Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

Đặc điểm khớp cắn và cung răng ở người việt độ tuổitừ 18 25 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 70 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Khớp cắn đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động chức năng của
con người, đây là một trong ba thành phần cấu tạo nên bộ máy nhai. Khớp cắn
là sự tiếp xúc của các răng ở cung răng hai hàm. Vì các răng tiếp xúc với nhau
trong các hoạt động chức năng nên cung răng đóng vai trò rất lớn trong hoạt
động của bộ máy nhai, bao gồm nhai, nói, nuốt... Vấn đề tiếp xúc giữa các
răng của hai cung hàm, hay nói khác đi là chức năng của cung hàm là chìa
khóa đảm bảo cho sự lành mạnh và thoải mái của hệ thống nhai [1]. Ngoài ra
cung răng còn góp phần tạo nên thẩm mỹ cho khuôn mặt của con người. Một
cung răng đẹp kết hợp hài hòa với các yếu tố phần mềm góp phần mang lại nụ
cười đẹp và tự tin của con người. Chính bởi tầm quan trọng của nó mà đã có
rất nhiều các nghiên cứu về cung răng cũng như đặc điểm khớp cắn, kích
thước cung răng hay tiêu chuẩn của một khớp căn lý tưởng là gì.
Cung răng, những nguyên lý cơ bản trong chuẩn đoán và điều trị chỉnh
nha, là một yếu tố quan trọng trong chỉnh nha [2]. Do vậy việc xác định
chính xác hình dạng cung răng của bệnh nhân là một thông số cốt yếu trong
đạt được một kết quả điều trị bền vững, phù hợp chức năng và tính thẩm
mỹ và thất bại trong việc bảo tồn hình dáng cung răng có thể làm tăng khả
năng tái phát [3]. Từ năm 1932 Chuck đã nghiên cứu đặc điểm hình thái và
phân loại cung răng thành 3 loại hình dạng khác nhau bao gồm cung răng
hình vuông, cung răng ovan và cung răng thuôn dài [4]. Đặc biệt việc xác
định được hình dạng cung răng trong pha đầu tiên của điều trị, Chuck đã
ủng hộ việc lựa chọn giữa 3 loại dây cung khác nhau sẽ tốt hơn việc chỉ sử
dụng một loại dây cung. Nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng tỷ lệ các loại cung
răng ở nam và nữ có sự khac nhau. Ở mỗi chủng tộc, dân tộc khác nhau
cũng có sự khác nhau về tỷ lệ, đặc điểm của mỗi dạng cung răng. Vì vậy


2



việc nghiên cứu đặc điểm khớp cắn có một vai trò rất quan trọng trong thực
hành chỉnh nha lâm sàng.
Hàm răng con người trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau bao
gồm giai đoạn hàm răng sữa, giai đoạn hàm răng hỗn hợp và giai đoạn hàm
răng vĩnh viễn. Mỗi giai đoạn ứng với một lứa tuổi khác nhau và mang những
đặc thù về hình thái và kích thước. Từ 18 tuổi trở đi gần như cung răng đã
phát triển hoàn toàn và ổn định về mặt kích thước cũng như đặc điểm hình
thái. Do vậy có thể coi lứa tuổi này là một lứa tuổi đặc trưng và đại diện cho
người trưởng thành. Đã có rất nhiều các nghiên cứu ở lứa tuổi này trên thế
giới để từ đó đưa ra được các chỉ số về hình thái và kích thước cung răng [1],
[5],[6],[7]… Ở Việt Nam cũng đã có nhiều tác giả làm về đề tài này, song
nhìn chung đó là những nghiên cứu nhỏ lẻ, cỡ mẫu chưa lớn, chưa thể mang
tính khái quát đặc trưng cho người Việt Nam. Chính vì thế việc có một bộ số
liệu đầy đủ và chính xác, phù hợp với đặc điểm của từng dân tộc là một yêu
cầu bức thiết được đặt ra.
Xuất phát từ những nhu cầu thực tiễn nhóm chúng tôi đã tiến hành
nghiên cứu trên quy mô lớn, là một phần trong đề tài nghiên cứu cấp nhà
nước về các chỉ số nhân trắc học ở người Việt, để có thể đưa ra được một bộ
số liệu chính xác, hoàn thiện và mang tính đặc trưng cao cho người Việt Nam.
Và chúng tôi chọn đề tài: “Đặc điểm khớp cắn và cung răng ở người Việt
độ tuổi từ 18-25 tuổi” nhằm mục tiêu là:
1.

Mô tả một số đặc điểm khớp cắn của người Việt từ 18 tới 25 tuổi năm
2016-2017 tại Hà Nội.

2.

Xác định các loại hình dạng cung răng và một số kích thước cung

răng của nhóm đối tượng nghiên cứu trên.


3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Khái niệm về khớp cắn
1.2.1. Tương quan các răng giữa hàm trên và hàm dưới
1.2.1.1. Đường cắn

Hàm trên

Hàm dưới

Hình 1.1. Đường cắn [8]
Hàm trên: Đường cắn là một đường cong liên tục đi qua hố trung tâm
của mỗi răng hàm và ngang qua gót răng nanh, răng cửa hàm trên.
Hàm dưới: Đường cắn là một đường cong liên tục qua núm ngoài và rìa
cắn của răng cửa hàm dưới.
Đường cắn khớp là một đường cong đối xứng, liên tục và đều đặn. Khi
hai hàm cắn khớp với nhau, đường cắn của hàm trên và hàm dưới chồng khít
lên nhau.
Khi hàm trên và hàm dưới cắn khớp, mỗi răng trên hai hàm sẽ khớp với
hai răng ở hàm đối diện. Ngoại trừ răng cửa giữa hàm dưới và răng hàm lớn
thứ ba hàm trên chỉ khớp với một răng ở hàm đối diện.
Mối tương quan một răng ăn khớp với hai răng giúp phân tán lực nhai
lên nhiều răng và duy trì sự cắn khớp giữa hai hàm.
1.2.1.2. Độ cắn chìa



4

Độ cắn chìa là khoảng cách giữa bờ cắn răng cửa trên và răng cửa dưới
theo chiều trước sau khi hai hàm cắn khớp.
1.2.1.3. Độ cắn chùm
Độ cắn chùm là khoảng cách giữa bờ cắn răng cửa trên và dưới theo
chiều đứng khi hai hàm cắn khớp.
1.2.2. Quan niệm khớp cắn bình thường của Andrew
Nghiên cứu của Lawrence F. Andrews [9] từ 1960-1964 dựa trên việc
quan sát 120 mẫu hàm có khớp cắn bình thường. Các mẫu hàm được lựa chọn
theo tiêu chuẩn:
- Chưa qua điều trị chỉnh nha.
- Các răng mọc đều đặn và thẩm mỹ.
- Khớp cắn có vẻ đúng.
- Có thể không cần đến điều trị chỉnh nha sau này.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tất cả các mẫu hàm này đều có chung sáu
đặc tính khớp cắn
*Đặc tính I: Tương quan ở vùng răng hàm
- Gờ bên xa của múi ngoài xa của răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm
trên tiếp xúc với gờ bên gần của múi ngoài gần của răng hàm lớn vĩnh viễn
thứ hai hàm dưới.
- Múi ngoài gần của răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm trên khớp với
rãnh ngoài gần của răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm dưới.
- Múi trong gần răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm trên khớp với
trũng giữa của răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm dưới.
* Đặc tính II: Độ nghiêng gần xa của thân răng
- Độ nghiêng gần xa của thân răng là góc tạo bởi đường thẳng vuông góc
với mặt phẳng nhai và trục thân răng. Góc độ (+) khi phần nướu của trục răng
ở về phía xa so với phần bờ cắn hay mặt nhai. Ngược lại là góc độ (-).



5

- Bình thường, các răng có góc độ (+) và độ nghiêng này thay đổi theo
từng răng.
* Đặc tính III: Độ nghiêng trong ngoài của thân răng
- Độ nghiêng trong ngoài của thân răng là góc tạo bởi đường thẳng
vuông góc với mặt phẳng nhai và đường tiếp tuyến với điểm giữa mặt ngoài
thân răng. Góc độ (+) khi phần phía nướu của đường tiếp tuyến (hay của thân
răng) ở về phía trong so với phần bờ cắn hay mặt nhai. Ngược lại là góc độ (-).
Độ nghiêng ngoài trong của thân răng cửa trên và dưới tương quan nhau
và ảnh hưởng đáng kể đến độ cắn phủ và khớp cắn của các răng sau. Các răng
sau hàm trên (từ răng nanh đến răng hàm lớn thứ hai) có phần bờ cắn hay mặt
nhai ở về phía trong so với phần nướu của thân răng. Ở hàm trên, góc độ (-)
không thay đổi từ răng nanh đến răng cối nhỏ thứ hai và tăng nhẹ ở răng hàm
lớn thứ nhất và thứ hai. Đối với răng hàm dưới, góc độ (-) tăng dần từ răng
nanh đến răng hàm lớn thứ hai.
* Đặc tính IV: Không có răng xoay
Không có răng xoay hiện diện trên cung răng. Vì nếu có, chúng sẽ chiếm
chỗ nhiều hoặc ít hơn răng bình thường.
* Đặc tính V: Không có khe hở giữa các răng
Các răng phải tiếp xúc chặt chẽ với nhau ở phìa gần và xa ở mỗi răng,
trừ các răng hàm lớn thứ ba chỉ tiếp xúc ở phía gần.
Khe hở trên cung răng thường do bất hài hòa kích thước răng-hàm.
* Đặc tính VI: Đường cong Spee phẳng hay cong ít
- Khớp cắn bình thường có đường cong Spee không sâu quá 1,5mm.
Đường cong Spee sâu quá sẽ gây thiếu chỗ cho răng hàm trên.
1.2.3. Phân loại lệch lạc khớp cắn
Vào thập niên 1900, Edward H. Angle (1855-1930) đã đưa ra phân loại

khớp cắn [10]. Đây là một cách phân loại đầu tiên và rất hữu dụng quan trọng


6

cho đến ngày nay. Ông dựa vào răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất (răng số 6) và
sự sắp xếp của các răng theo đường cắn để phân loại khớp cắn thành 4 loại.
+ Phân loại theo Angle: Có 4 nhóm
-

Khớp cắn bình thường (trung tính)

Hình 1.2. Khớp cắn trung tính [8]
Quan hệ trung tính giữa răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới và hàm trên:
Đỉnh núm ngoài gần răng hàm lớn thứ nhất trên khớp với rãnh giữa ngoài của
răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới. Các răng sắp xếp theo đường cắn.
- Sai khớp cắn loại I

Hình 1.3. Sai khớp cắn loại I [8]
Núm ngoài gần răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm trên khớp với rãnh
ngoài gần răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm dưới, nhưng đường cắn khớp
không đúng do các răng trước mọc sai chỗ, răng xoay hoặc do những nguyên
nhân khác.
- Sai khớp cắn loại II

Hình 1.4. Sai khớp cắn loại II [8]


7


Múi ngoài gần răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm trên tiến về phía gần
so với rãnh ngoài gần răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm dưới (một bên
hoặc 2 bên). Quan hệ với các răng khác là đường cắn không đúng.
Loại này có 2 tiểu loại:
Tiểu loại 1: Cung răng hàm trên hẹp, hình chữ V, nhô ra trước với răng
cửa trên nghiêng về phía môi (hô), độ cắn chìa tăng, môi dưới thường chạm
mặt trong răng cửa trên.
Tiểu loại 2: Các răng cửa giữa hàm trên nghiêng vào trong nhiều trong
khi các răng cửa bên hàm trên nghiêng ra phía ngoài khỏi răng cửa giữa, độ
cắn phủ tăng, cung răng hàm trên ở răng nanh thường rộng hơn bình thường.
-

Sai khớp cắn loại III

Hình 1.5. Sai khớp cắn loại III [8]
Múi ngoài gần răng hàm lớn thứ nhất hàm trên khớp về phía xa so với
rãnh ngoài gần răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới, cắn ngược vùng răng cửa
(một bên hoặc hai bên). Quan hệ với các răng khác là đường cắn không đúng.
Ưu nhược điểm của cách phân loại này:
Ưu điểm:
- Phân loại của Angle là một bước tiến quan trọng. Ông không chỉ phân
loại một cách có trật tự các loại khớp cắn sai mà ông còn là người đầu tiên
định nghĩa một khớp cắn bình thường và bằng cách này đã phân biệt được
một khớp cắn bình thường với sai khớp cắn.
Nhược điểm:


8

- Răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất mọc sai vị trí, thiếu hay đã nhổ thì

không phân loại được.
- Cách phân loại này chỉ quan tâm quan hệ răng theo chiều trước sau.
1.2. Hình dạng và kích thước cung răng
1.2.1. Hình dạng cung răng
Nhìn từ phía mặt nhai các răng được sắp xếp thành một cung (cung
răng). Vì cấu trúc hình cung được xem là sự sắp xếp tạo nên tính ổn định và
vững chắc.
Một bộ răng vĩnh viễn đầy đủ gồm 32 chiếc, chia đều cho 2 cung răng:
cung răng trên và cung răng dưới. Do răng hàm lớn thứ 3 thường có hoặc
không (không có mầm răng), khái niệm về bộ răng gồm 28 chiếc được sử
dụng trên lâm sàng.
Năm 1920, Williams [5] đã nêu lên sự đồng dạng giữa hình dạng của
răng cửa và hình dạng của cung răng. Nếu răng có hình dạng hình vuông sẽ
kèm theo mặt hình vuông và cung răng cũng có dạng hình vuông. Các tác giả
đã phân biệt ba dạng cung răng là hình vuông, hình ô van và hình tam giác.
Năm 1971, Brader [6] đưa ra một mẫu cung răng. Mẫu này dựa trên một
ê líp 3 tiêu điểm và đã làm thay đổi quan niệm về hình dạng cung răng.
Đường cong cung răng rất giống với đường cong của ê líp, các răng sắp xếp
chỉ một phần ở cực nhỏ của toàn bộ đường cong. Ông cho rằng cấu trúc của
cung răng có 4 đặc trưng chủ yếu:
- Hình dạng của cung răng.
- Kích thước của cung răng
- Sự đối xứng hai bên.
- Sự thay đổi của các cấu trúc xung quanh dẫn đến sự biến đổi hình thể
của cung răng.


9

Rickett đã tiến hành một loạt nghiên cứu về hình dạng cung răng và đã

đưa ra kết luận:
- Hình dạng cung răng hàm trên đồng dạng với hình dạng cung răng hàm dưới.
- Cung răng hàm trên ở phía trước hơn so với cung răng hàm dưới.
- Có 5 dạng cung răng: Dạng hình thuôn dài, dạng hình thuôn dài hẹp,
dạng hình trứng, dạng hình trứng hẹp, dạng hình vuông.
Nhưng trên thực tế, hiện nay sự phân loại hình dạng cung răng chủ yếu
được sử dụng trong chẩn đoán và điều trị chỉnh hình răng mặt là phương pháp
phân loại của Chuck và Williams [3] là: Dạng hình vuông, dạng hình tam giác
(hình thuôn dài), hình ô van (hình trứng).
1.2.2. Kích thước cung răng
Các tác giả Cretot (1938), Granat (1974), Izard (1943): Đưa ra phương
pháp đo đạc kích thước cung răng và cung xương ổ răng theo chiều ngang và
chiều trước – sau. Phương pháp đo đạc được đưa ra phụ thuộc chủ yếu vào
mục tiêu nghiên cứu, mục đích điều trị [20] .
Năm 1979, Engle [11] đã tiến hành đo hàng loạt mẫu để xác định các yếu
tố của hình dạng và kích thước cung răng. Ông cùng với Lestrel đã rút ra 4
kích thước chủ yếu của cung răng là:
-

Chiều dài trước (chiều dài vùng răng nanh): là khoảng cách từ điểm giữa hai
răng cửa giữa tới đường nối đỉnh của hai răng nanh.

-

Chiều rộng trước (chiều rộng vùng răng nanh): là khoảng cách giữa hai đỉnh
của hai răng nanh.

-

Chiều dài sau (chiều dài vùng răng hàm): là khoảng cách từ điểm giữa hai

răng cửa giữa tới đường nối hai đỉnh của hai núm ngoài gần của răng hàm lớn
thứ nhất.

-

Chiều rộng sau (chiều rộng vùng răng hàm): là khoảng cách giữa hai đỉnh của
hai núm ngoài gần của răng hàm lớn thứ nhất.


10

Cũng theo Engle kích thước của cung răng có sự khác biệt theo giới tính
và các dạng cung răng hình vuông, hình ô van, hình tam giác.
+ Kích thước cung răng ở nam lớn hơn nữ.
+ Chiều rộng cung răng ở vùng răng nanh và vùng răng hàm ở cung răng
hình vuông là lớn nhất, rồi đến dạng cung răng hình ô van, hẹp nhất là cung
răng dạng hình tam giác.
+ Ngược lại chiều dài cung răng ở dạng cung răng hình tam giác là lớn
nhất, rồi đến cung răng dạng ô van, ngắn nhất là cung răng dạng hình vuông.
Năm 1991, Huang S. T., Miura F., Soma K [12] đã nghiên cứu trên mẫu
hàm của người Trung Quốc và đã rút ra rằng kích thước cung răng ở nam lớn
hơn nữ, và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Năm 1992, Hoàng Tử Hùng và Huỳnh Thị Kim Khang [12] nghiên cứu
kích thước chiều dài và chiều rộng cung răng hàm trên ở người Việt trưởng
thành. Kết quả cho thấy cung răng hàm trên người Việt trưởng thành có dạng
ê líp, kích thước cung răng ở nam lớn hơn ở nữ.
Năm 1993, Raberin M., Laumon B., Martin J. L. [23] khoa chỉnh nha
của trường nha Lyon ở Pháp đã nghiên cứu phân tích trên 278 mẫu thạch cao
của người Pháp trưởng thành chưa được can thiệp chỉnh nha. Các tác giả đã
rút ra kết luận rằng không có sự khác biệt về tỷ lệ các dạng cung răng ở nam

cũng như ở nữ và cung răng ở nam lớn hơn cung răng ở nữ cả về chiều rộng
và chiều dài.
Năm 1999, Phạm Thị Hương Loan và Hoàng Tử Hùng [14] nghiên cứu
so sánh đặc điểm cung răng người Việt với người Ấn Độ và Trung Quốc đưa
ra nhận xét: Cung răng người Việt rộng hơn đáng kể so với cung răng người
Ấn Độ, nhưng lại gần với kích thước cung răng người Trung Quốc.


11

Năm 2001, Lê Đức Lánh [15] đã tiến hành nghiên cứu trên 140 cặp mẫu
hàm độ tuổi từ 12 đến 15 tuổi đã rút ra kết luận kích thước cung răng tăng nhẹ
trong giai đoạn từ 12 đến 15 tuổi.
Năm 2005, theo nghiên cứu của Tancan Uysal, Zafer Sari [24] trên 150
mẫu thạch cao của những người có khớp cắn bình thường (tuổi trung bình
21,6 ± 2 tuổi). Chiều rộng tại vị trí răng nanh hàm trên là 34,4 ± 2,1 mm và
hàm dưới là 33,4 ± 0,13 mm; chiều rộng tại vị trí răng hàm lớn thứ nhất hàm
trên là 50,7 ± 3,7mm và hàm dưới là 45,7 ± 2,8mm ở nữ.
Theo nghiên cứu của Al-Khatib AR, Rajion ZA, Masudi SM và cộng sự
(2011) [25] khi nghiên cứu trên 252 mẫu hàm của người Malay có độ tuổi từ
13-30 cũng đã kết luận kích thước ngang cung hàm ở nam lớn hơn nữ.
Năm 2012, theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Phương, Võ Trương
Như Ngọc, Đồng Mai Hương (2012) [26] khi nghiên cứu ở nhóm sinh viên
đại học Y Hải Phòng đã kết luận Kích thước trung bình của cung răng trên ở
các dạng cung răng khác nhau là rất khác nhau, chiều rộng cung răng phía
trước (R33) và phía sau (R66) lớn nhất ở dạng cung răng hình vuông, nhỏ
nhất ở dạng cung răng hình tam giác. Với chiều dài thì ngược lại, chiều dài
phía trước cung răng (D13) của dạng cung răng hình tam giác là lớn nhất còn
dạng cung răng hình vuông là ngắn nhất
Năm 2013, theo nghiên cứu của Lê Hồ Phương Trang, Trần Ngọc Khánh

Vân, Lê Võ Yến Nhi [27] trên 117 mẫu hàm thạch cao cũng kết luận kích
thước ngang cung hàm ở nam lớn hơn ở nữ.
Theo nghiên cứu của Rui Shu và cộng sự năm 2013 [28] khi so sánh
chiều rộng cung răng giữa nhóm CI và nhóm CII tiểu loại 1: mặc dù đã có
một xu hướng cho nhóm Class II có một cung răng hàm trên hẹp, song sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê ở nhóm răng hàm lớn, nhóm răng hàm
nhỏ, cả hàm trên và hàm dưới giữa hai nhóm.


12

Theo nghiên cứu của nhóm tác giả Dolly Patel, Falguni Mehta, Nimesh
Patel, Nishit Mehta, Ipist Trivedi, Apexa Mehta (2015) [29] trên dân chúng
Ấn Độ cho kết quả sau. Khi so sánh độ rộng cung hàm ở hàm trên cả hai giới,
nhóm CIII và nhóm CI cho thấy độ rộng liên 2 răng nanh hàm trên lớn hơn
đáng kể so với nhóm CIId1 và độ rộng liên 2 răng hàm nhỏ hàm trên lớn hơn
nhóm CIId2 và CIId1. Đối với hàm dưới nhóm CIII cho thấy độ rông liên
răng nanh, liên răng hàm nhỏ lớn hơn đáng kể so với nhóm CI, CIId2, và
nhóm CIId1.
1.3. Một số đặc điểm phát triển hình thái cung răng.
Những thay đổi theo tuổi của cung răng được nghiên cứu rộng rãi, vì
những hiểu biết về sự tăng trưởng của cung răng rõ ràng có vai trò quan trọng
trong trong lập kế hoạch điều trị chỉnh nha và tạo hình. Trong những nghiên
cứu đầu tiên các tác giả chủ yếu quan sát tương quan giữa các điểm mốc trên
miệng và đánh giá những thay đổi của vị trí của các điểm mốc đó (Lewis, 1929
[5]). Tiếp theo, cung răng được đo đạc và đánh giá những thay đổi trên mẫu
hàm thông qua qui trình lấy dấu, đổ mẫu. Theo dõi những thay đổi về chiều
dài, chiều rộng và chu vi cung răng giúp đánh giá được sự tăng trưởng và phát
triển của cung răng trong quá trình phát triển của hệ thống sọ - mặt - răng. Từ
khi sinh ra cho tới khi trưởng thành, bộ răng người trải qua bốn giai đoạn hình

thành, phát triển và biến đổi như sau:
- Giai đoạn 1, giai đoạn thành lập bộ răng sữa: Từ khi sinh ra cho đến
khi mọc đầy đủ các răng sữa, thường diễn ra từ lúc sinh đến 2,5 tuổi.
- Giai đoạn 2, giai đoạn cung răng sữa ổn định: Từ khi mọc đầy đủ hàm
răng sữa đến khi mọc RHL vĩnh viễn thứ nhất, thường từ 2,5 tuổi đến 6 tuổi.
- Giai đoạn 3, giai đoạn bộ răng hỗn hợp: từ khi mọc RHL vĩnh viễn
thứ nhất đến khi thay chiếc răng sữa cuối cùng, thường từ 6 tuổi đến 12 tuổi.


13

Giai đoạn này có thể chia ra chia ra làm hai giai đoạn: 6 – 10 tuổi là
giai đoạn hàm răng hỗn hợp sớm; 10 – 12 tuổi là giai đoạn hàm răng hỗn hợp
muộn dựa theo sự mọc của nhóm răng cửa và nhóm răng sau. Trong giai đoạn
này, một yếu tố rất đáng được lưu tâm là tổng kích thước theo chiều gần xa
của các răng nanh sữa, RHS thứ nhất, RHS thứ hai lớn hơn tổng kích thước
gần xa của răng nanh vĩnh viễn, RHN thứ nhất, thứ hai khoảng 1,7 mm ở HD,
0,9 mm ở HT mỗi bên. Khoảng chênh lệch này được Nance gọi là khoảng
“leeway” [7],[8]. Khi răng sữa phía sau được thay thế bởi các răng nanh và
RHN, khoảng leeway được khép lại. Sự khép lại của khoảng leeway phụ
thuộc vào khớp cắn RHL thứ nhất và thứ tự mọc răng HT và HD. Thay đổi
thứ tự mọc răng bình thường có thể làm cản trở các răng mọc đúng vị trí.
- Giai đoạn 4, giai đoạn bộ răng vĩnh viễn: từ khi mọc răng hàm lớn
vĩnh viễn thứ hai và sau đó, thường diễn ra sau 12 tuổi.
Năm 1929, Lewis [5] đã nghiên cứu về những thay đổi tăng trưởng của
răng và cung răng, và những thay đổi khớp cắn ở bộ răng sữa sang răng hỗn
hợp với mẫu gồm 170 trẻ từ 1,5 đến 9,5 tuổi. Ngoài những phát hiện về khớp
cắn, Lewis quan tâm đến sự thay đổi kích thước, chiều rộng cung răng (vùng
răng nanh và vùng răng hàm sữa 1 (RHS1) và răng hàm sữa 2 (RHS2)).
Kết quả nghiên cứu được trình bày với số trung bình, độ lệch chuẩn và

số đối tượng chung cho nam và nữ từ 2,5 đến 8 tuổi. Tác giả kết luận khớp
cắn chịu ảnh hưởng của những thay đổi do tăng trưởng, cung răng sữa rộng ra
để phù hợp với kích thước lớn hơn của các răng cửa vĩnh viễn.
Sillman (1935) [6] thực hiện nghiên cứu dọc về sự thay đổi kích thước
cung răng từ lúc mới sinh đến 25 tuổi trên 113 trẻ em sinh ở bệnh viện
Bellevue tại NewYork, 750 mẫu thạch cao được sử dụng cho nghiên cứu này.
Đến năm 1964 ông công bố kết quả và nhận xét:
- Về chiều rộng cung răng hàm trên và dưới vùng răng nanh tăng nhanh
lúc mới sinh đến 2 tuổi, khoảng 5 mm/năm ở hàm trên và 3,5 mm/năm ở hàm


14

dưới, tiếp tục tăng đến 13 tuổi ở hàm trên, 12 tuổi ở hàm dưới. Sau đó không
có sự tăng trưởng đáng kể từ 16 tuổi đến 25 tuổi.
- Chiều rộng vùng răng hàm lớn thứ nhất có sự giảm kích thước cả hai
hàm từ 16 tuổi, nhưng đặc biệt chiều rộng và chiều dài toàn bộ chỉ gia tăng và
ổn định mà không giảm là do sự phát triển sau sinh xảy ra ở phía sau của
cung hàm.
- Về chiều dài của cung răng như sau: Chiều dài cung răng hàm trên và
dưới vùng răng nanh có sự gia tang nhanh từ khi mới sinh đến 2 tuổi khoảng
2mm mỗi năm. Từ 3 tới 6 tuổi thay đổi ít. Tới 9 tuổi sự thay đổi không có ý
nghĩa. Hàm trên ổn định vào khoảng 9 tuổi, hàm dưới ổn định sau 10 tuổi.
Sau tuổi dậy thì, kích thước này tăng khoảng 0,4 mm/năm ở hàm trên và 0,3
mm/ năm ở hàm dưới và đến tuổi 20-22 thì không tăng.
Barrow (1952) [3] với mẫu nghiên cứu gồm 528 bộ mẫu hàm của 51 trẻ
em trường tiểu học Michigan và trường trung học Ann Ambor. Đối tượng
nghiên cứu được khám và lấy dấu mỗi năm một lần. Mục tiêu của nghiên cứu
này ngoài việc nghiên cứu khớp cắn, kẽ hở giữa các răng của bộ răng sữa và
bộ răng hỗn hợp còn đánh giá về sự thay đổi kích thước cung răng theo chiều

rộng và chiều dài của bộ răng vĩnh viễn.
* Về chiều rộng cung răng ông đưa ra kết luận:
- Chiều rộng cung răng ở vị trí đỉnh múi giữa hai răng nanh trên cung
hàm ít thay đổi từ 3 tới 5 tuổi,tăng nhanh từ 5 tới 8 tuổi và giảm dần từ 0,5 tới
1,5mm sau 14 tuổi.
- Chiều rộng cung răng ở vị trí đỉnh múi ngoài gần giữa hai răng hàm
lớn thứ nhất có mức độ tăng nhanh từ 7 đến 11 tuổi (tăng 1,8 mm ở hàm trên;
1,2 mm ở hàm dưới). Từ 11 đến 15 tuổi có sự giảm chiều rộng cung răng (0,4
mm ở hàm trên; 0,9 mm ở hàm dưới).
Theo ông, sở dĩ có sự giảm chiều rộng cung răng vùng răng hàm lớn thứ
nhất sau 11 tuổi là do sự di gần của răng hàm lớn thứ nhất và hướng hội tụ
của hàm dưới nhiều hơn. Chiều rộng cung răng hàm dưới giảm nhiều hơn


15

hàm trên có thể do sự di gần răng 6 và hướng hội tụ của hàm dưới nhiều hơn.
Từ 15 tới 17 tuổi còn khoảng 50% trường hợp có sự giảm tiếp tục chiều rộng
cung răng vùng răng cối.
* Về chiều dài cung răng là khoảng cách từ điểm giữa của hai răng cửa
giữa vuông góc với đường nối đỉnh múi ngoài gần răng 6. Ông đưa ra một số
kết luận:
- Từ 6 tới 12 tuổi: Chiều dài cung răng hàm trên tăng 1,0mm. Nhưng
chiều dài cung răng dưới giảm 1,12 mm.
- Tù 12 đến 13,5 tuổi: Chiều dài cung răng trên tăng nhẹ khoảng 0,2mm
sau đó chiều dài giảm đến 17-18 tuổi.
Ông cho rằng có 3 nguyên nhân chính làm giảm chiều dài cung răng:
Việc đóng kín các khe hở tiếp cận của các răng sau, khuynh hướng nghiêng
sau của các răng, đặc biệt ở hàm trên; và sự mòn sinh lý theo tuổi ở mặt nhai
của tất cả các răng.

Từ năm 1959, Morrees và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu dọc trên trẻ
em từ 3 đến 18 tuổi ở Mỹ [9]; đây là một công trình nghiên cứu có qui mô
lớn. Từ nghiên cứu này, tác giả đã cho ra đời một cuốn sách dày 245 trang
gồm các phần chính sau đây: Kích thước chiều rộng, chiều dài của cung răng,
đánh giá mức thay đổi tăng trưởng của cung răng và nêu lên một số ứng dụng
lâm sàng, tiên lượng và lập kế hoạch điều trị.
- Về chiều rộng cung răng (mốc đo nằm trên đỉnh răng nanh, đỉnh núm
gần ngoài răng cối lớn thứ nhất): Các kích thước này gia tăng từ 3 đến 18
tuổi, đỉnh cao tăng trưởng vào giai đoạn đầu dậy thì, đến 17-18 tuổi có sự
giảm nhẹ rồi đi đến ổn định ở người trưởng thành. Ở hàm trên, chiều rộng
vùng răng nanh của nam lúc 3 tuổi là 28,6 mm, đến 18 tuổi là 33,7 mm; của
nữ lúc 3 tuổi là 27,7mm, lúc 18 tuổi là 32,0 mm. Chiều rộng vùng răng hàm
lớn I của nam lúc 6 tuổi là 36,7 mm, lúc 18 tuổi là 41,7mm. Ở hàm dưới của
nam, chiều rộng vùng răng nanh lúc 3 tuổi là 22,2 mm, lúc 18 tuổi là 25,6


16

mm; vùng răng hàm lớn I lúc 6 tuổi là 33,06 mm, lúc 18 tuổi là 35,4 mm.
Như vậy có sự gia tăng kích thước chiều rộng cung răng cho đến 17-18 tuổi.
Hàm trên của nữ cũng có sự gia tăng về kích thước tương tự như trên.
Đặc biệt có sự liên quan giữa gia tăng về kích thước với sự mọc răng vĩnh
viễn ở lứa tuổi trước và trong giai đoạn đầu dậy thì.
- Về chiều dài (chiều trước sau) cung răng (mốc đo từ điểm giữa hai
răng cửa giữa đến đường nối các mốc đo ở răng nanh, răng hàm lớn I): Chiều
dài cung răng hàm trên và hàm dưới chủ yếu giảm vào hai đợt, đợt 1 từ 4 đến
6 tuổi, đợt 2 từ 10 đến 14 tuổi.
Năm 1996, Bishara [4] thực hiên nghiên cứu trên nhóm đối tượng thuộc
đại học Iowa để đánh giá những thay đổi của chiều dài cung răng từ tuần 6
đến 45 tuổi. một nghiên cứu gồm 2 nhóm, nhóm thứ nhất gồm 15 nữ và 15

nam đã được lấy dấu vào lúc 3 tuổi, 8 tuổi, 13 tuổi, 25 tuổi, 45 tuổi; nhóm thứ
2 gồm 33 nam và 28 nữ sơ sinh được lấy dấu lúc 6 tuần tuổi, 1 tuổi và 2 tuổi.
Tác giả kết luận mức độ tăng chiều dài cung hàm trên và dưới mạnh nhất vào
hai năm đầu tiên, chiều dài cung răng tiếp tục tang cho đến khoảng 8 dến 13
tuổi, sau đó giảm dần và tương đối ổn định sau tuổi dậy thì.
Carter [10] nghiên cứu dọc về sự thay đổi về sự thay đổi chiều dài và
chiều rộng cung răng ở người trưởng thành. Trong nhóm chuẩn (không điều
trị chỉnh hình) gồm 27 nam và 26 nữ lứa tuổi 14, 16 và 47 ở Michigan. Nhóm
14 tuổi gồm có 22 nữ, 24 nam; Nhóm 16 tuổi và nhóm 47 tuổi có cùng số đối
tượng, gồm có 26 nữ, 27 nam cho mỗi nhóm. Những đối tượng này đều chưa
được can thiệp về điều trị chỉnh hình. Mục tiêu của nghiên cứu là xác định
tính ổn định của kích thước cung răng ở bệnh nhân có điều trị chỉnh hình, ông
đã kết luận việc chỉnh nha phải được điều trị duy trì sau tuổi thanh niên (18
tuổi) vì sau thời gian này kích thước cung răng ổn định trong suốt thời gian


17

trưởng thành (kết luận này rút ra từ so sánh kết quả với nghiên cứu trên mẫu
không chỉnh hình). Sự bất thường của răng và cung răng xảy ra ở hàm dưới
nhiều hơn hàm trên, có sự thay đổi kích thước sau tuổi trưởng thành của hàm
dưới nhiều hơn hàm trên, khác nhau giữa nam và nữ. Ông đã thống kê những
nhận xét của các bác sỹ chỉnh hình răng mặt: Đa số bệnh nhân than phiền các
răng không đều ở hàm dưới nhiều hơn hàm trên, nhưng tác giả không nêu
nguyên nhân gây ra tình trạng đó mà chỉ giải thích là bất kỳ sự giảm kích
thước nào của hàm cũng nhỏ hơn 3 mm, và đó là một trong những nguyên
nhân làm gia tăng tình trạng không đều của cung răng. Qua phân tích so sánh
bằng t-test và Anova, ông đã kết luận kích thước chiều rộng, chiều dài và chu
vi cung răng đều giảm ít hơn 3 mm từ 14 đến 47 tuổi. Giai đoạn từ 18 đến 50
tuổi các kích thước cung răng giảm nhiều hơn và giảm có ý nghĩa thống kê so

với giai đoạn từ 14 đến 18 tuổi. Tác giả đưa ra lý do giảm kích thước cung
răng là do răng xoay, răng di gần và mòn răng.
Như vậy, nhiều nghiên cứu dọc và cắt ngang của các tác giả Carter,
Sillman, Moorrees, Barrow, Bishara… đều có nhận xét:
- Kích thước chiều rộng cung răng đo trên mốc răng nanh, răng hàm
nhỏ thứ hai, răng hàm lớn thứ nhất có sự tăng trưởng nhiều trước tuổi dậy thì;
tăng trưởng chậm ở tuổi dậy thì và ổn định ở 16 - 18 tuổi đối với nữ, 18 - 20
tuổi đối với nam.
Kích thước chiều dài cung răng theo chiều trước sau được đo theo mốc
các răng trên cho thấy có sự giảm dần từ khi xuất hiện răng vĩnh viễn trên cung
hàm và ổn định ở tuổi 17 đến 18 đối với nữ và 19 đến 20 đối với nam. Giảm
chiều dài cung răng chủ yếu là do răng có xu hướng di gần, xoay răng, răng bị
mòn… Hàm trên giảm khoảng 1,3 mm và hàm dưới khoảng 1,6 mm.
1.4. Các phương pháp đo đạc và phân tích cung răng và khớp cắn


18

Đánh giá răng, cung răng là một công việc cần thiết trong thực hành lâm
sàng và nghiên cứu. Đánh giá những thay đổi về cung răng và khớp cắn để
phân tích những bất thường của bộ răng. Việc đánh giá không chỉ dựa vào
quan sát cảm quan mà phải dựa vào đo đạc và phân tích trên cơ sở khoa học:
trên phim, mẫu hàm hoặc trực tiếp trên miệng.
Việc đo đạc phân tích trực tiếp trên miệng cho ta biết chính xác hơn kích
thước thật của răng, cung răng, tình trạng khớp cắn tuy nhiên có hạn chế là
việc xác định các điểm mốc trên miệng đôi lúc gặp nhiều khó khăn đặc biệt là
với những răng xoay hay răng ở phía sau, thời gian làm việc không cho phép
kéo dài, không lưu trữ được mẫu cho lần sau. Chính vì vậy, phương pháp này
thường dùng kết hợp với các phương pháp khác để phân tích đánh giá về
răng, cung răng, khớp cắn chứ không thể dùng riêng rẽ.

Việc đo đạc trên ảnh chụp và phim X-quang mặc dù nhanh chóng, hiện
đại nhưng có nhiều sai số phụ thuộc vào tỷ lệ giữa phim và kích thước thật, bị
hạn chế về tính phổ biến của kỹ thuật và phụ thuộc nhiều vào thiết bị.
Mẫu hàm thạch cao được xem là một công cụ quan trọng trong điều trị
chỉnh nha cũng như trong nghiên cứu; chúng giúp cho việc phân tích kích
thước và hình dạng răng, mức độ thẳng hàng và xoay của răng, chiều rộng,
chiều dài, hình dạng và mức độ đối xứng của cung răng cũng như quan hệ
khớp. Có các loại phương tiện chủ yếu sau để nghiên cứu trên mẫu hàm:
1.4.1. Đo trên mẫu hàm số hóa
Từ năm 1970, đã có nhiều phát triển về mặt kỹ thuật trong việc phân tích
mẫu hàm như việc áp dụng các kỹ thuật tái tạo hình ảnh bằng vi tính và thu
thập trực tiếp dữ liệu hai chiều. Van Der Linden (1972), một bác sĩ chỉnh hình
răng mặt thuộc Đại học Nymegen - Hà Lan, đã xây dựng một phương pháp
cho phép thu thập các dữ liệu trong không gian ba chiều và khảo sát mẫu hàm
trên và dưới như một khối thống nhất [30].


19

Vào khoảng đầu những năm 2000 phần mềm OrthoCad ra đời. Phần
mềm này có thể thu và trình bày mẫu hàm nghiên cứu trên máy tính dưới
dạng ảnh không gian ba chiều. Về mặt lâm sàng, mẫu hàm kỹ thuật số là một
giải pháp hấp dẫn vì thuận lợi trong việc lưu trữ, do vậy giúp cho bác sỹ chỉnh
nha cả ở góc độ quản lý hồ sơ lẫn góc độ tiếp thị dịch vụ. Độ chính xác của
mẫu hàmkỹ thuật số là chấp nhận được về mặt lâm sàng và nếu tính tới các ưu
điểm cũng như khả năng cải tiến của công cụ OrthoCad cũng như các công cụ
tương tự trong tương lai (ví dụ như khả năng tự động xác định điểm đo, tự
động xác định các kích thước hay đánh giá hiệu quả điều trị) thì mẫu
hàmkỹthuật số có thể trở thành công cụ sử dụng hàng ngày.
1.4.2. Đo bằng máy chụp cắt lớp điện toán

Yan B. et al. [31] đã sử dụng máy chụp cắt lớp điện toán (CT scanner) số
hóa 20 mẫu răng thành ảnh ba chiều và dùng phần mềm máy tính đo các tọa
độ của mẫu răng để kiểm tra độ tin cậy của hệ thống và so sánh với việc đo
thủ công.
Mặc dù kết quả cho thấy hệ thống có thể sử dụng trong việc chẩn đoán
lâm sàng và điều trị sai khớp cắn nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa
giữa kết quả đo bằng máy chụp cắt lớp điện toán ba chiều và kết quả đo tay (p
> 0.05). Tương tự vậy, Ramzi Razdi et al. cũng sử dụng máy chụp cắt lớp
điện toán để số hóa 34 mẫu răng và sử dụng phần mềm máy tính i -CAT để đo
trên mẫu số hóa; việc so sánh kết quả đo được với kết quả đo thủ công dùng
thước kỹ thuật số một lần nữa cho thấy không có sự khác nhau đáng kể giữa
hai phương pháp (p > 0,05).
Những nghiên cứu trên cho thấy không thực sự cần thiết sử dụng máy
chụp cắt lớp điện toán nếu so sánh giữa chi phí cần có và lợi ích mang lại.
1.4.3. Đo bằng thước trượt trên mẫu hàm thạch cao
Thước trượt thông thường có độ chính xác tới 1/10mm được sử dụng
trong nhiều nghiên cứu về kích thước răng và cung răng. Trần Thúy Hồng


20

(2003) [32] kết luận không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa việc đo
đạc các kích thước theo chiều gần xa của các răng hàm sữa thứ nhất và thứ
hai, răng nanh sữa, răng cửa giữa, răng cửa bên ở cả hai hàm bằng phương
pháp vi tính so với phương pháp cổ điển (đo trực tiếp trên mẫu hàm thạch cao
bằng thước trượt thông thường) là phương pháp thông dụng, chính xác, tin
cậy và có thể lặp lại được.
Thước trượt điện tử có tính năng tương tự như thước trượt thông
thường nhưng độ chính xác cao hơn, tới cỡ 1/100mm. Về mặt sử dụng, thước
trượt điện tử cũng dễ sử dụng hơn do có màn hình hiển thị số, rất thuận tiện

cho người đo. Thước trượt điện tử được sử dụng trong hầu hết các nghiên cứu
gần đây về đo kích thước răng, cung răng...
Nhiều tác giả đã nghiên cứu so sánh giữa việc phân tích và sử dụng các
phép đo trên mẫu hàm thường với thước trượt điện tử và sử dụng hàm số hoá
với ảnh không gian 3 chiều đã rút ra kết luận sau :
- Việc đo bằng thước trượt điện tử trên mẫu hàm thạch cao cho kết quả
chính xác nhất và có thể lặp lại.
- Việc dùng phần mềm số hoá để đo đạc cho kết quả có thể lặp lại, độ
chính xác cao nhưng thấp hơn so với đo trên mẫu hàm với thước trượt điện tử.
- Thước trượt điện tử là phương tiện phù hợp với công việc nghiên cứu.
Tuy nhiên, độ chính xác của phân tích bằng số hoá được lâm sàng chấp
nhận và có ưu điểm trong hiện tại và tương lai. Mẫu hàm số hoá có thể dần
dần được tiêu chuẩn hoá ứng dụng trong chỉnh nha nhờ đặc tính lưu trữ tốt và
tiết kiệm thời gian của nó.
Tóm lại: Mặc dù có nhiều cách đánh giá cung răng và khớp cắn nhưng
phương pháp sử dụng thước trượt điện tử trên mẫu hàm thạch cao vẫn là
phương pháp hiệu quả thích hợp cho việc thực hiện các nghiên cứu đánh giá
sự thay đổi của răng, cung răng với độ chính xác cao.


21

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu


Tiêu chuẩn chọn: Có đầy đủ các tiêu chí sau
+ Tuổi: từ 18 tuổi đến 25 tuổi.
+ Có bố mẹ, ông bà là người Việt Nam và thuộc dân tộc Kinh.

+ Có đủ 28 răng vĩnh viễn (không kể răng hàm lớn thứ ba).
+ Không có các phục hình, tổn thương tổ chức cứng làm thay đổi chiều
gần xa của thân răng. Nếu các phục hình như miếng trám hoặc inlay chỉ ở trên
mặt nhai hoặc cổ răng thì vẫn được chấp nhận.
+ Chưa điều trị nắn chỉnh răng và các phẫu thuật tạo hình khác.
+ Không có dị dạng hàm mặt, không có tiền sử chấn thương hay phẫu
thuật vùng hàm mặt.
+ Tự nguyện hợp tác tham gia nghiên cứu.
+ Những trường hợp có khớp cắn 2 bên không đồng nhất nhau ( Ví dụ
khớp cắn loại I bên phải và khớp cắn loại II bên trái…) sẽ chỉ được lựa chọn
để nghiên cứu trong mục tiêu 1, và sẽ bị loại trừ khi nghiên cứu mục tiêu 2.



Tiêu chuẩn loại trừ: Khi có một trong các tiêu chí sau
+ Có bố hoặc mẹ là người nước ngoài.
+ Mất răng hàm lớn thứ nhất, răng hàm lớn thứ hai (một bên hoặc hai bên).
+ Có phục hình, hoặc tổn thương tổ chức cứng làm thay đổi chiều gần xa
của răng. Các miếng trám hoặc là các inlay, onlay co liên quan đến mặt gần
hay xa đều loại bỏ.
+ Bị dị dạng hàm mặt.
+ Đã điều trị nắn chỉnh răng, hoặc phẫu thuật vùng hàm mặt.
+ Không hợp tác nghiên cứu.


22

2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
2.2.1. Thời gian
Nghiên cứu sẽ được tiến hành vào khoảng thời gian từ tháng 10/2016

đến tháng 11/2017.
2.2.2. Địa điểm
Nghiên cứu được tiến hành tại Hà Nội nơi có số lượng người Kinh sinh
sống đông, dễ dàng cho việc lựa chọn đối tượng nghiên cứu của chúng tôi.
Việc lấy số liệu phục vụ nghiên cứu sẽ diễn ra tại trung tâm kỹ thuật cao, Viện
Đào Tạo Răng Hàm Mặt.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng nghiên cứu cắt ngang mô tả.
2.3.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
Chúng tôi áp dụng công thức tính cỡ mẫu ước tính 1 chỉ số trung bình
cho nghiên cứu điều tra cắt ngang như sau:

Trong đó:
n: Cỡ mẫu nghiên cứu tối thiểu.
(1) Sai sót loại I (α): Chọn α = 0,05, tương ứng có ít hơn 5% cơ hội rút ra
một kết luận dương tính giả.
(2) Sai sót loại II (β) hoặc lực mẫu (power là 1- β): Chọn β = 0,1 (hoặc
lực mẫu=0,9), tương ứng có 90% cơ hội tránh được một kết luận âm tính giả.
σ: độ lệch chuẩn.


23

δ: là sai số mong muốn (cùng đơn vị với σ). Do vậy, để đảm bảo kết quả
nghiên cứu có độ chính xác tối đa, lựa chọn sai số mong muốn là 0,8 mm.
Dựa vào nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Phương (2012) [24] khi đo kích
thước cung răng hàm trên ở giới nam R66 có:

= 54,2 ± 5,4 (mm) .


Chúng tôi tính được cỡ mẫu cần có
n = (1,96 + 1,28)*(1,96 + 1,28) * 5,4*5.4 / (0,8 * 0,8) = 478 (mẫu hàm).
Mỗi đối tượng nghiên cứu đều được nghiên cứu cả cung hàm trên và cung
hàm dưới.
Như vậy để dự phòng sai số trong quá trình lấy số liệu, chúng tôi dự định
sẽ tiến hành nghiên cứu trên khoảng 500 người.
Vì đề tài của chúng tôi chỉ là một nhánh nhỏ trong đề tài nghiên cứu lớn
cấp nhà nước, nên toàn bộ đối tượng nghiên cứu của chúng tôi cũng nằm trong
pham vi đối tượng nghiên cứu của đề tài cấp nhà nước.
2.3.3. Phương pháp chọn mẫu
Mẫu nghiên cứu sẽ được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên có phân tầng.


Bước 1: Lựa chọn ngẫu nhiên 6/12 quận và 9/17 huyện vào nghiên cứu.



Bước 2: Tại mỗi quận/huyện được chọn, chọn ngẫu nhiên 2 phường/xã
vào nghiên cứu. Tổng cộng có 30 phường/xã được chọn.



Bước 3: Từ mỗi phường/xã chọn ngẫu nhiên 1 tổ/thôn để nghiên cứu.



Bước 4: Chọn đối tượng nghiên cứu. Lên danh sách toàn bộ người Kinh
trong độ tuổi 18-25 đủ tiêu chuẩn nghiên cứu trong mỗi tổ/thôn. Lập
khung mẫu. Chọn cỡ mẫu trong mỗi tổ/thôn theo kích thước quần thể.

Tổ/thôn đông dân thì chọn nhiều và ngược lại.


24

2.4. Vật liệu và trang thiết bị nghiên cứu
- Dụng cụ nha khoa thông thường: Gương, gắp, thám trâm, trong khay
khám vô trùng, compa, thước đo tiêu chuẩn.
- Thước cặp điện tử Mitutoyo CD-6”CSX.
- Vật liệu lấy dấu và sáp cắn: Chất lấy dấu (Alginate), thìa lấy dấu, sáp
lá mỏng, đèn cồn, thạch cao siêu cứng, bát cao su, bay đánh chất dấu khuôn
và thạch cao đá.

Hình 2.1. Bộ dụng cụ lấy dấu, đỗ mẫu, đo đạc

Hình 2.2. Thước cặp điện tử Mitutoyo CD-6”CSX [33]


25

2.5. Các bước nghiên cứu
- Bước 1: Lập danh sách người dân tham gia khám sàng lọc cho nghiên cứu.
- Bước 2: Khám sàng lọc và lập danh sách đối tượng nghiên cứu.
- Bước 3: Tiến hành lấy mẫu hàm và đổ mẫu bằng thạch cao.
- Bước 4: Đo đạc các chỉ số trên mẫu hàm thạch cao.
- Bước 5: Nhập và xử lý số liệu.
- Bước 6: Viết luận văn.
2.5.1. Lập danh sách người dân
2.5.2. Khám sàng lọc và lập danh sách đối tượng nghiên cứu
Khám sàng lọc, chọn những đối tượng đủ tiêu chuẩn, lên danh sách.

+ Khám ngoài miệng:

Sự cân đối, hài hoà của khuôn mặt.
Dị tật bẩm sinh vùng hàm mặt.

+ Khám trong miệng:
Xác định tình trạng các răng: răng sâu, răng vỡ, răng thừa, răng dị dạng,
răng đã phục hình.
2.5.3. Các bước tiến hành lấy dấu, đổ mẫu
Thực hiện:
+ Lấy dấu: Lấy dấu hai hàm bằng alginate. Biên giới mặt ngoài cung hàm
là đến đáy ngách lợi, mặt trong đối với hàm dưới đến ranh giới giữa lợi và sàn
miệng, đằng sau tối thiểu đến phía xa răng hàm lớn thứ hai của mỗi cung hàm.
+ Đổ mẫu bằng thạch cao đá, đổ đế bằng thạch cao thường ngay sau khi
lấy dấu.
+ Gỡ mẫu khi đã đông cứng.


×