Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

XÂY DỰNG hệ THỐNG bài tập và HƯỚNG dẫn HOẠT ĐỘNG GIẢI bài tập CHƯƠNG “DÒNG điện XOAY CHIỀU” vật lí 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.07 KB, 38 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

NGUYỄN THỊ THÚY HOA

XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN HOẠT ĐỘNG GIẢI

BÀI TẬP CHƯƠNG “DÒNG ĐIỆN XOAY CHIỀU” VẬT LÍ 12
NHẰM BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VẬT LÍ Ở THPT

Chuyên ngành
Mã số

: Lí luận và phương pháp dạy học bộ môn Vật lí
: 8140111

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ DIỆU NGA

HÀ NỘI – 2018


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, giáo dục là ngành luôn được xã hội quan tâm đặc biệt, mục tiêu
của giáo dục không chỉ mang lại tri thức, nhân cách cho con người mà còn là cái
nôi bồi dưỡng và đào tạo nhân tài cho đất nước, trong đó trường chuyên và các
lớp chọn trường trung học phổ thông ở các tỉnh đóng góp công sức không nhỏ
trong việc phát hiện và bồi dưỡng nguồn học sinh giỏi cho đất nước.
Công tác bồi dưỡng và đào tạo học sinh giỏi là một quá trình có tầm nhìn


chiến lược lâu dài và phải có những phương pháp phù hợp. Trong quá trình giảng
dạy ở trường phổ thông nhiệm vụ phát triển tư duy cho học sinh là nhiệm vụ rất
quan trọng, đòi hỏi tiến hành đồng bộ ở các môn, trong đó Vật lí là môn khoa
học tự nhiên đề cập đến nhiều vấn đề của khoa học, sẽ góp phần rèn luyện tư duy
cho học sinh ở mọi góc độ đặc biệt là qua phần giải bài tập Vật lí. Bài tập Vật lí
không những có tác dụng rèn luyện kỹ năng vận dụng, đào sâu và mở rộng kiến
thức đã học một cách sinh động, phong phú mà còn thông qua đó để ôn tập, rèn
luyện một số kỹ năng cần thiết về Vật lí, rèn luyện tính tích cực, tự lực, trí thông
minh sáng tạo cho học sinh, giúp học sinh hứng thú trong học tập. Cũng thông
qua bài tập Vật lí giáo viên kiểm tra, đánh giá việc nắm vững kiến thức và kỹ
năng Vật lí của HS
Trong hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi Vật lí trung học phổ thông của
nước ta hiện nay, học sinh được luyện nhiều bài tập khó dẫn đến quen, còn
nặng về tính toán đôi khi chưa phát huy được óc quan sát, khả năng phát hiện
vấn đề. Còn thiếu những nghiên cứu và hướng dẫn chi tiết cho công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi Vật lí ứng với từng chương bài và chủ đề cụ thể.


Với tất cả các lí do trên nên tôi chọn đề tài nghiên cứu ''Xây dựng hệ
thống bài tập và hướng dẫn hoạt động giải bài tập chương “Dòng điện xoay
chiều” Vật lí 12 nhằm bồi dưỡng học sinh giỏi môn vật lí ở THPT'' góp phần
nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THPT hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Xây dựng được hệ thống bài tập và hướng dẫn hoạt động giải bài tập trong
dạy học chương “Dòng điện xoay chiều”-Vật lí 12 nhằm bồi dưỡng học sinh giỏi
môn vật lí ở THPT.
3. Giả thuyết khoa học
Vận dụng lí luận về dạy giải bài tập vật lí và phân tích nội dung kiến thức
khoa học về “Dòng điện xoay chiều” để xây dựng được hệ thống bài tập đa dạng,
phong phú có nội dung phù hợp chương trình dạy học vật lí phổ thông và hướng

dẫn hoạt động giải bài tập theo các phương pháp có sự định hướng tư duy và
phát triển năng lực sáng tạo của học sinh sẽ góp phần bồi dưỡng học sinh giỏi
Vật lí ở Trung học phổ thông.
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Hệ thống lí luận về dạy giải bài tập vật lí phổ thông và bồi dưỡng học sinh
giỏi vật lí phổ thông.
- Các hoạt động dạy và học của GV và HS khi tiến hành dạy học chương
“Dòng điện xoay chiều”- Vật lí 12 nhằm bồi dưỡng học sinh giỏi.
-

Nội dung kiến thức chương “Dòng điện xoay chiều”- Vật lí 12.
- Mẫu khảo sát: Học sinh trường THPT TP Điện Biên Phủ, THPT Dân tộc
nội trú tỉnh, THPT Huyện Điện Biên, Tỉnh Điện Biên.


4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập chương “Dòng điện xoay chiều”Vật lí 12 và đề xuất qui trình sử dụng nó trong dạy học, nhằm bồi dưỡng học
sinh giỏi.
- Các nghiên cứu được tiến hành thực nghiệm ở lớp 12 của trường THPT TP
Điện Biên Phủ, Tỉnh Điện Biên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đặt ra, chúng tôi thực hiện các nhiệm vụ sau:
-

Nghiên cứu lí luận về:

+ Đặc điểm, năng lực của học sinh giỏi, học sinh giỏi Vật lí ở trường THPT .
+ Phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi Vật lí trong trường THPT.
+ Vai trò , tác dụng của phương pháp dạy giải bài tập Vật lí trong dạy học

vật lí phổ thông nói chung và bồi dưỡng học sinh giỏi nói riêng.
+ Chương trình, sách giáo khoa về các nội dung kiến thức chương Dòng
điện xoay chiều - Vật lí 12.
-

Nghiên cứu thực tiễn:

+ Điều tra về thực trạng công tác bồi dưỡng học sinh giỏi và cách đánh giá
học sinh giỏi ở tỉnh Điện Biên hiện nay.
+ Tìm hiểu những khó khăn, sai lầm của học sinh khi học chương Dòng điện
xoay chiều - Vật lí 12
-

Xây dựng hệ thống bài tập chương “Dòng điện xoay chiều”- Vật lí 12

-

Xây dựng kế hoạch sử dụng hệ thệ thống bài tập đã biên soạn

-

Thiết kế các phương án dạy học chương “Dòng điện xoay chiều”- Vật lí

12 có sử dụng hệ thống bài tập đã xây dựng nhằm bồi dưỡng học sinh giỏi.


-

Thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá tính khả thi và hiệu quả của các


phương án dạy học đã thiết kế.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ đã đề ra chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
-

Nghiên cứu lý luận về dạy giải bài tập vật lí phổ thông.

-

Nghiên cứu cơ sở lí luận bồi dưỡng sự nhận thức và kiến thức vật lí cho HSG

-

Nghiên cứu nội dung chương trình Vật lí phổ thông, đặc biệt chú ý đến

chương “Dòng điện xoay chiều”- Vật lí 12
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
-

Điều tra về thực trạng việc dạy giải bài tập vật lí phổ thông và việc bồi

dưỡng học sinh giỏi thông qua hoạt động này.
-

Khảo sát các giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm trong công tác bồi

dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp quốc gia của tỉnh
6.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
-


Thực nghiệm sư phạm với hệ thống bài tập chương “Dòng điện xoay

chiều”- Vật lí 12 đã xây dựng và quy trình sử dụng nó trong dạy học.
-

Phân tích kết quả thực nghiệm sư phạm để rút ra kết luận vấn đề nghiên cứu

7. Dự kiến đóng góp của luận văn
* Về lý luận:
Phân tích được cơ sở lí luận : Quan niệm về học sinh năng khiếu, tài năng.
Quan niệm học sinh giỏi vật lí. Việc sử dụng bài tập vật lí trong dạy học vật lí để
bồi dưỡng học sinh giỏi.


* Về thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu có thể được áp dụng trong việc giảng dạy chương. Dòng
điện xoay chiều – Vật lí 12. Đồng thời nó còn có giá trị tham khảo cho các thầy
cô ở các trường THPT trong tỉnh khi luyện tập cho học sinh giỏi để tham gia các
kỳ thi học sinh giỏi các cấp.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và sử dụng hệ
thống bài tập trong dạy học vật lí nhằm bồi dưỡng học sinh giỏi
Chương 2. Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập trong dạy học chương ''
Dòng điện xoay chiều '' - Vật lí 12 nhằm bồi dưỡng học sinh giỏi vật lí.
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm.


Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG

VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ
NHẰM BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI
1.1. Hoạt động nhận thức và phát triển tư duy học sinh trong dạy học vật lí
1.1.1. Khái niệm nhận thức
Nhận thức là một trong ba mặt của đời sống tâm lí con người (nhận thức, tình
cảm, ý chí), là tiền đề của hai mặt kia đồng thời có quan hệ chặt chẽ với chúng và
với các hiện tượng tâm lí khác. Hoạt động nhận thức bao gồm nhiều giai đoạn khác
nhau, có thể chia hoạt động này gồm hai giai đoạn lớn: nhận thức cảm tính (gồm
cảm giác, tri giác) và nhận thức lí tính (gồm tư duy, tưởng tượng). [15]
Cùng với nhiệm vụ cung cấp kiến thức, kĩ năng về Vật lí, việc dạy học Vật lí
còn phải góp phần phát triển tiềm lực trí tuệ , phát triển những năng lực nhận
thức cho HS. Năng lực nhận thức bao gồm năng lực tri giác, biểu tượng, chú ý,
trí nhớ, tư duy, hứng thú nhận thức, trí thông minh, khả năng sáng tạo trong lao
động.
Đối với phát triển năng lực nhận thức của học sinh, khâu trung tâm là phát triển
năng lực tư duy.
1.1.2. Rèn luyện các thao tác tư duy trong quá trình dạy học Vật lí
Năng lực tư duy là tổng hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện, trừu tượng
hóa, khái quát hóa, tưởng tượng, suy luận - giải quyết vấn đề, xử lí và linh cảm
trong quá trình phản ánh, phát triển tri thức và vận dụng chúng vào thực tiễn.
Năng lực tư duy của con người như đã nói ở trên, có yếu tố bẩm sinh. Tuy
nhiên, thực tế đã chứng minh, yếu tố bẩm sinh có vai trò rất quan trọng nhưng chỉ
ở dạng khả năng, có thể rèn luyện nâng cao, phát huy được, vì nếu không có tác
nhân xã hội thì sẽ mai một dần.
Thực tiễn đa dạng, phức tạp, biến đổi nhanh và thông tin, chất xám, khoa học
ngày càng có vai trò quan trọng trong cuộc thử thách, đọ sức, cạnh tranh trí tuệ.
Thế kỷ XXI, kỷ nguyên của khoa học công nghệ, kỷ nguyên trí tuệ, năng lực tư


duy đã trở thành một nguồn lực cơ bản nhất của mỗi con người. Vì vậy việc nâng

cao năng lực tư duy sáng tạo là vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển con
người ở nước ta. Nên việc rèn luyện các thao tác tư duy cho học sinh trong quá
trình dạy học là hết sức cần thiết, trong đó đặc biệt chú trọng rèn luyện cho học
sinh một số thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái
quát hóa...[12]
1.1.2.1. Phân tích và tổng hợp
Phân tích: Là quá trình dùng trí óc để phân tích đối tượng nhận thức thành
những “bộ phận”, những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ giữa chúng để
nhận thức đối tượng sâu sắc hơn, trọn vẹn hơn.
Như vậy, từ một số yếu tố, một vài bộ phận của sự vật hiện tượng tiến đến
nhận thức trọn vẹn các sự vật hiện tượng. Vì lẽ đó, môn khoa học nào trong trường
phổ thông cũng thông qua phân tích của cả giáo viên cũng như học sinh để bảo
đảm truyền thụ và lĩnh hội.
Tổng hợp: Là quá trình dùng trí óc để hợp nhất các “bộ phận”, những thuộc
tính, những thành phần đã được tách ra nhờ phân tích thành một chỉnh thể. Là hoạt
động nhận thức phản ánh của tư duy biểu hiện trong việc xác lập tính chất thống
nhất của các phẩm chất và thuộc tính của các yếu tố trong một sự vật nguyên vẹn
có thể có được trong việc xác định phương hướng thống nhất và xác định các mối
liên hệ, các mối quan hệ giữa các yếu tố của sự vật nguyên vẹn đó, trong việc liên
kết và liên hệ giữa chúng và chính vì vậy là đã thu được một sự vật và hiện tượng
nguyên vẹn mới.
Từ đó có thể thấy rằng, phân tích và tổng hợp có mối quan hệ mật thiết với
nhau, bổ sung cho nhau tạo thành một thể thống nhất không tách rời. Phân tích để
tổng hợp có cơ sở và tổng hợp để phân tích đạt được chiều sâu bản chất hiện tượng
sự vật. Sự phát triển của phân tích và tổng hợp là đảm bảo hình thành của toàn bộ
tư duy và các hình thức tư duy của học sinh.
1.1.2.2. So sánh
So sánh là quá trình dùng trí óc để xác định sự giống nhau hay khác nhau, sự



đồng nhất hay không đồng nhất, sự bằng nhau hay không bằng nhau giữa các đối
tượng nhận thức. Trong dạy học thường dùng hai loại so sánh là: so sánh tuần tự và
so sánh đối chiếu.
So sánh tuần tự: Là sự so sánh trong đó nghiên cứu xong từng đối tượng
nhận thức rồi so sánh chúng với nhau.
So sánh đối chiếu: Nghiên cứu hai đối tượng cùng một lúc hoặc khi nghiên
cứu đối tượng thứ hai người ta phân tích thành từng bộ phận rồi đối chiếu với từng
bộ phận của đối tượng thứ nhất.
1.1.2.3. Trừu tượng hoá và khái quát hoá
Trừu tượng hoá : Là quá trình dùng trí óc để gạt bỏ những mặt, những thuộc
tính, những mối liên hệ, quan hệ thứ yếu, không cần thiết về phương diện nào đó
và chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết để tư duy.
Khái quát hoá : Là quá trình dùng trí óc để bao quát nhiều đối tượng khác nhau
thành một nhóm, một loại theo những thuộc tính, những mối quan hệ nhất định.
Những thuộc tính chung này bao gồm hai loại: những thuộc tính giống nhau
và những thuộc tính bản chất.
Qua đó để thấy rằng, trừu tượng hoá và khái quát hoá có mối quan hệ mật
thiết với nhau, chi phối và bổ sung cho nhau, giống như mối quan hệ giữa phân
tích và tổng hợp nhưng ở mức độ cao hơn.
1.2. Cơ sở lý luận về dạy giải bài tập Vật lí
1.2.1. Khái niệm về bài tập Vật lí
Trong thực tế dạy học, người ta hay gọi một vấn đề, hay một câu hỏi cần
được giải đáp nhờ lập luận lôgic, suy luận toán học hay thực nghiệm vật lí trên
cơ sở sử dụng các định luật và các phương pháp của Vật lí học là bài tập vật lí.
[17 ],[20]
Bài toán vật lí, hay đơn giản gọi là các bài tập vật lí, là một phần không thể
thiếu của quá trình dạy học vật lí vì nó cho phép hình thành và làm phong phú các
khái niệm vật lí, phát triển tư duy vật lí và thói quen vận dụng kiến thức vật lí vào
thực tiễn.



1.2.2. Vai trò, tác dụng của bài tập Vật lí
Mục tiêu của dạy học vật lí ở trường phổ thông là phải đảm bảo trang bị đầy
đủ cho học sinh những kiến thức phổ thông cơ bản, hiện đại, làm cho học sinh có
thể vận dụng những kiến thức đó để giải quyết nhiệm vụ học tập. Bài tập vật lí là
một trong những phương pháp được vận dụng có hiệu quả trong dạy học vật lí. Nó
có tầm quan trọng đặc biệt, góp phần hoàn thành nhiệm vụ dạy học vật lí ở phổ
thông.
Có thể nói, việc giải các bài tập vật lí được xem như mục đích, là phương
pháp dạy học. Tùy thuộc vào những tình huống cụ thể, bài tập vật lí được sử dụng
theo các mục đích khác nhau. [17 ],[20].
Bài tập vật lí có thể được sử dụng như là phương tiện nghiện cứu tài liệu mới
khi trang bị kiến thức cho học sinh nhằm đảm bảo cho học sinh lĩnh hội được kiến
thức một cách sâu sắc và vững chắc
Bài tập vật lí là một phương tiện để học sinh rèn luyện khả năng vận dụng
kiến thức, liên hệ lí thuyết với thực tế, học tập với đời sống.
Bài tập vật lí là một phương tiện có tầm quan trọng đặc biệt trong việc rèn
luyện tư duy, bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu khoa học cho học sinh.
Bài tập vật lí là một phương tiện ôn tập, củng cố kiến thức đã học một cách
sinh động và có hiệu quả.
Thông qua việc giải bài tập có thể rèn luyện cho học sinh những đức tính tốt
như tinh thần tự lập, tính cẩn thận, tính kiên trì, tinh thần vượt khó.
Bài tập vật lí là một phương tiện để kiểm tra đánh giá kiến thức, kĩ năng của
học sinh một cách chính xác.
1.2.3. Phân loại bài tập vật lí
Số lượng các bài tập Vật lí sử dụng trong thực tiễn dạy học hiện nay rất lớn, vì
vậy cần có sự phân loại sao cho có tính tương đối thống nhất về mặt lí luận cũng
như thực tiễn cho phép người dạy lựa chọn và sử dụng hợp lí các bài tập Vật lí
trong dạy học. Trong dạy học vật lí có thể phân loại chúng theo các cơ sở : [ 12]
Phân loại theo nội dung



Phân loại theo phương thức cho điều kiện và phương thức giải.
Phân loại theo yêu cầu luyện tập, phát triển tư duy sáng tạo của học sinh.
Tuy nhiên, cần nói thêm rằng, các phương án phân loại như trên không hoàn
toàn tách biệt, một bài tập cụ thể có thể đồng thời thuộc một vài nhóm khác nhau.
1.2.3.1. Phân loại bài tập theo nội dung
Nên chia các bài tập theo các đề tài của tài liệu vật lí. Theo đó, người ta phân
thành các bài tập về Cơ học, Vật lí phân tử, Điện học...sự phân chia này mang tính
quy ước, bởi vì kiến thức sử dụng trong giả thiết một bài tập thường không phải chỉ
lấy trong một chương mà có thể lấy từ những chương, những phần vật lí khác nhau
trong chương trình vật lí đã học.
Theo nội dung, bài tập vật lí cũng có thể phân chia thành các bài tập có nội
dung trừu tượng và bài tập có nội dung cụ thể. Ở các bài tập có nội dung trừu
tượng, các dữ kiện đều cho dưới dạng các kí hiệu, lời giải cũng sẽ biểu diễn dưới
dạng một công thức chứa đựng ẩn số và dữ kiện đã cho. Ngược lại, với các bài tập
có nội dung cụ thể, các dữ kiện đều cho dưới dạng mang đặc trưng trực quan gắn
liền với thực tiễn, với kinh nghiệm sống của học sinh.
Các bài tập mà nội dung chứa đựng những tài liệu về kĩ thuật, sản xuất công
nông nghiệp về giao thông … là những bài tập có nội dung kĩ thuật tổng hợp.
Bài tập có nội dung lịch sử: đó là những bài tập chứa đựng những kiến thức
có đặc điểm lịch sử : những dữ liệu về các thí nghiệm vật lí , về những phát minh
sáng chế hoặc về những câu chuyện có tính chất lịch sử.
Ngoài ra, để phát triển và duy trì hứng thú học vật lí, người ta thường sử
dụng các bài tập vật lí vui làm cho bài học sinh động. Trong các bài tập như vậy
các điều kiện của bài tập thường chứa đựng các yếu tố nghịch lí, gây trí tò mò ở
học sinh.
1.2.3.2. Phân loại bài tập theo phương thức cho điều kiện và phương thức giải
Theo đó, người ta sẽ phân ra thành các dạng: bài tập định tính, bài tập định
lượng, bài tập thí nghiệm, bài tập đồ thị, bài tập trắc nghiệm khách quan.

-

Bài tập định tính: Có hai loại bài tập định tính là: Giải thích hiện


tượng và dự đoán hiện tượng.
Giải thích hiện tượng thực chất là cho biết một hiện tượng và lí giải xem vì
sao hiện tượng lại xảy ra như thế. Trong các bài tập này, bắt buộc phải thiết lập
được mối quan hệ giữa hiện tượng cụ thể với một số đặc tính của sự vật hay với
một số định luật vật lí. Thực hiện phép suy luận logic luận ba đoạn trong đó tiền đề
thứ nhất là một đặc tính chung của sự vật hoặc định luật vật lí tổng quát, tiền đề
thứ hai là những điều kiện cụ thể, kết luận về hiện tượng được nêu ra.
-

Bài tập định lượng (bài tập tính toán): Đó là các bài tập khi giải phải

sử dụng các phương pháp Toán học (dựa trên các định luật và quy tắc, thuyết Vật
lí). Đây là dạng bài tập sử dụng rộng rãi, thường được soạn thảo cho chương trình
Vật lí phổ thông. Dạng bài tập này có ưu điểm lớn là làm sâu sắc các kiến thức của
học sinh, rèn luyện cho học sinh vận dụng phương pháp nhận thức đặc thù của Vật
lí đặc biệt phương pháp suy luận Toán học.
-

Phương pháp số học: Phương pháp giải chủ yếu là phương pháp số

học, tác động lên các con số hoặc các biểu diễn chữ, không cần thành lập phương
trình để tìm ra ẩn số.
-

Phương pháp đại số: Dựa trên các công thức Vật lí, lập các phương


trình từ đó giải chúng để tìm ra ẩn số.
-

Phương pháp hình học: Khi giải dựa vào hình dạng của đối lượng,

các dữ liệu cho theo hình vẽ để vận dụng quy tắc hình học hoặc lượng giác.
Trong các phương pháp trên, phương pháp đại số là phương pháp phổ biến
nhất, quan trọng hơn cả vì vậy cần thường xuyên quan tâm rèn luyện cho học sinh.
Khi giải các bài tập tính toán người ta còn sử dụng thủ pháp logic khác nhau,
có thể coi là phương pháp giải: đó là phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp.
- Phương pháp phân tích:
+

Tìm một định luật, một qui tắc diễn đạt bằng một công thức có chứa

đại lượng cần tìm và một vài đại lượng khác chưa biết.
+

Tiếp tục tìm những định luật, công thức khác cho biết mối quan hệ


giữa đại lượng chưa biết này với các đại lượng đã biết trong đề bài. Cuối cùng tìm
được một công thức chỉ chứa đại lượng cấn tìm với đại lượng đã biết.
-

Phương pháp tổng hợp

+


Từ những đại lượng đã cho ở đề bài. Dựa vào các định luật,qui tắc

vật lí, tìm những công thức có chứa đại lượng đã cho với các đại lượng trung gian
mà ta dự kiến có liên quan đến đại lượng cần tìm.
+

Suy luận toán học, đưa đến công thức chỉ chứa đại lượng phải tìm

với các đại lượng đã cho.
Hai phương pháp trên đều có giá trị như nhau, chúng bổ sung cho nhau.
Phương pháp phân tích nếu tìm được công thức đúng thì nhanh chóng hướng tới
kết quả bài toán. Tuy nhiên, học sinh không tập trung chú ý nhiều vào các giai
đoạn trung gian, điều đó nói chung là không có lợi, đặc biệt đối với học sinh yếu,
họ sẽ nắm bản chất Vật lí kém sâu sắc hơn. Phương pháp tổng hợp cho phép đi sâu
vào các giai đoạn trung gian, học sinh chú ý hơn tới bản chất Vật lí và mối liên hệ
giữa các đại lượng và hiện tượng. Phương pháp tổng hợp giống như phương pháp "
thử " và “ sai ” nên gần với tư duy trực quan, cụ thể của học sinh. Trong khi
phương pháp phân tích đòi hỏi cao hơn về mức độ tư duy logic và chuẩn bị Toán
học. Vì vậy căn cứ vào đối tượng học sinh, mục đích dạy học, giáo viên nên sử
dụng hợp lí các phương pháp này. Trong những bài tập tính toán tổng hợp, khi xây
dựng lập luận có thể phối hợp hai phương pháp.
-

Bài tập thí nghiệm: là loại bài tập đòi hỏi phải làm thí nghiệm để

kiểm chứng lời giải bằng lí thuyết hoặc tìm những số liệu cần thiết cho bài tập. Bài
tập thí nghiệm có nhiều tác dụng về mặt giáo dục và giáo dục kĩ thuật tổng hợp,
đặc biệt làm sáng tỏ mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn.
-


Bài tập đồ thị: là bài tập trong đó các số liệu được dùng làm dữ kiện

để giải phải tìm trong đồ thị đã cho trước hoặc từ các thông tin đã cho, vẽ đồ thị
mô tả mối tương quan giữa hai đại lượng vật lí nào đó.
-

Bài tập trắc nghiệm khách quan: bài tập dạng trắc nghiệm khách

quan thường dùng để học sinh luyện tập, tự kiểm tra kiến thức của bản thân. Đồng


thời, nó là phương tiện kiểm tra kiến thức của người học trong phạm vi rộng, kết
quả thu được khách quan không phụ thuộc người chấm. Bài tập dạng này yêu cầu
học sinh phải nhớ, hiểu và vận dụng đồng thời rất nhiều các kiến thức liên quan.
1.2.3.3. Phân loại bài tập theo yêu cầu luyện tập kĩ năng, phát triển tư duy .
-

Bài tập luyện tập: là loại bài tập dùng để rèn luyện, giúp áp dụng

được những kiến thức xác định để giải từng bài tập theo. Ở đó không đòi hỏi phải
tư duy sáng tạo mà chủ yếu để luyện tập, có kỹ năng giải đối với một loại bài tập
đã được chỉ dẫn.
-

Bài tập sáng tạo: là loại bài tập để phát triển tư duy sáng tạo của học

sinh. Có thể chia bài tập sáng tạo thành :
+


Bài tập nghiên cứu: khi cần giải thích một hiện tượng chưa biết trên

cơ sở mô hình trừu tượng thích hợp từ lí thuyết vật lí.
+

Bài tập thiết kế: bài tập loại này là bài tập xây dựng mô hình thực

nghiệm để kiểm tra kết quả rút ra từ lí thuyết.
Ngoài ra, bài tập sáng tạo còn được hiểu là bài tập có nhiều cách giải


Sự phân loại bài tập vật lí được mô tả bởi sơ đồ 1.1

Sơ đồ1.1. Phân loại bài tập vật lí [12]
Tuy nhiên, cần nói thêm rằng, các phương án phân loại như trên không hoàn
toàn tách biệt, một bài tập cụ thể có thể đồng thời thuộc một vài nhóm khác nhau.
1.2.4. Tư duy trong giải bài tập Vật lí
Quá trình giải bài tập Vật lí là quá trình tìm hiểu điều kiện của bài tập, xem
xét hiện tượng Vật lí được đề cập và dựa trên kiến thức Vật lí để đưa tới mối liên
hệ có thể có của những cái đã cho và cái phải tìm, sao cho có thể thấy được cái
phải tìm có mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với cái đã cho.
Từ đó, đi tới chỉ rõ mối liên hệ tường minh trực tiếp của cái phải tìm với
những cái đã biết, tức là tìm ra được lời giải cho bài toán. Các công thức, phương
trình mà ta xác lập được dựa trên kiến thức Vật lí của các điều kiện cụ thể của bài
tập là sự biểu diễn mối quan hệ định lượng giữa các đại lượng Vật lí. Dựa trên tập
hợp các mối quan hệ này (tập hợp các phương trình) ta mới có thể luận giải tính
toán để có lời giải cuối cùng. Đối với những bài tập tính toán thì những công việc


vừa nói chính là việc thiết lập các phương trình và giải hệ các phương trình để tìm

ra các ẩn số của bài toán [17],[20.
Như vậy, tư duy trong giải bài tập Vật lí cho thấy hai phần cơ bản, quan trọng như
sau:
- Xác lập các mối liên hệ cụ thể dựa trên sự vận dụng kiến thức Vật lí vào
điều kiện cụ thể của bài tập đã cho.
- Sự tiếp tục luận giải, tính toán đi từ mối liên hệ đã xác lập được đặt trong bài
tập đã cho.
Tóm lại, để tìm được lời giải của một bài tập Vật lí là phải trả lời được câu hỏi:
- Để giải bài tập này, cần xác lập những mối liên hệ cơ bản nào?
- Sự xác lập những mối liên hệ cơ bản cụ thể này dựa trên sự vận dụng những
kiến thức gì? Vào điều kiện cụ thể gì của bài tập.
Trả lời được những câu hỏi đó còn giúp giáo viên có sự định hướng trong
phương pháp dạy học về bài tập một cách đúng đắn, hiệu quả.
1.2.5. Phương pháp giải bài tập Vật lí
Đối với học sinh phổ thông, vấn đề giải và sửa bài tập gặp không ít khó khăn vì
học sinh thường không có kiến thức lý thuyết chắc chắn và kĩ năng vận dụng kiến
thức Vật lí còn hạn chế. Vì vậy các em giải một cách mò mẫm, không có định
hướng rõ ràng, áp dụng công thức máy móc và nhiều khi không giải được. Có
nhiều nguyên nhân:
- Học sinh chưa có phương pháp khoa học để giải bài tập Vật lí.
- Chưa xác định được mục đích của việc giải bài tập là xem xét, phân tích các
hiện tượng Vật lí để đi đến bản chất Vật lí.
Việc rèn luyện cho học sinh biết cách giải bài tập một cách khoa học, đảm bảo
đi đến kết quả một cách chính xác là một việc rất cần thiết. Nó không những giúp
học sinh có kiến thức lý thuyết chắc chắn mà còn rèn luyện kĩ năng suy luận logic,
làm việc một cách khoa học, có kế hoạch.
Quá trình giải một bài tập Vật lí thực chất là quá trình tìm hiểu điều kiện của
bài tập, xem xét hiện tượng Vật lí, xác lập được những mối liên hệ cụ thể dựa trên



sự vận dụng kiến thức Vật lí vào điều kiện cụ thể của bài tập đã cho. Từ đó tính
toán những mối liên hệ đã xác lập được để dẫn đến lời giải và kết luận chính xác.
Bài tập Vật lí rất đa dạng, cho nên phương pháp giải cũng rất phong phú. Vì
vậy không thể chỉ ra được một phương pháp nào cụ thể mà có thể áp dụng để giải
được tất
cả các loại bài tập. Song trong thực tế người ta cũng thừa nhận một quan điểm
chung về quá trình giải một bài tập Vật lí có thể trải qua các bước chính sau: [12]
Bước 1. Tìm hiểu đề bài
- Đọc đúng đề bài.
- Mô tả hiện tượng vật lí nêu trong đề bài tập, vẽ hình minh họa. Nếu đề bài yêu
cầu, thì phải làm thí nghiệm hoặc vẽ đồ thị để thu được dữ kiện (trong trường hợp
bài tập thí nghiệm hoặc bài tập đồ thị).
- Xác định xem trong lớp hiện tượng vật lí đã nêu trong đề bài có những đại lượng
vật lí nào đã cho, đại lượng nào cần tìm.


Bước 2. Xây dựng lập luận
- Đối chiếu các dữ kiện xuất phát và cái phải tìm, xem xét bản chất vật lí của tình
huống đã cho để nhận ra các định luật, công thức lí thuyết có liên quan
- Xác lập các mối liên hệ cụ thể của các dữ kiện xuất phát và của cái phải tìm.
- Lựa chọn các mối liên hệ cơ bản, cho thấy sự liên hệ của cái phải tìm với các dữ
kiện xuất phát và từ đó có thể rút ra cái phải tìm.
Bước 3. Luận giải rút ra kết quả cần tìm.
Từ các mối liên hệ cơ bản đã xác lập, tiếp tục luận giải, tính toán rút ra kết quả .
Bước 4. Kiểm tra và biện luận kết quả.
Để có thể xác nhận kết quả vừa tìm được cần kiểm tra lại việc giải theo một
hoặc một số cách sau:
- Kiểm tra xem đã trả lời hết các câu hỏi chưa, đã xét hết các trường hợp chưa.
- Kiểm tra tính toán có đúng không?
- Kiểm tra thứ nguyên của các đại lượng có phù hợp không?

- Xem xét kết quả về ý nghĩa thực tế có phù hợp không?
- Giải bài tập theo cách khác xem có cho cùng kết quả không?
Hoạt động giải bài tập trong thực tế có khi không thấy tách bạch rõ bước thứ
ba với bước thứ hai. Có thể, sau khi xác lập được một mối liên hệ vật lí cụ thể nào
đó người ta thực hiện ngay sự luận giải với mối liên hệ đó (biến đổi phương trình
đó) rồi tiếp sau đó mới lại xác lập một mối liên hệ vật lí khác. Có nghĩa là, các
bước có mối liên hệ xen kẽ trong quá trình giải bài tập.
1.2.6. Hướng dẫn hoạt động giải bài tập Vật lí
1.2.6.1.Những công việc cần làm để hướng dẫn học sinh giải bài tập vật lí cụ
thể
- Giải bài tập đó theo phương pháp giải bài tập vật lí một cách tỉ mỉ.Tìm các cách
giải bài tập đó (nếu có).
- Xác định mục đích sử dụng bài tập này.
- Xác định những kiến thức áp dụng để giải bài tập.


- Phát hiện được những khó khăn mà học sinh có thể gặp khi giải bài tập.
- Soạn câu hỏi hướng dẫn học sinh vượt qua khó khăn.
Để việc hướng dẫn giải bài tập cho học sinh có hiệu quả, ngoài việc giáo
viên phải giải được bài tập đó còn cần xuất phát từ mục đích sư phạm để xác định
kiểu hướng dẫn cho phù hợp. Theo đó, tùy theo mục đích sư phạm mà người ta vận
dụng các kiểu hướng dẫn khác nhau trong hướng dẫn giải bài tập vật lí.
1.2.6.2.Các kiểu hướng dẫn học sinh giải bài tập vật lí
* Hướng dẫn theo mẫu (hướng dẫn Angorit) [17],[20]
Sự hướng dẫn hành động theo mẫu sẵn có thường gọi là hướng dẫn angôrit.
Hướng dẫn angorit là sự hướng dẫn chỉ rõ cho học sinh những hành động cụ thể
cần thực hiện và trình tự thực hiện các hành động đó để đạt được các kết quả như
mong muốn. Những hành động sơ cấp phải được học sinh hiểu một cách đơn giá
và học sinh đã nắm vững. Kiểu hướng dẫn angorit không đòi hỏi học sinh phải tự
mình tìm tòi xác định các hành động cần thực hiện để giải quyết vấn đề đặt ra mà

chỉ đòi hỏi học sinh chấp hành các hành động đã được giáo viên chỉ ra, căn cứ theo
đó học sinh sẽ đạt được kết quả, sẽ giải được bài tập đã cho.
Kiểu hướng dẫn angorit đòi hỏi giáo viên phải phân tích một cách khoa học
việc giải bài tập để xác định được một trình tự chính xác chặt chẽ của các hành
động cần thực hiện để giải được bài tập và đảm bảo cho các hành động đó là những
hành động sơ cấp đối với học sinh. Nghĩa là, kiểu hướng dẫn này đòi hỏi phải xác
định angorit giải bài tập. Kiểu hướng dẫn angorit thường được áp dụng khi cần dạy
cho học sinh phương pháp giải một lớp các bài tập điển hình nào đó, nhằm luyện
tập cho học sinh các kĩ năng giải một bài tập vật lí xác định. Người ta xây dựng các
angorit giải cho từng loại bài tập cơ bản, điển hình và luyện tập cho học sinh kĩ
năng giải loại bài tập đó dựa trên việc làm cho học sinh nắm chắc các angorit giải.
Ưu điểm: Dạy cho học sinh được phương pháp giải một loại bài tập điển hình.
Đồng thời, rèn luyện cho học sinh kĩ năng giải một bài tập xác định.
Nhược điểm: Học sinh có thói quen chấp hành những hành động đã được
chỉ dẫn theo mẫu đã có sẵn, do đó ít có tác dụng rèn luyện cho học sinh khả năng


tìm tòi, sáng tạo, hạn chế sự phát triển tư duy sáng tạo của học sinh. Để khắc phục
nhược điểm này, trong quá trình giải bài tập, giáo viên phải lôi cuốn học sinh tham
gia vào quá trình xây dựng angorit cho bài tập.
* Hướng dẫn tìm tòi (Hướng dẫn Ơrixtic) [17],[20]
Hướng dẫn tìm tòi là kiểu hướng dẫn mang tính chất gợi ý cho học sinh suy nghĩ
tìm tòi phát hiện cách giải quyết. Không phải là giáo viên chỉ dẫn cho học sinh chỉ
việc chấp hành các hành động theo một mẫu đã có để đi tới kết quả mà là giáo viên
gợi mở để học sinh tự tìm cách giải quyết, tự xác định các hành động cần thực hiện
để đạt được kết quả. Thông thường, kiểu hướng dẫn tìm tòi được áp dụng khi cần
giúp đỡ học sinh vượt qua khó khăn để giải được bài tập, đồng thời vẫn đảm bảo
yêu cầu phát triển tư duy học sinh, muốn tạo điều kiện để học sinh tự lực tìm cách
giải quyết.
Ưu điểm: Tránh được tình trạng giáo viên làm thay học sinh trong việc giải

bài tập. Kiểu hướng dẫn này đòi hỏi học sinh phải tự lực tìm cách giải quyết chứ
không phải là học sinh học sinh chỉ việc chấp hành các hành động theo mẫu đã chỉ
ra, nên không phải bao giờ cũng có thể đảm bảo cho học sinh giải được bài tập một
cách chắc chắn.
Khó khăn: Cách hướng dẫn này không phải bao giờ cũng đảm bảo cho học
sinh giải quyết được bài tập một cách chắc chắn. Có thể, sự hướng dẫn của giáo
viên cho học sinh dễ đưa học sinh đến chỗ chỉ còn việc thừa hành các hành động,
theo mẫu, hoặc sự hướng dẫn của giáo viên viển vông, quá chung chung, không
giúp ích được cho sự định hướng tư duy của học sinh. Nó phải có tác dụng hướng
tư duy của học sinh vào phạm vi cần và có thể tìm tòi phát hiện cách giải quyết vấn
đề. Ngoài ra, phương pháp này không thể áp dụng cho toàn bộ đối tượng học sinh
do chất lượng học sinh là khác nhau.
* Định hướng khái quát chương trình hóa[17],[20]
Định hướng khái quát chương trình hóa cũng là sự hướng dẫn cho học sinh tự
tìm tòi cách giải quyết, chứ không thông báo ngay cho học sinh cái có sẵn. Nét đặc
trưng của kiểu hướng dẫn này là, giáo viên định hướng hoạt động tư duy của học


sinh theo đường lối khái quát của việc giải quyết vấn đề. Sự định hướng ban đầu
đòi hỏi sự tự lực tìm tòi giải quyết của học sinh. Nếu học sinh không đáp ứng được
thì sự giúp đỡ tiếp theo của giáo viên là sự phát triển định hướng khái quát hóa ban
đầu, cụ thể hóa thêm một bước bằng cách gợi ý thêm cho học sinh, để thu hẹp hơn
phạm vi phải tìm tòi, giải quyết cho vừa sức với học sinh. Nếu học sinh vẫn không
đủ khả năng tự lực tìm tòi giải quyết thì sự hướng dẫn của giáo viên chuyển dần
thành hướng dẫn theo mẫu để đảm bảo cho học sinh hoàn thành được yêu cầu của
một bước, sau đó tiếp tục yêu cầu học sinh tự lực tìm tòi giải quyết các bước tiếp
theo. Nếu cần thì giáo viên lại giúp đỡ thêm. Cứ như vậy cho đến khi giải quyết
xong vấn đề đặt ra. Phương pháp hướng dẫn này được áp dụng khi có điều kiện
hướng dẫn tiến trình hoạt động giải bài tập của học sinh, nhằm giúp cho học sinh
tự giải được bài tập đã cho, đồng thời dạy cho học sinh cách suy nghĩ trong quá

trình dạy giải bài tập.
Ưu điểm: Kết hợp được việc thực hiện các yêu cầu: rèn luyện tư duy của
học sinh trong quá trình giải bài tập và đảm bảo cho học sinh giải được bài tập đã
cho. Sự hướng dẫn như vậy đòi hỏi giáo viên theo sát tiến trình hoạt động giải bài
tập của học sinh, không thể chỉ dựa vào những lời hướng dẫn có thể soạn sẵn, mà
phải kết hợp được việc định hướng với việc kiểm tra kết quả hoạt động của học
sinh để điều chỉnh sự giúp đỡ, thích ứng với trình độ của học sinh.
Nhược điểm: Để làm tốt được sự hướng dẫn này phụ thuộc vào trình độ và
khả năng sư phạm của người giáo viên. Đôi khi người giáo viên dễ sa vào làm thay
cho học sinh trong từng bước định hướng. Do vậy, câu hỏi định hướng của giáo
viên phải được cân nhắc kĩ và phù hợp với trình độ học sinh.
Trong quá trình hướng dẫn học sinh giải bài tập không thể theo một khuôn
mẫu nhất định, mà tùy thuộc vào nội dung, kiến thức, yêu cầu của bài toán, và còn
tùy thuộc vào đối tượng học sinh mà chúng ta có cách lựa chọn kiểu hướng dẫn
cho phù hợp. Người giáo viên phải biết phối hợp cả ba kiểu hướng dẫn trên, tận
dụng những ưu điểm trong cả ba phương pháp.


1.2.7. Lựa chọn và sử dụng bài tập Vật lí
1.2.7.1. Lựa chọn các bài tập Vật lí
Trong thực tế dạy học Vật lí người giáo viên thường xuyên phải thực hiện
công việc lựa chọn và tìm cách vận dụng các bài tập Vật lí sao cho phù hợp với
mục tiêu dạy học của mỗi loại bài học, của công việc (như kiểm tra, giờ luyện
tập,... ). Khi đó việc lựa chọn hệ thống các bài tập cần đảm bảo các yêu cầu sau
[12].
-

Nội dung các bài tập phải phù hợp với nội dung các kiến thức cơ bản và kỹ

năng giải bài tập của học sinh.

-

Các bài tập phải đi từ dễ đến khó, từ đơn giản tới phức tạp... giúp cho học sinh

xây dựng được phương pháp giải các loại bài tập điển hình;
-

Mỗi bài tập phải là một mắt xích trong hệ thống bài tập, đóng góp vào việc

củng cố, hoàn thiện và mở rộng kiến thức cho học sinh;
-

Trong hệ thống bài tập cần bao gồm nhiều loại như: Bài tập giả tạo (là loại bài

tập mà nội dung của nó không sát với thực tế), các bài tập trừu tượng và các bài tập
có nội dung thực tế, bài tập luyện tập và các bài tập sáng tạo, bài tập cho thừa hoặc
thiếu dữ kiện, bài tập mang tính chất ngụy biện và nghịch lí, bài tập có nhiều cách
giải khác nhau.
-

Các bài tập phải đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh đại trà, đồng thời có

chú ý tới sự phân hoá học sinh. Biện pháp để cá biệt hoá học sinh trong việc giải
các bài tập Vật lí: Biến đổi mức độ yêu cầu của bài tập với các đối tượng học sinh
khác nhau như mức độ trừu tượng của đề bài, loại vấn đề cần giải quyết, phạm vi,
tính phức tạp của các số liệu cần xử lí, số lượng các thao tác tư duy logic và các
phép biến đổi Toán học phải sử dụng, phạm vi và mức độ kiến thức, kĩ năng cần
huy động; biến đổi mức độ yêu cầu về số lượng bài tập cần giải, về mức độ tự lực
của học sinh trong quá trình giải bài tập.
-


Chú ý thích đáng về số lượng và nội dung các bài tập nhằm giúp học sinh

vượt qua những khó khăn chủ yếu, khắc phục những sai lầm phổ biến.
1.2.7.2. Sử dụng hệ thống bài tập vật lí


Trong dạy học, người giáo viên phải cần dự tính kế hoạch về việc sử dụng bài
tập Vật lí trong dạy học, với từng đề tài, từng tiết học. Trước tiên cần xác định mục
đích sử dụng bài tập. Các mục đích có thể là
-

Dùng bài tập để củng cố, bổ sung, hoàn thiện những kiến thức lí thuyết đã

học.
-

Dùng bài tập làm xuất hiện vấn đề trong các tiết nghiên cứu tài liệu mới.

-

Dùng bài tập hình thành kiến thức mới.

-

Lựa chọn bài tập điển hình nhằm hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức đã

học để giải, từ đó hình thành phương pháp giải chung cho mỗi loại bài tập đó.
-


Dùng bài tập để kiểm tra, đánh giá chất lượng kiến thức của học sinh.
Sắp xếp các bài tập đã chọn thành một hệ thống, định rõ kế hoạch và mục

đích sử dụng trong tiến trình dạy học, có thể lập kế hoạch sử dụng hệ thống bài tập
theo cách sau: [12]

1.3. Cơ sở lí luận về bồi dưỡng học sinh giỏi Vật lí
1.3.1. Tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng học sinh giỏi Vật lí
Trong công cuộc đổi mới Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước nghành
giáo dục có vai trò quan trọng và là mũi nhọn của quốc gia giúp phát hiện nhân
tài.Nhân tài sẽ có và đến nhờ năng khiếu song trong thực tế nếu chỉ có năng khiếu
cũng khó trở thành nhân tài , bởi vậy nếu không có quá trình giáo dục và bồi dưỡng
một cách khoa học thì không có nhân tài.
Đồng chí Lê Khả Phiêu nguyên Bí thư trung ương Đảng đã từng nói: "Về nhân
tài một mặt phải tìm được những cách thích hợp để phát hiện và bồi dưỡng nhân tài,


đồng thời cũng cần lưu ý là nhân tài sẽ có điều kiện xuất hiện trên một nền dân trí
rộng và trên cơ sở việc tổ chức đào tạo nhân lực tốt và nhân tài là người có trí tuệ sắc
bén và những người có bàn tay vàng có những kỹ năng đặc biệt" .
Vì vậy để thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ của đất nước trở thành con
người Việt nam có tài có đức kế tục sự nghiệp cách mạng thì nhiệm vụ của toàn xã
hội nói chung và của các thầy cô giáo trong nghành giáo dục nói riêng phải kịp thời
phát hiện và có kế hoạch bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu.
Đặc biệt, trong thế kỷ XXI thế kỷ mà tri thức, kỹ năng của con người được
xem là yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội thì nhiệm vụ của ngành giáo dục
là phải đào tạo ra những con người phát triển toàn diện có kỹ năng vận dụng, trí tuệ
phát triển thông minh và sáng tạo. Điều này buộc nhà trường phổ thông phải trang
bị được đầy đủ cho học sinh hệ thống những kiến thức cơ bản, hiện đại, phù hợp
với thực tiễn Việt Nam và năng lực tư duy sáng tạo. Và nhiệm vụ cấp thiết đặt ra là

phải đổi mới phương pháp dạy học, áp dụng những phương pháp dạy học hiện đại
để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực phát hiện vấn đề,
năng lực giải quyết vấn đề. Vì thế, có thể nói công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là
một nhiệm vụ quan trọng hàng đầutrong việc nâng cao chất lượng giáo dục, bồi
dưỡng nhân tài trong trường THPT và nhất là các trường THPT chuyên.
1.3.2. Học sinh giỏi và học sinh giỏi Vật lí
1.3.2.1. Học sinh giỏi
Trên thế giới việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi đã có từ rất lâu. Mỗi nước
có một hình thức giáo dục khác nhau và một khái niệm riêng về học sinh giỏi.
-

Luật bang Georgia (Hoa Kỳ) định nghĩa HSG như sau: “HSG là học

sinh chứng minh được trí tuệ ở trình độ cao và có khả năng sáng tạo, thể hiện một
động cơ học tập mãnh liệt và đạt xuất sắc trong lĩnh vực lí thuyết khoa học; người
cần một sự giáo dục đặc biệt và sự phục vụ đặc biệt để đạt được trình độ tương
ứng với năng lực của người đó” (Georgia Law).
-

Cơ quan Giáo dục Hoa Kỳ miêu tả khái niệm học sinh giỏi như sau:

Đó là những học sinh có khả năng thể hiện xuất sắc hoặc năng lực nổi trội trong


các lĩnh vực trí tuệ, sự sáng tạo, khả năng lãnh đạo, nghệ thuật, hoặc các lĩnh vực
lí thuyết chuyên biệt. Những HS này thể hiện tài năng đặc biệt của mình từ tất cả
các bình diện xã hội, văn hóa và kinh tế”.
-

Nhiều nước quan niệm: Học sinh giỏi là những đứa trẻ có năng lực


trong các lĩnh vực trí tuệ, sáng tạo, nghệ thuật và năng lực lãnh đạo hoặc lĩnh vực
lí thuyết. Những học sinh này cần có sự phục vụ và những hoạt động không theo
những điều kiện thông thường của nhà trường nhằm phát triển đầy đủ các năng
lực vừa nêu trên.
Như vậy từ những quan điểm trên chúng ta thấy, những học sinh giỏi là những
học sinh có khả năng đặc biệt như khả năng nhận biết vấn đề, giải quyết vấn đề,
khả năng tư duy sáng tạo. Những HS này thể hiện tài năng đặc biệt của mình ttrên
tất cả các phương diện như xã hội, văn hóa và kinh tế. Dựa trên những khả năng
đặc biệt, học sinh giỏi cần được trau dồi, rèn luyện và phát triển những kỹ năng đó
trong quá trình hoạt động có nhận thức của bản thân, không phải vốn sẵn có được
trời ban cho.
1.3.2.2.Học sinh giỏi vật lí
Một số dấu hiệu của học sinh giỏi vật lí: [5],[16]
- Trong quá trình học tập học sinh có thái độ yêu thích, đam mê, nhiệt tình đối
với môn Vật lí đây chính là điều kiện quan trọng giúp học sinh hình thành và phát
triển được năng lực của bản thân ở bộ môn đó. Từ thái độ, ý thức và trách nhiệm
cao trong công việc, niềm đam mê, sự cần cù đã thực sự phát huy tác dụng đến sự
phát triển nhân cách và năng lực từ đó làm cho các hoạt động trở nên có ý nghĩa và
hiệu quả hơn.
- Có hứng thú đối với cấu trúc logíc của khoa học.
- Có khả năng quan sát rất tốt các sự vật hiện tượng xảy ra xung quanh và có
cách nhìn rất gần gũi với các hiện tượng đó.
- Trong quá trình tiếp thu và ghi nhớ một hiện tượng vật lý nào đó, học sinh
không bị ảnh hưởng bởi các biểu hiện bên ngoài của hiện tượng (lời dẫn, kí hiệu,
hình ảnh...) làm lấn át đi nội dung, bản chất thực sự của hiện tượng.


×