Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

Đánh giá tác dụng của viên nang cứng “đại tràng khang ninh HV”trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân có hội chứng ruột kích thích thể lỏng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 87 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng ruột kích thích (HCRKT) là một hội chứng thường gặp của
đường tiêu hóa với các rối loạn chức năng ruột, bao gồm một nhóm các triệu
chứng như: đau bụng, trướng bụng, rối loạn đại tiện,… Các triệu chứng này
tái đi tái lại nhiều lần mà không tìm thấy tổn thương về giải phẫu bệnh hoặc
có rối loạn về hóa sinh. Trước đây, hội chứng này có nhiều tên gọi khác nhau
như: Viêm đại tràng co thắt, viêm đại tràng nhầy, rối loạn chức năng đại tràng,
bệnh chức năng đại tràng, hội chứng đại tràng kích thích. Hiện nay, thuật ngữ
HCRKT được thống nhất để gọi tình trạng bệnh lý này.
Tần suất của HCRKT thay đổi tùy theo từng quốc gia, trung bình bệnh
gặp ở 15 – 20% dân số. Tuy nhiên số bệnh nhân thật sự còn lớn hơn nhiều vì
chỉ có khoảng 30% trường hợp bệnh nhân đi khám. Ở Việt nam, theo Hà Văn
Ngạc thống kê tại bệnh viện 108, tỷ lệ bệnh nhân bị HCRKT là 24,1%[1],
theo Lại Ngọc Thi tỷ lệ này là 17,3%.[2]
Do đặc thù phát triển xã hội, sinh hoạt không điều độ, áp lực công việc,
cuộc sống, stress vv… nên số lượng bệnh nhân mắc các bệnh lý ống tiêu hóa
nói chung và HCRKT nói riêng có xu hướng ngày càng gia tăng.
YHHĐ đã có nhiều phương pháp điều trị HCRKT nhưng chủ yếu là điều
trị triệu chứng. Tuy nhiên việc điều trị cũng còn gặp nhiều khó khăn và đòi
hỏi chi phí khá lớn.
Sản phẩm “Đại Tràng khang ninh Hoàng Việt” được coi là có nhiều sáng
tạo trong việc phối hợp các vị thuốc dùng để điều trị chứng rối loạn tiêu hóa,
đau quặn bụng, đầy hơi, ăn uống khó tiêu, đi đại tiện phân sống, lỏng hoặc táo
- một chứng bệnh có những điểm tương đồng với hội chứng ruột kích thích
của y học hiện đại, đã được Bộ y tế cấp phép và sử dụng rông rãi, vì vậy để
đóng góp thêm một sản phẩm thuốc trong điều trị, góp phần cải thiện nâng


2



cao chất lượng điều trị của bệnh nhân hội chứng ruột kích thích nên tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá tác dụng của viên nang cứng “Đại tràng
khang ninh HV” trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân có hội chứng ruột kích
thích thể lỏng” với 2 mục tiêu:
1.

Đánh giá hiệu quả hỗ trợ điều trị của viên nang cứng Đại tràng khang

2.

ninh HV trên bệnh nhân mắc HCRKT thể lỏng.
Theo dõi tác dụng không mong muốn của phác đồ điều trị.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Hội chứng ruột kích thích theo y học hiện đại
1.1.1. Những đặc điểm giải phẫu, sinh lý của đại tràng.

1.1.1.1. Đặc điểm giải phẫu
Đại tràng bắt đầu từ phần tận cùng của ruột cuối đến hậu môn. Đại tràng
gồm nhiều đoạn khác nhau:
- Manh tràng là một túi cùng, phình to, nằm ở hố chậu phải; ở đây có
ruộtthừa, lỗ của ruột cuối đổ vào đó là van Bauhin.
- Đại tràng lên: đi dọc mạng mỡ phải lên sát tận mặt dưới gan.
- Đại tràng ngang: đi ngang từ phía sau gan sang phía lách; ở đây có một
mảng mỡ rộng dính vào gọi là mạc nối lớn.

- Đại tràng xuống: đi dọc theo mạng mỡ trái từ cực dưới lách xuống. Đại
tràng ngang và đại tràng xuống hợp với nhau thành một góc gọi là góc lách.


4

- Đại tràng sigma: di động không đi thẳng mà tạo thành cuộn vòng.
- Trực tràng và hậu môn: trực tràng nằm trong tiểu khung, đó là một ống
phình ra nên còn gọi là bóng trực tràng. Đoạn cuối trực tràng là một ống hẹp,
ngắn khoảng 3-4cm, nhẵn gọi là ống trực tràng.Ở đoạn này có các cơ vòng và
cơ hậu môn, là nơi tiếp giáp phần da của mông với niêm mạc ống trực tràng.
1.1.1.2. Một số đặc điểm sinh lý học của đại tràng
- Chức năng vận động[3]: Ở đại tràng phải có những sóng nhu động
ngược đi từ góc gan xuống manh tràng với tần số 5-6 lần/ phút. Mỗi loạt sóng
co bóp kéo dài 4-5 phút. Ở đại tràng ngang trái các sóng nhu động rất chậm 23 lần/24h. Manh tràng rất ít có sóng nhu động. Sóng nhu động toàn bộ chỉ xảy
ra 2h sau khi ăn, trước khi thức ăn đến được manh tràng. Ban đêm nhu động
đại tràng gần như biến mất hoàn toàn và tái xuất hiện khi thức dậy. Trên toàn
bộ chiều dài của đại tràng có rất nhiều cơ vòng, tạo điều kiện cho việc ứ đọng
phân lâu trong đại tràng.
- Chức năng hấp thu của đại tràng[3]: Mỗi ngày đại tràng nhận được
khoảng 1,5 lít nước, 90% được hấp thu ở đại tràng phải và ngang. Na cũng
được hấp thu gần hết theo cơ chế chủ động. Khả năng tái hấp thu nước, điện
giải của đại tràng rất lớn: tới 4-5 lít nước, 816 mmol Na, 44mmol K. Vai trò
của muối mật, một số nội tiết tố dạ dày, ruột, một vài axid rất quan trọng trong
việc tái hấp thu nước và điện giải của tế bào ruột.
- Chức năng tiêu hoá[3]: Do vi khuẩn đảm nhiệm là chính, chúng tạo nên
hai hiện tượng lên men và lên men thối để phân hủy nốt thức ăn chưa tiêu hoá
ở ruột non, kết quả là tạo thành hơi và phân.
1.1.2. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu HCRKT trên thế giới
Theo y văn thế giới HCRKT đã được biết đến từ rất lâu. Năm 1673

Guyon L đã nói đến chứng đau bụng đầy hơi. Nhưng đến đầu thế kỷ 20 chứng
bệnh này còn được gọi theo nhiều tên như viêm đại tràng mạn tính, viêm đại


5

tràng co thắt, viêm đại tràng tiết nhầy, viêm đại tràng nhẹ... vì cho rằng
nguyên nhân là do viêm ở đại tràng [4][5][6]
Năm 1962, Chaudray N.A và Truelove S.C, lần đầu tiên đã đi sâu tìm
hiều, nghiên cứu lâm sàng của hội chứng ruột kích thích và nhận thấy rằng
không những có rối loạn chức năng ở đại tràng mà còn có rối loạn chức năng
ở khu vực ruột nói chung nên gọi chứng bệnh này là HCRKT. Thuật ngữ này
được dùng cho đến nay.[9]
Năm 1978, Manning AP và cộng sự đã đề xuất tiêu chuẩn Manning với
sáu triệu chứng lâm sàng chính để chẩn đoán HCRKT [10]
Năm 1989, tại hội nghị quốc tế về tiêu hoá lần thứ 13 tại Rome, đã đưa ra
tiêu chuẩn Rome (còn gọi là tiêu chuẩn Rome I) để chẩn đoán HCRKT.[10]
Năm 1999, tại hội nghị quốc tế về tiêu hoá ở Rome đã đưa ra tiêu chuẩn
Rome II.Năm 2005, tại hội nghị quốc tế về tiêu hoá ở Rome đã đưa ra tiêu
chuẩn Rome III.Năm 2016, tiêu chuẩn Rome IV được cập nhật, ngắn gọn hơn
và được ứng dụng rộng rãi đến bây giờ.[10]
1.1.2.1. Định nghĩa
Năm 1990, Thompson. W.D đã định nghĩa HCRKT như sau: Các rối
loạn chức năng của ruột tái đi tái lại nhiều lần mà không tìm thấy tổn thương
về giải phẫu, tổ chức học, sinh hoá gọi là hội chứng ruột kích thích.[5],[12]
1.1.2.2. Cơ chế bệnh sinh
Cơ chế bệnh sinh của HCRKT rất phức tạp, chưa hoàn toàn sáng tỏ, các
triệu chứng thường do nhiều cơ chế bệnh sinh khác nhau gây nên.[13],[14]
Gần đây nhờ các kỹ thuật thăm dò trên thực nghiệm và lâm sàng đã làm sáng
tỏ các chơ chế điều chỉnh ống tiêu hoá, chủ yếu là tác động qua lại giữa hệ thống

thần kinh trung ương với hệ thống thần kinh ruột (trục não – ruột).[15]
Hiện nay người ta cho rằng HCRKT có liên quan tới ba cơ chế sau:


6

* Sự cảm thụ bất thường chức năng ống tiêu hoá, tăng nhạy cảm hoặc
nội tạng dễ kích thích.
Cảm thụ nội tạng được thực hiện thông qua sự hoạt hoá của đường thần
kinh hướng tâm gây ra do những kích thích tác động vào những thụ cảm thể
hoá học trên niêm mạc, vào thụ cảm thể cơ học của cơ trơn và vào thụ cảm
thể cảm giác của mạc treo ruột. Khi tiến hành đo đạc độ nhạy của các thụ cảm
thể, thấy rằng ở bệnh nhân HCRKT độ nhạy của các thụ cảm thể hoá học, cơ
học và cảm giác đều tăng hơn so với độ nhạy của người bình thường. Ví dụ,
khi đưa một bóng vào trực tràng và bơm lên thì bệnh nhân cảm nhận rất rõ
(căng, tức, mót đại tiện...) khi áp lực còn rất thấp (so với chứng), hoặc khi đặt
bóng ở ruột non đã gây cảm giác đau lan toả ngay khi áp lức thấp (bằng ¼ ở
nhóm chứng). Trong nhiều trường hợp, còn thấy phản ứng quá nhạy của ruột
trước các stress được giải thích là do sự nhạy cảm hoá của thần kinh hướng
tâm, do đó những kích thích tâm lý mà người bình thường không cảm nhận
được lại gây cảm giác đau ở bệnh nhân HCRKT.[8],[16],[17]
* Rối loạn vận động của ruột, tăng nhu động ruột gây ỉa chảy, giảm
nhu động ruột gây táo bón
Tốc độ vận chuyển các chất chứa trong ống tiêu hóa phản ánh nhu động
ruột. Vận chuyển nhanh ở ruột non làm giảm sự hấp thu ở niêm mạc và gây ỉa
lỏng. Ngược lại, vận chuyển chậm làm tăng hấp thu nước gây táo bón do đó
tạo điều kiện thuận lợi cho các vi khuẩn phát triển và lại gây ỉa chảy. Tốc
độ của nhu động đẩy trong lòng ruột không tỷ lệ thuận với sự co cơ tại
chỗ (co thắt đoạn). Ở những bệnh nhân bị táo bón, co thắt đoạn quá nhiều
trong khi đó nhu động đẩy kém nên giảm khả năng đẩy phân xuống dưới

và ra ngoài. Trong trường hợp ỉa lỏng thì ngược lại, giảm co thắt đoạn và
tăng nhu động đẩy.


7

Ở bệnh nhân bị HCRKT sự đáp ứng của đại tràng với thức ăn thay đổi
tuỳ theo thể bệnh nhưng thường là đáp ứng thái quá và kéo dài. Ở người bình
thường sau khi ăn nhu động đại tràng diễn ra theo hai pha: Pha tăng nhu động
trong 60 phút đầu và phút thứ 120 -150, trong khi ở bệnh nhân có HCRKT nhu
động tăng liên tục trong 3 giờ. Ghi điện cơ hoạt động của ruột non ở bệnh nhân
có HCRKT thì thấy nhịp điệu cơ sở của thành ruột bị rối loạn, các hoạt động của
sóng chậm tăng lên và vận động của đại tràng xích ma giảm đi.[8],[16]
* Thay đổi sự chịu đựng của ruột, một số đoạn ruột giảm khả năng
chịu áp lực của khối thức ăn
Ngoài ra, sự gia tăng quá mức phản ứng ống tiêu hóa với các stress tâm
lý (lo, buồn bực, trầm cảm, căng thẳng...), không dung nạp bẩm sinh với một
số thức ăn, những viêm nhiễm tiêu hoá trong tiền sử cũng đóng một vai trò
nhất định trong cơ chế bệnh sinh.[8],[12]
1.1.3. Triệu chứng
1.1.3.1. Triệu chứng lâm sàng
*Triệu chứng cơ năng:
Các triệu chứng của HCRKT rất thay đổi, khác nhau ở mỗi người bệnh
và có thể diễn biến theo thời gian.
Theo các tác giả Manning A.P. (1978), Thompson W.D (1990) [18]
HCRKT có nhiều triệu chứng nhưng trong đó có 3 triệu chứng hay gặp là[19]:
- Rối loạn đại tiện: có ba hình thái
 Thay đổi số lần đại tiện: bệnh nhân đi ỉa lỏng nhiều lần trong ngày
(>3 lần/ngày), phân có nhầy trong, đi ỉa lỏng thường xảy ra từng đợt 5-7
ngày. Đi ỉa lỏng tăng lên khi thay đổi thức ăn, căng thẳng thần kinh.

 Táo bón: số lần đi đại tiện giảm (<3 lần/tuần ), phân khô, cứng, có
khi có bọc ít nhầy hoặc như phân dê.


8

 Táo bón xen lẫn đi lỏng: Bệnh nhân bị từng đợt táo bón, ỉa lỏng xen
kẽ nhau, giữa hai đợt có thể phân bình thường.[20],[21],[22]
- Đau bụng: Đau có tính chất lan toả hay khu trú dọc theo khung đại
tràng. Đau âm ỉ không ở vị trí nào rõ rệt, có lúc đau dữ dội rồi trở về bình
thường. Cảm giác đau có thể giảm đi sau khi trung, đại tiện, tăng lên khi bị
táo bón.[23]
- Chướng bụng, đầy hơi: bệnh nhân luôn có cảm giác có nhiều hơi trong
bụng, bụng ậm ạch khó chịu. Chướng bụng thường xảy sau khi ăn làm cho
bệnh nhân không muốn ăn, ăn ít.
*Triệu chứng thực thể:
Không có một triệu chứng thực thể nào đặc trưng cho HCRKT. Bệnh
thường diễn biến nhiều năm nhưng tình trạng sức khoẻ toàn thân không
thay đổi.
1.1.3.2. Cận lâm sàng
- Xét nghiệm máu: Công thức máu, sinh hóa máu trong giới hạn bình thường.
- Chụp X – quang đại tràng: Không tìm thấy hình ảnh tổn thương
hoặc cấu trúc bất thường ở đại tràng.
- Soi đại trực tràng: Niêm mạc hồng bóng, có thể có xung huyết nhẹ,
tăng tiết nhầy, tăng co thắt hoặc giảm nhu động.
- Sinh thiết để xét nghiệm mô bệnh học thấy niêm mạc bình thường.
1.1.4. Chẩn đoán HCRKT
Trước đây để chẩn đoán hội chứng ruột kích thích thường phải chẩn
đoán loại trừ các nguyên nhân gây tổn thương tại niêm mạc trực tràng như:
Viêm loét, bệnh crohn, polyp, ung thư...

Đã có nhiều nghiên cứu về tiêu chuẩn chẩn đoán của HCRKT đã được công
nhận và áp dụng thực tế trên lâm sàng: Tiêu chuẩn Manning (1978), Tiêu chuẩn
Rome I (1988), Tiêu chuẩn Rome II (1999) [10], Tiêu chuẩn Rome III (2005) [11].


9

Hiện nay tiêu chuẩn Rome II (1999), Rome III (2005) [11] và mới nhất
là Rome IV(2016) đã được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước để chẩn đoán
HCRKT:
Tiêu chuẩn Rome IV:
Triệu chứng đau bụng tái phát ít nhất 1 lần mỗi tuần.Triệu chứng này
được phát hiện trong 3 tháng gần đây với khởi phát triệu chứng ít nhất 6 tháng
trước khi được chẩn đoán kèm theo hai hay nhiều hơn những triệu chứng sau:
- Có liên quan đến đi đại tiện.
- Thay đổi số lần đi đại tiện.
- Thay đổi hình dạng.
1.1.5. Điều trị
1.1.5.1. Nguyên tắc điều trị
Chủ yếu là điều trị triệu chứng vì: trong hầu hết các trường hợp,
không điều trị khỏi bệnh do chưa có loại thuốc nào đem lại lợi ích nổi bật cho
HCRKT và chưa có một phương thức điều trị cụ thể nào là có hiệu quả
cho tất cả bệnh nhân HCRKT[24]
1.1.5.2. Mục tiêu điều trị
* Giảm các triệu chứng đặc trưng nổi trội.
* Cải thiện chất lượng cuộc sống tốt hơn cho người bệnh.
Sau khi đã chẩn đoán xác định là HCRKT, cần cho BN biết bệnh của
họ, giúp họ hiểu được thực chất căn bệnh tuy kéo dài, hay tái phát nhưng
không nguy hiểm, không đe doạ đến tính mạng để giúp người bệnh yên
lòng. Cùng BN xác định các yếu tố liên quan tới căn bệnh để phòng

tránh, giúp họ dần dần có được cuộc sống dễ chịu hơn. [24]
1.1.5.3. Các liệu pháp không dùng thuốc(liệu pháp cổ điển):
* Không dùng thuốc kháng sinh trừ trường hợp bội nhiễm.
* Coi trọng các liệu pháp không dùng thuốc


10

- Chế độ ăn uống: quan trọng nhất, đặc biệt trong đợt đang có triệu
chứng đau bụng. Cần chú ý hướng dẫn người bệnh tìm những thức ăn không
thích hợp với mình. Bên cạnh đó, khuyên người bệnh nên tránh ăn quá nhiều
cùng một lúc; những thức ăn làm tăng triệu chứng co thắt, đau quặn, đầy
bụng, tiêu chảy; những thức ăn có tính kích thích mạnh (hạt tiêu, ớt, hành, cà
phê, rượu); thực phẩm có nhiều chất béo; sữa; thực phẩm để lâu bảo quản
không tốt gây khó tiêu; thức ăn sinh hơi nhiều (Đậu, hạt, bắp cải, sầu riêng,
nước uống có ga, nước hoa quả). Chú ý ăn chậm, nhai kỹ có tác dụng hạn chế
khí nuốt vào dạ dày nên giảm triệu chứng trướng hơi, đồng thời cũng làm
giảm sự căng giãn đột ngột ống tiêu hóa do đó hạn chế kích thích co bóp của
đại tràng nên giảm số lân đi ngoài và giảm đau. Tuy nhiên, thầy thuốc cũng
phải chú ý hướng dẫn BN tránh tình trạng ăn kiêng quá khắt khe không cần
thiết vì có thể có hại do gây thiếu dinh dưỡng cho người bệnh. [24]
- Chế độ luyện tập: Đòi hỏi người bệnh phải rất kiên trì công phu; luyện
đại tiện ngày một lần vào giờ nhất định, thường vào buổi sáng; massage bụng
buổi sáng để gây cảm giác đi ngoài và giúp đi ngoài dễ dàng hơn. Có thể kết
hợp với tập thể dục, tập dưỡng sinh, ngồi thiền, yoga…hợp lý nhằm tăng
cường sức khoẻ và thư giãn thần kinh nói chung và đặc biệt là sẽ rẩt có hiệu
quả đối với trường hợp HCRKT ở BN tâm thể nói riêng. [25]
- Liệu pháp tâm lý: HCRKT không phải là một bệnh tâm lý hay tâm
thần mà chỉ có liên quan đến các yếu tố tâm lý. Các thầy thuốc có kinh
nghiệm đều có lời khuyên là: việc điều trị tâm lý cho BN HCRKT phải kết

hợp ngay từ lúc tiếp xúc BN, trong cả quá trình khám bệnh, cả sau khi uống
thuốc, vì BN rất cần được sự chia sẻ nhằm làm dịu đi căng thẳng của họ trong
quá trình chữa bệnh. Nhiều BN thấy dễ chịu ngay sau khi họ được giải thích
rõ bệnh HCRKT. Một số chuyên gia nhận thấy, ở những trường hợp nặng,
HCRKT sẽ tiến triển tốt nếu BN được điều trị tâm lý. [25]


11

1.1.5.4. Điều trị bằng thuốc
* Đau bụng: là triệu chứng khó kiểm soát nhất trong HCRKT, thường
dùng các thuốc sau:
-Thuốc chống co thắt:
+ Kháng Cholinergic: là thuốc có tác dụng đối kháng với
acetylcholine (Atropin, Scopolamin).[26]
+ Chống co thắt hướng cơ trơn.
Drotaverin Là dẫn chất isoquinolein tổng hợp, bột kết tinh màu trắng
vàng, không mùi, tan trong nước và ethanol. Drotaverin chống co thắt cơ trơn
tương tự như Papaverin nhưng mạnh hơn. xuất hiện sớm hơn và độc tính cũng
thấp hơn. Chỉ định: Thuốc drotaverin để phòng hoặc làm mất các rối loạn
chức năng và cơn đan do co thắt cơ trơn như: cơn đau do sỏi mật hay sỏi thận;
cơn co thắt đường dẫn mật; viêm bể thận. bàng quang; cơn co thắt ở dạ dày,
ruột, loét dạ dày. ruột; tá tràng; đau do co thắt vùng thượng vị hoặc hạ vị; cơn
đau thắt ngực, cơn tăng huyết áp (phối hợp với thuốc hạ huyết áp). Cách
dùng, liều dùng:Uống, tiêm dưới da, tiêm tĩnh mạch. Liều dùng: Uống 1 – 2
viên/1ần; 3 lần trong ngày. Tiêm dưới da: 1 – 2 ống/1ần; 1 – 3 lần trong
ngày.Tiêm tĩnh mạch chậm 1 – 2 ống (nếu đau do sỏi mật, sỏi thận). Dạng
thuốc: Viên nén drotaverin 40mg; ống tiêm drotaverin2ml có chứa 40mg. Bảo
quản: Để nơi khô ráo. chống ẩm. [26]
- Thuốc điều hoà chức năng vận động đường tiêu hoá: Trimebutin

(Debridat):
Đây là thuốc tác dụng trên hệ enkephalinergic bằng cách kích thích các
thể cảm thụ thể enkephalinergic ở ruột khi có rối loạn nhu động ruột, các thụ
cảm thể này có tác dụng điều hoà nhu động ruột. [8],[26]
- Thuốc chống trầm cảm (như amitriptyline, imipramine, desipramin…):
Những thuốc này được sử dụng cho BN bị HCRKT đặc biệt là những người
có triệu chứng nặng hoặc kéo dài, thường lo lắng và trầm cảm. [26]


12

- Thuốc kháng thụ thể 5-HT3 có tác dụng làm giảm trương lực cơ ruột
sau khi ăn nên có tác dụng giảm triệu chứng đau bụng và khó chịu ở bụng.
Kháng 5-HT3 được dùng điều trị HCRKT có đau và tiêu chảy chiếm ưu
thế ở nữ giới mà đại diện là Alosetron [26]
* Tiêu chảy:Thường dùng các thuốc giảm nhu động ruột, tăng tái hấp thu
nước và chất điện giải trong lòng ruột vào máu. Đây là các thuốc tổng hợp,
tác dụng theo kiểu morphine do có cấu trúc tương tự morphine. Thuốc có tác
dụng nhanh, kéo dài và không có tác dụng theo kiểu trung ương. Đại diện là
các thuốc sau:
- Smecta(Diosmectite 3g) có tác dụng điều trị tiêu chảy nhưng không có
tác dụng giảm đau. Smecta đã được chứng minh là có hiệu quả với những BN
tiêu chảy là chủ yếu vì có tác dụng làm giảm nhu động ruột, tăng tái hấp thu
nước và chất điện giải trong lòng ruột.Điều trị các chứng trong tiêu chảy cấp ở
trẻ em và người lớn; Điều trị các triệu chứng trong tiêu chảy mãn tính; Điều trị
các triệu chứng liên quan tới thực quản, dạ dày, tá tràng và ruột. [26]
* Táo bón: dùng chất xơ, thuốc nhuận tràng, thuốc điều chỉnh vận động
ống tiêu hoá.
- Bổ xung chất xơ: được chỉ định dùng ít nhất 12g/ngày, chất xơ với nhiều
tác dụng như khả năng giữ nước, làm tăng khối lượng phân và tăng quá trình lên

men nên có hiệu quả chống táo bón tốt. Nên dùng chất xơ kéo dài cho BN
HCRKT có táo bón nhưng phải giảm liều khi có đau hoặc chướng bụng
- Thuốc nhuận tràng: là thuốc làm tăng nhu động, chủ yếu ở đại tràng,
thường phải dùng nhiều ngày. Thuốc có thể kích ứng trực tiếp lên niêm mạc
ruột hoặc tác dụng gián tiếp do làm tăng khối lượng phân, hoặc do tác dụng
giữ nước, nên làm mềm phân. [26]
+ Lactulose (Duphalac, Macrogol (Movicol),Anthraquinon
Nói chung các thuốc trên không nên dùng lâu dài, thuốc nhuận tràng trị
táo bón nhưng có thể làm tăng đau bụng và trướng bụng.


13

- Thuốc đồng vận 5-HT4: Tegaserod (thuốc đồng vận 5-HT4 mới) có
hiệu quả trong điều trị HCRKT với triệu chứng táo bón chiếm ưu thế.
Tegaserod sau khi gắn vào thụ thể 5-HT4 sẽ “bắt chước” tác dụng của
Serotonin:
+ Kích thích phản xạ nhu động ruột làm tăng vận chuyển ruột.
+ Kích thích bài tiết Cl- và nước làm giảm táo bón.
+ Ức chế dẫn truyền thần kinh hướng tâm ở ruột làm giảm cảm giác
đau bụng.
+ Kết hợp với thụ thể 5-HT4 tại các tận cùng thần kinh ở ruột, do đó
tạo xung truyền đến những nơron nằm sâu trong lớp cơ, điều hoà nhu động
ruột làm giảm trướng bụng. [26]
Tác dụng phụ: tiêu chảy, đau đầu, choáng váng.
Để kiểm soát quá trình bệnh lý của HCRKT, thầy thuốc cần tập trung
vào điều trị triệu chứng với mục tiêu của điều trị là giảm cường độ các triệu
chứng chính nên thành công của việc điều trị là BN cảm thấy thoải mái, dễ
chịu, vì bệnh không có di chứng hoặc biến chứng lâu dài. Đa số BN, do bệnh
tái đi tái lại, đã chữa nhiều nơi mà bệnh vẫn chuyển biến chậm nên lo lắng và

bi quan.
1.2. Hội chứng ruột kích thích theo y học cổ truyền
1.2.1. Khái niệm về chứng tiết tả, táo kết và mối quan hệ giữa chứng tiết tả,
táo kết với hội chứng ruột kích thích.
Trong y văn của YHCT không có bệnh danh HCRKT, nhưng căn cứ vào
những biểu hiện lâm sàng có thể thấy HCRKT thuộc phạm vi của chứng Tiết
tả, Táo kết, Cửu tiết.
Tiết tả còn gọi là “phúc tả” tức đi ỉa nhiều lần, phân lỏng nát, thậm chí đi
ra nước không. Nội kinh cho là bệnh “Tiết” gồm có: “Nhu tiết”, “Đông tiết”,
“Trúc tiết”, các thầy thuốc đời Đường gọi là bệnh “Hạ lợi”, thời Tống tổng
quát là bệnh “Tiết tả”.


14

Tiết tả chủ yếu thuộc về tỳ vị và đại tiểu trường. Nguyên nhân gây bệnh
gồm: cảm thụ ngoại tà, do ăn uống quá độ, tỳ vị dương hư, mệnh môn hoả suy
và tình chí thất thường. Tuỳ theo nguyên nhân gây bệnh mà sinh ra các chứng
tiết tả cấp tính hay mạn tính. Cảm thụ ngoại tà, ăn uống quá độ gây ra các
chứng tiết tả cấp tính tức thời. Các nguyên nhân còn lại: tỳ vị dương hư, mệnh
môn hoả suy và tình chí thất thường gây ra các chứng tiết tả mạn tính tái diễn
nhiều lần.
Táo kết đã được nhắc đến trong sách Nội kinh. Táo kết do nhiều nguyên
nhân gây ra gồm: Âm hư, huyết nhiệt, huyết hư, khí hư và khí trệ.
Trong những năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu y học Việt Nam và
thế giới, đặc biệt Trung Quốc đã đi sâu nghiên cứu và tìm mối liên hệ
giữa các triệu chứng lâm sàng của HCRKT và chứng “Tiết tả”, “Táo kết”
thấy có nhiều nét tương đồng. HCRKT tương ứng với thể hư chứng của
“Tiết tả” và thể khí trệ của “Táo kết”. Khi điều trị HCRKT theo biện
chứng luận trị của chứng “Tiết tả” và “Táo kết” đã làm cải thiện các triệu

chứng lâm sàng.[27,[28],[29],30]
1.2.2. Cơ chế bệnh sinh của HCRKT theo YHCT
1.2.2.1. Do tỳ vị dương hư:
Tỳ sở dĩ đảm bào được công năng vận hoá là nhờ dương khí đầy đủ. Nếu
lao động quá sức, đau ốm triền miên đều dẫn đến tỳ dương hư suy không vận
hoá được thức ăn, đình trệ lại, trong đục hỗn tạp gây nên tiết tả.[27],[28]
1.2.2.2. Do mệnh môn hoả suy:
Nếu ốm lâu hoặc đi lỏng kéo dài, tổn thương đến thận dương, thận
dương suy không ôn được tỳ, khiến tỳ dương suy dẫn đến tiết tả. Trong Cảnh
nhạc toàn thư nói: “Dạ dày là quan ải của thận khai khiếu ở tiền âm và hậu
âm, thận chủ chức năng đóng mở. Nếu thận dương yếu, mệnh môn hoả suy,
âm hàn nhiều gây ra tiết tả. [27],[28]


15

1.2.2.3. Do tình chí thất thường
Người vốn tỳ vị hư yếu lại bị tình chí thất thường ảnh hưởng đến như tức
giận hại can, lo nghĩ hại tỳ, khiến can khí phạm tỳ vị, khiến tỳ vị vận hoá kém
gây nên tiết tả. [27],[28]
1.2.2.4. Do khí có uất trệ
Do lo nghĩ buồn bực nhiều hoặc ngồi lâu ít vận động dần dần làm cho
khí cơ uất trệ khiến công năng tiêu hoá, thông giáng đào thải thất thường, do
đó cặn bã tích lại gây nên. [27],[28]
1.2.3. Các thể lâm sàng của HCRKT theo YHCT
Căn cứ vào bệnh chứng và nguyên nhân HCRKT theo YHCT gồm có
bốn thể: Tỳ vị hư, Thận dương hư hay mệnh môn hoả suy, Can tỳ bất hoà và
khí trệ [29],[30].
1.2.3.1. Thể tỳ vị hư hàn
- Triệu chứng: Bụng lạnh đau, nôn ra nước trong, ăn kém, đầy bụng, sôi

bụng, phân nát, sống phân, người mệt mỏi, chân tay lạnh, sắc mặt vàng nhợt,
chóng mặt, môi nhợt, chất lưỡi nhợt bệu, rêu lưỡi trắng hoặc trơn, mạch nhu
hoãn hoặc hư nhược.
- Phân tích: Do tỳ vị hư yếu, vận hoá kém, không phân biệt được thanh
trọc, thăng giáng thất thường, ăn không tiêu sinh ra đầy bụng sôi bụng, đại
tiện phân lúc nát lúc sống.Tả làm cho tỳ vị càng hư yếu không sinh được tinh
hoa, khí huyết kém dần nên mặt bủng, người gầy yếu mệt mỏi, chân tay lạnh
chóng mặt, mạch hư nhược là mạch của tỳ vị hư.[30]
- Pháp điều trị: Bổ tỳ vị (kiện tỳ trợ vận hay kiện tỳ hoá thấp)
- Dùng bài: Sâm linh bạch truật tán
1.2.3.2. Thể tỳ thận dương hư hay mệnh môn hoả suy
- Triệu chứng: Cơ thể lạnh, chân tay lạnh, thể trạng gầy, mệt mỏi, ăn
kém, bụng lạnh trướng đầy, bụng dưới lạnh đau, ỉa lỏng phân sống, ngũ canh
tiết tả, lưng mỏi gối lạnh, tiểu tiện vặt, tiểu đêm, chất lưỡi nhạt bệu có vết hằn
răng, mạch trầm trì tế nhược. Thể này còn được gọi là tỳ thận dương hư.


16

- Phân tích: Do tiết tả lâu ngày khiến thận dương hư, dương khí yếu, vị
quan không vững nên có những triệu chứng trên. Loại này gọi là “ ngũ canh
tiết tả”, sau khi tả được khí được thông lợi nên giảm đau, chất lưỡi nhạt bệu,
mạch trầm trì tế nhược là mạch của tỳ thận dương hư.
- Pháp điều trị: Ôn bổ tỳ thận dương, cố sáp.
- Dùng bài: Tứ thần hoàn.
1.2.3.3. Thể can tỳ bất hoà
- Triệu chứng: Ngực sườn trướng đầy đau, hay thở dài, tinh thần ức uất
dễ cáu giận, mỗi khi buồn bực căng thẳng thì phát sinh đau bụng ỉa chảy ngay,
miệng đắng họng khô, ăn uống sút kém, bụng trướng, đại tiện lúc táo, lúc
lỏng, sôi bụng, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch huyền.

- Phân tích: Do tỳ khí vốn yếu, hoặc là vốn có thực trệ và thấp tà lại gặp
khi tình chí thất thường làm hại can, can mất sự sơ tiết, hoành nghịch phạm
tỳ. Tỳ mất sự kiện vận, thuỷ cốc không được tiêu hoá gây ra tiết tả.
- Pháp điều trị: Sơ can kiện tỳ.
- Dùng bài: Thống tả yếu phương.
1.2.3.4. Thể khí trệ
- Triệu chứng: Trướng đầy bĩ tức khó chịu và đau, riêng về trướng đầy và
đau lúc nhẹ lúc nặng, vị trí thường cố định đau xiên đau nhói, đầy trướng
cũng có lúc có lúc không, lúc tan lúc tụ. Trướng đầy mà khó chịu có thể giảm
nhẹ khi ợ hơi hoặc trung tiện, ăn ít, rêu lưỡi mỏng, mạch huyền.
- Phân tích: Bệnh này do can khí uất trệ, khí cơ không đều nên trướng
đầy bĩ tức, do can khí không hoà, tỳ vận hoá không tốt nên ăn ít, khí hư đình
trệ làm cặn bã lưu lại nên đại tiện không thông.
- Pháp điều trị: Thuận khí hành trệ.
- Dùng bài: Lục ma thang.


17

1.2.4. Sơ lược về một số nghiên cứu điều trị HCRKT theo YHCT
Trong những năm gần đây đã có nhiều tác giả nghiên cứu đánh giá
tác dụng của các bài thuốc cổ phương, các bài thuốc gia truyền trong
điều trị HCRKT.
1.2.4.1. Ở Việt Nam
Từ 1991 - 1994, Nguyễn Văn Thang và cộng sự qua nghiên cứu trên 100
bệnh nhân bị rối loạn cơ năng đại tràng được điều trị tại Viện Y học Cổ truyền
Việt Nam đã rút ra kết luận: Thuốc Y học cổ truyền có tác dụng điều trị rối
loạn cơ năng đại tràng theo phân loại các thể bệnh của YHCT [32],[33]
Năm 1999, Nguyễn Thị Nhuần nghiên cứu tác dụng điều trị của Bài
thuốc “Bình vị tan” trên 60 bệnh nhân bị HCRKT thấy tỷ lệ đạt hiệu quả tốt

chiếm 50,0% đặc biệt ở thể thực chứng theo YHCT [9].
Năm 2002, Cầm Thị Hương và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng của cao
“Cảng kham” trên 108 bệnh nhân HCRKT, sau điều trị 30 ngày tỷ lệ đạt kết
quả tốt chiếm 82,4% [34].
Năm 2005, Bùi Thị Phương Thảo và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu tác
dụng của viên nang Hế mọ (cây Hế mọ là một cây thuốc nam mọc phổ biến ở
vùng núi và trung du) trên 39 bệnh nhân bị HCRKT, tỷ lệ đạt kết quả tốt sau
30 ngày điều trị là 71,8% [7].
Năm 2008, Nguyễn Thị Tuyết Nga nghiên cứu tác dụng của bài thuốc
“Tứ thần hoàn” trong điều trị HCRKT thể lỏng (thể hư hàn theo YHCT) thấy
tỷ lệ đạt hiệu quả tốt chiếm 61,2% [35].
Năm 2011, Lê Thúy Hạnh nghiên cứu tác dụng của bài thuốc ‘‘An trung
tán’’ trong điều trị HCRKT thể lỏng (thể Tỳ vị hư hàn theo YHCT) thấy tỷ lệ
đạt hiệu quả tốt chiếm 86,7% [36].
Năm 2011, Nguyễn Đình Đạo nghiên cứu tác dụng của bài thuốc “ Điều
nguyên cứu bản thang’’ trong điều trị HCRKT thấy tỷ lệ đạt hiệu quả tốt
chiếm 60% [37].


18

1.2.4.2. Ở nước ngoài
Năm 1983, Lý Tổ Tinh (Trung Quốc) tiến hành nghiên cứu quan sát đối
chiếu điều trị hội chứng ruột kích thích bằng thụt trung dược vào đại tràng,
cho kết quả điều trị tốt 58,0%; Khá 23,3%; Kém 18,7% [38].
Năm 1986, Trương Địch (Trung Quốc) tiến hành nghiên cứu “Thống tả yếu
phương hợp tứ thần hoàn” điều trị 187 bệnh nhân hội chứng ruột kích thích, liệu
trình từ 7 - 28 ngày, kết quả điều tri tốt 128 bệnh nhân (68,45%), khá 41 bệnh
nhân (21,9%), kém 18 bệnh nhân (9,65%) [39].
Năm 2001, Chuyên Quân, Hạ Hoằng Cục (Trung Quốc) tiến hành nghiên

cứu điều trị 30 bệnh nhân hội chứng ruột kích thích bằng bài “Thống tả yếu
phương hợp tứ thần hoàn” kết quả điều trị tốt 18 bệnh nhân (60,0%), khá 07
bệnh nhân (23,3%), kém 05 bệnh nhân (16,7%) [40].
Năm 2005, Lâm Quỳnh (Trung Quốc) tiến hành nghiên cứu quan sát lâm
sàng điều trị 45 trường hợp hội chứng ruột kích thích bằng bài “Nhu can an
thần” kết quả điều trị tốt 25 bệnh nhân (55,5%), khá 13 bệnh nhân (28,9%),
kém 07 bệnh nhân (15,6%) [41].
Năm 2005, Vương Thư Khiết (Trung Quốc) tiến hành nghiên cứu “Thất
vị bạch truật tán điều trị 58 bệnh nhân hội chứng ruột kích thích thể tiết tả
mãn tính” kết quả điều trị tốt 44 bệnh nhân (75,86%), trung bình 11 bệnh
nhân (18,97%), kém 03 bệnh nhân (5,17%) [42].
Bên cạnh phương pháp dùng thuốc YHCT, các nhà khoa học cũng tìm
hiểu tác dụng điều trị của các phương pháp không dùng thuốc YHCT:
Năm 1993, Chu Thế Kiệt (Trung Quốc): Dùng phương pháp xoa bóp
để điều trị HCRKT, dùng ngón cái day vào các huyệt Quan nguyên, Mệnh
môn; day 10 - 20 lần/huyệt, 1 lần/ngày, 15 lần/liệu trình. Điều trị 43 bênh
nhân: Kết quả tốt 32 bệnh nhân (74,4%), khá 09 bệnh nhân (20,9%), kém
02 bệnh nhân (4,7%) [43].


19

Năm 1998, Lục Á Khang (Trung Quốc) dán thuốc vào huyệt ở loa tai:
Chọn các huyệt Thần môn, can, tỳ, thận. Sau khi dùng kim châm xác định vị
trí của huyệt, tiến hành sát trùng, dùng miếng cao dán vương bất lưu hành cố
định tại huyệt vị, mỗi lần làm 1 bên tai, cách ngày lại đổi bên kia, 10
ngày/liệu trình. Điều trị 48 bệnh nhân; Kết quả điều trị tốt 34 bệnh nhân
(70,8%), khá 07 bệnh nhân (14,6%), trung bình 05 bệnh nhân (10,4%), kém
02 bệnh nhân (4,2%) [44].
Năm 1993, Phó Hoài Đan và Thái Quốc Vĩ (Trung Quốc) trong điều trị

chứng tỳ vị hư nhược, dùng phép kiện tỳ hòa vị thẩm thấp, chỉ tả; Châm các
huyệt Tỳ du, Thiên khu, Trung quản, Túc tam lý, Âm lăng tuyền. Ngày châm
1 lần, 10 lần/liệu trình, nghỉ 1 tuần rồi tiếp liệu trình thứ 2 (bổ pháp).Tỷ lệ
hiệu quả đạt 85%.Theo tác giả, nhóm châm cứu so với nhóm dùng thuốc thấy
kết quả tương đương nhau [45].
Năm 1985, Tôn Quốc Phạm và Lâm Cát Phẩm (Trung Quốc) tiến hành
nghiên cứu thuỷ châm điều trị 100 bệnh nhân hội chứng co thắt kết tràng do
can tỳ, dựa theo nguyên tắc tuần kinh thủ huyệt dùng vitamin B12 500µg
(microgam) để thủy châm vào các huyệt chính: Thiên khu, Thượng cự hư,
huyệt phối hợp Công tôn, Khí hải, Tam âm giao, Dương lăng tuyền. Kết quả
điều trị tốt 72 bệnh nhân (72%), khá 20 bệnh nhân (20%), kém 08 bệnh
nhân(8,0%) [46].
Năm 1991, Vương Cảnh Huy và Cs (Trung Quốc) tiến hành nghiên cứu
“Cứu cách thuốc điều trị 28 bệnh nhân hội chứng ruột kích thích” dùng mồi
thuốc tự chế gồm: Phụ tử, Nhục quế, Hoàng liên, Mộc hương, Hồng hoa, Đan
sâm đặt lên huyệt Trung quản, Khí hải, Túc tam lý, Đại trường du, Thiên khu,
Thượng cự hư. 06 huyệt này cùng cứu một lúc; 1 lần/ngày, 2 mồi thuốc/huyệt,
12 lần/liệu trình. Kết quả điều trị tốt 23 bệnh nhân (82,9%), khá 04 bệnh nhân
(14,3%), kém 01 bệnh nhân (2,8%) [47].


20

Kết quả nghiên cứu cho thấy các phương pháp điều trị không dùng thuốc
của YHCT như châm cứu, thuỷ châm, từ châm, cứu cách thuốc… cũng cho
kết quả cải thiện các triệu chứng lâm sàng của HCRKT tương tự như dùng
thuốc YHCT.
1.2.5. Tổng quan về chế phẩm nghiên cứu
Viên nang Đại tràng khang ninh HV là sản phẩm có nguồn gốc từ tự nhiên
1.2.5.1. Thành phần dược liệu

Trong dược điển Việt Nam IV [48] và từ các tài liệu: “Những cây thuốc
và vị thuốc Việt Nam” của Đỗ Tất Lợi [49]. Chúng tôi khái quát tác dụng của
các vị thuốc trong bài đã được nghiên cứu tác dụng dược lý lâm sàng theo
YHHĐ như sau:
Tiêu
chuẩn

Khối lượng
(mg)

Thành phần

Tên khoa học

1

Trần bì

Citrus deliciosa

30

2

Khổ luyện tử

Fructus Brucae
Javamiceae

70


3

Binh lang

Areca catechu

4

Phượng vĩ thảo

Pteris multifida Poir

5

Núc nác

Oryxylum indicum

6

Bạch thược

Paeonia lactiflora
Pall

7

Mộc hương


Radix Saussureae

8

Hoàng bá

Phellodendron
chinense Schneid

9

Thương truật

Atractylodes lancea

10

Khương hoàng

Curcuma longa L

11

Đại hoàng

Rheum palmatum L

12

Tá dược


Dược điển Việt Nam IV Tiêu chuẩn cơ sở

TT

80
80
60
10
10
30
30
30
20
Vừa đủ 1 viên


21

1.2.5.2. Tổng quan về các vị thuốc
 Trần bì
- Tên khoa học: Pericarpium Citri reticulatae
Trần bì (Quất bì) dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách "Bản
kinh" là vỏ của trái chín của cây Quít (Citrus reticulata Blanco, Citrus
deliciosa tenore, Citrus nobilis var deliciosa Swigle).
- Bộ phận dùng làm thuốc: Vỏ Quít được phơi hay sấy khô để càng lâu
năm càng tốt gọi là Trần bì. Vị thuốc còn có tên là Quảng trần bì, Tần hội bì.
- Tính vị quy kinh: Vị cay, đắng, tính ôn. Qui kinh Tỳ, Phế.
Theo các Y văn cổ: Sách Bản kinh: vị cay, ôn.Sách Danh y biệt lục: vô
độc.Sách Thực kinh: vị cay, đắng.Sách Bản thảo phẩm hội tinh yếu: hành thủ

thái âm, túc thảo âm kinh. Sách Lôi công bào chế dược tính giải: nhập phế
can tỳ vị tứ kinh.Sách Bản thảo cầu chân: nhập lý đại tràng.
- Tác dụng dược lý:
+ Tác dụng đối với cơ trơn của dạ dày và ruột:
Tinh dầu của Trần bì có tác dụng kích thích nhẹ đối với đường tiêu hóa
giúp cho ruột bài khí tích trệ ra ngoài dễ dàng, tăng tiết dịch vị có lợi cho tiêu
hóa, có tác dụng làm giãn cơ trơn dạ dày và ruột.
+ Tác dụng khu đàm bình suyễn: thuốc kích thích niêm mạc đường hô
hấp làm tăng dịch tiết, làm loãng đàm dễ khạc ra. Xuyên trần bì làm giãn phế
quản hạ cơn hen. Dịch cồn chiết xuất Quất bì với nồng độ 0,02g ( thuốc
sống)/ml hoàn toàn ngăn chận được cơn co thắt phế quản chuột lang do
histamin gây nên.
+ Kháng viêm, chống loét: Thành phần humulene và anpha humulenol
acetat có tác dụng như vitamin P. Chích Humulene vào ổ bụng chuột nhắt với
liều 170 -25mg/kg có tác dụng làm giảm tính thẩm thấu của mạch máu do
Lecithin dung huyết làm tăng. Chích 10mg Humulene vào ổ bụng một con


22

chuột nhắt cũng có tác dụng kháng histamin, gây tăng tính thẩm thấu của
thành mạch. Anpha humulenol acetate có tác dụng chống lóet rõ và làm giảm
tiết dịch vị trên mô hình gây loét dạ dày bằng cách thắt môn vị.
+ Tác dụng đối với hệ tim mạch: Nước sắc Trần bì tươi và dịch chiết
cồn với liều lượng bình thường có tác dụng hưng phấn tim, liều lượng lớn có
tác dụng ức chế, nếu chích thuốc nhanh vào tĩnh mạch thỏ và chó, huyết áp
tăng cao, nhưng bơm vào dạ dày thì không có tác dụng đó.
+ Tác dụng kháng khuẩn: Quảng trần bì trong ống nghiệm, có tác dụng
ức chế sinh trưởng của tụ cầu khuẩn, trực khuẩn dung huyết, ái huyết.
+ Những tác dụng khác: Trần bì còn có tác dụng chống dị ứng, lợi mật,

ức chế cơ trơn của tử cung.
Trích đoạn Y văn cổ:
+ Sách Danh y biệt lục: “Hạ khí chi ẩu, khái, trừ bàng quang lưu nhiệt,
đình thủy ngũ lâm, lợi tiểu tiện, chủ tỳ bất năng tiêu cốc, khí xung hung trung,
thổ nghịch hoắc loạn, chỉ tả, khử thổn bạch trùng”.
+ Sách Bản thảo cương mục, quyển 30, Quất: “ Quất bì khổ, Năng tả,
Năng táo, Tân năng tán, Ôn năng hòa, Điều trị bách bệnh đều do tác dụng lý
khí táo thấp, đồng bổ dược tắc bổ, đồng tả dược tắc tả, đồng thăng dược tắc
thăng, đồng giáng dược tắc giáng”.
+ Sách Cảnh nhạc toàn thư: " Trần bì, khí thực đàm trệ tất dụng".
+ Sách Bản thảo hội ngôn: " Quất bì là vị thuốc quí để lý khí, trong
những trường hợp hoắc loạn, nôn mửa, khí nghịch, tiết tả bất lợi, là khí hàn,
quan cách trung mãn là khí bế, thực tích đàm diên (nước dãi) là khí trệ, thất
tình chí uất là khí kết đều có thể dùng Quất bì để trị. Quất bì bỏ lớp trắng thì
hóa đàm, để lớp trắng thì hòa tỳ. Thuốc vị cay thiệân tán nên khai khí, vị đắng
thiện tả nên hành đàm, khí của thuốc ôn bình thiện về thông đạt nên chỉ ẩu,
chỉ khái, kiện vị hòa tỳ".


23

- Chủ trị: Tỳ vị khí trệ, khí hư, đầy bụng ăn không tiêu, đàm thấp ứ trệ,
phế khí mất tuyên thông.
- Liều dùng: 6-8g
 Khổ luyện tử
Còn có tên là cây Cứt dê, Khổ sâm cho hạt, Sầu đâu rừng, Sầu đâu cứt
chuột, Xoan rừng, Cứt cò (Vĩnh linh), Hạt bỉnh (Nghệ an), Khổ luyện tử.
- Tên khoa học: Brucea Javanica (L) Merr) thuộc họ Thanh thất
(Simarubaceae).
- Bộ phận dùng làm thuốc: Quả chín phơi khô của cây

- Tính vị quy kinh: Vị đắng tính hàn, qui kinh Can và Đại tràng.
- Tác dụng dược lý: Tác dụng diệt amip dạng hoạt động (nguyên trùng),
in vitro và in vivo đều có tác dụng. Nhưng đối với lị mãn tính và lị trực khuẩn
tác dụng kém hơn. Thuốc có tác dụng tẩy giun đũa, giun móc, sán, hấp huyết
trùng, trùng roi trichomonas.
Tác dụng chống sốt rét: Trên súc vật thực nghiệm, thuốc có tác dụng ức
chế sự sinh trưởng của nguyên trùng sốt rét trong gà.
Tác dụng kháng virut: Thuốc có tác dụng ức chế virut cúm típ A PR8.
Tác dụng chống tế bào ung thư.
Nha đảm tử tương đối độc, độc tính chủ yếu là phần đắng hòa tan trong
nước. Liều dùng 50 của nước sắc là 0,48g/kg. Thuốc dùng ngoài da dễ gây
phản ứng, tại chỗ mạnh ở da và niêm mạc. Thuốc uống thường gây đau bụng,
khó chịu, nôn, buồn nôn, tiêu chảy, đầy bụng, váng đầu, rã rời chân tay. Tỷ lệ
gây nhiễm độc thuốc khoảng 78,3%, còn có thể gây xung huyết nội tạng và
xuất huyết, rối loạn hô hấp, khó thở. Thời gian dùng thuốc kéo dài có tích lũy
độc. Không nên dùng với người có bệnh đường ruột, chức năng gan thận
giảm, phụ nữ có thai và trẻ em.


24

- Chủ trị:
- Liều dùng:12-13 hạt
 Binh lang
- Tên khoa học: Semen Arecae Catechu, tên thực vật là Areca catechu L
thuộc họ Cau dừa (Palmae) nay gọi là Arecaceae.
- Bộ phận dùng làm thuốc: hạt quả cau già của cây Cau hái về bỏ vỏ phơi
khô, khi dùng thái phiến dùng sống. Nếu lấy miếng hạt cau bỏ vào chảo dùng lửa
nhỏ sao cháy vàng lấy ra để nguội dùng. Hạt cau còn gọi là Đại phúc tử.
- Tính vị quy kinh: vị cay đắng tính ôn, qui kinh Vị Đại tràng.

- Tác dụng dược lý: Tác dụng trục trùng chủ yếu là xổ sán (taeniasis) tác
dụng đối với sán lợn tốt hơn sán bò, tác dụng làm tê liệt thần kinh của sán kết
hợp với bí đỏ (hạt) có tác dụng hợp đồng tốt, nâng cao hiệu quả xổ sán. Thuốc
đối với lãi kim cũng có tác dụng nhất định.
- Tác dụng đối với hệ thần kinh: Arecolin có tác dụng như thần kinh phó
giao cảm, kích thích các thụ thể cholinergic, làm tăng trương lực cơ trơn của
trường vị, tăng nhu động ruột và gây tiêu chảy ( cho nên xổ sán lãi không cần
thuốc tẩy), làm chậm nhịp tim, hạ huyết áp, tăng tiết nước bọt và mồ hôi,
dung dịch thuốc nhỏ mắt làm đồng tử nhỏ lại, tăng co thắt túi mật và cơ trơn
tử cung. Arecolin cũng có tác dụng hưng phấn thụ thể cholin biểu hiện hưng
phấn cơ vân, các tiết thần kinh và động mạch cảnh, còn đối với trung khu thần
kinh thì có tác dụng như cholin.
- Binh lang có tác dụng kháng virus và nấm ngoài da.
- Chủ trị: thực tích khí trệ, bụng đầy tiện bón, chứng tả lị mót rặn, phù
(thủy thũng), cước khí sưng đau.
Hiện nay thường ứng dụng trị các loại sán, giun
- Liều dùng:12-15g


25

Phượng vĩ thảo
Hay còn gọi là cỏ Phượng vĩ, là cây thảo nhỏ,cao 30-40cm, thân rễ
ngắn mọc bò, lá chia làm nhiều đoạn xòe ra như đuôi phượng, viền lá có răng
cưa, cây mọc hoang khắp nơi, thường thấy ở quanh bờ tường, giếng.
- Tên khoa học: Pteris multifida Poir
- Bộ phận dùng làm thuốc: toàn cây, thu hái quanh năm.
- Tính vị quy kinh: vị ngọt nhạt, hơi đắng, tính lạnh
- Tác dụng dược lý:
- Chủ trị: thanh nhiệt, lợi thấp, chỉ lỵ

- Liều dùng:15g
 Núc Nác
- Tên khoa học: Oroxylum indicum (L.), Vent (Bignonia indica L.,
Calosanthes indica Blume); thuộc họ Chùm ớt (Bignoniaceae). Núc nác còn có
rất nhiều tên gọi khác, như mộc hồ điệp, ngọc hồ điệp, vân cố chỉ, bạch ngọc chỉ...
- Bộ phận dùng làm thuốc:
Vỏ núc nác (Cortex Oroxyli) Là vỏ thân phơi hay sấy khô của cây núc nác.
- Tính vị quy kinh: Mộc hồ điệp có vị đắng, tính lạnh, vào 2 kinh can
và phế. Vỏ núc nác Vị hơi đắng, tính mát.
- Tác dụng dược lý:
- Chủ trị: Mộc hồ điệp có công dụng nhuận phế, thanh phế nhiệt, lợi yết
hầu, thư can, hòa vị, sinh cơ. Chủ trị ho do phong nhiệt, ho gà (bách nhật khái),
ho do lao, cổ họng sưng đau, khản tiếng, viêm phế quản cấp và mạn tính, yết hầu
sưng đau, viêm amiđan, đau vùng gan, dạ dày, vết thương không liền miệng, dị
ứng ngoài da. Ngoài ra, theo sách Ðiền Nam bản thảo: còn có tác dụng định
suyễn, tiêu viêm, phá tích trệ, lại có thể bổ hư, khoan trung, tiến thực.
Vỏ núc nác Thanh nhiệt lợi thấp, tiêu thũng giải độc. Chủ trị viêm gan
do nhiễm trùng, vàng da, viêm bàng quang, yết hầu sưng đau, thấp chẩn
(eczema), ung nhọt lở loét.


×