều dưỡng chăm sóc, nhằm mục tiêu là giảm thời

gian thở máy, thời gian nằm viện và chi phí y tế (Sessler et al, 2002, Stawicki,
2007) [18]; [56]; [57]
1.4.2. Phân loại thang điểm an thần
Có 2 loại của thang điểm an thần là thang đo an thần phản ánh đánh giá
khách quan và loại đánh giá chủ quan.
Các thang điểm chủ quan dựa vào người đánh giá kiểm tra thông qua các
cử động biểu hiện trên nét mặt, tư thế hay các động tác dấu hiệu đặc chưng
quan trọng ở bệnh nhân không còn khả năng tiếp xúc bình thường để xác định
mức độ hôn mê hay kích động, tình trạng kích động của bệnh nhân được đặc
trưng bởi hoạt động tinh thần và thể chất không chủ ý bắt nguồn từ sự lo lắng
của người bệnh, thường biểu hiện bằng sự bồn chồn không yên quá mức, và
các động tác cơ thể liên tục vận động (Maj và cộng sự, 2005) [58]. Dựa vào
việc phân tích các kết quả kiểm tra đánh giá người bệnh, lượng thuốc an thần
được điều chỉnh để đạt được mức an thần mong muốn nhằm giảm bớt các
hành vi kích động và lo lắng.


11

Trong khi đó các thang đo đánh giá khách quan dựa vào những thay đổi
sinh lý cơ thể cụ thể là đánh giá bằng việc quan sát từ bên ngoài thông qua
thiết bị hỗ trợ ghi lại hình ảnh điện não đồ hoặc hoạt động thần kinh khác.
BIS mornitoring hay Bispectral Index để xác định mức độ kích động hay hôn
mê của bệnh nhân, thuốc an thần sẽ được điều chỉnh dựa trên những thông tin
thu được qua hoạt động của điện não đồ (Diawai, Thoyre, & Auyong, 2007)
[59]. Chỉ số BIS đã được nghiên cứu phát triển nhiều nhất kể từ khi được áp
dụng trên lâm sàng theo dõi độ mê bệnh nhân trong các khoa gây mê hồi sức.
Chỉ số BIS đánh giá độ mê thông qua việc theo dõi ghi nhận và xử trí tín hiệu
điện não đồ. Thiết bị sử dụng 4 điện cực để áp vào trán bệnh nhân. Các điện
cực này ghi lại tín hiệu điện não đồ (EEG) chủ yếu là sóng alpha của thuỳ trán

và sử lý nó thông qua một thuật toán (độc quyền của hãng sản xuất), tạo ra
một số nguyên dương, từ 0 đến 100, trong đó 90 đến 100 cho biết trạng thái
tỉnh táo và số 0 cho biết không có sóng điện não. Chỉ số BIS chịu ảnh hưởng
bỏi những sóng điện não bất thường (động kinh...) nhiệt độ cơ thể, hạ đường
huyết, hoạt động của điện cơ (EMG) và các loại thuốc như Catecholamine
(LeBlanc 2006). Tuy nhiên các thang đo khách quan này còn ít được áp dụng
trong thực hành lâm sàng do lợi ích và độ tin cậy còn chưa rõ ràng, và có chi phí
tốn kém (Barr và cộng sự, 2013; Sessler, Grap, & Ramsay, 2008) [5]; [60].
1.4.3. Tiêu chuẩn thang điểm an thần lý tưởng
Hiện nay có khoảng 35 loại thang điểm an thần đã được xây dựng, phần
lớn trong đó có nhiều thang điểm có đặc điểm tương tự nhau và nhiều thang
điểm trong số này có độ tin cậy cũng như hiệu quả xác định mức độ an thần
không cao (Sessler (2004) [61].
Thang điểm lý tưởng nhất để đánh giá chính xác mức độ an thần cần
phải được xây dựng sao cho các nhân viên y tế thực hiện các công việc khác
nhau trong việc chăm sóc và điều trị bệnh nhân phải cùng sử dụng được một


12

cách nhất quán nhất, và việc sử dụng thang điểm này trong thực hành lâm
sàng phải đơn giản, tiện dụng nhanh chóng, không tốn kém. Các tiêu chuẩn ở
các mức độ an thần khác nhau cần phải rõ ràng. Đánh giá được tình trạng kích
động hoặc hôn mê của người bệnh đang ở mức độ nhẹ hay nặng, cho phép
chuẩn độ chính xác các thuốc an thần phù hợp với các mục tiêu điều trị cần
đạt (vd : giải quyết tình trạng khó chịu, kích động, lo lắng, đồng bộ hô hấp
bệnh nhân với máy thở, mức độ ý thức cần đạt để chăm sóc vệ sinh dễ dàng
thuận lợi an toàn, hay vỗ rung hút đờm...). Mức độ an thần đánh giá phải chính
xác, khách quan để giảm được thấp nhất lượng thuốc an thần cần sử dụng.
1.5. Thang điểm Ramsay

Thang điểm Ramsay [15] là một trong những công cụ được sử dụng rộng
rãi nhất trên thế giới để đánh giá mức độ an thần của bệnh nhân bằng cách
quan sát. Thang đo này gồm có 6 mức độ an thần được tính từ 1 điểm đến 6
điểm, nó được xây dựng và sử dụng để đánh giá phân biệt mức độ an thần lần
đầu tiên vào năm 1974 bởi Ramsay và cộng sự trong một nghiên cứu với 30
bệnh nhân ở một đơn vị hồi sức tích cực (ICU) sau phẫu thuật tim mạch và
đang dùng Althesin
Thang đo an thần Ramsay bao gồm hai nhóm điểm: nhóm gồm điểm 1, 2
và 3 đánh giá các mức độ tinh thần ở trạng thái tỉnh và các điểm 4, 5, 6 được
xác nhận để phân mức độ ngủ
Bảng 1.1. Thang diểm Ramsay
Mức độ
1
2
3
4
5
6

Đáp ứng
Lo âu, kích thích
Hợp tác, định hướng, yên lặng
Ngủ say, chỉ đáp ứng với các mệnh lệnh
Đáp ứng với tiếng động mạnh
Đáp ứng yếu ớt
Không đáp ứng

- Cách đánh giá mức độ thức tỉnh theo thang Ramsay như sau:



13

+ Các mức độ tỉnh là : quan sát người bệnh xem bệnh nhân biểu hiện lo
lắng hoặc buồn chồn hay cả hai biểu hiện này thì cho điểm 1, bệnh nhân nằm
yên (thở theo máy...) hợp tác có định hướng thì cho điểm 2, bệnh nhân chỉ
phản ứng khi được yêu cầu (theo lệnh) thì cho điểm 3
+ Các mức độ ngủ thể hiện qua phản ứng của bệnh nhân đối với các kích
thích bên ngoài như lấy tay gõ nhẹ vào vùng trán giữa hai cung mày hai mắt
hay gây ra tiếng động lớn (gọi hỏi thật to). Nếu bệnh nhân phản ứng lại nhanh
thì cho điểm 4, phản ứng chậm cho điểm 5, không có bất cứ phản ứng nào thì
cho điểm 6.
- Sáu mức độ (từ điểm số 1 đến điểm số 6) của thang điểm an thần
Ramsay cho phép đánh giá trực quan về mức độ an thần ở bệnh nhân. Các bác
sĩ lâm sàng có thể sử dụng thang đo này để đánh giá tình trạng an thần của
bệnh nhân, ghi lại sự thay đổi của các mức an thần trên bệnh nhân theo thời
gian từ đó chỉnh liều thuốc an thần hợp lý nhất (Ví dụ : bệnh nhân có điểm
Ramsay đạt được là điểm số 2 , như vậy có thể được coi là đã đạt được mức
độ an thần tối ưu ở đó người bệnh bình tĩnh, hợp tác và quan trọng nhất là
bệnh nhân cảm thấy thoải mái không lo lắng).
Thang điểm Ramsay vẫn được sử dụng rộng rãi ở nhiều cơ sở y tế trên
thế giới trong đó có Việt Nam, có lẽ do tính đơn giản và dễ sử dụng, nhưng
hiện nay thang điểm này đang có xu hướng ít được sử dụng dần trong thực
hành lâm sàng đặc biệt trong các cơ sở nghiên cứu nó thiếu các mô tả chi tiết
để cho phép phân biệt một cách rõ ràng giữa các mức an thần (DaiWai và
cộng sự 2007; Hansen – Flaschen và cộng sự 1994). [16]; [17]
1.6. Thang điểm Richmond đánh giá tình trạng kích động - an thần
(Richmond Agitation Sedation Scale - RASS)


14


Thang điểm Richmond được xây dựng và phát triển từ năm 2002 tại đại
học Virginia Commonwealth thành phố Richmond thủ phủ bang Virginia Hoa
Kỳ bởi một nhóm các chuyên gia trong lĩnh vực y khoa bao gồm các bác sĩ, y
tá và điều dưỡng trong đơn vị hồi sức tích cực và gây mê hồi sức, nhằm tạo ra
một công cụ đánh giá an thần tối ưu (Sessler et al., 2002) [18]. Thang
Richmond bao gồm 10 điểm số phản ánh 10 mức kích động hay an thần : các
số điểm dương (+1 đến +4) để xác định mức độ kích thích và các số điểm âm
(-1 đến - 5) là mức độ an thần, số điểm 0 là mức tỉnh táo bình thường của
bệnh nhân. Mỗi bệnh nhân được xác định một điểm duy nhất sau khi được
kiểm tra qua 3 bước đánh giá liên tục bao gồm: quan sát bệnh nhân qua nét
mặt cử chỉ động tác cơ thể, quan sát đáp ứng của bệnh nhân với kích thích
bằng lời nói (gọi tên bệnh nhân, bảo bệnh nhân trả lời bằng cách chớp nháy
mắt – sử dụng thời gian duy trì cử động của mắt để phân độ sâu an thần và
phân tách kích thích bằng lời nói với kích thích vật lý), quan sát đánh giá đáp
ứng của bệnh nhân với kích thích bằng vật lý (gây đau cho người bệnh như
day ấn vào vùng ngực hay cấu véo tay chân). Bằng cách này thang Richmond
đã đưa ra được một mức độ chính xác hơn về mức độ ý thức so với các thang
điểm an thần khác. Các mức độ an thần này cho thấy sự khác biệt lớn hơn
trong việc mô tả mức độ an thần nhẹ và vừa phải so với các thang đo trước
đây (ví dụ thang điểm Ramsay...), điều này là rất cần thiết và có lợi cho việc
đánh giá mức độ an thần để quyết định liều lượng thuốc hợp lý nhất nhằm
mục đích an thần nhẹ và vừa cho người bệnh (Barr et al., 2013) [5]

Bảng 1.2. Hệ thống tính điểm thang Richmond và các mô tả có liên quan
đến các đánh giá.


15


Điể

Tình trạng

m
+4

bệnh nhân
Hung hãn

+3
+2
+1
0

Rất kích động
Kích động
Không yên

Mô tả
Cực kì hung hãn, nguy hiểm đối với nhân viên y tế
Tự kéo hoặc rút bỏ các ống xông (NKQ, catheter...). Có
những hành vi gây gổ với nhân viên y tế
Các cử động không chủ đích xẩy ra thường xuyên hay có
tình trạng mất đồng bộ giữa máy thở và bệnh nhân
Lo âu hay sợ hãi song các cử động không mang tính chất
đe doạ hay quá mạnh mẽ

Tỉnh táo, nằm
yên


-1

Ngủ gà

-2

An thần nhẹ

-3
-4

An thần vừa

-5

An thần sâu
Không thể

Không hoàn toàn tỉnh táo, thời gian thức tỉnh kéo dài
( 10 giây), mở mắt khi gọi
Thời gian thức tỉnh ngắn ( 10 giây) với mở mắt khi gọi to
Quờ quạng song không mở mắt khi gọi
Không có đáp ứng với lời nói, quờ quạng khi kích thích
đau
Không đáp ứng với lời nói hay kích thích đau

đánh thức

- Cách thức đánh giá mức độ an thần theo thang điểm Richmond gồm 3

bước tuần tự như sau :
Bước 1. Đầu tiên người đánh giá quan sát bệnh nhân xem bệnh nhân
có tỉnh táo, bình tĩnh không, nếu có thì cho điểm 0. Nếu bệnh nhân có những
hành vi biểu hiện ra tình trạng lo lắng hoặc bồn chồn thì cho điểm từ + 1 đến
+ 4 dựa vào các mô tả cụ thể của mỗi tiêu chí ở bảng trên
Bước 2. Nếu bệnh nhân không tỉnh thì tiến hành gọi tên bệnh nhân, bảo
bệnh nhân mở mắt ra và nhìn vào người hỏi ( nhân viên y tế ), có thể lặp lại
yêu cầu nếu thấy cần và nhắc bệnh nhân tiếp tục nhìn vào người hỏi
+ Nếu người bệnh mở mắt , có biểu hiện giao tiếp được và duy trì được
> 10 giây thì cho điểm –1


16

+ Nếu người bệnh mở mắt, có biểu hiện giao tiếp được, duy trì được <
10 giây thì cho điểm –2
+ Nếu người bệnh chỉ có cử động cơ thể (trừ cử động của mắt) khi gọi
hỏi thì cho điểm – 3
Bước 3. Nếu bệnh nhân không có bất cứ đáp ứng nào với kích thích
bằng lời nói thì gây kích thích bằng cách day ấn lên vùng xương ức, tay, hoặc
lắc vai của bệnh nhân
+ Nếu có bất cứ cử động cơ thể nào thì cho điểm – 4
+ Nếu không có bất cứ cử động nào của cơ thể thì cho điểm – 5
Thang Richmond đã được kiểm chứng độ tin cậy trong nhiều đơn vị
chăm sóc và hồi sức tích cực, như giảm chi phí điều trị (Awissi, Begin,
Moisan và Lachaine - 2012) [64], thống nhất được mức an thần trong đánh
giá bệnh nhân giữa y tá với bác sĩ điêu trị trong chỉ định liều lượng thuốc an
thần, cho phép người y tá chỉnh liều thuốc theo mức độ an thần thang điểm
Richmond (Jakob và cộng sự, 2012, Jones, Murphy, Gerlach, Goodman , Và
Pell, 2011). Theo Vasilevskis et al. (2011) đã chỉ ra thang Richmond là một

công cụ hiệu quả để đánh giá an thần tại gường bệnh được sử dụng bởi y tá
điều dưỡng. Một số nghiên cứu khác cũng nhận xét Richmond là thang đo
cung cấp thông tin đáng tin cậy để chuẩn hoá mức độ an và hướng dẫn chỉnh
liều thuốc an thần. [64]; [65]; [66];[67];[68];[69]; [70]
Trong nhiều nghiên cứu chỉ ra thang điểm Richmond có gía trị trong việc
kiểm soát tình trạng an thần ở các bệnh nhân có thông khí nhân tạo xâm nhập
so với những bệnh nhân không có thông khí nhân tạo (Yaman, Ozcana,
Kaymak, và Basar, 2012) [71]. Một số nghiên cứu đã cho thấy sự đồng bộ
giữa bệnh nhân với máy thở được cải thiện, giảm thời gian thông khí cơ học
khi RASS được phối hợp với việc tiến hành cai thở máy cho bệnh nhân ở đơn
vị chăm sóc tích cực (De Wit, Pedram, Best, & Epstein, 2009; Grap và cộng
sự, 2003; Robinson và cộng sự, 2008) [72]; [73]; [74]. Miller et al. (2010)
[75] đã cho thấy có giảm tỷ lệ viêm phổi liên quan đến thở máy khi Richmond
được sử dụng. Richmond đã được chứng minh là làm rút ngắn thời gian nằm


17

viện và thời gian chăm nằm trong các đơn vị chăm sóc tích cực (Grap và cộng
sự 2003, Robinson và cộng sự, 2008, Venkat, Grap, và Sessler, 2005).[76]
Vấn đề với thang đo Richmond (và các thang đo mức độ an thần khác) là
cách đánh giá cho điểm đều là dựa vào các quan sát mang tính chủ quan của
nhân viên y tế về mức an thần theo phản ứng của bệnh nhân với kích thích
bằng giọng nói hoặc bằng kích thích đau (vật lý). Khi bệnh nhân dùng các
thuốc ức chế thần kinh cơ, có rối loạn tâm thần, hoặc được gây mê sâu, việc
sử dụng các thang đo này rất hạn chế. Do đó, các biến đổi của phản ứng thần
kinh thông qua hình ảnh EEG, được sử dụng trong gây mê hồi sức, đã được
nghiên cứu tích cực trong đánh giá an thần của ICU (LeBlanc và cộng sự,
2006) [79].
1.7. Một số nghiên cứu so sánh, đánh giá tương quan về RASS và

Ramsay trên thế giới.[87]; [88]; [89];[90]
- Riessen và cộng sự 2012: thang Ramsay kém chuẩn xác hơn khi đánh giá mức
an thần sâu trên bệnh nhân.
- Yman và cộng sự 2012: cả Ramsay và RASS đều có tương quan cao với BIS.
- Crio leite Mendes, 2008: Ramsay và RASS đều tương tự nhau khi đánh giá
mức độ an thần sâu, và cùng có tương quan cao với tỉ lệ tử vong ở bệnh nhân
phải dùng an thần liều cao.
- Marzieh Seidabady và cộng sự 2013: Những thay đổi thông số sinh lý trên
lâm sàng sau dùng thuốc an thần theo thang điểm Ramsay và RASS là giống
nhau.

Chương 2


18

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu.
2.1.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: khoa Hồi sức tích cực và khoa Cấp cứu Bệnh
viện Bạch Mai
- Thời gian nghiên cứu: từ tháng 2 năm 2018 đến tháng 8 năm 2018
2.1.2. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân.
+ Tuổi ≥ 18 năm
+ Đang thông khí nhân tạo xâm nhập
+ Có dùng thuốc an thần
2.1.3. Tiêu chuẩn loại bệnh nhân.
- Nhóm bệnh nhân có tổn thương nội sọ: xuất huyết não, nhồi máu não,
chấn thương sọ não, u não, viêm não, có điểm Glasgow ≤ 8 điểm hoặc không
tiên lượng được mức độ xấu đi của ý thức.

- Bệnh nhân bị bệnh thần kinh cơ: cơn nhược cơ, viêm đa rễ dây thần kinh.
- Co giật do các nguyên nhân khác nhau (ngộ độc thuốc, chất gây độc
cho người được sử dụng trong nông nghiệp và công nghiệp, cơn động kinh)
2.2. Phương pháp nghiên cứu.
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
- Tiến cứu mô tả lâm sàng có đối chứng.
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
- Áp dụng công thức tính cỡ mẫu khi so sánh hệ số tương quan giữa 2
biến định tính:

r0 = 0 (do chỉ quan sát 2 biến trên 1 nhóm nghiên cứu)


19

nên công thức còn lại là:

- Một số nghiên cứu trên thế giới cho biết mối tương quan giữa điểm số
thang Ramsay và Richmond trong khoảng từ 0,6 – 0,9
Với α = 0,05 và β = 0,2 thì C = 7,85
Và nếu hệ số tương quan thật sự là 0,6 thì cỡ mẫu ước tính là

Vậy cỡ mẫu tối thiểu dự tính cho nhóm nghiên cứu: n = 35
2.2.3. Phương tiện nghiên cứu.
- Thang điểm đánh giá mức độ an thần Richmond và Ramsay
- Máy thở: gồm một số loại máy thở như: Bennet 840, Esprit, Newport
- Máy ghi lại hoạt động chức năng não thông qua điện não đồ tại gường
bệnh để đánh giá độ sâu của gây mê (máy BIS)
- Thuốc: propofol (Diprivan), midazolam.
2.3 Tiến hành nghiên cứu.

Các bác sĩ, điều dưỡng tham gia điều trị và chăm sóc nhóm bệnh nhân
nghiên cứu được hưỡng dẫn thực hiện cách đánh giá mức độ an thần bệnh
nhân thông khí nhân tạo xâm nhập theo thang điểm Richmond và thang điểm
Ramsay.
- Bệnh nhân có đủ tiêu chuẩn chọn và không có tiêu chuẩn loại trừ được
đưa vào nghiên cứu.
- Trước khi sử dụng thuốc an thần và đánh giá mức độ an thần cần phải
khám kỹ bệnh nhân loại bỏ tất cả các nguyên nhân gây kích thích, thở chống


20

máy có thể khắc phục: tắc đờm, bí tiểu, táo bón, tràn khí màng phổi, cài đặt
thông số máy thở chưa hợp lý.
+ Phát hiện tình huống xuất hiện bệnh nhân thở chống máy: bệnh nhân
kích động hay các dấu hiệu thở chống máy. Báo động một hoặc nhiều thông
số cài đặt máy thở. Nhìn thấy sự không đồng bộ giữa máy và bệnh nhân.
+ Dấu hiện lâm sàng nhận biết bệnh nhân thở chống máy: Thở nhanh,
môi tím, cánh mũi phập phồng, toát mồ hôi, co kéo cơ hô hấp phụ, bụng và
ngực chuyển động nghịch chiều nhau, nhịp tim nhanh, có thể có loạn nhịp
tim, tụt huyết áp, giảm SpO2, tăng áp lực đường thở.
- Mắc các điện cực của máy BIS lên bệnh nhân nghiên cứu, khởi động
máy BIS để tiến hành ghi nhận kết quả thu được của điện não đồ bệnh nhân
- Đánh giá mức độ an thần của bệnh nhân bằng thang điểm Richmond và
thang điểm Ramsay.
Đánh giá mức độ an thần theo thang điểm Richmond (Bảng 1.1)
gồm 3 bước tuần tự:
1. Quan sát bệnh nhân:
+ Tỉnh táo, bình tĩnh: điểm 0.
+ Lo lắng hoặc bồn chồn: điểm từ + 1 đến + 4

2. Bệnh nhân không tỉnh, gọi tên bệnh nhân, bảo mở mắt
+ Mở mắt, biểu hiện giao tiếp, duy trì mở mắt được > 10 giây: điểm –1
+ Mở mắt, biểu hiện giao tiếp, duy trì mở mắt được < 10 giây: điểm –2
+ Chỉ có cử động cơ thể (trừ cử động của mắt): điểm – 3
3. Bệnh nhân không có bất cứ đáp ứng nào khi gọi hỏi thì gây kích day ấn
lên vùng xương ức, tay, hoặc lắc vai của bệnh nhân:
+ Có cử động cơ thể: điểm – 4
+ Không có cử động: điểm – 5
Cách đánh giá mức độ thức tỉnh theo thang Ramsay (Bảng 1.2) như sau:
- Quan sát người bệnh


21

+ lo lắng, buồn chồn, hoặc kích thích: điểm 1
+ Nằm yên (thở theo máy) hợp tác có định hướng: điểm 2,
+ Chỉ phản ứng khi được yêu cầu (theo lệnh): điểm 3
- Gây kích thích (gọi hỏi to, day ấn gây đau)
+ Phản ứng lại nhanh: điểm 4.
+ phản ứng chậm: điểm 5
+ không có bất cứ phản ứng: điểm 6
- Sử dụng thuốc an thần và điều chỉnh tăng giảm liều thuốc để bệnh nhân
thở theo máy với tuỳ tình trạng bệnh nhân có thể duy trì an thần vừa đủ hoặc
an thần sâu
+ an thần vừa đủ: điểm Richmond = 0 đến - 3 ; Ramsay 2 đến 4
+ an thần sâu: điểm Richmond – 4 đến – 5; điểm Ramsay 5 đến 6
+ Dấu hiệu nhận biết bệnh nhân thở theo máy: Bệnh nhân nằm yên, nhịp
thở đồng bộ với nhịp thở của máy, tần số thở thích hợp.
- Ghi lại kết quả điểm mức độ an thần bệnh nhân theo cả 2 thang điểm
Richmond và Ramsay tại thời điểm bệnh nhân thở theo máy, và lặp lại 3 giờ/

lần trong 24 giờ đầu.
- Ghi lại chỉ số BIS tại thời điểm đánh giá mức độ an thần theo 2 thang
điểm Richmond và Ramsay.
- Phỏng vấn và ghi lại các kết quả đánh giá mức độ an thần bệnh nhân
theo thang điểm Richmond của 2 nhân viên y tế ( 01 bác sĩ, 01 điều dưỡng)
trực tiếp tham gia điều trị và chăm sóc bệnh nhân nghiên cứu (các nhân viên y
tế được phỏng vấn sẽ không được biết điểm số của người khác và của nhà
nghiên cứu)
- Ngừng theo dõi đánh giá mức độ an thần bệnh nhân nghiên cứu khi
phải phối hợp thêm thuốc giãn cơ, bệnh nhân không còn duy trì thuốc an thần.
2.4. Thu thập số liệu, theo dõi và đánh giá kết quả nghiên cứu.


22

- Theo bệnh án nghiên cứu.
- Các xét nghiệm cần làm
+ Khí máu động mạch
+ Công thức máu, đông máu cơ bản
+ Sinh hoá máu: urê, creatinin, GOT, GPT, bilirubin, điện giải đồ.
- Các số liệu chung cần thu thập:
+ tuổi, giới tính, cân nặng, điểm APACHE II, điểm SOFA, chẩn đoán,
thời gian nằm viện, kết quả điều trị (ra viện, tử vong).
+ Thời gian thông khí nhân tạo xâm nhập
+ Thời gian nằm khoa hồi sức tích cực.
+ Mức độ an thần (an thần vừa đủ, an thần sâu)
+ Liều trung bình từng loại thuốc an thần: midazolam, propofol
a. Các số liệu nghiên cứu cần thu thập cho mục tiêu 1: So sánh giá trị
thang điểm Richmond và thang điểm Ramsay ở bệnh nhân thông khí nhân tạo
xâm nhập.

- Điểm mức độ an thần được đánh giá đồng thời theo cả 2 thang điểm
Richmond và Ramsay
Tại các thời điểm:
+ Trước khi sử dụng thuốc an thần.
+ Khi đang dùng thuốc an thần bệnh nhân thở theo máy (hoặc mức an
thần mục tiêu) cứ 3 giờ/ lần trong 24 giờ đầu an thần thở máy
- Chỉ số BIS tương ứng tại thời điểm đánh giá điểm mức độ an thần.
+ Trước khi dùng thuốc an thần
+ Khi bệnh nhân thở theo máy (hoặc mức an thần mục tiêu)
b. Các số liệu nghiên cứu cần thu thập cho mục tiêu 2: Độ tin cậy của
thang điểm Richmond trên bệnh nhân thông khí nhân tạo xâm nhập.


23

- Điểm mức độ an thần theo thang điểm Richmond được đánh giá độc
lập tại một số thời điểm trong theo dõi đánh giá mức độ an thần bệnh nhân
nghiên cứu của:
+ Nghiên cứu viên
+ 01 bác sĩ
+ 01 điều dưỡng
2.5. Xử trí số liệu.
Các số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê y học.
2.6. Đạo đức nghiên cứu.
Theo các quy định đạo đức trong nghiên cứu y sinh học ban hành kèm
theo Quyết định số 5129/2002/QĐ - BYT. Nghiên cứu cũng đã được hội đồng
khoa học và hội đồng đạo đức Bệnh viện Bạch Mai thông qua.
2.7. Sơ đồ tiến hành nghiên cứu



24

SƠ ĐỒ NGHIÊN CỨU
BN đủ êu chuẩn chọn và không có êu chuẩn loại trừ
Mục êu1

Mục êu2

Sử dụng thang điểm
Richmond, Ramsay để cho
điểm an thần, đồng thời ghi chỉ
số BIS

Tương quan điểm an
thần của Richmond,
Ramsay, BIS à
GiátrịRichmond

Điểm Richmond được đánh giá
độc lập bởi nghiên cứu viên và
nhân viên y tế khác

Ngừng nghiên cứu khi BN
ngừng an thần, hoặc dùng
thuốc giãn cơ

Sự phù hợp các điểm
an thần theo thang
điểm Richmond à
độ ncậyRichmond


Hình 2.1. Sơ đồ nghiên cứu


25

Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 2/2018 đến tháng 8/2018, tại khoa Cấp cứu và khoa Hồi sức
tích cực Bệnh viện Bạch Mai, chúng tôi đã lựa chọn được 36 bệnh nhân có đủ
tiêu chuẩn tham gia vào nhóm nghiên cứu. Kết quả thu được như sau:
3.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu.
3.1.1. Giới tính và nhóm tuổi.
3.1.1.1. Giới tính.

Biểu đồ 3.1: Phân bố theo giới tính
Nhận xét:
Số bệnh nhân nam nhiều hơn số bệnh nhân nữ (28 nam - 77,78 % và 8
nữ - 22,22 %)


×