Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

ĐÁNH GIÁ tác DỤNG của bài THUỐC “bổ âm ÍCH KHÍ TIỄN” TRÊN BỆNH NHÂN hạ TRĨ THỂ KHÍ HUYẾT hư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (774.76 KB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

ĐỖ THỊ THANH HƯƠNG

ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG CỦA BÀI THUỐC “BỔ ÂM ÍCH KHÍ TIỄN” TRÊN
BỆNH NHÂN HẠ TRĨ THỂ KHÍ HUYẾT HƯ

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

Hà Nội – 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

ĐỖ THỊ THANH HƯƠNG

ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG CỦA BÀI THUỐC “BỔ ÂM ÍCH KHÍ TIỄN” TRÊN
BỆNH NHÂN HẠ TRĨ THỂ KHÍ HUYẾT HƯ
Chuyên ngành: Y học cổ truyền
Mã số:

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS. BS. Nguyễn Thị Thanh Tú
Hà Nội – 2019


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

BN

Bệnh nhân

YHCT

Y học cổ truyền

YHHĐ

Y học hiện đại


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Tỷ lệ bệnh nhân phân bố theo giới của 2 nhóm
Bảng 3.2. Phân loại theo độ tuổi của 2 nhóm
Bảng 3.3. Một số yếu tố nguy cơ của 2 nhóm
Bảng 3.4. Phân loại độ trĩ của 2 nhóm
Bảng 3.5. Số búi trĩ của 2 nhóm
Bảng 3.6. Phân loại mức độ chảy máu của 2 nhóm
Bảng 3.7. Diễn biến cầm máu theo thời gian của nhóm bệnh nhân dùng bài thuốc Bổ âm

ích khí tiễn
Bảng 3.8. Diễn biến cầm máu theo thời gian của nhóm bệnh nhân dùng Daflon
Bảng 3.9. Thời gian cầm máu trung bình theo mức độ chảy máu ở 2 nhóm
Bảng 3.10. Phân loại kết quả cầm máu 2 nhóm có trĩ độ I
Bảng 3.11. Phân loại kết quả cầm máu 2 nhóm có trĩ độ II
Bảng 3.12. Kết quả chung cầm máu trên 2 nhóm
Bảng 3.13. Thay đổi số bệnh nhân đau theo thời gian điều trị của 2 nhóm
Bảng 3.14. Thay đổi mức độ đau theo thời gian của 2 nhóm (Dựa theo thang điểm)
Bảng 3.15. Tác dụng co nhỏ búi trĩ của nhóm điều trị bài thuốc Bổ âm ích khí tiễn
Bảng 3.16. Tác dụng co nhỏ búi trĩ của nhóm điều trị Daflon
Bảng 3.17. So sánh kết quả điều trị chung của 2 nhóm
Bảng 3.18. Kết quả nghiên cứu sự thay đổi huyết áp trước và sau điều trị của nhóm bệnh
nhân dùng bài thuốc Bổ âm ích khí tiễn
Bảng 3.19. Tác dụng không mong muốn trên lâm sàng của nhóm nghiên cứu
Bảng 3.20. Ảnh hưởng của bài thuốc Bổ âm ích khí tiễn tới sự thay đổi số lượng tiểu cầu,
thời gian máu chảy, thời gian máu đông
Bảng 3.21. Ảnh hưởng của bài thuốc Bổ âm ích khí tiễn tới một số chỉ số huyết học


Bảng 3.22. Ảnh hưởng của bài thuốc Bổ âm ích khí tiễn tới sự thay đổi một số chỉ số sinh
hóa máu
Bảng 3.23. Sự thay đổi một số thành phần trong nước tiểu trước và sau khi điều trị với
bài thuốc Bổ âm ích khí tiễn
Bảng 3.24. Sự thay đổi yếu tố đông máu khi điều trị với bài thuốc Bổ âm ích khí tiễn
Bảng 3.25. Thời gian tái phát chảy máu của 2 nhóm sau 1 tháng


DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ
Hình 1.1. Giải phẫu ống hậu môn
Hình 1.2. Phân loại trĩ nội, trĩ ngoại

Biểu đồ 3.1. Phân loại theo thời gian mắc bệnh của 2 nhóm
Biểu đồ 3.2. Thời gian cầm máu trung bình của 2 nhóm
Biểu đồ 3.3. Kết quả điều trị giảm đau của 2 nhóm
Biểu đồ 3.4. Kết quả co nhỏ búi trĩ của 2 nhóm
Biểu đồ 3.5. Kết quả tác dụng giảm táo bón của 2 nhóm


MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chương 1 - Tổng quan
1.1. Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh của trĩ theo y học hiện đại
1.1.1. Giải phẫu và sinh lý ống hậu môn
1.1.2. Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh của trĩ theo y học hiện đại
1.2. Quan niệm của y học cổ truyền về trĩ
1.2.1. Nguyên nhân gây bệnh
1.2.2. Phân loại trĩ theo y học cổ truyền
1.3. Các phương pháp điều trị trĩ
1.3.1. Các phương pháp điều trị trĩ theo y học hiện đại
1.3.2. Các phương pháp điều trị trĩ theo y học cổ truyền
1.4. Tổng quan về bài thuốc Bổ âm ích khí tiễn
1.4.1. Xuất xứ, thành phần, các nghiên cứu của bài thuốc Bổ âm ích khí tiễn
1.4.2. Tổng quan về dược liệu trong thành phần của bài thuốc Bổ âm ích khí tiễn
1.5. Tổng quan về thuốc Daflon
Chương 2 – Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Địa điểm nghiên cứu

2.2. Thời gian nghiên cứu
2.3. Đối tượng nghiên cứu

1


2.3.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
2.3.2. Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Chất liệu nghiên cứu
2.4.2. Thiết kế nghiên cứu
2.4.3. Cỡ mẫu và chọn mẫu
2.4.4. Phân nhóm nghiên cứu
2.4.5. Quy trình nghiên cứu
2.4.6. Các chỉ tiêu nghiên cứu
2.4.7. Tiêu chuẩn đánh giá kết quả nghiên cứu
2.4.8. Tác dụng không mong muốn của thuốc
2.5. Xử lý và phân tích số liệu
2.6. Đạo đức trong nghiên cứu
Chương 3 - Dự kiến kết quả nghiên cứu
3.1. Một số đặc điểm lâm sàng
3.1.1. Giới tính
3.1.2. Tuổi bệnh nhân
3.1.3. Tiền sử mắc trĩ
3.1.4. Độ trĩ, số lượng búi trĩ
3.1.5. Mức độ chảy máu
3.2. Kết quả về tác dụng điều trị
3.2.1. Tác dụng cầm máu
3.2.2. Tác dụng giảm đau
3.2.3. Tác dụng co nhỏ búi trĩ

3.2.4. Tác dụng giảm triệu chứng táo bón
3.2.5. Kết quả chung
3.3. Các tác dụng không mong muốn của bài thuốc Bổ âm ích khí tiễn


3.3.1. Trên một số triệu chứng lâm sàng
3.3.2. Trên một số chỉ số cận lâm sàng
3.4. Theo dõi chảy máu tái phát của hai nhóm bệnh nhân điều trị bằng bài thuốc Bổ
âm ích khí tiễn và Daflon
Chương 4 - Dự kiến bàn luận
4.1. Kết quả nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng
4.1.1. Giới tính
4.1.2. Tuổi bệnh nhân
4.1.3. Tiền sử mắc trĩ
4.1.4. Độ trĩ, số lượng búi trĩ
4.1.5. Mức độ chảy máu
4.2. Kết quả điều trị của bài thuốc Bổ âm ích khí tiễn
4.2.1. Tác dụng cầm máu
4.2.2. Tác dụng giảm đau
4.2.3. Tác dụng co nhỏ búi trĩ
4.2.4. Tác dụng giảm triệu chứng táo bón
4.3. Các tác dụng không mong muốn của bài thuốc Bổ âm ích khí tiễn
4.3.1. Trên một số triệu chứng lâm sàng
4.3.2. Trên một số chỉ số cận lâm sàng
4.4. Kết quả nghiên cứu theo dõi chảy máu tái phát của hai nhóm bệnh nhân điều trị
bằng bài thuốc Bổ âm ích khí tiễn và Daflon
DỰ KIẾN KẾT LUẬN
KẾ HOẠCH THỰC HIỆN
KINH PHÍ CHO ĐỀ TÀI
ĐỀ XUẤT VỀ GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh trĩ là một bệnh thường gặp với tỷ lệ mắc cao trong cộng đồng và là bệnh đứng
hàng đầu trong các bệnh lý hậu môn trực tràng [1]. Ở Áo, theo Riss S. Weiser FA và cộng
sự nghiên cứu về sự phổ biến của bệnh trĩ trong một chương trình chăm sóc sức khỏe thì
có 380/970 người tham gia điều tra mắc bệnh trĩ (38,93%) [2]. Theo Kim HS, Baik SJ và
cộng sự nghiên cứu tỷ lệ và các yếu tố nguy cơ đối với các bệnh đường tiêu hóa ở người
Mỹ gốc Hàn và người Hàn Quốc, cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ở 2 nhóm là 29,4% so với
21,3% [3].
Ở Việt Nam, theo nhiều báo cáo, bệnh trĩ chiếm tỷ lệ cao trong cộng đồng. Trần
Khương Kiều điều tra theo phương pháp dịch tễ học số người mắc bệnh trĩ là 76,97% ±
3% 4. Theo thống kê tại phòng khám hậu môn trực tràng của khoa phẫu thuật tiêu hóa
Bệnh viện Việt Đức, bệnh trĩ chiếm tỷ lệ 45% số bệnh nhân (BN) đến khám về hậu môn
trực tràng [5]. Điều tra dịch tễ học mới nhất của Nguyễn Mạnh Nhâm và cộng sự ở 5
tỉnh miền Bắc phát hiện được 1446/2651 người dân mắc bệnh trĩ chiếm tỷ lệ 55% [6].
Chẩn đoán xác định bệnh trĩ bằng nội soi hậu môn trực tràng [7]. Chỉ định điều trị
tùy theo giai đoạn phát triển của bệnh, hoàn cảnh và nguyện vọng của bệnh nhân, kinh
nghiệm của thầy thuốc, trang thiết bị của cơ sở. Theo y học hiện đại (YHHĐ), điều trị
bệnh trĩ có thể bằng nội khoa, thủ thuật, phẫu thuật. Bệnh trĩ là bệnh thường gặp tại khoa
Ngoại y học cổ truyền. Các phương pháp điều trị theo y học cổ truyền (YHCT) cũng rất
đa dạng: Gồm các phương pháp dùng thuốc (uống thuốc, ngâm thuốc, đắp thuốc, bôi
thuốc) và không dùng thuốc (châm cứu). Hai bài thuốc cổ phương: Bổ trung ích khí thang
và Tứ quân tử thang qua hàng trăm năm phát triển của nền YHCT đã khẳng định vai trò
trong điều trị hạ trĩ thể khí huyết hư. Do vậy, chúng tôi tiếp tục tiến hành nghiên cứu


phương dược trên lâm sàng điều trị hạ trĩ thể khí huyết hư nhằm đánh giá tác dụng của bài

thuốc Bổ âm ích khí tiễn [8]. Đề tài có hai mục tiêu cụ thể sau:
1. Đánh giá tác dụng điều trị của bài thuốc Bổ âm ích khí tiễn trên bệnh nhân hạ trĩ
thể khí huyết hư.
2. Theo dõi tác dụng không mong muốn của bài thuốc Bổ âm ích khí tiễn trên lâm
sàng và cận lâm sàng.


Chương 1
Tổng quan
1.1. Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh của trĩ theo y học hiện đại
1.1.1. Giải phẫu và sinh lý ống hậu môn
1.1.1.1. Giải phẫu ống hậu môn
Ống hậu môn bắt đầu ở nơi mà bóng trực tràng đột ngột hẹp lại và từ đây chạy
xuống dưới và ra sau tới hậu môn. Nó dài khoảng 4 cm ở người trưởng thành, thành trước
của nó hơi ngắn hơn thành sau. Ở sau ống hậu môn là một khối mô xơ – cơ, gọi là thể hậu
môn – cụt, ngăn cách nó với đỉnh xương cụt; ở phía trước, nó được thể đáy chậu ngăn
cách với niệu đạo màng và hành dương vật hoặc với phần dưới âm đạo; ở hai bên là các
hố ngồi – trực tràng. Trên toàn bộ chiều dài của nó, ống hậu môn được vây quanh bởi các
cơ thắt giữ cho nó ở trạn thái đóng, trừ khi tiết phân. [9]
Niêm mạc của nửa trên ống hậu môn (khoảng 15mm) là thượng mô trụ đơn giống
như trực tràng. Tại đây có 6 – 10 nếp dọc nhô lên gọi là các cột hậu môn (anal columns),
mỗi cột chứa một nhánh tận cùng của động mạch và tĩnh mạch trực tràng trên và các bó
sợi cơ dọc. Đây là nơi các tĩnh mạch trực tràng trên của hệ thống của tiếp nối với các tĩnh
mạch trực tràng giữa và dưới. Đường nối đầu trên của các cột hậu môn là đường nối hậu
môn – trực tràng (anorectal junction). Nền của các cột hậu môn ở dưới được nối với nhau
bằng các nếp hình bán nguyệt gọi là các van hậu môn (anal valves). Ở trên mỗi van là
một ngách nhỏ gọi là xoang hậu môn (anal sinus). Các van hậu môn nằm dọc theo đường
lược (pectinate line), một đường nằm ngang mức giữa cơ thắt hậu môn trong. Ống hậu
môn kéo dài tới khoảng 15mm dưới các van hậu môn như là vùng chuyển tiếp hậu môn
(anal transition zone) hay lược hậu môn (anal pecten). Thượng mô vùng này là thượng

mô lát tầng không sừng hóa. Vùng chuyển tiếp tận cùng ở dưới tại một vùng hẹp gọi là
rãnh gian cơ thắt hậu môn (hay đường trắng); rãnh này nằm trong khoảng giữa bờ dưới


của cơ thắt hậu môn trong và phần dưới da của cơ thắt hậu môn ngoài. Dưới đường trắng,
8mm cuối cùng của ống hậu môn được phủ bằng da thật sự. [9]

Hình 1.1 Giải phẫu ống hậu môn
(Nguồn Atlas giải phẫu người Frank Neetter)
Hệ cơ hậu môn: Thành hậu môn được vây quanh bởi cơ thắt hậu môn trong và cơ
thắt hậu môn ngoài. Cơ thắt hậu môn trong (internal anal sphincter) là một ống cơ trơn


vòng dày 5 – 8 mm bao quanh ¾ trên của ống hậu môn, từ đường tiếp nối hậu môn – trực
tràng tới đường trắng. Cơ thắt hậu môn ngoài (external anal sphincter) là một ống cơ vân
nằm nông hơn cơ thắt hậu môn trong và bao quanh toàn bộ ống hậu môn. Nó được chia
thành ba phần, tính từ trên xuống, là phần sâu, phần nông và phần dưới da. Phần dưới da
bao quanh đầu dưới ống hậu môn, ở dưới bờ dưới cơ thắt trong, hai phần kia bao quanh
cơ thắt trong. [9]
Liên hệ lâm sàng: Trĩ nội là những búi giãn của các nhánh của tĩnh mạch trực tràng
trên được bọc bởi niêm mạc. Các nhánh của tĩnh mạch trực tràng trên mà nằm trong các
cột hậu môn ở các vị trí 3, 7 và 11 giờ rất hay bị giãn. Búi giãn có thể chỉ nằm trong ống
hậu môn, nhô ra khỏi ống hậu môn lúc đi ngoài rồi trở lại, hoặc nhô ra khỏi ống hậu môn
mà không co trở lại được. Trĩ ngoại là những búi giãn của các nhánh của tĩnh mạch trực
tràng dưới khi chúng từ bờ hậu môn chạy sang bên. Chúng được phủ bởi da. [10]
Mạch máu của hậu môn - trực tràng:
- Động mạch: Có ba động mạch cấp máu cho vùng này.
+ Động mạch trực tràng trên (Động mạch trĩ trên): Là nhánh tận của động mạch
mạc treo tràng dưới [11].
+ Động mạch trực tràng giữa (Động mạch trĩ giữa): Động mạch trực tràng giữa bên

phải và bên trái xuất phát từ động mạch hạ vị, cấp máu cho phần dưới bóng trực tràng và
phần trên của ống hậu môn [12], [13].
+ Động mạch trực tràng dưới (Động mạch trĩ dưới): Động mạch trực tràng dưới
bên phải và bên trái xuất phát từ động mạch thẹn trong cấp máu cho hệ thống cơ thắt, các
nhánh tận cấp máu cho 1/3 dưới hậu môn và vùng da hậu môn.
- Tĩnh mạch: Gồm đám rối tĩnh mạch trĩ trong và đám rối tĩnh mạch trĩ ngoài.
+ Đám rối tĩnh mạch trĩ trong: Máu từ đám rối tĩnh mạch trĩ trong được dẫn về tĩnh
mạch trực tràng trên, đổ về tĩnh mạch mạc treo tràng dưới (Hệ cửa). Khi đám rối tĩnh
mạch trĩ trong giãn tạo nên trĩ nội.


+ Đám rối tĩnh mạch trĩ ngoài: Máu từ đám rối tĩnh mạch trĩ ngoài đổ vào tĩnh
mạch trực tràng giữa và dưới rồi đổ vào tĩnh mạch hạ vị (Hệ chủ). Đám rối tĩnh mạch trĩ
ngoài giãn tạo ra trĩ ngoại. Hai đám rối này được phân cách nhau bởi dây chằng Parks,
khi dây chằng này thoái hóa mất độ bền chắc sẽ chùng ra, hai đám rối sát liền nhau, trĩ
nội sẽ mất liên kết với trĩ ngoại tạo nên trĩ hỗn hợp. Khi trĩ hỗn hợp to ra có thể không
nằm riêng rẽ nữa mà liên hết nhau tạo nên trĩ vòng [14].
+ Các nối thông động - tĩnh mạch: Durett cho thấy có sự thông thương giữa động tĩnh mạch ở lớp dưới niêm mạc của ống hậu môn và máu ở trĩ là máu động mạch nên tác
giả đưa ra lý thuyết thông động tĩnh mạch góp phần gây bệnh.
Thần kinh: Hậu môn trực tràng được chi phối bởi thần kinh sống và thần kinh thực
vật [13]. Hoạt động bài tiết phân thực hiện được tự chủ thông qua sự chi phối của hai hệ
thần kinh này.
- Thần kinh sống: Hệ thần kinh sống có dây thần kinh hật môn, tách từ dây cùng III
và dây cùng IV. Dây này vận động cơ thắt hậu môn và cảm giác vùng quanh lỗ hậu môn,
phẫu thuật làm tổn thương dây này sẽ gây nên mất tự chủ khi đại tiện.
- Thần kinh thực vật: Hệ thần kinh thực vật có các sợi thần kinh tách từ đám rối hạ
vị. Các dây giao cảm từ các hạch giao cảm thắt lưng. Các sợi phó giao cảm xuất phát từ
hai nguồn. Các sợi tận cùng của dây thần kinh X đi qua đám rối mạc treo tràng dưới, qua
dây cùng trước và dây hạ vị đi xuống. Các nhánh này vận động và chỉ huy việc tiết dịch
trực tràng. Các dây cùng tách ra từ đoạn cùng của tủy sống và mượn đường đi của rễ

trước thần kinh cùng II, III, IV tới đám rối hạ vị chi phối cho các tạng niệu dục, điều này
giải thích cho các rối loạn tiểu tiện ở các bệnh nhân có phẫu thuật ở vùng hậu môn trực
tràng do sự chi phối của thần kinh thực vật [15], [16].
1.1.1.2. Sinh lý
Sự tự chủ hậu môn: Khả năng tự chủ của hậu môn tùy thuộc vào một chuỗi quá
trình phức tạp, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Hiện nay với những hiểu biết về sinh bệnh
học bệnh trĩ, các nhà hậu môn học công nhận đám rối tĩnh mạch trĩ là trạng thái sinh lý


bình thường, tạo nên lớp đệm ở ống hậu môn, giúp kiểm soát sự tự chủ của đại tiện [17],
[18].
Khi phân xuống trực tràng làm tăng áp lực trong bóng trực tràng và kích thích các
bộ phận nhận cảm áp lực để từ đó gây ra các phản xạ giúp tự chủ hậu môn (Phản xạ ức
chế và phản xạ bảo vệ).
Cơ chế đại tiện: Ống hậu môn với chức năng sinh lý chính là đào thải phân bằng
động tác đại tiện. Hoạt động sinh lý bình thường của ống hậu môn hoàn toàn tự chủ [19],
[20].
Khi muốn đi đại tiện thì cơ thể phải hủy bỏ cơ chế giữ phân như đã nêu, phân xuống
đến trực tràng áp lực trong bóng trực tràng đến ngưỡng (45mmHg) thì có cảm giác buồn đại
tiện: Phản xạ ức chế cơ thắt ngoài và bó mu trực tràng xuất hiện làm cho hai cơ này giãn ra,
kết hợp với tư thế ngồi gấp đùi 90 0 sẽ làm mất góc hậu môn - trực tràng; động tác rặn làm
tăng áp lực trong ổ bụng để đẩy phân xuống, lúc này hiệu ứng van không còn nữa áp lực trực
tràng tăng cao vượt quá sức cản của ống hậu môn, phân được tống ra ngoài [21].
1.1.2. Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh của trĩ theo y học hiện đại
1.1.2.1. Nguyên nhân
Nguyên nhân của bệnh trĩ chưa được xác định một cách rõ ràng. Đa số các tác giả cho
rằng bệnh trĩ xuất hiện trên những cơ địa đặc biệt (Di truyền), thể trạng nhất định, do những
yếu tố thuận lợi phát sinh bệnh gây ra như [22], [23]:
- Yếu tố gia đình và đẻ nhiều.
- Yếu tố nòi giống (Người Do Thái bị trĩ nhiều hơn).

- Yếu tố nghề nghiệp (Đứng, ngồi lâu...), một số môn thể thao như đua ngựa...
- Tư thế đứng: Trĩ gặp nhiều ở những người phải đứng lâu, phải ngồi nhiều. Tăng
áp lực trong khoang bụng: Ở người lao động tay chân nặng nhọc, suy tim... áp lực trong ổ
bụng tăng và bệnh trĩ dễ xuất hiện [24].
- Yếu tố tâm sinh lý: Bực bội, buồn vui quá mức, lao động trí óc căng thẳng...
- Rối loạn lưu thông ruột.


- Tuổi: Tuổi càng nhiều càng dễ mắc.
- Giới: Nữ nhiều hơn nam, ở Việt Nam thì ngược lại.
- Các bệnh của hậu môn, trực tràng: Viêm đại tràng mạn, viêm loét đại trực tràng
chảy máu, lỵ amip mạn...[25]
- Chế độ ăn không điều độ.
- U hậu môn trực tràng và tiểu khung làm cản trở máy hậu môn trực tràng trở về
cũng là nguyên nhân của trĩ.
- Thai kỳ: Trĩ thường gặp lúc phụ nữ đang mang thai, sau mỗi lần mang thai, trĩ
đều nặng hơn.
Ngoài ra còn một số yếu tố khác như: Béo phì, đái tháo đường là những yếu tố
thuận lợi dễ phát sinh ra bệnh trĩ.
1.1.2.2. Cơ chế bệnh sinh
Hiện nay có hai thuyết về nguồn gốc phát sinh ra bệnh trĩ được nhiều người chấp
nhận: Thuyết cơ học và thuyết huyết động [26], [27].
Thuyết cơ học: Trĩ nội được giữ tại chỗ đúng vị trí nhờ các dải xơ cơ có tính đàn
hồi. Khi có hiện tượng thoái hóa keo thì các dải này nhẽo dần đến đứt hoặc tình trạng
các mô lỏng lẻo. Thành tĩnh mạch không được các tổ chức bao quanh nâng đỡ sinh ra
trĩ. Hiện tượng thoái hóa này bắt đầu từ độ tuổi 20 bởi vậy bệnh trĩ ít thấy ở trẻ em.
Khi đã có sự trùng nhẽo đứt các dây chằng, tổ chức nâng đỡ và áp lực trong các
khoang bụng tăng lên do táo bón kinh niên, rối loạn đại tiện hay các nguyên nhân khác
thì các búi trĩ nội phồng to bị đẩy ra ngoài hậu môn. Lúc đầu trĩ còn nằm trong lòng
hậu môn nhưng khi các dải treo đứt hẳn chúng sa ra ngoài và thường xuyên nằm ngoài

ống hậu môn [28].
Thuyết huyết động: Được mô tả theo các nghiên cứu mô học và quan sát trên kính hiển
vi điện tử, thuyết này liên quan đến cả tuần hoàn động - tĩnh mạch. Diện vi tuần hoàn của ống
hậu môn chứa các Shunt động - tĩnh mạch có khả năng phản ứng với các kích thích nội tiết
hoặc sinh lý thần kinh. Các Shunt động - tĩnh mạch ở tuần hoàn nông dưới niêm mạc đóng lại


khi nghỉ ngơi cho phép sự trao đổi máy trong mô. Khi chúng nở ra đột ngột dưới tác động của
các kích thích làm gia tăng lượng máu trong động tĩnh mạch trĩ, kết quả là mô không được
nuôi dưỡng. Hiện tượng này đi kèm theo sự co thắt mạch và làm gia tăng áp lực đột ngột và
giãn đám rối tĩnh mạch trĩ. Điều này giải thích tại sao chảy máu trong bệnh trĩ lại là máu đỏ
tươi do đám rối tĩnh mạch trĩ giãn ra và chứa đầy máu động mạch. Các triệu chứng lâm sàng
có thể nặng lên do viêm nhiễm và huyết khối, khi dòng máu tĩnh mạch bị tắc nghẽn bởi gắng
sức do táo bón do trĩ sa [29], [30].
Toàn bộ các Shunt động - tĩnh mạch tượng trưng cho một nguồn máu có thể đầy
ngập dưới sự điều khiển của thần kinh tạng.
1.1.2.3. Bản chất của trĩ
Kết quả các công trình nghiên cứu về mạch máu và mô học cho thấy trĩ là một cấu
trúc mạng mạch bình thường được nhiều tác giả công nhận [22]. Trong điều kiện bệnh lý nào
đó, một động mạch bị tắc nghẽn thì mạng mạch sẽ đóng vai trò bù trừ mà bình thường tầm
quan trọng của nó ít được biết đến. Khi mất khả năng bù trừ sẽ nảy sinh ra bệnh trĩ và xuất
hiện triệu chứng chảy máu gặp trong bệnh trĩ [13].
1.1.2.4. Giải phẫu bệnh học
Trĩ nội: Bắt đầu từ khoang cạnh hậu môn dưới niêm mạc ở đám rối trĩ trong (Hệ
tĩnh mạch cửa). Như vậy, trĩ nội là đám rối mạch máu ở các đệm Thomson phì đạo có
nguồn gốc trên đường lược và được phủ bởi niêm mạc (Rất quan trọng để phân biệt với
trĩ ngoại khi bị sa xuống dưới - khi bị sa xuống dưới trĩ nội có thể nằm ở dưới đường lược
nhưng vẫn nhận ra được vì nó được che phủ bởi lớp niêm mạc). Các búi trĩ này thường
xuất hiện ở vị trí 3h, 8h,11h (Tư thế nằm ngửa) và các búi phụ (Thường nhỏ hơn) nằm rải
rác xen lẫn hoặc hòa nhập với các búi trĩ chính. Khi các búi trĩ dầy chi chít chiếm hết lỗ

hậu môn gọi là trĩ vòng [13]. Về vi thể: Búi trĩ gồm các yếu tố huyết quản bị giãn, thành
mạch dầy lên có những kẽ hở thông giữa động mạch với tĩnh mạch, nhiều tổ chức xơ
chun như tổ chức hang [31].
1.1.2.5. Chẩn đoán


Bệnh trĩ lúc mới xuất hiện thường biểu hiện không rõ ràng, chẩn đoán xác định
bằng nội soi hậu môn trực tràng [7].

Hình 1.2 Trĩ nội và trĩ ngoại
(Nguồn: Nurse - books)
- Biểu hiện lâm sàng
Gồm 5 triệu chứng hay gặp nhất [32]
+ Đại tiện ra máu tươi: Là triệu chứng sớm và hay gặp nhất. Thường biểu hiện ở
các mức độ khác nhau như thành tia, nhỏ giọt hoặc dính vào giấy vệ sinh. Mất máu kéo
dài gây tình trạng thiếu máu mạn tính.
+ Sa trĩ: Có sa từng búi hoặc cả vòng trĩ, búi trĩ sa nặng hay nhẹ tùy theo mức độ
có thể tự co lên hoặc phải dùng tay đẩy vào, có khi toàn bộ sa tụt hẳn hoặc ra ngoài lỗ hậu
môn. + Đau: Trĩ bình thường không gây đau trừ khi có biến chứng tụ máu, huyết khối,
viêm hoặc kèm theo các bệnh khác (Nứt kẽ hậu môn)
+ Ngứa: Thường gặp, gây trầy xước và chảy máu (Sang thương bờ hậu môn chiếm
50% trường hợp).


+ Chảy dịch: Trong bệnh trĩ chất tiết là kết quả của quá trình viêm gồm chất lỏng
hoặc nhầy có thể bệnh nhân chỉ cảm thấy ẩm ướt ở bờ hậu môn hoặc chất tiết làm bẩn quần
lót. Chất tiết có thể gây ngứa và làm chảy máu do gãi.
- Thăm và soi hậu môn
+ Thăm khám: Nhìn có thể thấy trĩ ngoại (Da thừa), sa búi trĩ - niêm mạc hậu môn.
Nhìn kỹ ở trĩ độ 2 có khi thấy rìa hậu môn hơi phồng lên ở vị trí búi trĩ. Banh 2 mông và

bảo bệnh nhân rặn mạnh, búi trĩ sẽ lòi ra ngoài, thôi rặn lại tụt vào. Trĩ độ 3 thì búi trĩ cứ
tồn tại, ở ngoài phủ bởi niêm mạc, có thể phần trĩ ngoại phủ bởi da phồng lên, rãnh liên
trĩ lúc này còn rõ. Ở trĩ độ 4, cả trĩ nội và ngoại cùng to lên, phần trĩ nội to hơn, bị sừng
hóa nhiều hay ít.
+ Thăm trực tràng là động tác bắt buộc với bệnh nhân trĩ. Khi không có biến chứng,
búi trĩ mềm không phát hiện được gì. Thăm trực tràng bằng ngón trỏ để kiểm tra khả năng co
thắt của cơ thắt vòng hậu môn, xác định tổn thương của búi trĩ xem có hiện tượng tắc mạch
hay không. Xác định tổn thương đi cùng với bệnh trĩ như áp xe, rò hậu môn, nứt kẽ hậu môn,
ung thư hậu môn - trực tràng...
+ Soi trực tràng để đánh giá tổn thương của bệnh trĩ, qua soi hậu môn trực tràng để
phân độ trĩ nội và cho phép đánh giá tổn thương khác như nứt kẽ, polip trực tràng, viêm
loét trực tràng và đặc biệt là phát hiện ra ung thư trực tràng về đại thể. Những tổn thương
viêm loét, ung thư trực tràng nhiều khi dễ nhầm với bệnh trĩ do chúng cũng có biểu hiện
đại tiện ra máu [33].
- Phân độ trĩ nội [34]:
+ Độ 1: Các tĩnh mạch giãn cương tụ, đội niêm mạc phồng lên vào trong lòng trực
tràng, khi rặn không lòi ra ngoài.
+ Độ 2: Các tĩnh mạch trĩ giãn nhiều hơn và tạo thành các búi rõ rệt. Khi rặn các
búi trĩ sa ra ở hậu môn và tự co lên được.
+ Độ 3: Khi rặn nhẹ là sa ra ngoài không tự co lên được phải đẩy lên.
+ Độ 4: Búi trĩ to luôn sa ra ngoài không đẩy lên được.


1.2. Quan niệm của y học cổ truyền về trĩ
1.2.1. Nguyên nhân gây bệnh
Trong “Hoàng đế nội kinh”, Tố Vấn Bạch Thoại giải đã ghi chép nguyên nhân sinh
ra bệnh trĩ là do “cân mạch hoành giải trường tích thành trĩ” (Nguyên nhân sinh ra trĩ là
do cân mạch bị giãn rộng) [35]. Ngoài ra phát sinh bệnh trĩ còn do âm dương khí huyết
không điều hòa, bên ngoài do lục dâm, bên trong do thất tình gây nên [36].
Trong “Trung y ngoại khoa học giảng nghĩa” tóm tắt có các loại nguyên nhân sau:

- Nguyên nhân về ăn uống: Ăn quá nóng, no đói thất thường, ăn đồ ăn sống lạnh,
uống nhiều rượu, ăn béo ngậy, ăn quá cay.
- Nguyên nhân về chế độ sinh hoạt: Đứng lâu, ngồi lâu, vác nặng đi xa, phòng sự
quá độ.
- Nguyên nhân khác: Ỉa chảy mạn, táo bón kéo dài, thể chất quá suy yếu, mang thai
nhiều lần [37].
Các nguyên nhân trên có thể làm khí huyết loạn hành, kinh lạc giao cắt dẫn đến
huyết ứ, trọc khí hạ trú hậu môn gây nên trĩ.
Sau mắc các bệnh làm rối loạn chức năng của các tạng phủ như can, tâm, tỳ, thận
(Can khắc tỳ, can tâm thận âm hư, tâm tỳ hư...) gây khí hư, huyết ứ làm trung khí hư hạ
hãm sinh ra trĩ.
Trong y học truyền thống của Trung Quốc đề cập đến nguyên nhân gây ra trĩ nội và
trĩ ngoại:
- Nguyên nhân gây trĩ nội: Ăn uống không điều độ, đứng ngồi lâu, vác nặng, đi xa,
mang thai nhiều lần có thể làm nội sinh táo nhiệt hạ xuống đại tràng, kinh lạc bị giao cắt,
tuần hoàn trở ngại uất tích thành trĩ.
- Nguyên nhân gây trĩ ngoại: Thấp nhiệt hạ chú, đi lỵ nhiều lần hoặc nứt hậu môn
độc tà xâm nhập, làm vận hành khí huyết bị trở ngại, kinh mạch bị tắc gây nên; nhiệt làm
tổn thương huyết lạc, ứ huyết không tan gây nên [35].
Chảy máu từ búi trĩ có thể do:


- Hạ trĩ thể khí huyết hư, trong đó tỳ hư không thống nhiếp huyết làm huyết vọng
hành, gây xuất huyết.
- Hạ trĩ thể huyết nhiệt và thấp nhiệt: Do nhiệt bức huyết vọng hành, gây xuất
huyết.
- Hạ trĩ do sang thương, phân táo kết rặn nhiều gây xuất huyết [38].
1.2.2. Phân loại trĩ theo y học cổ truyền
- Theo y văn kinh điển:
Hải thượng lãn ông chia bệnh trĩ thành 5 loại: Mẫu trĩ, tẫn trĩ, khí trĩ, tửu trĩ, huyết trĩ

[39], [40].
Tuệ Tĩnh phân chia trĩ làm 5 loại: Trĩ ngoại, trĩ nội, thử trĩ, nung sang, trùng trĩ
[41].
Ngoại khoa Đại thành (Kỳ khôn đời Thanh) chia trĩ làm 24 loại [42]: Tạng ung trĩ,
tỏa giang trĩ, phiếm hoa trĩ, liên hoa trĩ, trùng điệp trĩ, nội ngoại trĩ, đởm huyền trĩ, huyết
tiễn trĩ, khí tráng trĩ, diên giang trĩ, giang mai trĩ, tử mẫn trĩ, thư hùng trĩ, lăng giác trĩ, bồ
đào trĩ, hạnh đào trĩ, thạch lựu trĩ, anh đào trĩ, ngưu mẫu trĩ, kê quán trĩ, kê tâm trĩ, thử vĩ
trĩ.
- Hiện nay đa phần các sách YHCT đều chia bệnh trĩ thành 3 thể [43]: Thể huyết ứ, thể
thấp nhiệt, thể khí huyết đều hư.
1.3. Các phương pháp điều trị trĩ
1.3.1. Các phương pháp điều trị trĩ theo y học hiện đại
- Nguyên tắc [22]:
+ Bệnh trĩ có nhiều mức độ tổn thương, nhiều hình thái khác nhau do đó phải chọn
phương pháp điều trị thích hợp.
+ Phải điều trị các rối loạn được coi là yếu tố thuận lợi gây bệnh trĩ.
- Mục tiêu chính của điều trị trĩ là giảm các triệu chứng gây khó chịu và cải thiện
chất lượng sống cho bệnh nhân.
1.3.1.1 Điều trị bảo tồn (Nội khoa): Là sự lựa chọn ban đầu trong điều trị trĩ


- Ngăn chặn yếu tố thuận lợi:
+ Chế độ ăn uống: Chế độ ăn nhiều chất xơ giúp phòng ngừa táo bón và làm giảm
triệu chứng của bệnh trĩ. Uống nhiều nước đều đặn. Tránh dùng các thức ăn đồ uống gây
táo bón, gây kích thích.
+ Chế độ sinh hoạt: Đại tiện ngày 1 - 2 lần, tập thói quen đi đại tiện đúng giờ giấc,
không có đi đại tiện khi chưa mót rặn, vệ sinh hậu môn bằng nước ấm (Sau khi đi ngoài và
ngâm hậu môn vào nước ấm 10 - 15 phút, ngày 2 - 3 lần). Làm việc vừa sức, tránh những
công việc nặng nhọc, những động tác phải gắng sức nhiều làm cho áp lực ổ bụng tăng
lên. Tránh những công việc phải đứng lâu, phải ngồi nhiều. Tránh thức khuya, tránh căng

thẳng thần kinh.
- Điều trị nội khoa [22]:
+ Điều trị các rối loạn đại tiện: Táo bón, ỉa lỏng. Chữa viêm đại tràng, táo bón làm
bệnh nhân khi đi đại tiện phải rặn nhiều, có thể dùng các thuốc trị amip cấp và mạn tính
như Flagy, Entetric… kết hợp với kháng sinh và các thuốc chống co thắt hoặc điều chỉnh
rối loạn ruột bằng Debridat…
+ Thông thường dùng các thuốc có tác dụng làm tăng sức bền của tĩnh mạch bằng
đường uống: Các thuốc họ Flavonoid, Rutosid, Gingko giloba như Daflon, vitamin P,
Ginkoproto, Ginko Fort, Cyclo 3 fort…
+ Các thuốc đặt tại chỗ làm giảm đau, chống ngứa như Menthol và các dẫn xuất
của Cocain.
+ Chống nhiễm khuẩn: Dùng kháng sinh các loại.
+ Chống phù nề: Dùng alpha chymotrysin hoặc Amitase.
+ Thuốc có thể dùng dưới dạng viên uống hoặc mỡ bôi ngoài quanh hậu môn lên
các búi trĩ ngoại, bôi trong lòng ống hậu môn cho trĩ nội.
+ Viên đạn đặt hậu môn: Proctolog, Preparation - H.


Điều trị nội khoa có tác dụng tốt với trĩ nội độ I, II. Điều trị phối hợp trong các đợt
trĩ cấp, độ II, III, IV để làm giảm các triệu chứng, chuẩn bị tốt cho điều trị với các thủ
thuật.
1.3.1.2. Các phương pháp dùng dụng cụ (Thủ thuật)
Hiện nay có hai phương pháp chính được sử dụng rộng rãi là tiêm xơ và thắt trĩ
bằng vòng cao su. Chỉ định trong điều trị trĩ nội độ I, II, III chảy máu [44]. Chống chỉ
định của hai phương pháp này là trĩ nội độ III, độ IV, tụ máu nhồi máu lớn, trĩ hỗn hợp,
trĩ ngoại, đang viêm nhiễm ở hậu môn [45].
1.3.1.3. Điều trị phẫu thuật
Điều trị trĩ bằng phẫu thuật là phương pháp điều trị tiệt căn nhất [46]. Nhược điểm
của phẫu thuật là gây đau, can thiệp vào giải phẫu học bình thường và kèm theo nguy cơ
biến chứng. Do vậy, chỉ lựa chọn phẫu thuật trong các trường hợp sau: Trĩ nội độ IV, độ

III có huyết khối, trĩ vòng sa, trĩ lớn bị sa hoặc chảy máu đáng kể hoặc khi tất cả các
phương pháp điều trị khác thất bại [47], [48].
1.3.2. Các phương pháp điều trị trĩ theo y học cổ truyền
Hiện nay, có 3 nhóm phương pháp điều trị là nội khoa, thủ thuật và kết hợp YHCT
và YHHĐ.
1.3.2.1. Điều trị nội khoa [49]
- Hạ trĩ thể huyết ứ: Lương huyết chỉ huyết. Phương dược: Hòe giác địa du hoàn,
Lương huyết địa hoàng thang, Hòe hoa tán [50]. Châm cứu: Trường cường, Thứ liêu, Đại
trường du, Túc tam lý, Tam âm giao, Thừa sơn, Hợp cốc.
- Hạ trĩ thể thấp nhiệt: Thanh nhiệt lợi thấp, hoạt huyết chỉ thống. Phương dược:
Tần cửu phòng phong thang, Tần cửu bạch truật hoàn, Chè trĩ số 9 của Viện YHCT Việt
Nam [51]
- Hạ trĩ thể khí huyết hư: Ích khí thăng đề, bổ huyết chỉ huyết. Phương dược: Bổ
trung ích khí thang [52], Tứ quân tử thang gia vị. Châm cứu: Châm bổ các huyệt Trường
cường, Túc tam lý, Tam âm giao, Huyết hải, Tỳ du, Thận du.


Trung y điều trị bệnh trĩ chủ yếu theo các chứng trạng [53].
- Chống đau (Chỉ thống): Dù cho phong, táo, thấp, nhiệt đều dùng bài “Chỉ thống
thang” coi như thần dược.
- Cầm máu (Chỉ huyết): Bất kể máu chảy nhiều hay ít, chảy máu trước phân hoặc
sau phân, chảy máu này đều kết luận do huyết nhiệt gây nên, vì vậy dùng bài thuốc
“Lương huyết địa hoàng thang”
- Chống sa trĩ, dùng bài “Bổ trung ích khí thang”.
Dùng các bài thuốc ngâm rửa điều trị trĩ nội và ngoại: Có thể dùng một trong các
bài thuốc sau:
- Bài 1 [54]: Kha tử 100g, Phèn phi 10g.
Cho 1 lít nước đun Kha tử sôi 15 phút, pha phèn phi rồi ngâm rửa.
- Bài 2 [55]: Hạt cau, Hoàng bá, Đảm phàn.
Thuốc tán bột, đóng gói 10g/gói. Khi dùng chỉ việc cho thuốc vào nước sôi để

nguội ngâm hậu môn 10 phút/ lần. Ngày ngâm 1-2 lần.
- Bài 3: Hoàng bá 12g, Ngũ bội tử 12g, Hoa kinh giới 12g, Phèn phi 12g.
Cho 1 lít nước đun còn 300ml, ngâm rửa sau đại tiện.
- Bài 4 [53]: Dùng bài “Ngũ bội tử thang”
Các bài thuốc ngâm rửa này chỉ có tác dụng sát trùng, làm khô các búi trĩ.
1.3.2.2. Điều trị thủ thuật [56]
- Tiêm chai xơ búi trĩ: Chỉ định trĩ nội độ 2 – 3. Chất gây xơ chai có thể là persulfat
sắt, acid carbonic 10 – 20%, dầu oliu, cồn 90 0 hoặc dung dịch phenol 5% hoặc huyết
thanh nóng.
- Thắt trĩ bằng vòng cao su: Chỉ định trĩ nội độ 2 – 3.
- Thuốc làm hoại tử rụng trĩ (Khô trĩ tán): Chỉ định trĩ nội độ 2 – 3.
Thạch tín (Bạch phê)

20g

Bạch phèn (Phèn chua)

80g

Lưu hoàng (Diêm sinh)

08g


×