Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Các kỹnăng của thư ký thi hành án dân sự để việc tổ chức cưỡng chế thi hành ándân sự chất lượng và hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.91 KB, 24 trang )

LỜI NĨI ĐẦU

Cơng tác thi hành án là việc đưa Bản án, quyết định của Tòa án ra thi hành
trong thực tế, đảm bảo pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, nhằm bảo vệ lợi ích
hợp pháp của Nhà nước, của tập thể, của các tổ chức xã hội và mọi cơng dân.
Trong q trình tổ chức thi hành một Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tồ án, cơ quan Thi hành án có thể áp dụng nhiều biện pháp nhằm mục
đích làm sao cho việc thi hành án đạt được hiệu quả cao nhất. Biện pháp đầu tiên
mà cơ quan Thi hành án thường áp dụng là động viên, giáo dục, thuyết phục để
các bên đương sự đạt được sự thoả thuận về phương thức thi hành án, hoặc để bên
phải thi hành án tự nguyện thi hành nghĩa vụ theo nội dung bản án đã tuyên. Tuy
nhiên, có nhiều trường hợp, mặc dù đã được động viên, thuyết phục nhiều lần mà
người phải thi hành án vẫn không tự nguyện thi hành nên cơ quan Thi hành án
phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế.
Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung đống vai trị quan
trọng trong việc bảo đảm hiệu lực các Bản án, quyết định của Tòa án và việc áp
dụng các biện pháp cưỡng chế là tiền đề để thi hành án thành công đối với những
vụ việc đương sự không tự nguyện thi hành án.
Qua thực tiễn cơng tác, với mong muốn đóng góp một số ý kiến để các quy
định này ngày càng hoàn thiện hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan Thi hành
án hoàn thành nhiệm vụ với hiệu quả cao hơn nên tơi chọn đề tài : « Các kỹ
năng của thư ký thi hành án dân sự để việc tổ chức cưỡng chế thi hành án
dân sự chất lượng và hiệu quả» làm đề tài Tiểu luận của mình.
Bài viết bao gồm các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án, thực
tiễn áp dụng và các kinh nghiệm, kỹ năng trong quá trình tổ chức cưỡng chế thi
hành án để việc cưỡng chế có hiệu quả cao.

1


I. CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC CƯỠNG CHẾ


THI HÀNH ÁN:
1. Cơ sở pháp lý:
Cưỡng chế thi hành án dân sự là một biện pháp nghiêm khắc nhất trong quá
trình Chấp hành viên tổ chức thi hành án, do đó, Luật Thi hành án dân sự năm
2008 quy định rất chặt chẽ về cưỡng chế trong thi hành án dân sự.
- Điều 9 Luật THADS năm 2008 quy định " Người phải thi hành án có điều
kiện thi hành án mà khơng tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo
quy định của Luật này”.
- Điều 46 Luật THADS quy định " Hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều
45 của Luật này, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà khơng tự
nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế; Không tổ chức cưỡng chế thi hành án trong
thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo
quy định của pháp luật và các trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ quy định”.
Hơn nữa, Luật THADS năm 2008 còn quy định riêng Chương IV, từ Điều
66 đến Điều 121 về áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án dân sự.
Ngoài ra, việc cưỡng chế thi hành án còn được quy định cụ thể hơn trong
Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ từ Điều 8 đến Điều 17.
Qua đó, cho thấy các quy định về thủ tục cưỡng chế trong thi hành án dân sự
giữ một vai trị rất quan trọng trong q trình tổ chức thi hành án. Mặc dù còn
nhiều vướng mắc trong khi thi hành thực tế nhưng nhìn chung các quy định của
pháp luật hiện tại đã dần hồn thiện và có những quy định cần thiết cho Chấp
hành viên áp dụng trong thực tế tổ chức thi hành án dân sự.
2. Khái niệm cưỡng chế thi hành án:
Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của Cơ quan
thi hành án do Chấp hành viên quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc đương sự
(người phải thi hành án) phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản
theo bản án, quyết định của Tòa án, được áp dụng trong trường hợp người phải thi
hành án có điều kiện thi hành án mà khơng tự nguyện thi hành trong thời hạn do
Chấp hành viên ấn định hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành
án tẩu tán, hủy hoại tài sản.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Luật THADS 2008 thì trường hợp người
phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà khơng tự nguyện thi hành thì bị
cưỡng chế thi hành án, sau khi hết thời gian tự nguyện thi hành án do Chấp hành
viên ấn định, nếu người phải thi hành án có điều kiện thi hành mà khơng thi hành
án, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu
2


tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án, thì Chấp hành viên có
quyền áp dụng kịp thời các biện pháp cưỡng chế thi hành án.
3. Các biện pháp cưỡng chế thi hành án
Theo Điều 71 của Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định: Biện pháp cưỡng
chế thi hành án bao gồm:
1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người
phải thi hành án.
2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.
3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do
người thứ ba giữ.
4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án.
5. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.
6. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công
việc nhất định.
4. Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế:
Điều kiện để áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án là:
- Người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc phải thực
hiện hành vi theo bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của Trọng tài, quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh;
- Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án.
Có điều kiện thi hành án có thể được hiểu là người phải thi hành án có tài
sản, có thu nhập, có tiền gửi tại ngân hàng, kho bạc,… khi phải thực hiện nghĩa

vụ thanh tốn tiền. Cịn khi phải thực hiện nghĩa vụ trả lại nhà hoặc vật, thì điều
kiện thi hành án ở đây là vật, nhà đang tồn tại theo đúng bản án, quyết định đã
tuyên.
- Người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án.
Theo quy định tại Điều 45 Luật THADS 2008 thì thời hạn tự nguyện thi
hành án là 15 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông
báo hợp lệ quyết định thi hành án. Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành
án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án thì Chấp
hành viên có quyền áp dụng ngay các biện pháp cưỡng chế thi hành án.
3


Theo quy định tại Đều 45 Luật THADS 2008 thời hạn tự nguyện thi hành án
đã có sự thay đổi so với quy định tại Điều 6 Pháp lệnh Thi hành án dân sự 2004.
Theo quy định tại Điều 6 Pháp lệnh Thi hành án dân sự 2004, Chấp hành viên có
thề tùy nghi ấn định thời gian tự nguyện thi hành án cho đương sự từ 1 ngày đến
không quá 30 ngày. Trên thực tế, khi áp dụng Điều luật này, Chấp hành viên cũng
thường tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ấn định thời gian tự nguyện dài
hay ngắn. Luật THADS 2008 đã quy định thời hạn tự nguyện thi hành án cố định
đối với mọi trường hợp là 15 ngày.
5. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế:
Theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/72009 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS
2008 về thủ tục thi hành án dân sự, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế, Chấp hành
viên cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải tương ứng với nghĩa vụ của người
phải thi hành án và các chi phí cần thiết;
- Nguyên tắc này chỉ được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án
phải thi hành nghĩa vụ về tài sản. Và để đảm bảo đúng nguyên tắc này, khi tiến
hành xác minh, Chấp hành viên cần phải thực hiện một cơng việc khác nữa đó là

phải ước tính giá trị tài sản đề làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế.
Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng có một ngoại lệ, đó là trong trường hợp
người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa
vụ phải thi hành án mà tài sản đó khơng thể phân chia được hoặc việc phân chia
sẽ làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng
biện pháp cưỡng chế đối với tài sản đó.
- Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải căn cứ vào bản án, quyết định và
từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nguyên tắc này đòi hỏi rất cao về mặt chuyên
môn nghiệp vụ của Chấp hành viên, bản lĩnh nghề nghiệp và đạo đức Chấp hành
viên. Vì việc tổ chức cưỡng chế thi hành án có thuận lợi hay khơng, an tồn hay
khơng và có ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, trật tự an tồn xã hội tại
địa bản xảy ra việc cưỡng chế hay không tùy thuộc vào việc có áp dụng thống
nhất nguyên tắc này trên thực tế của Chấp hành viên.
- Cần lưu ý một số thời điểm không tổ chức cưỡng chế sau:
+ Từ 22 giờ đến 06 giờ sang ngày hôm sau;
+ Các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật;
+ Khơng tổ chức cưỡng chế có huy động lực lượng trong thời gian 15 ngày
trước và sau Tết Nguyên đán;
4


+ Không tổ chức cưỡng chế vào các ngày truyền thống đối với các đối tượng
chính sách, nếu họ là người phải thi hành án.
6. Căn cứ cưỡng chế thi hành án:
Theo quy định tại Điều 70 Luật THADS 2008 quy định căn cứ để cưỡng chế
thi hành án bao gồm:
“1. Bản án, quyết định;
2. Quyết định thi hành án;
3. Quyết định cưỡng chế thi hành án, trừ trường hợp bản án, quyết định đã
tuyên kê biên, phong tỏa tài sản, tài khoản và trường hợp thi hành quyết định áp

dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án”.
Luật Thi hành án dân sự đã giải quyết hoàn toàn vấn đề cịn vướng mắc thời
gian qua, đó là trường hợp bản án đã tuyên kê biên hoặc Cơ quan thi hành án đã
ra quyết định thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Cơ
quan thi hành án có ra quyết định cưỡng chế thi hành án nữa hay không?
Với quy định tại khoản 3 Điều 70 Luật THADS 2008, kể từ thời điểm ngày
01/7/2009, các Cơ quan thi hành án sẽ thống nhất không ra quyết định cưỡng chế
thi hành án trong trường hợp bản án, quyết định đã tuyên kê biên, phong tỏa tài
sản, tài khoản và trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời của Tòa án.
Như vậy, khi tổ chức cưỡng chế thi hành án cần phải tuân thủ đúng và đầy
đủ những quy định của pháp luật để áp dụng biện pháp cưỡng chế.
II. PHÁP LUẬT VỀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC CƯỠNG CHẾ THI HÀNH
ÁN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG:
Cưỡng chế thi hành án dân sự là hoạt động thường được thực hiện trong
công tác thi hành án dận và do chấp hành viên thực hiện, vì vậy Thư ký cần hỗ trợ
tích cực, giải quyết đúng theo quy định của pháp, chuẩn bị các giấy tờ, tài liệu
cần thiết, nghiên cứu kỹ Bản án để thực hiện cưỡng chế đạt hiệu quả cao nhất.
1. Xác minh trước khi tổ chức cưỡng chế thi hành án:
Xác minh trước khi tổ chức cưỡng chế thi hành án gồm nhiều nội dung như:
- Xác minh về điều kiện thi hành án;
- Xác minh về nhân thân, về gia đình và quan hệ xã hội của đối tượng phải
thi hành án;
- Xác minh về thái độ, quan điểm của chính quyền, các tổ chức ở địa phương
và của dư luận nhân dân đối với vụ án và đối với người phải thi hành án;
5


- Xác minh về điều kiện địa hình và giao thông nơi phải tổ chức cưỡng chế
thi hành án.

Kết quả xác minh là căn cứ pháp lý để xác định đối tượng phải thi hành án
có hay chưa có điều kiện thi hành án; có điều kiện thi hành án một phần hay toàn
bộ nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án; người phải thi hành án có
thể thi hành được một lần hay thi hành dần trong một số lần; phương thức thi
hành để tạo điều kiện cho người phải thi hành án thực hiện được nghĩa vụ của
mình
Kết quả xác minh là cơ sở để Chấp hành viên thực hiện (hoặc phối hợp với
chính quyền cở sở thực hiện) việc vận động giáo dục, thuyết phục người phải thi
hành án tự giác thực hiện nghĩa vụ. Đó cũng là căn cứ xác định điều kiện cưỡng
chế thi hành án, từ đó Chấp hành viên xây dựng kế hoạch cưỡng chế phù hợp và
hiệu quả.
Trong công tác xác minh, mặc dù chỉ với tư cách giúp việc cho Chấp hành
viên nhưng trên thực tế, việc xác minh Thư ký nắm giữ vai trò quan trọng, là
người trực tiếp tiến hành xác minh, chính vì thế cần phải thực hiện đầy đủ, chặt
chẽ khâu này.
1.1. Xác minh tài sản của người phải thi hành án:
Xác minh tài sản của người phải thi hành án phải bao gồm:
- Xác minh tài sản thuộc sở hữu riêng của người phải thi hành án:
+ Tài sản là bất động sản như nhà đất, trang trại;
+ Tài sản là động sản như phương tiện vận tải ôtô, xe máy, máy móc sản
xuất...Các động sản khác là đồ dùng sinh hoạt có giá trị.
Tài sản xác minh nếu xác định được là của người phải thi hành án đều phải
được ước giá theo giá thị trường tại thời điểm xác minh.
- Xác minh tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người
khác:
Ngoài tài sản riêng của người phải thi hành án, thì cần xác định tài sản
chung của người phải thi hành án với người khác gồm những tài sản gì hoặc là
cơng sức đóng góp trong khối tài sản chung của hộ gia đình của người phải thi
hành án, kỷ phần là bao nhiêu, ước giá theo giá trị trường tại thời điểm xác minh.
Để xác định mức đóng góp trong khối tài sản chung, cần căn cứ vào Bộ luật Lao

động, như tuổi 15 là tuổi lao động có thu nhập, thời gian ở chung từ đủ 15 tuổi
đến lúc có vi phạm phải chịu trách nhiệm dân sự để lượng hóa thành giá trị, có cơ
sở cho việc cưỡng chế…

6


- Xác minh tài sản của người phải thi hành án đang cho người khác vay,
mượn, thuê, gửi giữ, sửa chữa.
Biên bản xác minh phải có xác nhận của người nhận gửi giữ, vay, mượn,
thuê tài sản, sửa chữa tài sản. Nếu tài sản là tiền gửi ở Ngân hàng, kho bạc hay tổ
chức tín dụng thì phải có xác nhận của các cơ quan đó.
- Xác minh thu nhập do lao động:
Cần xác minh rõ thu nhập của người phải thi hành án và các thành viên khác
trong hộ gia đình. Biên bản xác minh phải có xác nhận của cơ quan, cá nhân đang
trả thu nhập cho người phải thi hành án.
- Xác minh các tài sản phải giao trả theo quyết định của bản án:
Đối với những vụ cưỡng chế trả nhà, đất, cưỡng chế giao đồ vật, cưỡng chế
thực hiện những hành vi cụ thể theo án tuyên, khi xác minh phải làm rõ:
+ Nhà và đất phải giao thực trạng như thế nào? Có phù hợp với nội dung
quyết định của bản án không? Tài sản đồ vật hiện có trong nhà gồm những thứ
gì? Đặc biệt khi phải dịch chuyển cần xác định rõ kích cỡ, khối lượng, khả năng
tháo dỡ, vận chuyển…
+ Đồ vật, tài sản phải giao theo quyết định của bản án hiện để ở đâu, do ai
đang quản lý, tình trạng tài sản khi xác minh có mất mát hư hỏng so với quyết
định của bản án không?
+ Khối lượng công việc cần phải thực hiện như tháo dỡ nhà xây dựng trái
phép, ngăn chia nhà, … khi xác minh cần phải dự tính bao nhiêu nhân lực? Chi
phí tiền công thuê mướn như thế nào?
+ Tài sản của người phải thi hành án dự tính cần phải kê biên để trừ vào chi

phí cưỡng chế thi hành án. Trường hợp kê biên nhà ở gắn với đất ở, cần xét đến
việc bảo đảm điều kiện tối thiểu để ổn định nơi ở theo quy định của pháp luật.
1.2. Xác minh về nhân thân của đối tượng phải thi hành án và gia đình:
Cần xác minh rõ đối tượng phải thi hành án về:
+ Trình độ nhận thức hiểu biết pháp luật, đã từng có tiền án, tiền sự chưa?
Việc làm của đối tượng phải thi hành án, có biểu hiện thái độ chống đối, đối
phó và các hành vi trốn tránh khác của người phải thi hành án và gia đình như: đe
dọa, thách thức, có chuẩn bị hung khí, lực lượng để chống đối hoặc tẩu tán tài sản
khơng.
+ Thái độ các thành viên khác trong gia đình như thế nào; có đối tượng hình
sự mà Cơ quan công an đang quản lý như: tập trung cải tạo, tha tù về hay đang có

7


biểu hiện những hành vi nghi vấn khác như việc làm phi pháp…hoặc gia đình có
thuộc diện chính sách, có công với cách mạng không?
Kết quả xác minh sẽ là cơ sở để Chấp hành viên dự liệu thành phần mời
tham gia cưỡng chế, số lượng người bảo vệ cưỡng chế, dự liệu các tình huống có
thể xảy ra trong kế hoạch xác minh.
1.3. Xác minh về quan hệ, quan điểm của địa phương và thái độ của dư
luận đối với vụ án và đối với người phải thi hành án:
- Quan điểm của người phải thi hành án và gia đình họ với người có chức
vụ, quyền hạn ở địa phương từ xóm trưởng, trưởng ban, trưởng bản, già làng, linh
mục, các thành viên trong chính quyền địa phương, như quan hệ anh em huyết
thống, quan hệ thông gia, quan hệ họ hàng, quan hệ làm ăn… ảnh hưởng đến sự
phối hợp thực hiện nhiệm vụ cùng với Cơ quan thi hành án.
- Quan điểm của địa phương và thái độ của dư luận đối với vụ án như đồng
tình hay khơng đồng tình với quyết định của bản án như cho rằng: chưa khách
quan, chưa công bằng, chưa có cơ sở, chưa đúng mức kể cả trách nhiệm hình sự

và nghĩa vụ dân sự.
1.4. Xác minh điều kiện địa hình và giao thơng nơi có tài sản cưỡng chế:
Xác minh trong trường hợp để chuẩn bị tổ chức cưỡng chế tài sản cần phải
nắm chắc các nội dung sau:
- Địa hình xung quanh nơi cưỡng chế;
- Đặc điểm dân cư tại địa bàn cưỡng chế;
- Giao thông đi lại có thuận tiện cho việc bố trí các lực lượng tham gia
cưỡng chế khơng? Địa hình, địa vật có gì cản trở khi có tình huống về thời tiết, về
chống đối của đối tượng như gây thương tích, gây cháy; khi cần điều động thêm
lực lượng, phương tiện…
2. Công tác chuẩn bị tổ chức cưỡng chế thi hành án:
Trong hoạt động tổ chức thi hành án dân sự, phương châm chủ yếu vẫn là
tăng cường công tác vận động giáo dục, thuyết phục, hòa giải để người phải thi
hành án tự giác thi hành.
Tuy nhiên, để giữ nghiêm pháp luật, bản án, quyết định của Tòa án được thi
hành kịp thời, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa thì trong thi hành án dân sự
khơng chỉ sử dụng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, hòa giải. Trong
trường hợp đối tượng phải thi hành án cố tình chây ỳ, trốn tránh, thậm chí có thái
độ thách thức, biểu hiện chống đối, tẩu tán tài sản thì dứt khoát phải sử dụng
quyền lực Nhà nước, phải áp dụng biện pháp cưỡng chế mới đem lại kết quả.
8


Cưỡng chế có thành cơng hay khơng? Thì vấn đề có tính quyết định là cơng
tác chuẩn bị tổ chức cưỡng chế thi hành án. Trong phần này, Thư ký phải phối
hợp với tốt với Chấp hành viên, chuẩn bị đầy đủ các giấy tờ, tại liệu cần thiết.
2.1. Xây dựng kế hoạch cưỡng chế:
Điều 72 Luật THADS 2008 quy định về nhiệm vụ xây dựng kế hoạch cưỡng
chế thi hành án của Chấp hành viên:
- Trừ trường hợp người phải cưỡng chế ngay, còn trong mọi trường hợp

Chấp hành viên phải xây dựng kế hoạch cưỡng chế thi hành án. Chấp hành viên
cần thiết phải xây dựng kế hoạch cưỡng chế thi hành án kể cả vụ việc cưỡng chế
đơn giản hay phức tạp, kế hoạch cưỡng chế thi hành án phải bao gồm 5 nội dung
chính sau:
+ Biện pháp cưỡng chế cần áp dụng;
+ Thời gian, địa điểm cưỡng chế;
+ Phương án tiến hành cưỡng chế;
+ Yêu cầu về lực lượng tham gia và bảo vệ cưỡng chế;
+ Dự trù chi phí cưỡng chế.
Kế hoạch cưỡng chế cần được gửi ngay cho các đối tượng sau:
+ Viện kiểm sát cùng cấp;
+ Cơ quan Công an cùng cấp;
+ Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức cưỡng chế hoặc cơ quan, tổ chức có
liên quan đến việc cưỡng chế thi hành án.
Chấp hành viên còn xây dựng những nội dung khác có liên quan để đảm bảo
việc cưỡng chế được tiến hành thuận lợi, có hiệu quả.
Kế hoạch cưỡng chế được xây dựng với những nội dung sau:
2.1.1. Tóm tắt q trình thi hành án:
Chấp hành viên nên tóm tắt về q trình thi hành bản án, quyết định với các
thơng tin chính.
Việc tóm tắt về q trình thi hành án sẽ giúp cho các cơ quan hữu quan hình
dung được về tồn bộ q trình thi hành án, ý thức, thái độ của đương sự đối với
việc thi hành bản án, quyết định và hình dung được các biện pháp tác nghiệp mà
Chấp hành viên đã thực hiện đối với việc thi hành bản án, quyết định.
2.1.2. Nội dung kế hoạch cưỡng chế:
- Biện pháp cưỡng chế cần áp dụng:
9


Chấp hành viên nêu rõ biện pháp cưỡng chế mà mình áp dụng theo đúng nội

dung của quyết định cưỡng chế đã được ban hành.
- Thời gian, địa điểm cưỡng chế:
+ Thời gian cưỡng chế: ghi rõ thời gian tổ chức cưỡng chế
Thời gian cưỡng chế phải ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm; thời gian cưỡng chế
chỉ nên ghi thời gian bắt đầu mà không dự kiến về tổng thời gian tiến hành cưỡng
chế.
+ Địa điểm cưỡng chế: ghi rõ địa điểm sẽ tổ chức cưỡng chế thì hành án.
- Phương án tiến hành cưỡng chế:
Chấp hành viên nêu rõ các phương án tiến hành cưỡng chế được dự kiến.
Phương pháp tiến hành cưỡng chế bao gồm những nội dung sau:
+ Nếu đương sự tự nguyện thi hành án thì các thành phần tham gia sẽ chứng
kiến việc tự nguyện thi hành án.
+ Nếu đương sự không tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên sẽ cơng bố
quyết định cưỡng chế và tổ chức cưỡng chế thi hành án.
- Yêu cầu về lực lượng tham gia và bảo vệ cưỡng chế
Tùy thuộc vào tình hình thực tế mà Chấp hành viên thu được sau quá trình
xác minh, tiếp xúc với đương sự, làm việc với các cơ quan, cá nhân, tổ chức hữu
quan và đặc biệt là biện pháp cưỡng chế áp dụng là biện pháp là gì, Chấp hành
viên sẽ có yêu cầu về lực lượng tham gia và bảo vệ cưỡng chế.
* Đối với lực lượng bảo vệ cưỡng chế:
Đối với từng biện pháp cưỡng chế khác nhau thì nhu cầu bố trí lực lượng
bảo vệ khác nhau, vì vậy, khi yêu cầu về lực lượng bảo vệ cưỡng chế, Chấp hành
viên cần lưu ý ba nhóm vụ việc cưỡng chế
- Loại vụ việc cưỡng chế không cần lực lượng bảo vệ;
- Loại vụ việc cưỡng chế cần lực lượng bảo vệ;
- Loại vụ việc cưỡng chế thi hành án phức tạp, có khả năng xảy ra căng
thẳng đến an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội ở địa phương.
* Đối tượng lực lượng tham gia cưỡng chế:
Chấp hành viên ghi rõ số lượng người tham gia cưỡng chế. Thông thường,
đối với các vụ cưỡng chế sẽ bao gồm các thành phần như sau:

+ Cơ quan thi hành án;
+ Viện kiểm sát;
10


+ Ủy ban nhân dân phường, xã;
+ Tổ dân phố;
+ Và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác
* Dự trù chi phí cưỡng chế:
- Các khoản chi phí cưỡng chế:
Luật THADS 2008
đã dành hẳn một điều luật để quy định về chi phí
cưỡng chế thi hành án, trong đó nêu rõ những đối tượng phải chịu phí cưỡng chế
thi hành án và các khoản chi phí cưỡng chế mà từng đối tượng phải chịu.
Khi xây dựng dự trù chi phí cưỡng chế trong kế hoạch cưỡng chế thi hành
án, Chấp hành viên cần căn cứ vào khoản 1 Điều 73 Luật THADS 2008 và Điều
31 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP để xác định các khoản chi phí cưỡng chế thi
hành án.
- Mức chi phí cưỡng chế:
Luật Luật THADS 2008 khơng có quy định về nội dung này, trong thời
gian chờ văn bản hướng dẫn thi hành Luật THADS 2008 về mức chi phí cưỡng
chế, Chấp hành viên vẫn tạm thời sử dụng mức chi phí cưỡng chế được quy định
tại Thông tư liên tịch 144/2010/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn về chế độ thu, nộp,
quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự do Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp ban hành
và Quyết định số 73/2007/QD-TTg ngày 25/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ về
việc thực hiện chế độ bồi dưỡng đối với những người trực tiếp tham gia cưỡng
chế thi hành án dân sự.
* Nhiệm vụ của các thành viên tham gia cưỡng chế
Kế hoạch cưỡng chế gần như là bản án kế hoạch chính thức gửi cho các cơ
quan, cá nhân hữu quan để các cơ quan, cá nhân hữu quan trên cơ sở đó thực hiện

nhiệm vụ của mình.
Cụ thể, nhiệm vụ của các thành viên tham gia cưỡng chế thường được ghi
nhận như sau:
- Nhiệm vụ của Cơ quan thi hành án:
+ Một Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan thi hành án trực tiếp chỉ
huy cuộc cưỡng chế.
+ Một Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng khác trực tại Cơ quan để theo dõi,
chỉ đạo xử lý các tình huống phức tạp như thủ tục pháp lý, điều động thêm lực
lượng hoặc những vấn đề phát sinh khác mà người chỉ huy cuộc cưỡng chế không
tự giải quyết được và có yêu cầu.

11


Chấp hành viên chủ trì cưỡng chế, chịu trách nhiệm điều hành các thành
viên tham gia Hội đồng cưỡng chế thực hiện nhiệm vụ cưỡng chế.
Các thành viên Hội đồng cưỡng chế, lực lượng tham gia cưỡng chế, lực
lượng bảo vệ cưỡng chế có trách nhiệm phối hợp, thực hiện yêu cầu của Chấp
hành viên trong quá trình cưỡng chế.
Thư ký thi hành án có nhiệm vụ ghi chép, phản ánh đầy đủ các hoạt động
của Hội đồng cưỡng chế và diễn biến cuộc cưỡng chế vào biên bản.
Các Chấp hành viên, cán bộ khác phục trách từng mảng việc khác nhau,
phối hợp các bộ phận để việc cưỡng chế tiến hành đúng dự kiến.
- Nhiệm vụ của Cơ quan Cơng an:
Chủ trì trong việc xây dựng và thơng qua phương án bảo vệ cưỡng chế thi
hành án. Cán bộ, chiến sỹ cảnh sát nhân dân được phân công bảo vệ trật tự, an
toàn khi cưỡng chế thi hành án có nhiệm vụ duy trì trật tự và bảo vệ an tồn trong
q trình cưỡng chế thi hành án, theo phương án bảo vệ đã được thông qua.
- Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân:
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá

trình cưỡng chế thi hành án, kiểm sát các hoạt động của Chấp hành viên; cán bộ
chiến sỹ cảnh sát bảo vệ cưỡng chế, của đương sự, của cơ quan đơn vị và cá nhân
hữu quan. Yêu cầu đương sự ngừng ngay những hành vi chống đối, gây rối, cản
trở Hội đồng cưỡng chế làm nhiệm vụ… trực tiếp giải thích những vấn đề công
dân chưa rõ và yêu cầu chấp hành nghiêm trong quá trình cưỡng chế, phối hợp
bảo đảm cho cuộc cưỡng chế tiến hành thuận lợi, an toàn, có kết quả.
- Nhiệm vụ của Chính quyền địa phương:
Gồm có đại diện Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, công an xã, phường,
thị trấn, lực lượng dân quân tự vệ, đội quy tắc được Ủy ban nhân dân xã, phường,
thị trấn cử tham gia cưỡng chế theo yêu cầu của Chấp hành viên, do đồng chí Chủ
tịch hoặc Phó Chủ tịch trực tiếp chỉ huy, có nhiệm vụ:
+ Phối hợp với lực lượng cảnh sát nhân dân làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự an
toàn trong thời gian cưỡng chế;
+ Phát hiện và có biện pháp răn đe giáo dục các loại đối tượng hình sự có
mặt tại địa bàn cưỡng chế;
+ Động viên, giáo dục, thuyết phục đương sự thực hiện quyết định cưỡng
chế thi hành án, vận động đương sự tiếp tục tự nguyện thi hành để khơng phải
cưỡng chế;
+ Đảm bảo việc giữ gìn trật tự an ninh sau khi cưỡng chế.
12


- Các cơ quan chun mơn nghiệp vụ có liên quan là thành viên của Hội
đồng cưỡng chế:
+ Cơ quan địa chính: vẽ sơ đồ, diện tích, ranh giới nhà đất thuộc tài sản kê
biên hoặc nhà đất giao theo quyết định cưỡng chế, tư vấn giá cả cho Hội đồng.
+ Cơ quan xây dựng: Tính tốn các loại vật liệu xây dựng nhà kê biên, phần
trăm khấu hao tư vấn giá trị xây dựng cho Hội đồng.
+ Người làm chứng: là cơng dân của địa phương, hàng xóm của người phải
thi hành án, có đủ năng lực pháp luật, khơng có quan hệ thân tộc với các bên

đương sự, có nhiệm vụ chứng kiến hoạt động của Hội đồng cưỡng chế thi hành
án.
- Người phải thi hành án, người được thi hành án:
Được tham gia về giá cả tài sản kê biên với Hội đồng định giá. Người được
thi hành án được nhận tài sản kê biên để đối trừ nợ nếu có thỏa thuận được với
người phải thi hành án.
2.2. Các công tác chuẩn bị khác:
Để tổ chức cưỡng chế thành cơng, ngồi việc xây dựng kế hoạch cưỡng chế
thi hành án thật chi tiết, cụ thể, Chấp hành viên cịn cần chuẩn bị các cơng việc
khác.
3. Thực hiện cưỡng chế thi hành án:
Tùy thuộc vào từng loại vụ việc cưỡng chế cụ thể thì Chấp hành viên sẽ lựa
chọn một cách thức riêng để tổ chức cưỡng chế thi hành án.
3.1. Trước khi đến địa điểm cưỡng chế:
Đối với những vụ việc thi hành có tính chất phức tạp, khi tổ chức cưỡng chế
có khả năng gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an ninh địa phương, Thư ký
giúp Chấp hành viên cần tập trung lực lượng tham gia cưỡng chế (kê biên) trước
khi triển khai xuống địa bàn.
Đối với vụ việc thi hành án khơng mang tính chất phức tạp thì Chấp hành
viên khơng nhất thiết phải tập trung lực lượng tham gia kê biên trước mà có thể
đến ngay địa điểm cưỡng chế.
3.2. Tại địa điểm cưỡng chế thi hành án:
Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án tự nguyện thi hành. Nếu
người phải thi hành án tự nguyện hoặc người được thi hành án và người phải thi
hành án thỏa thuận được với nhau về việc thi hành án, thì Chấp hành viên chấp
nhận và lập biên bản về sự tự nguyện hoặc thỏa thuận đó.

13



Trường hợp người phải thi hành án vẫn không tự nguyện thi hành thì Chấp
hành viên cơng bố quyết định cưỡng chế, giới thiệu thành phần Hội đồng cưỡng
chế và lực lượng tham gia cưỡng chế; yêu cầu các bộ phận, lực lượng thực hiện
nhiệm vụ đã được phân công; chỉ huy điều hành lực lượng làm nhiệm vụ.
4. Kết thúc cưỡng chế thi hành án:
Trước khi kết thúc cưỡng chế, Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành
án hoặc đại diện gia đình kiểm tra các tài sản trong gia đình (ngồi tài sản đã kê
biên) xem có mất mát hư hỏng gì khơng, việc kiểm tra này phải được phản ánh
đầy đủ trong biên bản cưỡng chế.
Thư ký thông qua các loại biên bản, yêu cầu các thành viên Hội đồng cưỡng
chế, người phải thi hành án hoặc đại diện gia đình, người được thi hành án, người
có quyền, lợi ích liên quan, người làm chứng… đọc lại biên bản và ký xác nhận
vào biên bản. Trường hợp người phải thi hành án không ký biên bản thì ghi rõ lý
do vào biên bản. Biên bản vẫn đảm bảo giá trị pháp lý.
5. Rút kinh nghiệm sau khi cưỡng chế:
Sau khi kế thúc cưỡng chế, Hội đồng cưỡng chế và lực lượng cảnh sát làm
nhiệm vụ bảo vệ tập trung hội ý rút kinh nghiệm cho từng thành viên Hội đồng
cưỡng chế, lực lượng tham gia cưỡng chế về những vấn đề mà quá trình cưỡng
chế thực hiện chưa đạt yêu cầu, nhằm chấn chỉnh lại tinh thần trách nhiệm của
từng người, từng thành viên trong phối hợp thực hiện cưỡng chế.

6. Thực tiễn áp dụng áp luật trong khi công tác tổ chức cưỡng chế
thi hành án:
6.1. Cưỡng chế thi hành án “khấu trừ tài khỏan của người phải thi hành
án”:
Trong quá trình thi hành án biện pháp cưỡng chế khấu trừ tài khỏan, trừ vào
tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án là biện pháp hữu hiệu nhất,
dễ thực hiện nhất. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này, Chấp hành viên và thư
ký phải tiến hành xác minh tài khỏan tại Ngân hàng, Kho bạc nhà nước, Tổ chức
tín dụng hoặc số tiền do người thứ ba đang giữ…. Nếu người phải thi hành án có

tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, kho bạc Nhà nước, Tổ chức tín dụng hoặc khỏan
tiền do người thứ ba đang giữ. Chấp hành viên phải trực tiếp đến nơi để yêu cầu
Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, Tổ chức tín dụng, người thứ ba đang giữ tiền
cung cấp số liệu cụ thể về tài khỏan, số tiền của người phải thi hành án đang gửi ở
đó hoặc sọan thảo văn bản yêu cầu họ cung cấp đầy đủ các thông số cần điều tra,
xác minh.
Việc xác minh số tài khỏan của người phải thi hành án cũng gặp nhiều khó
khăn bởi lẽ người phải thi hành án có quyền mở nhiều tài khoản tại nhiều Ngân
14


hàng. Do vậy, nếu Chấp hành viên không nắm được số tài khoản cụ thể sẽ rất khó
cho việc xác minh số dư tài khoản. Khi nhận được yêu cầu của Chấp hành viên,
Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, Tổ chức tín dụng phải có trách nhiệm thơng báo
bằng văn bản cho Cơ quan thi hành án biết số liệu đó. Quy định là vậy nhưng
thực tế việc hỗ trợ của phía Ngân hàng, Tổ chức tín dụng cũng cịn nhiều vấn đề
vướng mắc.
Tại Bản án số 05/2010/KDTM-ST ngày 01/02/2010 của Tòa án nhân dân
quận 5, Tp.HCM, phần quyết định tuyên:
“…Buộc Công ty TNHH Hồng Yến phải trả cho công ty TNHH Nam Đơ
800.000.000đ…”
Trong q trình thi hành bản án nêu trên, Chấp hành viên gặp phải các khó
khăn như sau:
Do pháp luật chưa có quy định cụ thể ràng buộc trách nhiệm của cơ quan cá
nhân liên quan trong trường hợp không thực hiện đúng và kịp thời những yêu cầu
của Chấp hành viên. Điển hình trong bản án này đó là việc trả lời của Sở kế
họach đầu tư và Cục thuế thành phố về những thông tin của doanh nghiệp còn
chậm. Việc trả lời nhanh hay chậm tùy thuộc vào ý kiến chủ quan của lãnh đạo,
bởi hiện nay, nhiều doanh nghiệp do Sở kế họach và đầu tư và Cục thuế của
Thành phố quản lý. Nhưng nhiều doanh nghiệp do Chi cục thuế và Phòng kế

họach đầu tư cấp quận quản lý. Cho nên việc xác minh được mã số thuế và giấy
phép đầu tư của doanh nghiệp cũng khá mất nhiều thời gian đi lại. Ngày
9/04/2010 chúng tôi đến Sở kế họach đầu tư và Cục thuế của Thành phố để nắm
bắt thông tin mã số thuế và giấy phép đầu tư của Công ty TNHH Hồng Yến. Qua
biện pháp nghiệp vụ và rà sóat các bạn hàng của Công ty này, chúng tôi được biết
Cơng ty TNHH Hồng Yến đang có tiền trong tài khỏan tại Ngân hàng A và một số
hợp đồng của Ngân hàng bảo lãnh cho vay đối với công ty TNHH Hồng Yến.
Chấp hành viên tiến hành xác minh số dư trong tài khỏan để tiến hành các
biện pháp cưỡng chế. Tuy nhiên lãnh đạo Ngân hàng lấy lý do bận đi công tác
cho nên việc trả lời xác minh giao cho bộ phận pháp chế chi nhánh tiếp và trả lời
xác minh. Qua nhiều lần làm việc với Ngân hàng chúng tôi đều nhận được sự
thiếu hợp tác của bộ phận pháp chế là lý do Tổng giám đốc có quy định về gìn
giữ bí mật cho khách hàng… sự trả lời chậm trễ là chờ ý kiến cấp trên ở Hà Nội
mới trả lời xác minh. Dẫn đến việc cung cấp thông tin bị chận trễ và đương sự đã
rút hết tiền trong tài khoản.
Họ vẫn thực hiện đúng luật của Nhà nước quy định về trách nhiệm của tổ
chức Ngân hàng nhưng có điều khơng kịp thời, đúng lúc Cơ quan thi hành án yêu
cầu. Vì vậy Ngân hàng đã tạo điều kiện cho đương sự kịp thời tẩu tán tài sản mà
Cơ quan thi hành án không đủ thẩm quyền xử lý.
15


Thực tế thi hành án cho thấy, khi áp dụng biện pháp khấu trừ tài khoản, của
người phải thi hành án thường gặp nhiều vướng mắc do khơng có sự hợp tác của
người có trách nhiệm của Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, Tổ chức tín dụng. Đã
có rất nhiều trường hợp các Tổ chức tín dụng từ chối cung cấp số liệu và cho rằng
đối tượng cần xác minh khơng có tài khoản hoặc tiền gửi tại tổ chức của họ.
Mặt khác, có rất nhiều trường hợp phía người đang giữ tiền của người phải
thi hành án là các tổ chức, cá nhân khơng có sự hợp tác với Cơ quan thi hành án.
Do vậy khi không nhận được sự hỗ trợ của các tổ chức này, Cơ quan thi hành án

khó tìm thấy sự can thiệp từ phía cơ quan cấp trên của tổ chức đó.
6.2. Cưỡng chế thi hành án “Trừ vào thu nhập của người phải thi hành
án” :
Bản án hôn nhân sơ thẩm số: 12/2011/HNST ngày 25/10/2011 của Tịa án
nhân dân quận 5, Tp.Hồ Chí Minh, phần quyết định có nội dung:
“…Ơng Nguyễn Văn Tuấn có trách nhiệm nộp cấp dưỡng ni trẻ là cháu
Nguyễn Thị Phương mỗi tháng 1.000.000 đồng, do bà Nguyễn Thị Hà làm đại
diện, kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu Phương đủ 18 tuổi…”
Ngày 03/12/2011, bà Hà gửi đơn yêu cầu thi hành án đề nghị cơ quan Thi
hành án buộc ông Tuấn phải có trách nhiệm đóng tiền cấp dưỡng ni con. Kèm
Theo đơn yêu cầu bà cung cấp thông tin ông Tuấn đang làm cơng nhân tại Cơng
ty TNHH Trường Hải, có thu nhập ổn định.
Ngày 07/12/2011, Chi cục Thi hành án dân sự quận 5, Tp.HCM ra Quyết
định thi hành án cho thi hành khoản nêu trên.
Sau khi xác minh lại các thông tin do đương sự cung cấp, Chấp hành viên
xác định ơng Tuấn chỉ có điều kiện thi hành án duy nhất là nguồn thu nhập từ
lương, mức lương là: 4.000.000 đồng /tháng và hiện đang sống độc thân.
Ngày 09/12/2011, Chấp hành viên tống đạt hợp lệ cho ông Tuấn Quyết định
thi hành án trên và ấn định trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Quyết
định thi hành án ông Tuấn phải tự nguyện thi hành khoản trợ cấp nêu trên.
Do ông Tuấn không tự nguyện thi hành, ngày 20/01/2012, Chấp hành viên ra
quyết định cưỡng chế “Khấu trừ thu nhập của người phải thi hành án” và thông
báo hợp lệ cho ông Tuấn và Ban giám đốc Công ty TNHH Trường Hải nơi ông
Tuấn làm việc để thực hiện việc khấu trừ tiền lương của ông Tuấn số tiền
1.000.000 đồng/tháng kể từ ngày 20/01/2012.
Sau khi Ban giám đốc làm việc với ông Tuấn nội dung quyết định cưỡng chế
của cơ quan thi hành án, ông Tuấn không đồng ý thực hiện quyết định cưỡng chế
của cơ quan thi hành án, đồng thời trình bày nếu Cơng ty thực hiện việc khấu trừ
thì ơng sẽ khiếu nại, đồng thời, ông sẽ không ký vào bảng lương. Ban giám Công
16



ty có cơng văn gửi cho Cơ quan thi hành án trình bày các khó khăn của Cơng ty
về việc thực hiện theo quyết định khấu trừ thu nhập của ông Tuấn. Chấp hành
viên đã mời đại diện Công ty TNHH Trường Hải và ông Tuấn đến làm việc và
giải thích cho các bên được rõ nghĩa vụ của các bên. Sau đó Cơng ty TNHH
Trường Hải đã thực hiện việc khấu trừ tiền lương của ông Tuấn theo đúng nội
dung của quyết định khấu trừ. Việc thi hành án vẫn được tiến hành cho đến nay.
Trên thực tế, việc áp dụng này cũng gặp một số khó khăn vì công ty nơi người
phải lao động làm việc không hợp tác, nhất là đối với những người có chức vụ
nhất định trong công ty.
6.3. Cưỡng chế thi hành án "Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền
tài sản, giấy tờ”:
Bản án dân sự phúc thẩm số: 06/DSPT ngày 12/10/2010 Tòa án Nhân dân
Tp.HCM xét xử phúc thẩm vụ việc tranh chấp địi lại quyền sử dụng đất giữa ơng
Nguyễn Văn B và ông Nguyễn Văn A, nội dung án tuyên:
“…Y án sơ thẩm, buộc ông Nguyễn Văn B phải giao trả diện tích 100 m2
quyền sử dụng đất thổ cư lấn chiếm của ông Nguyễn Văn A ( Theo bản đồ hiện
trạng sử dụng đất do Văn phòng đăng ký quyền sử đất huyện Củ Chi lập ngày
22/8/2010). Đồng thời, buộc ông ông Nguyễn Văn B phải tháo dở, di dời căn nhà
cấp 4 có diện tích 50 m2 cất trên diện tích đất của ơng Nguyễn Văn A ra nơi
khác. Ông Nguyễn Văn A tự nguyện hỗ trợ việc tháo dở, di dời căn nhà cho ông
Nguyễn Văn B số tiền 20.000.000 đồng…”
Sau khi nhận được đơn yêu cầu thi hành án ngày 13/11/2010 của ơng
Nguyễn Văn A có nội dung: Yêu cầu ông Nguyễn Văn B phải tháo dở, di dời căn
nhà trả lại diện tích 100 m2 quyền sử dụng đất và tự nguyện hỗ trợ số tiền
20.000.000 đồng cho ông B. Cơ quan thi hành án dân sự huyện Củ Chi, Tp.HCM
kiểm tra đơn yêu cầu thi hành án, thấy hợp lệ và ra quyết định theo đơn yêu cầu
thi hành án, giao cho Chấp hành viên tổ chức thi hành án.
Chấp hành viên ra Giấy báo tự nguyện thi hành án ấn định thời hạn cho ông

Nguyễn Văn B trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc được thông báo
hợp lệ quyết định thi hành án phải tự nguyện thi hành.
Trình tự thi hành án, Chấp hành viên tiến hành tống đạt các quyết định về thi
hành án cho ông Nguyễn Văn B. Ơng Nguyễn Văn B khơng nhận quyết định và
có thái độ khơng tự nguyện thi hành án. Do đó, Chấp hành viên tiến hành xác
minh điều kiện thi hành án của ông Nguyễn Văn B.
Qua xác minh được biết ông Nguyễn Văn B có vợ và một người con trai 03
tuổi đang sinh sống trong căn nhà khác-căn nhà phải di dời bỏ trống-nghề nghiệp
làm thuê, về các mối quan hệ có anh em rất đơng, khoảng 09 anh em ở gần nơi tổ
chức cưỡng chế và nhiều họ hàng thân thích khác.
17


Qua trao đổi với chính quyền địa phương, Chấp hành viên ghi nhận quan
điểm của địa phương là đồng tình với bản án, cần thiết phải tổ chức cưỡng chế để
buộc ơng B trả lại đất cho ơng A. Vì ông B rất ngang ngược, xin được cất một lều
tạm nhờ trên đất trong một năm để chờ khi nào thu hoạch được mùa vụ thì sẽ trả
lại đất, nhưng ông B không trả đất mà còn cất nhà kiên cố, chiếm dụng hết diện
tích đất trống cịn lại của ông A, chính quyền địa phương đã xử phạt hành vi cất
nhà không phép nhưng đến nay ông B vẫn chưa thi hành. Nếu cơ quan thi hành
án tổ chức cưỡng chế thì UBND thị trấn sẽ hỗ trợ về mặt lượng tham gia để phối
hợp với cơ quan thi hành án trong q trình cưỡng chế.
Do ơng Nguyễn Văn B không tự nguyện thi hành án mặc dù đã được Chấp
hành viên cùng các ban ngành, địa phương giải thích thuyết phục nhiều lần nên
Chấp hành viên ban hành Quyết định cưỡng chế thi hành án và Lập kế hoạch
cưỡng chế thi hành án số trình Lãnh đạo cơ quan thi hành án phê duyệt và gửi cho
các cơ quan liên quan để phối họp trong quá trình cưỡng chế.
Đúng ngày giờ đã ấn định trong kế hoạch cưỡng chế thi hành án, Chấp hành
viên tổ chức thực hiện việc cưỡng chế.
Do trong quá trình vận động, giáo dục, thuyết phục ông B tự nguyện thi

hành án, Chấp hành viên có giải thích nếu ơng B có hành vi cản trở, chống đối
người thi hành cơng vụ thì sẽ bị xử lý hình sự về tội " Chống người thi hành cơng
vụ” theo Điều 257 Bộ luật hình sự năm 2009. Với trình độ hiểu biết pháp luật cịn
hạn chế của mình, ơng B đã thể hiện thái độ chống đối bằng hành vi vắng mặt tại
nơi tổ chức cưỡng chế. Thông thường, tâm lý của người phải thi hành án ln cho
rằng, nếu vắng mặt mình thì cơ quan thi hành án sẽ cưỡng chế ai? Và khi mình
vắng mặt, việc khiếu nại sau khi cưỡng chế sẽ có nhiều căn cứ hơn để có thể yêu
cầu hủy kết quả cưỡng chế của Chấp hành viên.
Trong trường hợp này, Chấp hành viên đã lập biên bản ghi rõ việc vắng mặt
này của ông B, mặt dù ông B đã được thông báo hợp lệ về thời gian và địa điểm
cưỡng chế thi hành án.
Chấp hành viên lập biên bản mở khóa, tiến hành mở cửa nhà, có sự chứng
kiến của Hội đồng cưỡng chế, người làm chứng và Viện kiểm sát nhân dân, sau
đó, đưa tài sản ra khỏi nhà có sự kiểm kê rõ ràng, chi tiết về số lượng, chủng loại,
hiện trạng tài sản.
Lúc này, ông B và một số người thân xuất hiện tại nơi cưỡng chế và hành vi
chống đối, lớn tiếng hăm dọa lăng mạ Chấp hành viên, không chịu cho tiến hành
cưỡng chế, lấy dao địi chém Chấp hành viên.
Do đã có sự thống nhất về phương án cưỡng chế từ trước, Chấp hành viên
yêu cầu lực Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp nhanh chóng khống chế ngay ơng
18


B, bắt ngay đối tượng đối tượng có hành vi manh động, q khích, di lý về trụ sở
cơng an xã để tạm giữ chờ xử lý sau.
Khi tình hình đã lắng dịu, Chấp hành viên yêu cầu lực lượng công nhân tiếp
tục tiến hành việc đưa tài sản ra khỏi nhà, đồng thời nhanh chóng tháo dở, di dời
căn nhà, đưa tất cả tài sản về trụ sở kho của Cơ quan thi hành án bảo quản.
Sau đó thực hiện việc đo đạc diện tích đất, cắm mốc và lập biên bản giao
quyền sử dụng đất cho ông A ký nhận, theo đúng nội dung án tuyên.

Kết thúc buổi cưỡng chế, toàn thể lực lượng và thành phần tham gia cưỡng
chế tập trung tại Hội trường UBND xã để họp rút kinh nghiệm.
Qua tình huống trên, ta thấy rằng một khi đương sự đã không tự nguyện thi
hành án thì họ ln tìm mọi cách để trì hỗn, chống đối việc thi hành án. Chấp
hành viên với bản lĩnh và kinh nghiệm của mình phải cương quyết trước các hành
vị chống đối của đương sự đồng thời phải dự trù tất cả các tình huống có thể xảy
ra trong q trình cưỡng chế để có những ứng phó kịp thời, hiệu quả.
6.4. Cưỡng chế thi hành án " Buộc người phải thi hành án thực hiện
hoặc không được thực hiện công việc nhất định” :
Bản án hôn nhân sơ thẩm số: 05/HNST ngày 26/6/2011 của Tòa án nhân dân
quận 5, Tp.HCM tuyên buộc:
“…Ông Trần Văn A phải giao trẻ Trần Văn B, cho bà Nguyễn Thị C ni
dưỡng, Ơng Trần Văn A được quyền thăm nom cháu Trần Văn B…”.
Ngày 20/8/2011, bà Nguyễn Thị C có đơn yêu cầu cơ quan Thi hành án buộc
ông Trần Văn A phải giao con là trẻ Trần Văn B cho bà nuôi dưỡng. Bà Nguyễn
Thị C cung cấp thông tin là cháu Trần Văn B đang sống cùng với cha là ông Trần
Văn A tại nhà bà Phan Thị D là mẹ của ông A.
Sau khi xem xét đơn yêu cầu thi hành án đúng theo quy định của pháp luật,
Cơ quan Thi hành án dân sự quận 5 ra quyết định thi hành án số và giao cho Chấp
hành viên tổ chức thực hiện quyết định.
Chấp hành viên tống đạt hợp lệ cho ông A Quyết định thi hành án trên và ấn
định trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Quyết định thi hành án ông A
phải tự nguyện giao đứa trẻ cho bà C.
Sau 15 ngày, ông A không tự nguyện thi hành án, Chấp hành viên tiến hành
triệu tập ông A đến cơ quan thi hành án làm việc, giải thích, thuyết phục ơng A tự
nguyện thi hành án nhưng ông A vẫn không chịu thi hành với lý do hiện cháu B
không cùng sống với ông và đang ở đâu ông không biết.
Chấp hành viên tiến hành xác minh thì được biết cháu B hiện đang sống
cùng với ông A và bà nội tại nhà của ông A.
19



Chấp hành viên phối hợp cùng các cơ quan, ban ngành địa phương xuống
nhà ơng A giải thích, thuyết phục, vận động ơng A cùng gia đình nhiều lần nhưng
ơng A vẫn không chịu thi hành với lý do “con của tơi, tơi ni khơng giao cho ai
hết” và có hành vi chống đối.
Sau đó Chấp hành viên ban hành Quyết định cưỡng chế thi hành án ấn định
thời gian cụ thể buộc ông A phải giao con cho chị C nhưng ơng A vẫn khơng thi
hành và có thái độ coi thường pháp luật.
Nhận thấy hành vi của ông A là vi phạm pháp luật, Chấp hành viên lập biên
bản vi phạm hành chính của ơng A và ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính
buộc ơng A phải nộp phạt số tiền 200.000 đồng theo điểm b, khoản 2, Điều 7
Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 của Chính phủ quy định về xử phạt
hành chính trong lĩnh vực Tư pháp (Không thực hiện công việc buộc phải làm
hoặc không chấm dứt thực hiện công việc không được làm nêu trong bản án,
quyết định của Tòa án theo quyết định thi hành án). Đồng thời ấn định cho ông A
trong thời hạn 05 ngày làm việc phải đến kho bạc Nhà nước quận 5 để nộp tiền
phạt. Ông A đã đóng đủ tiền phạt và nộp biên lai cho cơ quan Thi hành án dân sự
quận 5 nhưng vẫn không chịu thi hành án.
Cơ quan thi hành án giải thích cho ơng A được biết nếu ơng vẫn tiếp tục
khơng thi hành bản án nêu trên thì Cơ quan thi hành án đề nghị Viện kiểm sát
nhân dân quận 5 truy tố ông A về tội “Không chấp hành án” vì ơng A cố tình
khơng thi hành bản án dù có điều kiện.
Với sự thuyết phục, vận động của Chấp hành viên, chính quyền địa phương
cùng sự tác động của gia đình cuối cùng ơng A đã chịu giao cháu B cho chị C
nuôi dưỡng . chấp hành viên đã lập biên bản bàn giao có sự chứng kiến của chính
quyền địa phương.
Qua trên cho thấy, khi áp dụng biện pháp cưỡng này Chấp hành viên cần
phải khéo léo, mềm mỏng vận dụng sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, các cơ
quan ban ngành liên quan thuyết phục đương sự. Nhưng nếu đương sự vẫn không

thi hành thì cần thiết áp dụng các biện pháp cưỡng chế cứng rắn thuể hiện kỷ
cương của pháp luật.
IV. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ VIỆC TỔ CHỨC CƯỠNG CHẾ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ:
1. Thực hiện đầy đủ các bước chuẩn bị trước khi cưỡng chế thi hành án
dân sự :
Công tác chuẩn bị trước khi cưỡng chế rất quan trọng, khi cần thiết hoặc xảy
ra bất kỳ tình huống nào, nếu có sự chuẩn tốt, Chấp hành viên sẽ dễ dàng xử lý và
chỉ huy cuộc cưỡng chế diễn ra được thuận lợi.
20


Q trình cưỡng chế thi hành án dân sự khơng cho phép Chấp hành viên kéo
dài thời gian, Luật quy định, Chấp hành viên không được tổ chức cưỡng chế thi
hành án từ 22 giờ đêm đến 06 giờ sáng. Muốn vậy, Chấp hành viên, Thư ký phải
có cơng tác chuẩn bị cưỡng chế thật tốt trước khi thực hiện việc cưỡng chế.
Trong thời gian diễn ra việc cưỡng chế, Chấp hành viên và những người
tham gia đoàn cưỡng chế ln phải đối mặt với những khó khăn, nguy hiểm nhất
định. Nếu thời gian cưỡng chế càng kéo dài thì nguy cơ xảy ra càng nhiều hơn.
Hơn nữa, tâm lý người bị cưỡng chế luôn mong muốn việc cưỡng chế không
thể thực hiện được. Nếu Chấp hành viên tổ chức thực hiện không được việc
cưỡng chế sẽ tạo tâm lý xem thường pháp luật của đương sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. Nhất là ý nghĩa, mục đích giáo dục pháp luật của việc cưỡng
chế trong quần chúng nhân dân sẽ không đạt được.
Khi thực hiện việc cưỡng chế, Chấp hành viên luôn là người chỉ huy và chịu
trách nhiệm chính, vì vậy, phong thái của Chấp hành viên phải tạo cho người bị
cưỡng chế một tâm lý khuất phục thì việc cưỡng chế mới có nhiều cơ hợi thành
cơng. Nhưng nếu q trình thực hiện nhiệm vụ, Chấp hành viên do khơng có sự
chuẩn tốt về mặt tâm lý, cơ sở vật chất thích hợp thì dẫn đến gặp lúng túng trong
việc xử lý tình huống. Ví dụ như khi tiến hành kiểm kê tài sản, có một số tài sản

cần phải để riêng nếu không muốn là hư hỏng thì cần có thùng xốp, bao tải,
nhưng lúc này phải chạy đi mua thì ảnh hưởng rất lớn đến việc tháo dở, di dời căn
nhà, kéo theo việc đo đạc lại diện tích đất phải giao trả khơng thể thực hiện một
cách kịp thời và nhanh chóng được.
2. Bảo đảm an tồn, hiệu quả trong q trình tổ chức thực hiện cưỡng
chế thi hành án dân sự :
Cưỡng chế thi hành án không thể được xem là thành cơng khi trong q
trình cưỡng chế có hậu quả xấu xảy ra cho những người tham gia cưỡng chế hoặc
đương sự, người có quyền lợi liên quan. Cho nên, trước, trong và sau khi tổ chức
cưỡng chế thi hành án dân sự cần phải chú trọng một số biện pháp sau:
- Chú trọng công tác giáo dục, thuyết phục, động viên và tạo điều kiện cho
người phải thi hành án tự nguyện thi hành án; quan tâm giải thích để đương sự
hiểu biết nhằm thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của
pháp luật; Hướng dẫn các bên đương sự thỏa thuận về việc thi hành án nhằm hạn
chế các xung đột giữa các bên; Tổ chức tốt công tác tiếp dân để giảm thiểu tình
trạng khiếu nại, tố cáo của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Trường hợp bản án, quyết định có những điểm chưa rõ để thi hành, không
phù hợp với thực tế hoặc cần được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm thì yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp
luật.
21


- Đối với những vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về mặt an ninh, chính trị,
trật tự an toàn xã hội ở địa phương cần báo cáo Ban chỉ đạo thi hành án dân sự.
Những vấn đề vướng mắc về nghiệp vụ thi hành án thì thỉnh thị ý kiến của cơ
quan có thẩm quyền để được hướng dẫn, chỉ đạo kịp thời.
- Đối với những trường hợp bản án, quyết định của Tòa án bị đương sự
khiếu nại gay gắt thì việc tổ chức cưỡng chế thi hành án hết sức thận trọng. Trước
khi tổ chức cưỡng chế cần chú ý nắm chắc địa bàn (địa hình, giao thơng…), tình

hình của đương sự (nhân thân, nhân khẩu, ý thức chấp hành pháp luật…), dự liệu
các tình huống (nhất là trường hợp có khả năng gây hỏa hoạn, cháy nổ, sát
thương, tự thiêu, tụ tập đông người…) để bố trí phương tiện, lực lượng và có biện
pháp xử lý phù hợp, đảm bảo việc cưỡng chế được an toàn, hiệu quả.
- Phối hợp chặt chẽ, kịp thời với các cơ quan hữu quan để tranh thủ sự đồng
tình và thống nhất biện pháp giải quyết đối với các vấn đề phát sinh.
- Khi tổ chức cưỡng chế thi hành án, bên cạnh việc lập các biên bản cần thiết
theo quy định của pháp luật, còn phải sử dụng phương tiện (máy ảnh, máy quay
phim, máy ghi âm …) để ghi lại diễn biến việc cưỡng chế, nhất là đối với vụ việc
phức tạp.
- Các tài liệu có trong hồ sơ thi hành án phải đầy đủ, chặt chẽ, thể hiện đúng
kết quả thi hành án làm cơ sở cho việc kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo được thuận lợi, chính xác, khách quan.
3. Bảo đảm chặt chẽ về mặt thủ tục trong cưỡng chế thi hành án dân
sự:
Thi hành án là một quá trình gồm nhiều thủ tục pháp lý liên quan chặt chẽ
với nhau. Thủ tục ban đầu làm tiền đề cho các thủ tục tiếp theo. Thủ tục ban đầu
chặt chẽ, thì thủ tục tiếp theo đảm bảo đúng quy định của pháp luật
Luật bồi thường nhà nước có hiệu lực vào ngày 01/01/2010 là một cơ sở
pháp lý quan trọng cho công dân yêu cầu cơ quan thi hành án, người làm công tác
thi hành án gây thiệt hại cho công dân, cơ quan, tổ chức (đương sự, người có
quyền lợi liên quan) trong quá trình tác nghiệp phải bồi thường. Nhưng hiện nay,
thu nhập của người làm công tác thi hành, nhất là Chấp hành viên, Thư ký thường
phụ thuộc rất nhiều vào đồng lương căn bản, thì khả năng có thể bồi thường của
Chấp hành viên là rất khó khăn, nếu xảy ra việc bồi thường thì chắc chắn, Chấp
hành viên sẽ khơng cịn lịng nhiệt huyết và tinh thần để gắn bó với ngành thi
hành án dân sự nữa. Do vậy, để hạn chế đến mức thấp nhất việc phải bồi thường
trong quá trình tác nghiệp, Chấp hành viên bắt buộc phải thực hiện việc bảo đảm
chặt chẽ về mặt thủ tục thi hành án nói chung và trong q trình cưỡng chế thi
hành án nói riêng.

22


Ngoài ra, cưỡng chế thi hành án dân sự là một thủ tục nhạy cảm, ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền lợi của người phải thi hành án. Do vậy, việc khiếu nại, tố cáo
trước, trong và sau khi cưỡng chế thi hành án xảy ra là điều không thể tránh khỏi.
Nếu thủ tục ban đầu Chấp hành viên không thực hiện được một cách đầy đủ và
đúng pháp luật, thì khi có khiếu nại phát sinh, cơ quan t hi hành án khơng có cơ
sở bác khiếu nại của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, buộc phải
cơng nhận khiếu nại là đúng thì cả một q trình thi hành án sẽ bị ngưng trệ, thậm
chí phải làm lại từ đầu, gây tốn kém về thời gian và tiền bạc của Nhà nước. Nhất
là cơ quan thi hành án sẽ không giải quyết được án tồn, ảnh hưởng chung đến
thành tích thi đua của đơn vị, của ngành thi hành án dân sự và làm tăng thêm
gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong việc giải quyết lượng án tồn phát sinh.
Trên đây là những giải pháp và kiến nghị rút ra trong cưỡng chế thi hành án
dân sự, nếu Chấp hành viên thực hiện đúng và đầy đủ theo những bài học kinh
nghiệm này thì chắc chắn, việc cưỡng chế thi hành án dân sự sẽ được an tồn,
thuận lợi và có hiệu quả trong q tổ chức thực hiện một việc phải thi hành án.

23


KẾT LUẬN

Nói tóm lại với những quy định cụ thể về cưỡng chế thi hành án theo Luật
thi hành án dân sự 2008 đã tháo gỡ phần nào công tác khó khăn cho các cơ quan
thi hành án dân sự.
Tuy nhiên, Chấp hành viên phải tìm mọi biện pháp thích hợp, đúng pháp
luật để giáo dục, thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thi hành án, tạo
mọi điều kiện thuận lợi để các bên đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên

quan thỏa thuận với nhau trong thi hành án dân sự, nhưng việc thỏa thuận này
không được trái pháp luật, đạo đức xã hội và ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người thứ ba. Chỉ khi nào hết khả năng để vận động, giáo dục, thuyết
phục người phải thi hành án tự nguyện thi hành án thì mới được áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành án.
Ngoài ra, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án, Chấp hành viên
tuyệt đối phải thực hiện đúng và đầy đủ các nguyên tắc trong cưỡng chế thi hành
án dân sự, đảm bảo trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án, đồng thời, phải luôn
nâng cao ý thức bảo đảm cho việc cưỡng chế thi hành án dân sự được an toàn,
hiệu quả trong quá trình tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự trên thực tế.
Do kinh nghiệm thực tế chưa nhiều và kiến thức bản thân còn hạn chế nên
hẳn Tiểu luận sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng
góp, trao đổi ý kiến của quý thầy cơ và các bạn đồng nghiệp để người viết có
thêm cơ hội học tập những kinh nghiệm và nâng cao hơn nữa trình độ chun
mơn nhằm đáp ứng u cầu công tác tốt hơn.

24



×