Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Thực hiện chính sách quản lý trật tự đô thị trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TIÊU PHI LỰC

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
QUẢN LÝ TRẬT TỰ ĐÔ THỊ TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TIÊU PHI LỰC

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
QUẢN LÝ TRẬT TỰ ĐÔ THỊ TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. HỒ TẤN SÁNG

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng của tôi. Các số liệu,
tài liệu được trích dẫn trong luận văn theo nguồn đã công bố. Kết quả nêu trong
luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Tác giả

Tiêu Phi Lực


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ TRẬT
TỰ ĐÔ THỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................8
1.1. Thực hiện chính sách công –một công đoạn cơ bản trong chu trình chính sách
công ở Việt Nam .........................................................................................................8
1.2. Thực hiện chính sách quản lý trật tự đô thị ........................................................22
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ TRẬT
TỰ ĐÔ THỊ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG29
2.1. Một số nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách quản lý trật tự đô thị ở
quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng .........................................................................29
2.2. Quá trình thực hiện chính sách quản lý trật tự đô thị trên địa bàn quận Hải Châu
...................................................................................................................................32
2.3. Kết quả và nguyên nhân .....................................................................................53
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯƠNG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ TRẬT TỰ ĐÔ THỊ
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY ..................................................................................................58
3.1 Phương hướng thực hiện chính sách quản lý trật tự đô thị .................................58

3.2. Các giải pháp ......................................................................................................63
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CSC

: Chính sách công

QLNN

: Quản lý nhà nước

UBND

: Ủy ban nhân dân

TTXD

: Trật tự xây dựng

TTVH

: Trật tự vỉa hè

VSMT

: Vệ sinh môi trường


TTĐT

: Trật tự đô thị


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới, công tác quản lý trật tự đô thị đang là vấn đề thách thức làm đau
đầu đối với chính quyền của các nước. Nhiều quốc gia đã có quy định chặt chẽ về
việc quản lý trật tự đô thị, điển hình như:
Tại Anh, Chính phủ Anh đề ra chủ trương “dọn sạch” nạn lấn chiếm vỉa hè
giúp đường phố an toàn, sạch đẹp hơn và khuyến khích người dân đi bộ, luyện tập
thể thao. Ban đầu, điều luật này được áp dụng riêng ở London trong vòng hơn 40
năm, nhưng giới chức hiện muốn nhân rộng ra toàn nước Anh. Mỗi trường hợp vi
phạm sẽ phải nộp phạt 86 USD; Tại Hàn Quốc, thay vì nộp phí thu gom rác thải, thì
các hộ gia đình phải mua túi đựng rác từ chính quyền thành phố. Bản thân cấu tạo
các loại túi đựng rác đã hướng dẫn cho dân cách phân loại, tỉ mỉ tới mức phải phân
loại rác theo kích thước và tập trung những rác có thể tái chế, như: giấy, plastic, đồ
gỗ… vào một nơi nhất định. Thùng rác có nắp đậy, đồng thời sử dụng khóa từ, các
hộ ở khu dân cư được sở hữu thẻ từ để sử dụng các thùng rác này. Khoản thu từ tiền
bán túi đựng rác được chính quyền địa phương dùng để hỗ trợ cho việc thu gom,
chuyên chở rác, cả tái chế. Để mọi người có thoái quen mới, Chính quyền nước này
đã đưa ra mức phạt (khoảng gần 3.000.000 vnđ) với những hộ nào vi phạm quy
định. Ngoài việc bị phạt tiền những người vi phạm còn bị nêu tên trên báo địa
phương và bị coi như người vi phạm luật; Tại Thái Lan, năm 2015, các quầy bán
hàng rong trên những con phố đông đúc, nhộn nhịp ở Bangkok phải đối mặt với
cuộc truy quét của chính quyền thành phố. Những nỗ lực này nhằm đầu tranh giải
toả khu vực cho người đi bộ. Trong chiến dịch dẹp vỉa hè, chính quyền Thái Lan
hứa hẹn sẽ “làm sạch” để du lịch nước này ngày càng phát triển.

Ở Nước ta, trong thời gian qua, cùng với quá trình CNH, HĐH đất nước, tốc
độ phát triển đô thị diễn ra nhanh chóng. Việt Nam hiện nay, đã có khoảng 745 đô
thị, trong đó, có gần 110 thành phố, thị xã. Việc xây dựng và phát triển các đô thị
này đòi hỏi phải được thực hiện theo đúng quy hoạch phê duyệt, và đúng với tiêu

1


chuẩn cho phép đối với từng khu vực. Tuy nhiên trên thực tế việc vi phạm TTĐT,
không còn là chuyện xa lạ của thế giới trong thời gian qua. Tình hình vi phạm
TTĐT đã và đang là một vấn đề nóng trong thực tế của đô thị nước ta hiện nay;
dường như đây chính là mặt trái của đô thị hoá với tốc độ quá nhanh trong khi
QLNN về đô thị lại chưa đáp ứng kịp. Hiện tượng xây dựng sai phép không đúng
với nội dung giấy phép xảy ra ở nhiều nơi trên địa bàn thành phố Đà Nẵng,thành
phố Hải Phòng, thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh…có thể nhận thấy các
công trình vi phạm pháp luật về trật tự xây dựng ngày càng nhiều và đa dạng hơn.
Đồng thời các vi phạm về TTVH, VSMT, PCCC, về cư trú ... cũng gia tăng và diễn
biến phức tạp. Điều này đòi hỏi chính sách quản lý TTĐT phải được quan tâm một
cách nghiêm túc.
Thực tế cho thấy, những mặt tích cực và tiêu cực của sự phát triển đô thị nước
ta trong thời gian qua đã tạo ra sức ép khá lớn về nhiều mặt, có nguy cơ của sự phát
triển không bền vững. Quá trình phát triển đô thị đã, đang nảy sinh nhiều vấn đề lớn
như: gia tăng dân số cơ học ở các đô thị lớn; tình trạng lấn, chiếm đất xây dựng nhà
trái phép vi phạm các chỉ giới, sai với quy hoạch ngày càng nghiêm trọng; sự bùng
nổ các phương tiện cơ giới gây ách tắc giao thông, nhiều tuyến đường đã trở thành
nơi buôn bán hàng rong không còn chỗ cho người đi bộ; ý thức giữ gìn vệ sinh môi
trường của người dân không được nâng lên...Bên cạnh đó,quá trình phát triển đô thị
cũng chính là nguyên nhân làm giảm chất lượng môi trường, suy thoái nguồn tài
nguyên thiên nhiên và mất cân bằng sinh thái; đây chính là thách thức của công tác
quản lý nhà nước về TTĐT tại các thành phố ở nước ta.

Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, thành phố Đà Nẵng là một
trong những địa phương có quá trình đô thị hóa – công nghiệp hóa phát triển mạnh
của Việt Nam.Sau khi trở thành Thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố đã
đầu tư xây dựng, hoàn thành nhiều công trình có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp,
hiện đại, tạo điểm nhấn về kiến trúc cảnh quan đô thị như: Cầu quay Sông Hàn, cầu
Thuận Phước, cầu Rồng, cầu Trần Thị Lý, cầu Nguyễn Tri Phương, nút giao thông
ngã ba Huế... Nhiều công trình trọng điểm được xây dựng và hình thành qua từng

2


giai đoạn, qua từng thời kỳ đã làm thay đổi nhanh chóng diện mạo của thành phố,
đưa Đà Nẵng từ đô thị loại II vươn lên trở thành đô thị loại I cấp quốc gia từ năm
2003; biến nhiều vùng đất cát, hoang hóa, khô cằn trước đây thành những khu đô
thị, khu du lịch, công trình văn hóa, góp phần khơi dậy và đánh thức tiềm năng của
một vùng đất và con người Đà Nẵng.
Bên cạnh những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội đã đạt được, trong
những năm qua của thành phố Đà Nẵng nói chung và quận Hải Châu nói riêng đang
phải đương đầu với những khó khăn, thách thức của quá trình đô thị hóa – nhất là
trong công tác quản lý đô thị. Cụ thể là trên các lĩnh vực quản lý trật tự xây dựng,
trật tự vỉa hè và vệ sinh môi trường những khó khăn thách thức đó là: Một số công
trình, dự án triển khai chưa bảo đảm các thủ tục đầu tư; tình trạng xây dựng sai
phép, không phép có xu hướng tăng; một số công trình xây dựng không bảo đảm
chất lượng, an toàn lao động, vệ sinh, cảnh quan môi trường, gây bức xúc trong dư
luận; trách nhiệm của một số cán bộ lãnh đạo, công chức, viên chức trong thực thi
nhiệm vụ còn hạn chế.
Thực tế đó cho thấy, cần phải có những nghiên cứu khoa học để tìm ra những
giải pháp phục vụ cho quá trình quản lý trật tự đô thị thành phố Đà Nẵng nói chung
và quận Hải Châu nói riêng. Đề tài “Thực hiện chính sách quản lý trật tự đô thị trên
địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng”, hy vọng đáp ứng được phần nào đòi

hỏi bức thiết đang đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, đã có nhiều giáo trình, công trình khoa học, các nghiên
cứu, hội thảo, bài viết về QLNN về TTXD đô thị, đáng chú ý như:

- Đỗ Hoàng Toàn (2005), “Giáo trình Quản lý Nhà nước về kinh tế”. Tác giả
đã nêu lên vai trò của Nhà nước, nêu lên hệ thống các cơ quan quản lý các lĩnh vực
xã hội như: cổ động, tuyên truyền, cưỡng chế, và các cơ quan quản lý khoa học kỹ
thuật, tài chính...Nhà nước phải định hướng, đảm bảo xã hội phát triển, nhân dân có
quyền đạt được những nguyên vọng chính đáng của chính mình. Tác giả cũng đã
nêu lên khái niệm QLNN về kinh tế, thực tế của QLNN về kinh tế là việc tổ chức,

3


sử dụng phải có hiệu quả các nguồn lực trong nước và ngoài nước mà Nhà nước có
khả năng tác động vì mục tiêu xây dựng và phát triển.

- Lê Bảo (2016),“Bài giảng Quản lý Nhà nước về kinh tế”.Tại chương 1, tác
giả đã nêu những vấn đề lý luận chung của QLNN về kinh tế. Nêu lên vai trò và sự
cần thiết của QLNN về kinh tế. Chức năng, nhiệm vụ của QLNN về kinh tế, đồng
thời nêu phương pháp QLNN và các công cụ của QLNN.Tại chương 4, tác giả cũng
đã nêu nội dung QLNN về hệ thống quản lý, hệ thống hạ tầng kinh tế-xã hội. Đó là
xây dựng hệ thống luật pháp, khai thác và quản lý hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội.
Quy hoạch phát triển hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội là một nhiệm vụ quan trọng
của mọi cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương.

- Nguyễn Đình Hương (2003), “Quản lý Đô thị”, Giáo trình gồm 10 chương,
mỗi chương tương ứng với một vấn đề đặt ra cho công tác quản lý đô thị. Giáo trình
đã làm rõ những quan niệm về đô thị và quản lý đô thị, chia loại đô thị và từng giai

đoạn phát triển đô thị ở Việt Nam. và các mô hình quản lý đô thị; đã nêu lên một số
giải pháp, trách nhiệm của Nhà nước. trong quản lý những lĩnh vực được quan tâm tại
đô thị, như: Dân số và Lao động;Quản lý đất đai; Cơ sở hạ tầng; Môi trường;Giao
thông và thông tin; An ninh xã hội; Phát triển kinh tế; và Tài chính đô thị.

- Lê Trọng Bình (2009),“Pháp luật và Quản lý đô thị”.Tác giả đã đề cập đến
những kiến thức cơ bản về pháp luật và quản lý đô thị. giúp cho người nghiên cứu
một phần nào có nhận thức về quy luật phát triển đô thị, hiểu rõ những công cụ
quản lý đô thị là pháp luật, quy hoạch và bộ máy QLNN, đảm bảo cho đô thị phát
triển theo hướng đã định sẵn, có trật tự, phù hợp với quy luật khách quan, hình thái
kinh tế xã hội Việt Nam.

- Luận văn thạc sĩ“Quản lý nhà nước về trật tự đô thị từ thực tiễn quận Hải
Châu, thành phố Đà Nẵng” của tác giả Trần Văn Vũ (2015). Về nội dung, QLNN
về trật tự đô thị có nội dung rộng...Trong giới hạn của luận văn, xuất phát từ thực tế,
tác giả chỉ chỉ đề cập đến 04 vấn đề chính mà chính quyền quận Hải Châu đang còn
nhiều hạn chế, bất cập trong quản lý đó là: 1) quản lý nhà nước về TTXD; 2) quản
lý nhà nước về PCCC; 3) quản lý nhà nước về trật tự giao thông đô thị; 4) quản lý

4


nhà nước về cư trú. Tác giả đã đưa ra những kiến nghị, đề xuất khoa học cho việc
nâng cao hiệu quả của QLNN về TTĐT ở quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng và đã hệ
thống, làm rõ thêm lý luận QLNN về TTĐT. Tác giả đã đánh giá thực trạng, phân
tích nguyên nhân hạn chế của QLNN về TTĐT trên địa bàn quận Hải Châu, TP. Đà
Nẵng từ năm 2011 đến 2015; đồng thời tác giả đã xác định các phương hướng và đề
xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về TTĐT
quận Hải Châu, TP.Đà Nẵng trong thời gian đến.


- Luận văn thạc sĩ "Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự đô thị
từ thực tiễn Q.Cẩm Lệ, TP.Đà Nẵng” của tác giả Trịnh Văn Quang (2016). Các vấn
đề về xử phạt vi phạm hành chính đã được tác giả đã hệ thống hóa.; phân tích toàn
diện đặc điểm về tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực TTĐT từ thực trạng
Q.Cẩm Lệ. Đánh giá về những kết quả đạt được trong hoạt động xử phạt vi phạm
hành chính trên lĩnh vực TTĐT từ thực tiễn của Q.Cẩm Lệ. Tác giả đã đi sâu phân
tích kết quả và tìm ra những hạn chế, nguyên nhân. Đề xuất, kiến nghị các giải pháp
nâng cao hiệu lực - hiệu quả hoạt động xử phạt trong vi phạm hành chính trong lĩnh
vực TTĐT từ thực tiễn Q.Cẩm Lệ trong thời gian đến. Ngoài ra còn nhiều đề tài
nghiên cứu quản lý nhà nước trên các lĩnh vực như giao thông đô thị, đất đai,an sinh
xã hội, môi trường và tài nguyên,quy hoạch đô thị...
Có thể nhận thấy, mặc dù đã có những công trình trên đã đề cập một số khía
cạnh có liên quan, nhưng việc thực hiện chính sách quản lý trật tự đô thị trên địa
bàn quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng – đặc biệt chuyên sâu về 3 lĩnh vực thực
hiện chính sách quản lý về trật tự xây dựng; quản lý về vệ sinh môi trường và quản
lý về trật tự vỉa hè, đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu trực tiếp nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Góp phần nêu lên cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất một số giải pháp nâng
cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách quản lý trật tự đô thị nói chung và
quản lý trên các lĩnh vực trật tự xây dựng, trật tự vỉa hè, vệ sinh môi trường nói
riêng ở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

5


3.2. Nhiệm vụ:
- Thứ nhất, hệ thống hóa cơ sở lý luận về thực hiện chính sách quản lý trật tự
đô thị.
- Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách quản lý trật tự

đô thị của quận Hải Châu, từ đó xác định những mặt được và những hạn chế cùng
các nguyên nhân.
- Thứ ba, xác định phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu lực,
hiệu quả việc thực hiện chính sách quản lý trật tự đô thị trên địa bàn quận Hải Châu,
thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là việc thực hiện chính sách quản lý trật tự đô thị trên
địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng hiện nay với góc độ chính sách công.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: từ năm 2015 đến năm 2018.
Không gian: quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
Trong khuôn khổ cho phép, luận văn tập trung đề cập đến 03 vấn đề mà chính
quyền quận Hải Châu đang còn nhiều khó khăn và bất cập đó là:
1) Chính sách quản lý về trật tự xây dựng;
2) Chính sách quản lý về vệ sinh môi trường;
3) Chính sách quản lý về trật tự vỉa hè.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương và đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật về quản lý trật tự đô thị của Nhà nước Việt Nam, thành phố Đà Nẵng và
quận Hải Châu hiện nay.
5.2. Các phương pháp cụ thể
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công kết hợp giữa nghiên
cứu lý thuyết và thực tế;phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh.
Thu thập và xử lý thông tin thứ cấp (tư liệu, số liệu có sẵn từ các cơ quan Nhà

6


nước, các sở, các phòng ban trong quận, các thư viện; bản đồ, các văn bản pháp luật,

bản đồ hiện trạng sử dụng đất của quận, phường; báo cáo quy hoạch sử dụng đất của
quận; tình hình phân bố dân cư, lao động trên địa bàn quận; hệ thống các bảng biểu
thống kê, và các văn bản pháp luật có liên quan đến QLNN về trật tự xây dựng).
Số liệu được thu thập, tổng hợp được trình bày theo kiểu văn xuôi để thuận
lợi cho việc phân tích và đánh giá. Các dữ liệu và thông tin xử lý trên phần mềm
Excel…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận: Có thể là khung lý thuyết về thực hiện chính sách quản lý
trật tự đô thị nói chung và quản lý trên các lĩnh vực trật tự xây dựng, trật tự vỉa hè,
vệ sinh môi trường nói riêng.
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu đề tài minh chứng cho việc vận dụng lý
luận để phân tích, đánh giá kết quả thực hiện chính sách và định hướng cho việc
giải quyết trong quá trình thực hiện chính sách quản lý trật tự đô thị. Thực trạng và
các kiến nghị có thể được vận dụng vào việc thực hiện chính sách quản lý trật tự đô
thị ở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng; Cũng là cơ sở để các địa phương tham
khảo nhằm nâng cao chất lượng thực hiện chính sách quản lý trật tự đô thị hiện nay.
Đây cũng là tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu củng cố, hoàn thiện hệ
thống chính sách quản lý TTĐT đáp ứng yêu cầu xây dựng chính quyền đô thị tại
TP. Đà Nẵng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Lý luận về thực hiện chính sách quản lý trật tự đô thị.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách quản lý trật tự đô thị trên địa bàn
quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng việc thực hiện
chính sách quản lý trật tự đô thị trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
trong giai đoạn hiện nay.

7



CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ TRẬT TỰ ĐÔ THỊ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Thực hiện chính sách công –một công đoạn cơ bản trong chu trình
chính sách công ở Việt Nam
1.1.1 Chính sách công và chu trình chính sách công
1.1.1.1. Quan niệm về chính sách công
Chính sách-là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các tài liệu, trên các
phương tiện truyền.thông và trong đời sống-xã hội. Cho đến nay, đây cũng là khái
niệm còn gây nhiều tranh cãi do có nhiều cách tiếp cận.
Ở Việt Nam, ngày 3-9-1945, Chính phủ lâm thời đã họp phiên đầu tiên do
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa. Tại phiên họp này, Chính phủ đã thảo luận và tán
thành 6 vấn đề cấp bách do Chủ tịch nêu ra là:
1- Phát động phong trào tăng gia sản xuất để chống nạn đói, mở ngay cuộc
lạc quyên gạo để giúp đỡ người nghèo.
2- Mở chiến dịch chống nạn mù chữ.
3- Tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu
phiếu, soạn thảo Hiến pháp dân chủ.
4- Mở chiến dịch giáo dục cần, kiệm, liêm, chính để bài trừ thói hư tật xấu
của chế độ thực dân để lại.
5- Bỏ ngay các thuế, như: thuế thân; thuế chợ; thuế đò; tuyệt đối cấm hút
thuốc phiện.
6- Ra tuyên bố tự do tín ngưỡng và đoàn kết lương giáo.
Đặt trong bối cảnh đất nước lúc bấy giờ, có thể xem đây là mẫu mực của việc
xác định những vấn đề cấp bách để hoạch định và thực thi chính sách của nhà nước
– chính sách công – chính sách để giải quyết những nhu cầu lợi ích thiết thực của
quốc dân, đồng bào sau khi chính quyền mới được thành lập.
Như vậy, tiếp cận từ góc độ chủ thể ban hành và sử dụng chính sách để phục

vụ và quản lý xã hội có thể thấy: Nhà nước là chủ thể đại diện cho quyền lực của

8


nhân dân, ban hành chính sách để mưu cầu lợi ích cho cộng đồng xã hội. Chính
sách của nhà nước đã tác động rộng khắp đến mọi đối tượng, mọi quá trình trên
phạm vi toàn quốc. Chính sách khi gắn với vai trò, chức năng “lo cho cái chung”
hay “khu vực công” của nhà nước được gọi là chính sách công (Public policy).
Tích hợp những cách tiếp cận, cách hiểu, cách định nghĩa đã có, trong luận
văn này chúng tôi thống nhất cách quan niệm: Chính sách công là tổng thể chương
trình hành động của nhà nước, nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội, theo phương thức nhất định nhằm đạt được các
mục tiêu đề ra, bảo đảm cho xã hội phát triển bền vững, ổn định.
Khái niệm trên thể hiện đặc trưng của chính sách công là:
Do nhà nước chủ động xây dựng để tác động trực tiếp lên các đối tượng quản
lý một cách tương đối ổn định.
Là công cụ định hướng cho hành vi của các cá nhân, tổ chức phù hợp với thái
độ chính trị của nhà nước trong.việc giải quyết những vấn đề phát sinh trong đời
sống xã hội;
Để đạt được mục tiêu đề ra, trước hết chính sách đó phải tồn tại trong thực tế,
nghĩa là chính sách phải thể hiện được vai trò định hướng hành động theo những
mục tiêu nhất định;
Điều kiện tồn tại của một CSC là tổng hoà những tác động tích cực của hệ
thống thể chế do nhà nước thiết lập và tinh thần nghiêm túc thực hiện, tự chủ, sáng
tạo của các chủ thể tham gia giải quyết vấn đề chính sách trong một phạm vi không
gian và thời gian nhất định;
Điều kiện bảo đảm cho sự tồn tại được thể hiện bằng các nguồn lực con
người, nguồn lực tài chính, môi trường chính trị, pháp lý, văn hóa xã hội và cả sự
bảo đảm bằng nhà nước.

1.1.1.2. Chu trình chính sách công
Chu trình chính sách (Policy cycle), hay còn được gọi là quy trình hoạch định
chính sách (Policy making process), hoặc quy trình chính sách, là một chuỗi các giai
đoạn kế tiếp có liên quan với nhau từ khi lựa chọn được vấn đề CSC.đến khi kết quả
của CSC được đánh giá.

9


Khoa học chính sách hiện tại chưa xác định được quy trình hoạch định.chính
sách thống nhất, kiểu mẫu.Điều này có thể lý giải bởi sự khác biệt về thể chế chính
trị và cách thức tổ chức quyền lực.nhà nước giữa các quốc gia. Việc nhận thức khái
quát về một quy trình logic với các giai đoạn của nó đóng vai trò quan trọng, làm cơ
sở cho việc tiếp cận nghiên cứu và thực hành chính sách.
Harold .D.Lasswell đã chia quá trình chính sách công thành 7 giai đoạn: (1)
Thu thập thông tin; (2) Đề xuất; (3) Ra quyết định; (4) Hướng dẫn; (5) Áp dụng; (6)
Kết thúc; (7) Đánh giá. 7 giai đoạn này không chỉ mô tả các chính sách công thực sự
được hình thành như thế nào mà còn mô tả các bước tạo ra chúng. Quá trình CSC bắt
đầu với việc thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp và truyền bá thông tin cho những
người sẽ tham gia vào quá trình hoạch định và ban hành CSC. Tiếp đó những người
tham gia vào việc ra quyết sách đề xuất các phương án cụ thể. Trong giai đoạn kế
tiếp, những người ra quyết định thực sự ban hành đường lối hành động. Sang giai
đoạn triển khai thực hiện CSC, một tập hợp các chế tài được thiết lập để cưỡng chế
những người nào không tuân theo quy định của nhà nước. Sau đó, CSC được duy trì
bởi bộ máy hành chính và vận hành theo định hướng cho đến khi hoàn thành sứ
mệnh, hoặc bị hủy bỏ. Cuối cùng, các kết quả mang lại của CSC được đánh giá theo
mục tiêu của chủ thể ban hành CSC ban đầu.
Mô hình của Harold. D.Lasswell đã tạo cơ sở cho sự phát triển các mô hình
về chu trình CSC của Gary D.Brewer vào đầu những năm 1970 và mô hình khá nổi
tiếng của Charles O.Jones và James Anderson vào những năm 1970 và 1980.

Chu trình CSC theo mô hình này gồm 5 giai đoạn:
(1) Lập chương trình (Agenda setting): Các cá nhân và tổ chức, cơ quan chức
năng tham gia làm chính sách trình vấn đề công ra thảo luận, và xem xét đưa vào
chương trình chính thức. Trên thực tế, có những vấn đề chính sách dễ dàng mở
“cánh cửa cơ hội” xuất hiện trong chương trình nghị sự; trong khi nhiều vấn đề khác
lại bị trì hoãn lâu dài.
(2) Hình thành chính sách (Policy formulation, bao gồm việc thiết kế chính
sách – policy design): Chính thức đề xuất các phương án (biện pháp thay thế) nhằm
mục tiêu giải quyết vấn đề chính sách. Giải pháp thay thế trong các đề xuất chính

10


sách có thể thể hiện dưới dạng dự thảo các quy định pháp lý của chính phủ, tòa án
hoặc dự luật của Quốc hội.
(3) Thông qua chính sách (Policy adoption): Chính sách được chính thức
thông qua bởi đa số, hay được hợp pháp hoá (legitimation). Nói chung, chính sách
có thể được thông qua bởi Quốc hội, Chính phủ và Tòa án trong phạm vi luật định.
(4) Thực hiện chính sách (Policy implementation):Cơ quan hành pháp huy
động các nguồn lực triển khai thực hiện khi CSC được thông qua. Đây là giai đoạn
quan trọng mà CSC tác động đến xã hội với mục đích đạt được các mục tiêu nhà
nước đề ra; và cũng có thể dẫn tới những tác động không như dự đoán, thậm chí kết
quả có thể không đúng với dự đoán phân tích ban đầu.
(5) Đánh giá chính sách (Policy evaluation): Là giai đoạn xem xét các cơ
quan thực hiện chính;sách có đáp ứng yêu cầu, tuân thủ quy định pháp lý và đạt
được các mục tiêu của chính sách không. Vì vậy, các đơn vị chức năng liên quan
cần thực hiện thanh tra, kiểm toán để đánh giá hiệu quả của việc thực hiện chính đối
với cơ quan thực hiện chính sách đó. Theo nghĩa này thì đánh giá chính sách là một
giai đoạn trong quy trình chính sách. Có thể nói, đánh giá chính sách là một phương
pháp sử dụng các công cụ phân tích để nghiên cứu, phân tích chính sách [14].

Ở Việt Nam, hiện tại cũng tồn tại nhiều cách phân loại quy trình chính sách
khác nhau. Chẳng hạn, theo cách phân loại đơn giản nhất, nhưng có tính tổng hợp
nhất, chu trình CSC có thể chia thành 3 công đoạn, giai đoạn chính:
(1). Hoạch định chính sách công.
Đây là giai đoạn, xây dựng phương án chinh sách và ra quyết định chinh
sách công.Để hoàn thành giai đoạn này, các cơ quan nhà nước có nhiệm vụ phân
tích thực trang,để xác định vấn đề CSC, từ đó đưa ra việc kiến nghị, phương pháp
để giải quyết vấn đề vào chương trình nghị sự sau đó ban hành CSC nếu chính sách
được thông qua. Khi thực hiện xác định.vấn đề chính sách ngoài các cơ quan nhà
nước,thực hiện;mà phải mở rộng các đối tượng, chủ thể để có sự tham gia rộng rãi
của mọi tầng lớp xã;hội, đặc biet là của nhân dan, các tổ chức chính trị - xã hội,
như: Mật trận,Tổ quốc và các tổ chức,thành viên của Mật trận.
Nội dung,quan trọng,của giai đoạn hoạch định CSC là: cần phải xác định

11


đúng mục tiêu chinh sách, sau đó xây dựng hoặc đề xuất các các giải pháp để đạt
các mục,tiêu đó. Để làm việc này,;các chủ thể của chính sách phải đánh giá đúng tác
động của các giải phap, đồng thời phải so sánh, dự đoán các kết quả các giải pháp
với nhau; từ đó làm cơ sở để đề xuất để cơ quan có thẩm quyền ra quyết định để
cuối cùng.
(2). Tổ chức thực hiện chính sách công.
Là giai đoạn hiện thực,hóa,chính sách trong đời sống xã/hội.Đây là giai đoạn
triển khai thực hiện các giải pháp của chính,sách đã được thông qua và kiểm tra quá
trình của việc thực hiện.Sự thành, bại của một chính sách là nằm ở giai đoạn này.
(3). Đánh giá chính sách công.
Đây là công đoạn tính toán, dự trù các chi phí và kết quả của việc thực hiện
chính sách; các tác động từ thực tế của việc thực hiện chính sách trong quá trình
nhằm đạt được mục tiêu CSC, từ đó xác định hiệu quả của một CSC trong thực tế.

Trên cơ sở kết quả của đánh giá CSC, các cơ quan này.có thể chấm dứt sự tồn tại
của,CSC; hoặc có thể bổ sung mục tiêu, điều chỉnh các giải-pháp cho phù hợp với
tình hình thực tế.
Mô hình hoá chu trình chính sách công theo cách phân loại trên

Hoạch định chính sách công

Phân tích
chính sách công

Thực thi chính
sách công

Đánh giá chính
sách công

12


Lưu ý: Phân tích CSC không phải là một giai đoạn độc lập của chu trình
CSC, mà là một hoạt động gắn kết với các giai đoạn của chu trình CSC. Đây là hoạt
động cơ bản làm nền tảng ra quyết định cho các chủ thể hoạch định, thực thi CSC.
Do tính chuyên nghiệp và vai trò trọng yếu của công việc này mà hiện nay, nhiều
quốc gia coi hoạt động phân tích CSC là một nghề cao quý và những người làm
nghề này được gọi là nhà phân tích CSC. Muốn đánh giá CSC đương nhiên phải
phân tích CSC. Muốn xây dựng, điều chỉnh, hoặc sửa đổi chính sách mới cũng phải
tất yếu phân tích, đánh giá CSC đang thực hiện.
Cho dù có thể tồn tại nhiều cách phân loại chu trình- các bước, các công
đoạn chính sách khác nhau, nhưng tổ chức thực hiện chính sách – là một mắt khâu
có nội dung và vai trò quan trọng, quyết định đến sự thành bại của một chính sách.

1.1.2. Nội dung và vai trò của công đoạn thực hiện chính sách công
1.1.2.1. Nội dung- các yêu cầu,các nguyên tắc, nhiệm vụ của thực hiện chính
sách công
Ở giai đoạn hiện thực chính sách có vị trí quan trọng,,nên đòi hỏi các cơ
quan nhà nước, các cấp chính quyền địa,phương quan tam chỉ đạo, lãnh đạo sát sao
công tác tổ chức triển khai thực hiện;
Để tổ chức, điều hành có hiệu quả công tác thực hiện CSC, các cấp độ chủ
thể cần phải thực hiện nhiều nội dung quản lý khác nhau, nhưng trước tiên cần tuân
thủ, thực hiện các bước, các công việc cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách công
Vì tổ chức thực hiện CSC là quá trình phức tạp, diễn ra trong một thời gian
dài, nên khi triển khai cần được lập kế hoạch, chương trình để các cơ quan nhà nước
thực hiện chính sách một cách chủ động. Khi đưa chính sách vào cuộc sống thì việc
triển khai,thực hiện CSC cần phải được xây,dựng trước.Các cơ quan,triển khai thực
hiện chính sách căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, đơn vị mình để phải
xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện . Kế hoạch triển khai thực hiện CSC,
bao gồm những nội dung cơ bản sau:
+ Lập kế hoạch, tổ chức điều hành cần đảm bảo những dự kiến về hệ thống

13


các cơ quan chủ trì và các bộ phận phối hợp triển khai thực hiện, những dự kiến về
cơ chế trách nhiệm đối với cán bộ quản lý,số lượng và chất lượng của lực lượng
tham gia, công tác tổ chức thực hiện, cơ chế tác động giữa các cấp trong quá trình
thực hiện chính sách đó;
+ Xác định kế hoạch,cung cấp các nguồn vật lực như: dự kiến về các cơ sở
hạ tầng, trang thiết bị khoa học, thiết bị văn phòng,phục vụ cho công tác thực hiện
chính sách.
+ Xác định thời gian triển khai thực hiện thông qua dự kiến về thời gian duy

trì chính sách; dự kiến các bước tổ chức triển khai thực hiện từ tuyên truyền chính
sách đến tổng kết rút kinh nghiệm. Cần dự kiến thời gian cho mục tiêu cần đạt
được. Tùy vào chính sách, điều kiện thực tế để dự kiến mỗi bước cho phù hợp với
một chương trình cụ thể của chính sách;
+ Lên kế hoạch kiêm tra thực hiện CSC,là những dự kiên về tiến độ, hình
thức; phương pháp,kiểm tra; giám sát,tổ chức thực hiên CSC.
+ Xây dựng dự kiến những nội dung trong thực hiện CSC bao gồm: nội quy,
quy chế về tổ chức, điều hành; về trách nhiệm và nghĩa vụ, quyền hạn của cán bộ,
công chức và các cơ quan nhà nước tham gia tổ chức điều hành CSC; về các biện
pháp khen thưởng, kỷ luật trong tổ chức thực hiện chính sách...
+ Lãnh đạo ở cấp nào thì xem xét thông qua kế hoạch thực hiện ở cấp đó.
Sau khi quyết định thông qua, kế hoạch thực hiện CSC phải mang giá trị thiết thực
để được xã hội chấp hành thực hiện. Việc điều chỉnh kế hoạch thực hiện CSC phải
do cấp có thẩm quyền quyết định.
Thứ hai: Phổ biến tuyên truyền chính sách công
Sau khi thông qua kế hoạch triển khai thực hiện CSC, các cơ quan nhà nước
có liên quan tiến hành triển khai tổ chức thực hiện CSC theo kế hoạch. Việc trước
tiên của quá trình này là tuyên truyền, vận động nhân dân hiểu rõ chính sách và
tham gia thực hiện chính sách. Đây là một hoạt động có ý nghĩa quan trọng, đối với
các cơ quan nhà nước và các đối tượng tham gia thực hiện CSC. Phổ biến, tuyên
truyền CSC mà cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ sẽ giúp cho các đối tượng thực hiện chính

14


sách và người dân tham gia thực hiện hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của CSC; về tính
đúng đắn của chính sách; tính khả thi của chính sách...để họ tự giác thực hiện theo
yêu cầu của QLNN. Đồng thời, còn giúp cho mỗi cán bộ, công chức có nhận thức
đúng với trách nhiệm trong quá trình tổ chức thực hiện CSC; đồng thời, phải nhận
thức được tầm quan trọng, quy mô của chính sách đối với đời sống xã hội, để từ đó

nâng cao khả năng trách nhiệm, sáng tạo của cán bộ công chức trong việc tìm kiếm
các giải pháp để thực hiện đảm bảo mục tiêu mà chính sách đề ra.
Để đạt hiệu quả trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, các cơ quan
chính quyền các cấp cần phải tăng cường đầu tư và trang bị về trình độ chuyên môn
của cán bộ, phẩm chất chính trị, và trang thiết bị kỹ thuật...cho cán bộ thực hiện
chính sách. Trong thực tế, có những chính sách bị biến dạng, làm cho lòng tin của
dân chúng vào nhà nước bị giảm sút là do một số cơ quan, địa phương vì thiếu năng
lực tuyên truyền, vận động dẫn đến gặp nhiều khó khăn trong công tác vận động,
tuyên truyền đến nhân dân.
Tuyên truyền, vận động thực hiện CSC cần được thực hiện thường xuyên,
liên tục, kiên trì và bền bỉ kể cả khi CSC đang được thi hành, để mọi đối tượng luôn
được tuyên truyền giữ vững lòng tin vào chính sách và tích cực thực hiện chính sách
một cách có hiệu quả. Việc phổ biến, tuyên truyền CSC được thực hiện bằng nhiều
phương pháp như: trao đổi với các đối tượng; tiếp nhận và giải thích trực tiếp hoặc
gián tiếp (tùy theo tình hình thực tế); gián tiếp qua các phương tiện thông tin đại
chúng... Tuỳ theo yêu cầu của các cơ quan quản lý, tính chất của từng loại chính
sách và điều kiện cụ thể mà cơ quan quản lý quyết định lựa chọn các hình thức
tuyên truyền, vận động phù hợp.
Thứ ba: Phân công, phối hợp thực hiện chính sách công
Ở bước này, căn cứ theo kế hoạch của chính sách đã được phê duyệt các đơn
vị, cơ quan có liên quan có nhiệm vụ thực hiện công tác phối hợp và chịu trách
nhiệm trên lĩnh vực mình phụ trách. Số lượng tổ chức và cá nhân tham gia thực hiện
chính sách là rất lớn vì phạm vi triển khai thực hiện hiện của CSC rất rộng lớn, tối
thiểu củng ảnh hưởng đến một địa phương tương đương như một cấp quận. Số

15


lượng tham gia bao gồm các đối tượng tác động của chính sách, nhân dân thực hiện
và bộ máy tổ chức thực hiện của nhà nước. Không những vậy, các hoạt động triển

khai thực hiện các mục tiêu của CSC diễn ra cũng hết sức đa dạng và phức tạp theo
không gian và thời gian, chúng xen lẫn nhau, thúc đẩy hoặc kìm hãm nhau theo quy
luật...Bởi vậy, muốn tổ chức thực hiện CSC đạt hiệu quả cần phải tiến hành phan
công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý, các ngành, các cấp chính quyền địa
phương, các yếu tố tham gia thực hiện CSC và các quy trình ảnh hưởng đến việc
thực hiện các mục tiêu CSC. Trong thực tế, cơ quan chủ trì hoặc cơ quan, đơn vị
phối hợp thường được phân công thực hiện một chính cụ thể nào đó. Chính sách có
thể tác động đến lợi ích của một bộ phận dân cư, nhưng kết quả tác động lại liên
quan đến nhiều yếu tố, quá trình thuộc các bộ phận khác nhau, nên cần phải phối
hợp chúng lại để đạt yêu cầu quản lý.
Hoạt động phân công, phổi hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện CSC một
cách sáng tạo, chủ động để luôn được duy trì chính sách được ổn định, góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả CSC.
Thứ tư: Duy trì chính sách công
Đây là giai đoạn nhằm bảo đảm cho CSC được tồn tại được và phát huy tác
dụng trong thực tế.Muốn vậy phải có sự thống nhất, tổng hợp mọi nguồn lực. Đối
với các chủ thể tổ chức thực hiện CSC phải thường xuyên quan tâm vận động, tuyên
truyền, các đối tượng thuộc phạm vi ảnh hưởng của chính sách và toàn xã hội tích
cực, hưởng ứng, tham gia thực hiện chính sách.
Nếu việc thực hiện CSC gặp phải những vướn mắc do môi trường bên ngoài,
thì các chủ thể quản lý của nhà nước muốn tạo lập môi trường thuận lợi cho việc
thực hiện CSC thì phải sử dụng các hệ thông công cụ quản lý để tác động đến đối
tượng. Đồng thời các chủ thể quản lý của nhà nước phải chủ động điều chỉnh chính
sách cho phù hợp tình hình thực tế. Trong một chừng mực nào đó, vì lợi ích chung
của xã hội, các chủ thể quản lý của nhà nước có thể xây dựng và đề xuất sử dụng
biện pháp hành chính đủ răn đe để chính sách tiếp tục được duy trì có hiệu quả.
Những hoạt động trên sẽ góp phần tích cực vào hiệu quả của việc duy trì

16



CSC đối với đời sống xã hội.
Thứ năm: Điều chỉnh chính sách công
Điều chỉnh CSC được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nhằm làm cho chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu và tình hình kinh tế trong
công tác thực hiện chính sách.
Theo quy định, để điều chỉnh, bổ sung một chính sách nào thì phải do cơ
quan ban hành chính sách đó thực hiện điều chỉnh, bổ sung. Nhưng trên thực tế,
việc điều chỉnh các biện pháp, cơ chế của chính sách diễn ra rất linh động và linh
hoạt; vì thế, các cơ quan nhà nước, các ngành có liên quan, thường chủ động điều
chỉnh biện pháp, cơ chế của chính sách để thực hiện có chính sách hiệu quả, nhưng
mục tiêu CSC không được thay đổi.
Một sổ nguyên tắc cần phải tuân thủ khi điều chỉnh CSC là: chỉ được điều
chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu, hoặc bổ sung, hoàn chỉnh mục tiêu
từ tình hình thực tế; không cho phép điều chỉnh dẫn đến thay đổi mục tiêu, nếu để
dẫn đến làm thay đổi mục tiêu, thì coi như chính sách đó bị thất bại.
Thứ sáu: Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách công
Các cơ quan, cán bộ, công chức có trách nhiệm đôn đốc thực hiện CSC thông
qua các công cụ hữu ích để cho các chủ thể tham gia vào CSC nêu cao ý thức trách
nhiệm trong việc thực hiện theo định hướng của chính sách. Trong thực tế, để thúc
đẩy các chủ thể liên quan đến chính sách nỗ lực tham gia và thực hiện để hoàn
thành nhiệm vụ thì chủ thể ban hành hoặc đơn vị có trách nhiệm cần có hoạt động
kiểm tra, giám sát và đôn đốc việc thực hiện CSC đồng thời nhằm phòng, chống
những hành vi vi phạm quy định trong thực quá trình thực hiện CSC.
Thứ bảy: Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm
Đánh giá, tổng kết trong bước tổ chức thực hiện CSC được hiểu là quá trình
xem xét, tổng hợp để đánh giá, kết luận và chỉ đạo, điều hành và chấp hành chính
sách của các đối tượng thực hiện chính sách công.
Các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở là đối tượng được xem xét,
đánh giá tổng kết về chỉ đạo điều hành thực hiện CSC. Ngoài ra, còn phân tích,


17


đánh giá về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội
và của toàn xã hội trong việc tham gia thực hiện CSC. Cơ sở để đánh giá tổng kết
công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện CSC trong các cơ quan nhà nước là kế hoạch
được giao và những nội quy, quy chế. Đồng thời kết hợp sử dụng các văn bản liên
tịch giữa cơ quan nhà nuớc với các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và các văn
bản quy phạm khác để xem xét tình hình, phối hợp chỉ đạo, điều hành thực hiện
CSC của các tổ chức đó.
Trên cơ sở tổng kết, đánh giá kết quả chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà
nước, chúng ta cần xem xét, đánh giá việc thực hiện CSC của các đối tượng tham
gia thực hiện CSC bao gồm các đối tượng thụ hưởng lợi ích trực tiếp và lợi ích gián
tiếp từ chính sách. Tiêu chuẩn đánh giá kết quả thực hiện của các đối tượng này là:
tinh thần hưởng ứng với mục tiêu của CSC, ý thức chấp hành những quy định về cơ
chế, biện pháp do chủ thể các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thực
hiện mục tiêu CSC trong từng điều kiện.
Thực thi CSC là quá trình đưa CSC vào thực tiễn đời sống xã hội, nhằm đạt
được các mục tiêu của CSC, gồm một chuỗi các bước liên quan với nhau, có nhiều
chủ thể tham gia, đòi hỏi những nguồn lực nhất định, bị chi phối bởi nhiều yếu tố.
Thực thi CSC được xem là thành công hay hiệu lực khi nó đạt được mục tiêu của
CSC một cách đầy đủ. Tuy nhiên, để thực thi CSC thành công đòi hỏi phải thõa
mãn rất nhiều điều kiện và các điều kiện này có thể nhóm thành ba nhóm:
(1) Các điều kiện liên quan đến bản thân chính sách công
Một CSC được coi là tạo thuận lợi cho việc thực thi nó thành công khi nó
thỏa mãn được điều kiện sau:
- Mục tiêu CSC được xác định rõ ràng, chính xác và nhất quán.
- Thiết kế CSC ban đầu phải tính đến tất cả các tác động chủ định và không
chủ định.

- Xác định rõ các nhân tố chính yếu và xác định rõ mối quan hệ nhân quả tác
động lẫn nhau để ảnh hưởng đến mục tiêu CSC.
- Các mục tiêu CSC không bị triệt tiêu bởi các mục đích, định hướng của

18


CSC khác.
Tuy nhiên, trên thực tế, một chính sách công cơ sở được ban hành thỏa mãn
tất cả các điều kiện trên là khó đạt được, bởi để một chính sách công dễ dàng được
thông qua thì mục tiêu và giải pháp chính sách công cần chung chung, mơ hồ và
trừu tượng thay vì cụ thể. Bên cạnh đó, các chính sách công cơ sở do các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền chính trị cao nhất ban hành, do đó khó có thể xác định mục
tiêu và giải pháp cụ thể mà có thể áp dụng cho mọi địa phương. Ngoài ra, các chính
sách công được ban hành để giải quyết những vấn đề thực tiễn, trong khi đó những
vấn đề này gắn liền với những nhóm dân số ở những vùng, miền và nơi cư trú khác
nhau; do đó, nếu mục tiêu và giải pháp chính sách công được xác định chi tiết và cụ
thể ngay từ ở cấp cao nhất thì có thể sẽ không phù hợp với vấn đề và các đối tượng
mà nó hướng tới.
Do vậy, thực thi chính sách công không đơn giản là tổ chức thực hiện các
giải pháp chính sách công cụ thể, mà là sự tiếp nối những gì còn thiếu trong giai
đoạn hoạch định chính sách công.
(2) Các điều kiện liên quan đến chủ thể thực thi và nguồn lực
Một chính sách công chỉ có thể có hiệu lực trong thực tế khi quá trình thực
hiện chính sách công thỏa mãn được tất cả những tiêu chí sau:
- Chính sách công được thực hiện dựa trên cơ sở lý thuyết đúng về nhân quả,
phương tiện và mục đích, các mối quan hệ trực tiếp này.
- Có một cơ quan thực thi CSC, và không phụ thuộc vào các cơ quan khác,
hoạc nếu có sự tham gia của các cơ quan khác trong thực hiện CSC thì các mối
quan hệ phụ thuộc là tối thiểu về số lượng và mức độ trong thực hiện CSC.

- Cơ quan chuyên trách thực thi phải diễn giải được mục tiêu chính sách
công thành những kế hoạch và công việc cụ thể.
- Cần xác định rõ nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan thực thi chính sách
công một các chi tiết và theo một trình tự logic.
- Việc thực thi CSC phải được ấn định và phân công trách nhiệm cụ thể từ đó có
thể theo dõi, nắm rõ được tình hình, các hành động liên quan đến việc thực thi CSC.

19


- Quá trình thực thi chính sách công được cấu trúc để đảm bảo đạt được kết
quả cao từ các chủ thể thực thi.
- Tính đến lợi ích và động lực của những người tham gia thực thi chính sách
công.
- Các nhà lãnh đạo cơ quan thực thi có đủ những kỹ năng chính trị, quản lý
và sự cam kết của họ với các mục tiêu ấn định.
- Cơ quan thực thi chính sách công tuân thủ đầy đủ hướng dẫn của chính
sách công.
- Thông tin và liên lạc giữa các chủ thể thực thi được cung cấp đầy đủ và
hiệu quả.
- Chủ thể phải xây dựng được cơ chế phối hợp, cơ chế đó phải phát huy hiệu
quả giữa các chủ thể trong quá trình thực thi CSC.
- Phải dự trù, đề xuất đủ mọi nguồn lực cần thiết và phải dự trù đảm bảo thời
gian không nên nóng vội mà dự trù thời gian gấp rút, quá ngắn để đạt được một
trong những mục tiêu nào của chính sách.
- Quản lý việc thực hiện phải thống nhất (định hướng mục tiêu).
(3) Các điều kiện liên quan đến bối cảnh thực thi
Quá trình thực hiện chính sách công diễn ra trong những điều kiện liên quan
đến bối cảnh thực thi nhất định và yêu cầu đối với những điều kiện này là:
- Môi trường chính trị, kinh tế, xã hội và quốc tế ổn định trong suốt quá trình

thực hiện chính sách công.
- Cam kết chính trị và sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đây là
nhân tố quyết định sự thành, bại của mọi CSC ở Việt Nam.
- Sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân và các nhà lập pháp trong suốt quá trình
thực hiện chính sách công.
- Sự tham gia nhiệt tình của các bên liên quan.
- Giải quyết các mâu thuẫn chính trị giữa các bên liên quan đến chính sách
công.
1.1.2.2. Vai trò của công đoạn thực hiện chính sách công
Thực hiện CSC là một giai đoạn rất quan trọng trong chu trình của CSC, bởi

20


×