Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Thực hiện chính sách An toàn thực phẩm (ATTP) trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 102 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI VY NIN

\

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN TOÀN
THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI VY NIN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN TOÀN
THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Ngành
Mã số

: Chính sách công
: 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC CHIỆN

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CẢM ƠN
Công trình nghiên cứu “Thực hiện chính sách An toàn thực phẩm (ATTP)
trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng” được hoàn thành cùng với sự nỗ
lực, cố gắng của bản thân.
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn
Đức Chiện, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Học viện Khoa học xã hội đã dạy dỗ
và truyền đạt những tri thức quý báu trong những năm qua để tôi có thể hoàn thành
tốt khoá học của mình.
Đồng thời, xin gửi lời cảm ơn đến Ban Quản lý ATTP thành phố Đà Nẵng,
UBND quận và các phường trên địa bàn quận Sơn Trà đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình thu thập tài liệu, thông tin hữu ích tại địa
bàn nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các bạn học viên lớp Chính sách công
khóa đợt 1 năm 2017, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã luôn động viên, tạo điều
kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng vì thời gian có hạn, trình độ năng lực còn hạn
chế nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng
góp, phê bình của quý thầy cô, các nhà khoa học, các bạn đồng nghiệp và độc giả để
luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên

Mai Vy Nin



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn tốt nghiệp “Thực hiện chính sách ATTP trên địa
bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng” là công trình nghiên cứu của riêng bản thân
tôi, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và khảo sát thực tiễn, dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Đức Chiện. Kết quả các số liệu, trích dẫn
nêu trong luận văn đảm bảo tính chính xác, trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

Học viên

Mai Vy Nin


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN
TOÀN THỰC PHẨM Ở VIỆT NAM ......................................................................9
1.1. Khái niệm và lý thuyết phân tích chính sách ATTP ............................................9
1.2. Quan điểm của Đảng, Chính sách của Nhà nước về ATTP ...............................12
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN TOÀN THỰC
PHẨM Ở QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .....................................24
2.1. Vài nét về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội của quận Sơn Trà ..........................24
2.2. Tình hình thực hiện các chính sách ATTP trên địa bàn quận Sơn Trà ..............34
2.3. Đánh giá chung về việc thực hiện chính sách ATTP trên địa bàn quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng ....................................................................................................56
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN TOÀN THỰC PHẨM Ở QUẬN SƠN
TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................................68
3.1. Phương hướng thực hiện chính sách ATTP ở quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng ..68
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách ATTP ở quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng ....................................................................................................71
KẾT LUẬN ..............................................................................................................80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ATTP

An toàn thực phẩm ATTP

ATVSTP

An toàn vệ sinh thực phẩm

BCĐLNVSATTP

Ban chỉ đạo Liên ngành vệ sinh an toàn thực phẩm

NĐTP

Ngộ độc thực phẩm

GCN


Giấy chứng nhận

QCVN

Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia

QLNN

Quản lý nhà nước

TTHC

Trung tâm hành chính

UBND

Ủy ban nhân dân

VPHC

Vi phạm hành chính

VSATTP

Vệ sinh An toàn thực phẩm


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu


Tên bảng

bảng
2.1
2.2

Các chỉ tiêu Kinh tế -xã hội trên địa bàn quận Sơn Trà giai
đoạn năm 2015-2018
Số cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống giai đoạn 2014-2018 Chỉ tiêu

Trang

26
33

Số cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm có đăng ký kinh
2.3

doanh được cấp GCN VSATTP qua các năm trên địa bàn quận

39

Sơn Trà
2.4
2.5
2.6

2.7


Hoạt động tuyên truyền, tập huấn về ATTP trên địa bàn quận
Sơn Trà năm 2018
Kết quả tập huấn cán bộ giám sát, kiểm tra PGTP
Mối quan hệ giữa giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện và bảo
quản thực phẩm năm 2018.
Mối liên quan giữa tập huấn kiến thức VSATTP và môi trường
chế biến thực phẩm

43
44
46

47

2.8

Hoạt động kiểm tra, xử lý các vi phạm ATVSTP

48

2.9

Nguồn thông tin mang lại hiệu quả cao nhất sau can thiệp

55


DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu


Tên hình

Trang

hình
2.1

2.2

Tăng cường công tác kiểm tra, lấy mẫu giám sát ATTP tại các
nhà hàng, khách sạn trên địa bàn quận
Hội nghị tuyên truyền ATTP trên địa bàn phường Phước Mỹ,
quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng

45
54

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Số hiệu

sơ đồ
2.1

Tên sơ đồ
Quy trình cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP đối với cơ
sở kinh doanh thực phẩm có ĐKKD thuộc quận cấp

Trang

38



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
An toàn thực phẩm (ATTP) là một trong những vấn đề được quan tâm ngày
càng sâu sắc trên phạm vi mỗi quốc gia và quốc tế. Ngộ độc thực phẩm (NĐTP) và
các bệnh do thực phẩm kém chất lượng gây ra không chỉ ảnh hưởng trực tiếp,
thường xuyên đến sức khỏe của mỗi con người mà còn liên quan chặt chẽ đến năng
suất lao động, hiệu quả phát triển kinh tế, thương mại, dịch vụ và an sinh xã hội.
Việc tiếp cận thực phẩm an toàn không chỉ đảm bảo đóng góp to lớn đối với việc
cải thiện sức khoẻ con người, chất lượng cuộc sống và phát triển bền vững xã hội
mà còn là quyền cơ bản đối với mỗi con người. Do đó, việc đảm bảo ATTP góp
phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo
và hội nhập quốc tế.
Theo báo cáo gần đây của Tổ chức Y tế Thế giới, hơn 1/3 dân số các nước
phát triển bị ảnh hưởng của các bệnh do thực phẩm gây ra mỗi năm. Ước tính 600
triệu người, tức là 1/10 người trên thế giới, bị bệnh sau khi ăn uống và 420 000 người
chết mỗi năm [35]. Xu hướng các bệnh truyền qua thực phẩm, ngộ độc thực phẩm xảy
ra ở quy mô rộng nhiều quốc gia càng trở nên phổ biến trong bối cảnh hội nhập và toàn
cầu hóa. Do vậy, việc đảm bảo chất lượng vệ sinh thực phẩm không chỉ là nghĩa vụ của
mỗi quốc gia mà còn là trách nhiệm của các tổ chức quốc tế hiện nay.
Ở Việt Nam, các loại thực phẩm lưu hành trên thị trường ngày càng đa dạng
và nhiều chủng loại trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa. Việc phân phối các
sản phẩm thực phẩm trên thị trường hiện nay chủ yếu mang tính tự phát, nguồn
cung cấp các sản phẩm này phần lớn từ các hộ kinh doanh cá thể trên mạng lưới tiêu
thụ tại các chợ truyền thống, đường phố, nhà hàng….
Trong những năm gần đây, công tác bảo đảm chất lượng ATTP, phòng
chống NĐTP và các bệnh truyền qua thực phẩm ngày càng được các tầng lớp trong
xã hội quan tâm, nhiều vụ vi phạm nghiêm trọng về ATTP gây hoang mang trong
dư luận xã hội như giá đậu được làm bằng hóa chất, tiêm thuốc an thần vào heo


1


trước khi giết mổ, bơm tạp chất vào tôm chết nhằm làm tươi và tăng trọng lượng
con tôm, hay trộn lõi pin vào cà phê của một số cơ sở sản xuất, kinh doanh bị phát
hiện thời gian qua, v.v... Trước thực trạng trên Nhà nước ta đã ban hành nhiều hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật như Luật ATTP năm 2010, Nghị định số
115/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2018 quy định xử phạt hành chính về ATTP,..., nhằm
xác định trách nhiệm quản lý nhà nước, trách nhiệm của người sản xuất, kinh
doanh, người tiêu dùng; thực hiện phân công phân cấp và phối hợp giữa các Bộ,
ngành, địa phương quản lý tốt công tác ATTP. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy mặc dù
vấn đề ATTP liên tục được cập nhật trong các tin tức thời sự trong ngày, nhưng tình
hình vệ sinh ATTP ở nước ta, nhất là ở khu vực đô thị trong thời gian qua còn tồn
tại nhiều bất cập, tình trạng cung cấp, buôn bán các loại thực phẩm không đảm bảo
vệ sinh, thực phẩm không có nguồn gốc rõ ràng, dẫn đến NĐTP làm ảnh hưởng sức
khỏe người dân vẫn diễn ra thường xuyên trong những năm gần đây và có xu hướng
ngày càng gia tăng, gây lo ngại cho toàn xã hội.
Năm 2016 là năm thứ 2 liên tiếp NĐTP giảm cả về số vụ, ca mắc và số tử
vong,cụ thể: so với cùng kỳ năm 2015 số vụ giảm 04 vụ (2,4%), số mắc giảm 532
người (10,8%), số đi viện giảm 754 người (16,5%) và số tử vong giảm 09 người
(42,9%). NĐTP tại các bếp ăn tập thể, trong đó bao gồm bếp ăn tập thể khu công
nghiệp, khu chế xuất đã có xu hướng giảm về số người mắc, số người đi viện, cùng
với đó là NĐTP do thức ăn đường phố cũng đã có xu hướng giảm, NĐTP tại gia
đình giảm về số vụ và số tử vong [9].
Thành phố Đà Nẵng là một thành phố trực thuộc Trung ương từ năm 1997, là
trung tâm kinh tế, tài chính, chính trị, văn hoá, du lịch, xã hội, giáo dục, đào tạo,
khoa học và công nghệ, y tế chuyên sâu của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và
cả nước. Đây cũng là một thành phố trẻ, có sự gia tăng dân số cơ học nhanh trong
những năm gần đây. Sự phát triển nhanh các ngành nghề, đặc biệt là dịch vụ du lịch

đã thu hút đông đảo khách đến với địa phương.
Theo thống kê tổng dân số thành phố Đà Nẵng hiện nay 1,064 triệu người.
Số lượng khách du lịch hàng năm tăng cao, trong 9 tháng đầu năm 2018 tổng lượng

2


khách tham quan, du lịch đến Đà Nẵng ước đạt 6.519.264 lượt, tăng 27,7% so với
cùng kỳ 2017, đạt 87,3% kế hoạch năm; trong đó khách quốc tế ước đạt 2.405.621
lượt, tăng 40% so với cùng kỳ 2017, khách nội địa ước đạt 4.113.643 lượt, tăng
21,5% so với cùng kỳ 2017.
Trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có hơn 2500 cơ sở sản xuất, kinh doanh
thực phẩm và dịch vụ ăn uống. Mỗi năm thị trường tiêu dùng của thành phố Đà
Nẵng tiêu thụ khoảng 140 nghìn tấn rau, quả các loại; khoảng 37,5 nghìn tấn thịt
thông qua việc nhập gia súc, gia cầm để giết mổ. Có 15 tỉnh, thành cung cấp rau,
quả, thịt cho thành phố Đà Nẵng, đây là cơ hội nhưng cũng là thách thức lớn đối với
thành phố trong việc kiểm tra, giám sát an toàn vệ sinh thực phẩm.
Có thể nói, vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng đang nảy sinh nhiều vấn đề có tính bức thiết, thu hút sự quan tâm của các cấp
chính quyền và người dân. Trong thời gian qua, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
vẫn xảy ra một số vụ NĐTP ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Điển hình vào
ngày 14/5/2017, tại quán cơm trên đường Hồ Nghinh, quận Sơn Trà, thành phố Đà
Nẵng có 17 người bị ngộ độc thực phẩm do thức ăn không đảm bảo vệ sinh, trong
đó có 07 người nhập viện để điều trị. Bên cạnh những mặt làm được trong công tác
quản lý nhà nước về ATTP, hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều chính sách bất cập như
chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước (QLNN) về
ATTP, những công tác thực thi, thi hành và các tồn tại trong việc tuyên truyền, giáo
dục về ATTP.
Thực tế, người dân cũng như du khách đến Thành phố Đà Nẵng nói chung,
trên địa bàn bàn quận Sơn Trà nói riêng đang gặp nhiều khó khăn trong việc lựa

chọn những thực phẩm an toàn, đảm bảo tiêu chí về vệ sinh an toàn thực phẩm
(VSATTP) trong tiêu dùng ăn uống để bảo vệ sức khỏe cho chính bản thân và gia
đình. Về phía chính quyền các cấp và ban ngành có liên quan đến trách nhiệm quản
lý ATTP cũng đang gặp khó khăn, vướng mắc trong thực thi công tác quản lý
ATTP…. Điều này đang đặt ra nhiều câu hỏi nghiên cứu cần trả lời làm rõ. Đây
chính là lý do học viên lựa chọn đề tài nghiên cứu đề tài: “Thực hiện chính sách

3


ATTP trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng” nhằm tìm hiểu việc thực
hiện các chính sách vệ sinh an toàn ở một địa bàn đô thị có sự năng động và tốc độ
phát triển nhanh ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vệ sinh ATTP nói chung, ATTP nói riêng là vấn đề cần quan tâm của các
quốc gia và nhất là một nước đang phát triển như Việt Nam chúng ta hiện nay. Việc
đảm bảo ATTP góp phần bảo vệ sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống của
con người. Do vậy, trong thời gian qua, ở nước ta đã có một số công trình nghiên
cứu trên nhiều góc độ khác nhau về vấn đề này, có thể kể đến các công trình nghiên
cứu tiêu biểu như:
Luận án Tiến sĩ dinh dưỡng của tác giả của Nguyễn Thị Thanh Hương với đề
tài “Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực quản lý việc sử dụng một số phụ gia
trong chế biến thực phẩm tại Quảng Bình” (2012)[16]. Luận án chỉ ra việc đánh giá
thực trạng quản lý và hiệu quả mô hình can thiệp nâng cao năng lực quản lý việc sử
dụng một số phụ gia trong chế biến thực phẩm tại Quảng Bình.
Luận văn Thạc sĩ “Quản lý Nhà nước về ATTP từ thực tiễn tỉnh Đồng Tháp”
(2017) của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Loan [17]. Luận văn nêu từ thực tiễn tỉnh
Đồng Tháp trong thời gian qua vẫn còn gặp nhiều khó khăn do các văn bản hướng
dẫn của các Bộ, ngành chậm ban hành hoặc đã được ban hành nhưng thiếu sự đồng
bộ, một số văn bản không phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương.

Luận văn Thạc sĩ “Đánh giá thực trạng công tác đảm bảo chất lượng vệ sinh
ATTP ở Đắc Lắc 5 năm (1998-2002)” của tác giả Nguyễn Hữu Huyên đã phân tích
kiến thức, thái độ thực hành về vệ sinh ATTP của người tiêu dùng ở Đắc Lắc 5 năm
(1998-2002)[15]. Kết quả cho thấy, đối với những người đã từng nghe các thông tin
về vệ sinh ATTP thì truyền hình là kênh được nhiều người xem nhất, 91,3% người
tiêu dùng biết được thế nào là vệ sinh ATTP và 90.5% biết được thế nào là ngộ độc
thực phẩm; có 96,3% nhận các thông tin về vệ sinh ATTP từ vài tuần đến vài tháng.
Luận văn Thạc sĩ “Bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh
thực phẩm theo pháp luật nước ta hiện nay” (2016) của tác giả Nguyễn Diệu Vũ

4


[14]. Kết quả cho thấy việc thực hiện mục tiêu hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực ATVSTP. Qua đó khẳng định pháp luật luôn là
công cụ hiệu quả nhất của Nhà nước trong việc đảm bảo thực hiện quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân quốc gia mình.
Ngoài ra còn có các đề tài nghiên cứu chi tiết về thực hành, hệ thống đảm
bảo ATTP như: Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II của Thạc sĩ Lê Đức
Sang, Trường Đại học Thăng Long và Tiến sỹ Nguyễn Thanh Hà, trường Đại học Y
tế công cộng về “Thực hành tuân thủ một số quy định về ATTP của người kinh doanh
thực phẩm tươi sống tại chợ Chờ, Yên Phong, Bắc Ninh năm 2013” [13, tr.207-213].
Công trình này đã tiến hành nhằm đánh giá việc tuân thủ một số quy định về
ATTP của người kinh doanh thực phẩm tươi sống tại chợ Chờ, huyện Yên
Phong, tỉnh Bắc Ninh.
HACCP – Một hệ thống quản lý chất lượng vệ sinh ATTP có hiệu quả của
Trần Minh Tâm, Tạp chí Khoa học Đại học Văn Lang, số 07/2018 [26, tr.87-93].
HACCP là hệ thống quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm được áp dụng
cho lĩnh vực công nghiệp thực phẩm.
Nghiên cứu kiến thức, thái độ, thực hành về ATVSTP của người tiêu dùng

thực phẩm tại huyện Châu Thành năm 2012 của tác giả Trương Văn Dũng [27],
Nghiên cứu cho kết quả tỷ lệ người tiêu dùng trong huyện có kiến thức, thái độ và
thực hành khá tốt về ATTP. Cần tăng cường công tác tuyên truyền trực tiếp và tập
trung vào nhóm những người tiêu dùng dưới 30 tuổi, những người có học vấn thấp,
những người là nông dân làm ruộng, những người có kinh tế không ổn định, hộ
nghèo và hộ cận nghèo.
Nhìn chung, những công trình trên đã góp phần quan trọng vào việc phân
tích lý luận, thực tiễn và đề xuất các giải pháp thiết thực trong việc đảm bảo ATTP
ở một số địa phương trên cả nước. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn thiếu vắng công
trình nghiên cứu về thực thi chính sách ATTP ở Đà Nẵng -một địa phương có tốc độ
phát triển kinh tế- xã hội rất năng động hiện nay. Do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài
“Thực hiện chính sách ATTP trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng” để làm
luận văn thạc sĩ là không trùng lắp với các công trình khoa học đã được công bố.

5


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách ATTP nhằm định hướng cho
sự nhận thức, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc
thực hiện chính sách ATTP. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả việc thực hiện chính sách ATTP ở quận sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận văn làm rõ cơ sở lý luận về thực hiện chính sách ATTP ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng thực hiện chính sách ATTP ở quận Sơn Trà, thành phố
Đà Nẵng.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách
ATTP ở quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện chính sách ATTP trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Người dân, chủ kinh doanh nhỏ lẻ và lớn, cán bộ quản lý các cấp về lĩnh vực
ATTP, các cơ sở sản xuất, kinh doanh thức ăn trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố
Đà Nẵng dưới góc độ khoa học chính sách công.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách ATTP trên địa bàn quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng từ năm 2012 đến nay và đề ra giải pháp hoàn thiện chính sách
ATTP trong thời gian tới.
- Phạm vi không gian: Quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2012 đến nay.
- Phạm vi đối tượng của chính sách: Các cơ sở sản xuất, kinh doanh thức ăn
trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Cán bộ quản lý lĩnh vực ATTP và
người dân.
Thời gian nghiên cứu: Tháng 09/2018 đến tháng 02/2019.

6


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã hội học và vận
dụng triệt để phương pháp luận nghiên cứu chính sách công. Đó là cách tiếp cận
quy phạm chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng,
thực hiện, đánh giá chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách. Lý
thuyết chính sách công được soi sáng qua thực tiễn giúp hình thành lý luận chính
sách chuyên ngành.
Bên cạnh đó, Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử và lôgíc,

phân tích và tổng hợp vấn đề có liên quan đến chủ đề nghiên cứu của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để có thông tin phục vụ cho việc làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến vấn đề ATTP hiện nay, đặc biệt là tại địa phương, luận văn đã sử
dụng các phương pháp cụ thể như:
- Thống kê và phân tích các tài liệu thứ cấp là các công trình nghiên cứu có
liên quan đến đề tài.
- Phân tích hệ thống các văn bản pháp luật và chính sách ATTP hiện hành.
- Tổng hợp và phân tích các báo cáo, số liệu thống kê liên quan đến ATTP
trên địa bàn quận Sơn Trà.
- Sử dụng phương pháp xã hội học với cuộc khảo sát định tính tại các cơ sở
sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm; các cán bộ quản lý lĩnh vực ATTP và
người dân trên địa bàn quận Sơn Trà.
Cơ cấu mẫu điều tra phỏng vấn sâu: 10 chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh thực
phẩm, 09 cán bộ quản lý lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm và 10 người dân là
khách hàng tiêu dùng thực phẩm ở địa bàn nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Các kết luận, kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa thiết thực, góp
phần bổ sung hoàn thiện những vấn đề lý luận về chính sách ATTP nói chung,
chính sách ATTP nói riêng ở Việt Nam.
7


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Các kết luận, các giải pháp, kiến nghị đề xuất rút ra từ việc nghiên cứu đề
tài luận văn có ý nghĩa thực tiễn thiết thực, góp phần hoàn thiện các giải pháp, công
cụ chính sách ATTP trong cả nước nói chung, tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
nói riêng.
- Luận văn có thể sử dụng làm đề tài tham khảo, phục vụ, nghiên cứu, giảng

dạy về chính sách công, chính sách ATTP ở Việt Nam.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về chính sách ATTP ở Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách ATTP trên địa bàn quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách ATTP tại quận
Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
AN TOÀN THỰC PHẨM Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và lý thuyết phân tích chính sách ATTP
1.1.1. Khái niệm về chính sách ATTP
Trên thế giới hiện nay, khi đề cập về vấn đề ATTP có rất nhiều cách giải thích
khác nhau. Theo Liên minh Châu Âu (EU), ATTP là những biện pháp và điều kiện
cần thiết để kiểm soát các mối nguy hại và đảm bảo sự phù hợp của thực phẩm có ý
định dùng làm thực phẩm cho con người.
Tại Việt Nam, năm 2003 “Vệ sinh ATTP” được sử dụng trong Pháp lệnh Vệ
sinh ATTP do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành, qua đó “vệ sinh ATTP là các
điều kiện và biện pháp cần thiết để bảo đảm thực phẩm không gây hại sức khỏe,
tính mạng con người”. Đến năm 2010, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật ATTP,
đã sửa đổi “ Vệ sinh ATTP” thành “ATTP” và được giải thích “ATTP là việc bảo
đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng của con người”. Với hai
cách gọi khác nhau, “ATTP” hay “VSATTP” đều được hiểu là một quá trình bao
gồm việc xử lý, chế biến, bảo quản và lưu trữ thực phẩm bằng những phương pháp

phòng ngừa, phòng chống bệnh tật do thực phẩm gây ra tránh các nguy cơ ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của con người.
Theo Luật ATTP năm 2010 thì “Thực phẩm là sản phẩm mà con người ăn,
uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực phẩm là không
bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm” [18]. Chúng ta
cũng hiểu được rằng thực phẩm là những loại thức ăn mà con người có thể ăn uống
được để cung cấp chất dinh dưỡng cho sự phát triển của cơ thể, đảm bảo cho sức
khỏe con người, đồng thời cũng có thể là nguồn gây bệnh nếu không đảm bảo vệ
sinh khi mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo
quản sản phẩm.
Vệ sinh thực phẩm là một khái niệm khoa học để nói thực phẩm không chứa
sinh vật gây bệnh và không chứa độc tố. Khái niệm vệ sinh thực phẩm còn bao gồm
khâu tổ chức vệ sinh trong chế biến bảo quản thực phẩm.

9


Do đó, ATTP là đảm bảo chế độ dinh dưỡng hợp lý cho cộng đồng, không gây
ngộ độc của thực phẩm đối với con người, góp phần nâng cao sức khỏe của người
dân ở mọi lứa tuổi, làm tăng tuổi thọ và giảm tỷ lệ mắc bệnh, tăng cường sức lao
động, học tập, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Mặt khác,
đảm bảo ATTP nhằm cải thiện sức khỏe nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp
ứng nhu cầu tất yếu khách quan của xã hội nhằm thúc đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.1.2. Lý thuyết phân tích chính sách ATTP
Chính sách là do con người tạo ra, là công cụ quản lý phản ánh chính kiến của
Nhà nước đối với các vấn đề phát sinh trong đời sống kinh tế - xã hội mang tính
thống nhất và khá ổn định, tác động mạnh mẽ đến hoạt động của con người. Chính
sách là động lực thúc đẩy tính tích cực, khả năng sáng tạo, nhiệt tình, trách nhiệm
của mỗi con người, nhưng cũng có thể kiềm hãm những hoạt động, làm mai một tài

năng, sáng tạo của họ.
Chính sách công là tập hợp những quyết định mang tính chính trị của Đảng
cầm quyền nhằm vạch ra những đường hướng hành động ứng xử cơ bản của chủ thể
quản lý với các vấn đề, hiện tượng tồn tại trong đời sống để thúc đẩy và quản lý sự
phát triển nhằm đạt tới những mục tiêu nhất định cho trước. Khái niệm Chính sách
công được diễn đạt khái quát như sau: “Chính sách công là tập hợp các quyết định
chính trị có liên quan của nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp
và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu xác định của
đảng chính trị cầm quyền” [12, tr. 67-70].
Chủ thể ban hành chính sách là nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực
(Quốc hội, Chính phủ), các bộ ngành thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Chính
sách công được biểu hiện bằng nhiều cấp độ khác nhau: Hiến pháp, Luật, Nghị
quyết, Nghị định, Thông tư, Quyết định. Mục đích cuối cùng là để phát triển và
quản lý sự phát triển của xã hội. Cấu trúc của chính sách gồm 3 bộ phận: Những
quan điểm và định hướng chính sách; biện pháp thực hiện chính sách, các công cụ
của chính sách và mục tiêu mà chính sách hướng tới.
Xác định vấn đề chính sách là giai đoạn khởi đầu trong quy trình xây dựng
chính sách công, bao gồm từ bước phát hiện những vấn đề xã hội, mâu thuẫn nảy

10


sinh trong đời sống xã hội, đến mức cần phải có giải pháp giải quyết bằng những
chính sách cho đến khi hoàn thành các mục tiêu của chính sách công. Những vấn đề
đó thường là các mâu thuẫn trong xã hội, những khó khăn, vướng mắc trong quá
trình phát triển hoặc là nhu cầu phát triển ở mức độ cao hơn. Vì vậy vấn đề của
chính sách luôn luôn gắn liền với sự phát triển của xã hội.
Việc xác định đúng vấn đề chính sách đóng một vai trò quan trọng trong quá
trình xây dựng, ban hành, thực hiện chính sách và quyết định đến sự thành công hay
thất bại của chính sách. Các chính sách có thể được đề ra và thực hiện ở những tầng

nấc khác nhau, từ các tổ chức quốc tế đến từng quốc gia, từ nhà nước đến các đơn
vị, tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp,.. nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra cho
mỗi tổ chức đó và chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ chức đó. Vì vậy, chính
sách ATTP là việc các cơ quan nhà nước tác động bằng nhiều biện pháp lên các đối
tượng quản lý nhằm mục đích bảo đảm xã hội được tiếp cận, sử dụng thực phẩm an
toàn, chất lượng, phòng ngừa và tránh NĐTP, đảm bảo tiêu chí về VSATTP trong
tiêu dùng ăn uống để bảo vệ sức khỏe cho người dân. Nhà nước sử dụng quyền lực
được nhân dân giao thông qua các văn bản cụ thể, công cụ chính sách, pháp luật, kế
hoạch và các quy định khác của pháp luật về ATTP để trực tiếp điều hành, tác động
lên các chủ thể quản lý là các đối tượng sản xuất, kinh doanh thực phẩm và người
tiêu dùng. Trong hoạt động quản lý của mình, nhà nước còn là chủ thể chấp hành,
thực hiện trên thực tế các luật và các văn bản dưới luật đã được ban hành.
Bên cạnh đó, công tác quản lý nhà nước về ATTP là hoạt động có tổ chức của
nhà nước thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, các công cụ chính sách của
nhà nước tác động đến tình hình thực hiện chính sách ATTP của các tổ chức, cá
nhân sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng nhằm định hướng, dẫn dắt các chủ thể này
thực hiện tốt các vấn đề ATTP. Đồng thời, hoạch định và ban hành các văn bản,
chính sách, chiến lược, kế hoạch có liên quan đến vấn đề ATTP qua việc tổ chức
tuyên truyền, giáo dục, công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm, công tác phối
hợp liên ngành trong quản lý và nghiên cứu khoa học.
Trên cơ sở thực tiễn về ATTP, các địa phương cần tập trung xây dựng các
chính sách, kế hoạch, chương trình về ATTP và được quản lý nhằm đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm sức khỏe nhân dân trên địa bàn gồm:

11


Thứ nhất, Xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể về đảm bảo ATTP, quy
hoạch vùng sản xuất thực phẩm an toàn theo chuỗi cung cấp thực phẩm;
Thứ hai, ứng dụng công nghệ, sử dụng nguồn lực nhà nước và các nguồn lực

khác đầu tư nghiên cứu khoa học việc phân tích nguy cơ đối với ATTP; xây dựng
mới, nâng cấp một số phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn quốc tế, khu vực; nâng cao
năng lực các phòng thí nghiệm phân tích hiện có;
Thứ ba, khuyến khích các cơ sơ sản xuất, kinh doanh thực phẩm đổi mới công
nghệ, mở rộng quy mô sản xuất; sản xuất các thực phẩm chất lượng cao, bảo đảm
an toàn; bổ sung vi chất dinh dưỡng thiết yếu trong thực phẩm; xây dựng thương
hiệu và phát triển hệ thống cung cấp thực phẩm an toàn;
Thứ tư, thiết lập khuôn khổ pháp lý và tổ chưc thực hiện lộ trình bắt buộc áp
dụng hệ thống Thực hành nông nghiệp tốt (GAP), Thực hành sản xuất tốt (GMP),
Thực hành vệ sinh tốt (GHP), Phân tích nguy cơ và kiểm soát điểm tới hạn
(HACCP) và các hệ thống quản lý ATTP tiên tiến khác trong quá trình sản xuất,
kinh doanh thực phẩm;
Thứ năm, mở rộng hợp tác quốc tế, đẩy mạnh ký kết điều ước, thỏa thuận
quốc tế về công nhận, thừa nhận lẫn nhau trong lĩnh vực thực phẩm; Khuyến khích,
tạo điều kiện cho hội, hiệp hội, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư, tham
gia vào các hoạt động xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, kiểm nghiệm ATTP;
Thứ sáu, khen thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực
phẩm an toàn; Tăng đầu tư, đa dạng các hình thức, phương thức tuyên truyền, giáo
dục nâng cao nhận thức người dân về tiêu dùng thực phẩm an toàn, ý thức trách
nhiệm và đạo đức kinh doanh của tổ chức, cá nhân trong sản xuất, kinh doanh thực
phẩm đối với cộng đồng.
1.2. Quan điểm của Đảng, Chính sách của Nhà nước về ATTP
1.2.1. Quan điểm của Đảng về vấn đề ATTP
Bảo đảm ATTP là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, vừa cấp bách, vừa lâu
dài của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền
các cấp, trước hết là của người đứng đầu; là chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội hằng
năm ở các cấp.
Trong thời gian qua, công tác quản lý nhà nước và bảo đảm ATTP có sự tiến

12



bộ. Nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về ATTP theo hướng chuyển biến
mạnh. Đã hình thành một số mô hình sản xuất, chế biến thực phẩm an toàn; một số
doanh nghiệp lớn đầu tư sản xuất, kinh doanh thực phẩm an toàn. Nhiều hàng hóa
thực phẩm sản xuất trong nước đạt chuẩn quốc tế về ATTP.
Tuy nhiên, tình trạng mất VSATTP ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, an toàn
sinh mạng của từng người dân. Công tác quản lý nhà nước về ATTP vẫn còn nhiều
bất cập, hạn chế cả về thể chế và thực thi pháp luật. Một số phương tiện thông tin
đại chúng đưa tin không chính xác, thiếu căn cứ khoa học, tác động rất tiêu cực đến
sản xuất, kinh doanh và niềm tin của nhân dân về thực phẩm an toàn ở nước ta.
Mặt khác, một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo bảo
đảm ATTP. Thể chế, chính sách về bảo đảm ATTP chưa phù hợp, thiếu đồng bộ;
chế tài chưa đủ sức răn đe, ngăn ngừa có hiệu quả vi phạm về ATTP, nhất là chưa
chú ý xem xét, xử lý cán bộ, công chức thiếu trách nhiệm để xảy ra vi phạm.
Ngày 19/01/2017 Hội nghị Sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 08-CT/TW,
ngày 21/10/2011 của Ban Bí thư khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với vấn đề ATTP trong tình hình mới [1]. Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy, tổ chức
đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân các cấp tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Chỉ thị 08; đồng thời quán triệt, thực hiện tốt các quan điểm, nhiệm
vụ và giải pháp để phát huy kết quả đã đạt được, khắc phục dứt điểm những hạn
chế, bất cập, bảo đảm ATTP trong thời gian tới.
ATTP có tầm quan trọng sống còn đối với sức khỏe, hạnh phúc của từng
người dân, giống nòi dân tộc và sự phát triển đất nước ta. Các cấp ủy, tổ chức đảng,
chính quyền từ Trung ương đến cơ sở phải kiên trì, kiên quyết lãnh đạo, chỉ đạo tổ
chức thực hiện. Các doanh nhân, doanh nghiệp và từng hộ gia đình, từng người dân
cần chủ động, sáng tạo, tích cực tham gia thực hiện, phấn đấu sớm đạt mục tiêu tất
cả thực phẩm được sản xuất, kinh doanh, lưu thông và tiêu dùng trên lãnh thổ Việt
Nam đều là thực phẩm an toàn.
Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ

đạo bảo đảm ATTP trên địa bàn; đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò giám sát của
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân các cấp trong
công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã

13


hội, doanh nghiệp, nhân dân về các chủ trương, chính sách, pháp luật và những kiến
thức cần thiết về ATTP; Đồng thời, xử lý nghiêm minh theo pháp luật những tổ
chức, cá nhân đưa tin sai sự thật, không chính xác về ATTP, tác động tiêu cực đến
sản xuất, kinh doanh và niềm tin của nhân dân về thực phẩm an toàn ở nước ta.
Tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, đẩy mạnh việc ký kết các điều ước,
thỏa thuận quốc tế; kiểm soát chặt chẽ hóa chất bảo vệ thực vật, các chất cấm trong
sản xuất thực phẩm và thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam, nhất là qua đường tiểu
ngạch. Có những biện pháp phù hợp, kiên quyết đề phòng, chống nạn hàng giả,
hàng kém chất lượng và hàng nhái đang lưu thông trên thị trường
Tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về ATTP, tổ chức bộ máy quản lý nhà
nước về ATTP đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới; đồng thời hoàn
thiện cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp để bảo
đảm tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về ATTP. Tăng
cường, phân định rõ trách nhiệm của các ngành chức năng từ Trung ương đến cơ sở
trong công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát các khâu sản xuất, chế biến, nhập khẩu
thực phẩm trước khi đưa vào lưu thông và tiêu dùng. Bổ sung các chế tài cần thiết,
bảo đảm xử phạt nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm ATTP.
Các cơ quan quản lý nhà nước về ATTP có trách nhiệm cung cấp kịp thời,
chính xác các thông tin về ATTP, về các doanh nghiệp, hộ kinh doanh vi phạm
ATTP để công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Chú trọng bồi dưỡng
nâng cao năng lực, phẩm chất và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác quản lý nhà nước về ATTP. Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư, tham gia xây dựng tiêu chuẩn, quy

chuẩn kỹ thuật, kiểm nghiệm và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật bảo đảm ATTP.
Thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTG ngày 09/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về
việc tăng cường trách nhiệm quản lý Nhà nước về ATTP [23]. Chỉ thị nêu rõ vai
trò, trách nhiệm của các bộ, ngành và địa phương trong việc giám sát, quản lý bảo
đảm ATTP. Giao UBND các cấp chịu trách nhiệm về bảo đảm ATVSTP trên địa
bàn; xác định việc bảo đảm vệ sinh, ATTP là nhiệm vụ cấp thiết cần tập trung chỉ
đạo, điều hành; ưu tiên bố trí đủ kinh phí, nguồn lực cho công tác quản lý, bảo đảm
ATTP, trước mắt chủ động bố trí kinh phí tương ứng với số thu tiền xử phạt vi

14


phạm hành chính (VPHC) về ATTP thuộc ngân sách địa phương theo quy định của
Luật ngân sách Nhà nước để đầu tư trang thiết bị kỹ thuật và công tác kiểm tra,
kiểm nghiệm, xử lý tiêu hủy thực phẩm không an toàn.
Chủ tịch UBND trực tiếp làm nhiệm vụ Trưởng ban chỉ đạo liên ngành ATTP
của địa phương; chủ động tổ chức lực lượng tăng cường thanh tra, kiểm tra giám sát
bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, phải chịu trách nhiệm khi để xảy ra vi phạm
pháp luật về ATTP trên địa bàn. Kiên quyết xử lý cán bộ, công chức thiếu trách
nhiệm, buông lỏng quản lý. Đầu tư trang thiết bị đo kiểm di động hoặc cố định tại
các trung tâm thương mại, chợ nông sản lớn, hướng dẫn và giúp người dân nhận
biết thực phẩm an toàn, thực phẩm không an toàn; phát huy năng lực của các trung
tâm đo kiểm trên địa bàn.
Tuyên tuyền, vận động tới từng hộ dân, chủ trang trại, doanh nghiệp thực hiện
các quy định bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP), ký cam kết bảo đảm
vệ sinh ATTP. Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh phải công bố quy trình sản
xuất, kinh doanh bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm. Xác định việc bảo đảm
ATTP là một tiêu chí xây dựng nông thôn mới, khu dân cư văn hóa. Xây dựng và
phát triển các vùng nguyên liệu sản xuất nông sản thực phẩm an toàn; thúc đẩy áp
dụng rộng rãi mô hình VietGap, các mô hình sản xuất an toàn khác và phát triển hệ

thống phân phối thực phẩm an toàn.
1.2.2. Chính sách của Nhà nước về ATTP
Tình trạng vi phạm về ATTP vẫn diễn ra hết sức phức tạp gây lo lắng, bức xúc
trong xã hội. Nguyên nhân chủ yếu là nhiều địa phương chưa quan tâm và thiếu tập
trung trong việc quản lý ATTP, chậm phát hiện và không kịp thời xử lý các vụ việc
vi phạm. Việc ban hành các văn bản hướng dẫn, nhất là Thông tư chưa kịp thời,
kinh phí, lực lượng kiểm tra còn hạn chế về số lượng và chất lượng. Việc xử lý vi
phạm chưa nghiêm minh, chưa đủ sức răn đe, ngăn ngừa vi phạm, chưa chú ý xem
xét xử lý trách nhiệm của cán bộ, công chức. Việc tuyên truyền mới tập trung việc
phản ánh hành vi vi phạm mà chưa chú trọng biểu dương, khuyến khích những tập
thể, cá nhân, doanh nghiệp làm tốt công tác ATTP. Chưa phát huy được vai trò các
tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội, công luận và người dân tham gia giám sát bảo
đảm ATTP, nhất là tại các cơ sở địa phương.

15


Luật ATTP năm 2010 đã chỉ rõ việc phân công trách nhiệm quản lý nhà nước
giữa các Bộ, ngành về ATVSTP theo nhóm sản phẩm thay vì quản lý theo phân
khúc sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Tại Điều 4, Chương 2 của Thông tư số
13/2014/TTLT/BYT-BNN-BCT ngày 09/4/2014 của Bộ Y tế - Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn – Bộ Công thương về hướng dẫn việc phân công, phối hợp
trong quản lý nhà nước về ATTP [7]. Thông tư này quy định nguyên tắc trong việc
phân công quản lý, đó là một sản phẩm, một cơ sở sản xuất, kinh doanh chỉ chịu sự
quản lý của một cơ quan quản lý Nhà nước.
Theo quy định hiện hành, Bộ Y tế quản lý nhà nước đối với những sản phẩm
thực phẩm và cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm, trừ những loại dụng cụ, vật liệu
bao gói chuyên dụng gắn liền và chỉ được sử dụng cho các sản phẩm thực phẩm
thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Công
Thương.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý nhà nước giai đoạn xuyên
suốt từ sản xuất đến nơi tiêu thụ đối với thực phẩm tươi sống sản xuất trong nước và
thực phẩm tươi sống nhập khẩu. Các thực phẩm khác thì chỉ quản lý ở khâu sản
xuất thực phẩm ban đầu và sơ chế thực phẩm .
Bộ Công thương quản lý nhà nước đối với những sản phẩm thực phẩm và cơ
sở sản xuất kinh doanh thực phẩm được phân công quản lý. Bên cạnh đó, Bộ Công
thương sẽ phối hợp với Bộ Y tế và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để kiểm
tra, thanh tra thực phẩm lưu thông trên thị trường, thực phẩm giả, thực phẩm kém
chất lượng.
Tại Điều 4 Luật ATTP 2010, chính sách của Nhà nước về ATTP được quy
định: Sử dụng nguồn lực nhà nước và các nguồn lực khác đầu tư nghiên cứu khoa
học và ứng dụng công nghệ phục vụ việc phân tích nguy cơ đối với ATTP; hỗ trợ
đầu tư xây dựng mới, nâng cấp cơ sở sản xuất nguyên liệu thực phẩm an toàn, chợ
đầu mối nông sản thực phẩm, cơ sở giết mổ gia súc và một số phòng thí nghiệm đạt
Tiêu chuẩn khu vực, quốc tế.
Khuyến khích các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm mở rộng quy mô sản
xuất, đổi mới công nghệ; xây dựng thương hiệu và phát triển hệ thống cung cấp
thực phẩm an toàn và tổ chức thực hiện lộ trình bắt buộc áp dụng hệ thống Thực

16


hành sản xuất tốt (GMP), Thực hành nông nghiệp tốt (GAP), Thực hành vệ sinh tốt
(GHP), Phân tích nguy cơ và kiểm soát điểm tới hạn (HACCP) và các hệ thống
quản lý ATTP tiên tiến khác trong quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm.
Tăng đầu tư, đa dạng các hình thức, phương thức tuyên truyền, giáo dục nâng
cao nhận thức người dân về tiêu dùng thực phẩm an toàn, ý thức trách nhiệm và đạo
đức kinh doanh của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm đối với cộng
đồng. Khen thưởng kịp thời tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm an
toàn. Khuyến khích, tạo điều kiện cho hội, hiệp hội, tổ chức, cá nhân trong nước, tổ

chức, cá nhân nước ngoài đầu tư, tham gia vào các hoạt động xây dựng tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật, kiểm nghiệm ATTP.
1.2.3. Chính sách ATTP của thành phố Đà Nẵng và quận Sơn Trà.
Đà Nẵng là Thành phố trọng điểm du lịch miền Trung với lượng khách du lịch
ngày càng tăng. Do đó, việc đảm bảo ATTP không chỉ đáp ứng nhu cầu của người
dân địa phương mà còn thúc đẩy phát triển du lịch, xây dựng thương hiệu Thành
phố đáng sống, an toàn đối với du khách và các nhà đầu tư.
Thực hiện Quyết định số 2526-QĐ/TU ngày 30/11/2016 của Thành ủy Đà
Nẵng về việc ban hành Đề án Thực hiện chương trình “Thành phố 4 an” trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2020 [20]. Trong đó, công tác vệ sinh ATTP là
một trong 4 mục tiêu quan trọng của Đề án nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống
của người dân, xây dựng thành phố Đà Nẵng giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại.
Thành phố Đà Nẵng tổ chức tuyên truyền, phổ biến 100% người quản lý,
người sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm, kinh doanh dịch vụ ăn uống có
kiến thức và thực hành đúng các quy định về ATTP, hướng đến thực phẩm an toàn
về tiêu dùng và VSATTP; có biện pháp để 100% cơ sở sản xuất, kinh doanh thực
phẩm, dịch vụ ăn uống, thức ăn đường phố, trung tâm thương mại, siêu thị, chợ phải
cam kết và thực hiện các quy định về ATTP; xây dựng và phát triển nguồn nguyên
liệu sản xuất nông sản thực phẩm an toàn; thúc đẩy áp dụng rộng rãi mô hình
VietGap và các mô hình sản xuất an toàn khác; kiểm soát chặt chẽ hàng hoá lưu
thông, phân phối, ngăn chặn thực phẩm giả, nhập lậu, gian lận thương mại; tăng
cường phòng, chống ngộ độc thực phẩm; không để xảy ra các vụ ngộ độc thực
phẩm cấp tính từ 30 người trở lên; khống chế tỷ lệ người mắc ngộ độc thực phẩm
cấp tính được ghi nhận dưới 6 người/100.000 dân…

17


×