Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG và một số yếu tố LIÊN QUAN TRÊN BỆNH NHÂN HIVAIDS tại PHÒNG KHÁM NGOẠI TRÚ BỆNH VIỆN BẠCH MAI năm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.05 KB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

ĐẶNG ĐỨC NGỌC

TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
TRÊN BỆNH NHÂN HIV/AIDS TẠI PHÒNG KHÁM NGOẠI TRÚ
BỆNH VIỆN BẠCH MAI NĂM 2019

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ DINH DƯỠNG

Hà Nội – 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

ĐẶNG ĐỨC NGỌC
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
TRÊN BỆNH NHÂN HIV/AIDS TẠI PHÒNG KHÁM NGOẠI TRÚ
BỆNH VIỆN BẠCH MAI NĂM 2019

Chuyên ngành : Dinh dưỡng
Mã số


: 8720401

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ DINH DƯỠNG
Người hướng dẫn khoa học:
TS.BS. Chu Thị Tuyết

Hà Nội – Năm 2019


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AIDS

: Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải
(Acquired Immuno Deficiency Syndrome)

ARV

: Thuốc điều trị kháng vi-rút
(Antiretrovial Virus)

ART

: Liệu pháp điều trị kháng vi-rút
(Antiretrovial Therapy)

HIV

: Vi-rút gây suy giảm miễn dịch ở người
(Human Immuno-deficiency Virus)


OPC

: Phòng khám ngoại trú
(Out Patient clinic)

BMI

: Body Mass Index (Chỉ số khối cơ thể)

CED

: Chronic Ennergy Deficiency (Thiếu năng lượng trường diễn)

NCKN

: Nhu cầu khuyến nghị

REE

: Resting Energy Expenditure
(Tiêu hao năng lượng lúc nghỉ ngơi)

SGA

: Subjective Global Assessment (Đánh giá tổng thể chủ quan)

TTDD

: Tình trạng dinh dưỡng


WHO

: World Health Organization (Tổ chức Y tế thế giới)

USAID

: Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ
(United States Agency for International Development)

SD

: Độ lệch chuẩn
(Standard deviation)

TB

: Trung bình


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ..................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN...............................................................................3
1.1. Tổng quan về HIV/AIDS..........................................................................3
1.1.1. Dịch tễ học HIV/AIDS.....................................................................3
1.1.2. Sinh lý bệnh của người nhiễm HIV..................................................7
1.1.3. Chẩn đoán và điều trị nhiễm HIV.....................................................8
1.2. Mối liên quan giữa dinh dưỡng và HIV...................................................11
1.3. Các phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng....................................15
1.3.1. Phương pháp nhân trắc học............................................................15
1.3.2. Các chỉ số hoá sinh.........................................................................16

1.3.3. Phương pháp đánh giá chủ quan toàn diện.....................................20
1.3.4. Phương pháp điều tra khẩu phần, tập quán ăn uống.......................20
1.4. Các yếu tố khác có liên quan đến tình trạng dinh dưỡng và sức khoẻ........21
1.4.1. Điều kiện kinh tế............................................................................21
1.4.2. Bệnh nhiễm trùng cơ hội................................................................21
1.4.3. Kiến thức về dinh dưỡng................................................................22
1.5. Dinh dưỡng cho bệnh nhân HIV/AIDS...................................................22
1.5.1. Nhu cầu năng lượng.......................................................................22
1.5.2. Khuyến nghị về Protein..................................................................23
1.5.3. Khuyến nghị về lipid......................................................................23
1.5.4. Khuyến nghị về Glucid...................................................................24
1.5.5. Khuyến nghị về vitamin và khoáng chất........................................24
1.6. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước..............................................25


1.6.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới.................................................25
1.6.2. Tình hình nghiên cứu trong nước...................................................26
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..............28
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu............................................................28
2.2. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................28
2.2.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân............................................................28
2.2.2. Tiêu chuẩn loại trừ:.........................................................................28
2.3. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................28
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu........................................................................28
2.3.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu..............................................................28
2.3.3. Các biến số nghiên cứu...................................................................29
2.4. Phương pháp, công cụ thu thập và các chỉ tiêu đánh giá...........................31
2.4.1. Phương pháp, kỹ thuật và công cụ thu thập số liệu:.......................31
2.4.2. Đánh giá..........................................................................................32
2.5. Xử lý, phân tích số liệu...........................................................................34

2.6. Các loại sai số và cách khắc phục............................................................35
2.6.1. Các loại sai số.................................................................................35
2.6.2. Khắc phục.......................................................................................35
2.7. Đạo đức trong nghiên cứu.......................................................................35
Chương 3: DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU......................................37
3.1. Đặc điểm chung và một số yếu tố liên quan của đối tượng nghiên cứu:....37
3.1.1. Đặc điểm chung:.............................................................................37
3.1.2. Các biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng của đối tượng nghiên cứu....38
3.2. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người nhiễm HIV/AIDS...................40
3.2.1.Tình trạng dinh dưỡng chung của đối tượng nghiên cứu................40


3.2.2. Phân loại TTDD theo BMI.............................................................40
3.2.3. phân loại nguy cơ SDD theo SGA..................................................42
3.3. Tình trạng dinh dưỡng theo một số chỉ số hoá sinh..................................43
3.4. Khẩu phần thực tế của các đối tượng nghiên cứu:....................................44
3.4.1. Khẩu phần thực tế chung của các đối tượng...................................44
3.5. Các mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng và các yếu tố khác.............45
3.5.1. Mối liên quan giữa khẩu phần và tình trạng dinh dưỡng...............45
Chương 4: DỰ KIẾN BÀN LUẬN...............................................................48
DỰ KIẾN KẾT LUẬN..................................................................................49
DỰ KIẾN KHUYẾN NGHỊ.........................................................................49
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1.

So sánh các chỉ số hóa sinh trong đánh giá dinh dưỡng.............19


Bảng 2.1.

Chỉ số BMI theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới năm 2008 32

Bảng 2.2.

Phân loại nguy cơ suy dinh dưỡng theo chỉ số SGA..................32

Bảng 2.3.

Ngưỡng đánh giá một số chỉ số cận lâm sàng.............................33

Bảng 3.1.

Đặc điểm chung của các đối tượng nghiên cứu..........................37

Bảng 3.2.

Kết quả xét nghiệm tế bào T-CD4 ở đối tượng nghiên cứu........38

Bảng 3.3.

Phân bố các bệnh cơ hội nói chung trên đối tượng nghiên cứu:. 39

Bảng 3.4.

Phân bố giai đoạn bệnh của đối tượng nghiên cứu.....................39

Bảng 3.5.


Đặc điểm nhân trắc và hoá sinh của ĐTNC................................40

Bảng 3.6.

Phân loại tình trạng dinh dưỡng theo nhóm tuổi bằng chỉ số BMI. 41

Bảng 3.7.

Phân loại TTDD theo giới tính bằng chỉ số BMI........................41

Bảng 3.8.

Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân theo nhóm tuổi bằng SGA.. 42

Bảng 3.9.

TTDD của bệnh nhân theo giới bằng SGA.................................42

Bảng 3.10. Tình trạng dinh dưỡng theo giới với một số chỉ số hoá sinh máu....43
Bảng 3.11. TTDD theo tuổi với một số chỉ số hoá sinh................................43
Bảng 3.12 Giá trị dinh dưỡng khẩu phần của đối tượng nghiên cứu............44
Bảng 3.13. Tính cân đối khẩu của các đối tượng nghiên cứu so với nhu cầu
khuyến nghị dành cho bệnh nhân HIV........................................45
Bảng 3.14. Mối liên quan giữa đáp ứng khẩu phần khuyến nghị và tình trạng
dinh dưỡng (có CED hay không) của đối tượng nghiên cứu......45
Bảng 3.15. Mối liên quan giữa đáp ứng khẩu phần khuyến nghị và các giai
đoạn lâm sàng..............................................................................46
Bảng 3.16. Mối liên quan giữa đáp ứng khẩu phần khuyến nghị và nhiễm
trùng cơ hội.................................................................................46

Bảng 3.17.

Mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng (BMI) và số lượng tế
bào T-CD4...................................................................................47


DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1.

Vòng xoắn bệnh lý giữa HIV và dinh dưỡng kém......................13

Hình 1.2.

Mối liên quan giữa dinh dưỡng tốt và HIV................................14

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1.

Phân loại TTDD theo BMI..................................................40

Biểu đồ 3.2:

Tình trạng dinh dưỡng theo phân loại SGA........................42


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đại dịch HIV không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của từng cá
nhân mà còn ảnh hưởng đến kinh tế, văn hóa, xã hội, nòi giống của mỗi quốc

gia cũng như của cả loài người [1]. Bất chấp những nỗ lực của toàn thế giới,
dịch HIV/AIDS vẫn không ngừng gia tăng. Theo ước tính tổng số người sống
với HIV trên toàn cầu năm 2012 đã tăng lên 35,3 triệu người [2].
Theo báo cáo công tác phòng, chống HIV/AIDS năm 2017 và nhiệm vụ
trọng tâm năm 2018 của Bộ Y Tế , năm 2017 Việt Nam có khoảng 208.371
người nhiễm HIV và tổng số người tử vong do HIV từ đầu dịch đến nay được
báo cáo là 91.840 trường hợp [3].
Đánh giá, tư vấn và hỗ trợ dinh dưỡng là một phần không thể thiếu được
trong việc chăm sóc toàn diện cho người nhiễm HIV/AIDS. Nhiễm HIV là
nguyên nhân làm trầm trọng thêm tình trạng suy dinh dưỡng vì nó làm tăng
nhu cầu năng lượng của cơ thể, trong khi đó thì các triệu chứng có liên quan
đến HIV và điều trị thuốc kháng virus (ART) cũng góp phần làm giảm sự
thèm ăn cũng như làm giảm khả năng hấp thu và sử dụng các chất dinh dưỡng
của cơ thể. Suy dinh dưỡng kết hợp với hệ thống miễn dịch suy yếu làm cho
người nhiễm HIV dễ mắc các nhiễm trùng cơ hội, đáp ứng kém với điều trị.
Do đó một chế độ dinh dưỡng cân bằng, đầy đủ hoặc điều trị suy dinh dưỡng
với các liệu pháp dinh dưỡng phù hợp là yếu tố quan trọng để phục hồi cân
nặng đã mất, tăng cường hệ thống miễn dịch của cơ thể, cũng như kiểm soát
tốt các triệu chứng liên quan đến HIV, nâng cao hiệu quả điều trị và cuối cùng
kéo dài thời gian chuyển từ giai đoạn nhiễm HIV sang AIDS [4].


2

Sớm nhận ra tầm quan trọng của dinh dưỡng đối với người nhiễm HIV, năm
2005 tổ chức Y tế thế giới đã đưa ra bằng chứng về sự cần thiết của dinh dưỡng bao
gồm cả chất đa lượng và vi lượng đối với người nhiễm HIV/AIDS [5], [6].
Tại Việt Nam, các chương trình hỗ trợ dinh dưỡng cho người nhiễm HIV vẫn
còn hạn chế và thường không được cung cấp cho bệnh nhân tại phòng khám ngoại
trú (PKNT) mặc dù tỷ lệ suy dinh dưỡng vẫn còn cao [7], [8], [9]. Nghiên cứu

nhằm cung cấp các bằng chứng về tình trạng dinh dưỡng, các yếu tố liên quan để
có những giải pháp hữu hiệu giúp cải thiện tình trạng dinh dưỡng của người có
HIV, cung cấp sự chăm sóc toàn diện đặc biệt dinh dưỡng cho người nhiễm
HIV/AIDS và giúp họ có được hệ miễn dịch tốt hơn, khả năng sống lâu hơn. Phòng
khám ngoại trú (OPC) ở bệnh viện Bạch Mai là một trong những OPC có lượng
bệnh nhân đến khám đông nhất, hàng tháng tiếp nhận hàng nghìn bệnh nhân đến
khám và điều trị, đối tượng khách hàng có đủ các thành phần trong xã hội. Đề tài:
“Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan trên bệnh nhân
HIV/AIDS tại phòng khám ngoại trú bệnh viện Bạch Mai năm 2019”
được tiến hành nhằm hai mục tiêu sau:
1. Mô tả tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân HIV/AIDS điều trị tại
phòng khám ngoại trú bệnh viện Bạch Mai năm 2019.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của bệnh
nhân HIV/AIDS điều trị tại phòng khám ngoại trú bệnh viện Bạch Mai
năm 2019.


3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về HIV/AIDS
1.1.1. Dịch tễ học HIV/AIDS
1.1.1.1. Lịch sử phát hiện HIV
Tháng 6/1981 Bác sỹ Michael Gottlieb đã mô tả 5 ca bệnh là những nam
thanh niên đồng tính luyến ái bị viêm phổi nặng do Pneumocystis carinii ở
Los Angeles (Mỹ) [10].
Trước đó, 3/1981 nhiều trường hợp ung thư da Sarcoma Kaposi là một
bệnh vốn lành tính mà gây tử vong, đã được báo cáo ở New York.
Điều đặc biệt là những bệnh nhân này đều thấy suy giảm miễn dịch trầm

trọng cả về số lượng và chức năng của tế bào miễn dịch mặc dù trước đó họ
hoàn toàn khỏe mạnh với hệ thống miễn dịch phát triển bình thường.
Những năm sau đó người ta thấy căn bệnh tương tự ở những người mắc
bệnh ưa chảy máu được truyền máu nhiều lần (Hemophylie, Hemogenie), ở
những người nghiện chích ma túy, những người dân Haiti có quan hệ tình dục
khác giới và những đúa con sinh ra từ những người mẹ trong nhóm bị bệnh.
Các bệnh án này chứng minh giả thuyết căn nguyên gây bệnh là do một loại
virus (tương tự như virus viêm gan) lan truyền qua đường máu, đường sinh
dục và từ mẹ sang thai nhi.
Tháng 5/1983 Lucmotagnier và cộng sự ở Viện Paster Paris đã phân lập
được virus gây bệnh khi sinh thiết hạch ở một bệnh nhân bị viêm hạch toàn
thân và đặt tên là LAV (Lymphadenophathy Associated Virus) thuộc họ
Retrovirus.


4

Tháng 5/1984 Robert Gallo và cộng sự cũng phân lập được virus tương
tự ở tế bào lympho T ở người bệnh được gọi tên là HTLV III (Human T
Lymphocytotropic Virus type III). Cũng trong năm đó J Levy phân lập được
virus có liên quan đến AIDS và đặt tên là ARV (AIDS Related Virus).
Năm 1986 Hội nghị định danh quốc tế họp ở Geneve thống nhất tên gọi
cho Virus này là HIV-1 (Human Immunodeficiency Virus nhóm 1) [11], [12].
Cũng năm 1986, Montagnier và cộng sự lại phân lập được HIV-2 ở Tây
Phi có cùng phương thức lây truyền, nhưng thời gian ủ bệnh dài hơn HIV-1 và
chủ yếu gặp ở tây Phi.
Tháng 3/1985 người ta bắt đầu sử dụng các bộ sinh phẩm để phát hiện
kháng thể kháng HIV bằng kỹ thuật gắn men ELISA.
Như vậy, HIV tuy phân lập được từ năm 1983 nhưng khi thử lại với HIV1, HIV-2 trên huyết thanh của những bệnh nhân ở Zaire được cất giữ từ năm
1959 và trên bệnh phẩm của một bệnh nhân Zaire cất giữ từ năm 1976 người

ta thấy dương tính với HIV-1. Điều này chứng tỏ HIV có thể đã xuất hiện từ
thập kỷ 60-70 của thế kỷ trước, nhưng phải đến những năm của thập kỷ 80
mới bùng nổ thành đại dịch [1], [13].
1.1.1.2. Tình hình nhiễm HIV/AIDS trên thế giới
Nhiễm HIV ở người được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xem như đại
dịch. Việc chủ quan với HIV càng tăng nguy cơ lây bệnh. Cho dù những năm
gần đây chúng ta đã đạt được nhiều tiến bộ trong công tác phòng chống
AIDS, bao gồm cả việc tiếp cận điều trị ART và chăm sóc người nhiễm
HIV/AIDS ở nhiều khu vực trên thế giới, nhưng trong năm 2009 đại dịch
AIDS vẫn lấy đi 1,8 triệu sinh mạng, trong đó có khoảng 260.000 trẻ em [14].
Dù trong hai năm qua số ca tử vong có liên quan đến AIDS đã giảm từ 2,2


5

triệu xuống còn 2 triệu ca trong năm 2007 (dao động từ 1,9 triệu - 2,6 triệu
xuống còn 1,8 triệu - 2,3 triệu).Tuy nhiên, AIDS vẫn tiếp tục là nguyên nhân
tử vong hàng đầu ở châu Phi nơi chiếm tới 67% trong tổng số ngýời sống với
HIV trên toàn cầu. Ở châu Phi, 60% người sống với HIV là phụ nữ và cứ 4
thanh niên sống với HIV trẻ tuổi thì có 3 người là phụ nữ.
Nhìn chung đến năm 2009, dịch HIV đã bị hạn chế ở mức ổn định tại
nhiều khu vực trên thế giới, tuy nhiên tỷ lệ hiện nhiễm HIV vẫn tiếp tục gia
tăng ở một số khu vực khác như Đông Âu, Trung Á và một số vùng của châu
Á do tỷ lệ mới nhiễm HIV còn ở mức cao. Ở khu vực châu Á – Thái Bình
Dương, đại dịch HIV/AIDS vẫn tiếp tục gia tăng. Theo dự báo, số trường hợp
nhiễm HIV/AIDS ở châu Á có thể lên đến 10 triệu người vào năm 2010, và
mỗi năm sẽ có thêm khoảng 500.000 trường hợp mới nhiễm HIV nếu các
quốc gia không tăng cường các hoạt động nhằm ngăn chạn sự lây lan của loại
vi rút này. Khu vực cận Sahara của châu Phi vẫn là nơi chịu ảnh hưởng nặng
nề nhất bởi dịch HIV/AIDS. Gần 71% tổng số trường hợp mới nhiễm HIV

trong năm 2009 là dân của các nước trong khu vực này (với khoảng 1,9 triệu
người mới nhiễm), tiếp theo, vị trí số 2 vẫn là khu vực Nam và Đông Nam Á,
với 260.000 người mới nhiễm HIV trong năm vừa qua, cao hơn 110.000
người so với khu vực. Tiếp theo là Mỹ La Tinh, mới có 170.000 người mới
nhiễm HIV trong năm 2008 [15].
1.1.1.3. Tình hình nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam
Tại Việt Nam, ca nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện tại thành phố Hồ
Chí Minh vào tháng 12 năm 1990. Đến năm 1993 dịch bùng nổ ở nhóm
nghiện chích ma túy tại thành phố Hồ Chí Minh với số người phát hiện là
11.480 người. Từ đó đến nay, con số người mới nhiễm và số người chết do
AIDS không ngừng tăng lên .


6

Theo báo cáo của cục phòng chống AIDS Việt Nam; Trong quý 3 năm
2017, cả nước có 208.371 người nhiễm HIV/AIDS đang còn sống được báo
cáo, trong đó có 90.493 bệnh nhân AIDS và tổng số người nhiễm HIV tử
vong từ đầu dịch đến nay được báo cáo là 91.840 người. Cho đến nay, đã có
trên 74% số xã, phường và 97,8% số quận/huyện trong toàn quốc đã có báo
cáo về người nhiễm HIV/AIDS.
Tính riêng trong 9 tháng đầu năm 2017, toàn quốc đã phát hiện mới
6.883 người nhiễm HIV, 3.484 bệnh nhân chuyển sang giai đoạn AIDS và
1.260 người tử vong do AIDS. Phân tích hình thái nguy cơ lây nhiễm cho
thấy, trong số những người mới được phát hiện nhiễm HIV trong 9 tháng đầu
năm có 32% bị nhiễm qua đường máu, 58% qua đường tình dục, 2,6% qua
đường mẹ - con và 8% không rõ đường lây. Tỷ lệ người nhiễm HIV là nam
chiếm 78% và nữ chiếm 22%. Phần lớn người nhiễm HIV được phát hiện
trong 9 tháng qua ở nhóm tuổi 20-29 (chiếm 82%) [16]. Số người mới được
phát hiện nhiễm HIV giảm 1,1%, số mới chuyển thành AIDS (bệnh nhân

AIDS mới) giảm 39%, số trường hợp mới tử vong do AIDS giảm 15% so với
cùng kỳ năm năm 2016. Tuy nhiên số liệu báo cáo đến tháng 9/2017 chưa
phản ánh hết tình hình nhiễm HIV/AIDS trên phạm vi toàn quốc do một số
địa phương chưa báo cáo về Bộ Y tế.
Dịch lan rộng ở hầu khắp các tỉnh thành phố trên cả nước, tập trung ở
các nhóm đối tượng có nguy cơ cao: nghiện chích ma túy, gái mại dâm, bệnh
nhân lao… Qua điều tra, khoảng 60% người nhiễm HIV ở Việt nam là do tiêm
chích ma túy, số còn lại phát sinh từ gái mại dâm và các đối tượng khác. Hành
vi tình dục không an toàn và sử dụng ma túy theo con đường tiêm chích chính
là yếu tố làm dịch HIV lan tràn ở Việt Nam. Ước tính vào năm 2012 tổng số
người nhiễm HIV tại Việt nam sẽ là khoảng 280.000 [17].


7

1.1.2. Sinh lý bệnh của người nhiễm HIV
Nhiễm HIV gây suy giảm miễn dịch, tiến triển tiềm tàng làm mất sức đề
kháng của cơ thể cuối cùng dẫn tới bệnh lý nhiễm trùng cơ hội hoặc bệnh lý
ung thư (giai đoạn AIDS) và tử vong. HIV có ái tính chủ yếu với tế bào TCD4. Ngoài ra nó còn có thể xâm nhập vào các tế bào lympho B, đại thực bào,
tế bào nguồn, tế bào xơ non và các tế bào hình sao. HIV hủy diệt tế bào T-CD4,
nó làm giảm lượng tế bào T-CD4 qua ba cơ chế chính: đầu tiên vi rút trực tiếp
giết chết các tế bào mà nó nhiễm vào, sau đó làm tăng tỷ lệ chết rụng tế bào ở
những tế bào bị chết bệnh, bước ba là các lympho T độc CD8 giết chết các
lympho bào T-CD4 bị nhiễm bệnh. Khi số lượng T-CD4 giảm xuống mức giới
hạn nào đó, miễn dịch qua trung gian tế bào bị vô hiệu và cơ thể dần dần yếu đi
tạo điều kiện cho các nhiễm trùng cơ hội. Đồng thời việc hủy diệt các tế bào TCD4 gây suy giảm miễn dịch cả miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào. Do đó
gây ra các rối loạn đáp ứng miễn dịch ở bệnh nhân HIV/AIDS [18].
Hậu quả của các rối loạn đáp ứng miễn dịch này là bệnh nhân bị các
nhiễm trùng cơ hội (thường do nấm, vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng sinh sản
trong tế bào) hoặc các loại ung thư đặc biệt ( Sarcoma Kaposi). Hầu hết

những người nhiễm HIV nếu không được điều trị sẽ tiến triển sang giai đoạn
AIDS. Người bệnh thường chết do bệnh nhiễm trùng cơ hội hoặc bệnh ác tính
liên quan đến sự suy giảm hệ thống miễn dịch [19], [20]. HIV tiến triển sang
AIDS theo một tỷ lệ biến thiên phụ thuộc sự tác động của vi rút, bản thân cơ
thể người bệnh (tình trạng sức khỏe, dinh dưỡng cũng như bệnh tật kèm
theo..) và yếu tố môi trường; Hầu hết chuyển sang AIDS sau 10 năm: một số
sớm hơn còn một số lâu hơn [21], [22], [23].


8

Do vậy, tình trạng dinh dưỡng không phù hợp càng khiến cho sức khỏe
họ giảm sút, hệ miễn dịch càng suy yếu và họ dễ bị tử vong vì nhiễm trùng cơ
hội nhiều hơn là do bệnh AIDS [24], [25], [26], [27].
1.1.3. Chẩn đoán và điều trị nhiễm HIV [28], [18]
1.1.3.1. Chẩn đoán nhiễm HIV/AIDS (lâm sàng và cận lâm sàng)
Lâm sàng: Khác với các nhiễm trùng khác, mầm bệnh chỉ tồn tại một
thời gian ngắn trong cơ thể, HIV một khi đã tích hợp vào bộ gen của tế bào
chủ nó sẽ tồn tại cùng với vật chủ cả đời. Thậm chí sau khi tử vong, HIV vẫn
tiếp tục sống trong tử thi vài ngày, do vậy, người nhiễm HIV có thể truyền
bệnh cho người khác suốt cả đời mình. Nghiên cứu lịch sử tự nhiên của
bệnh, người ta thấy nhiễm HIV diễn biến qua nhiều giai đoạn từ sơ nhiễm
qua giai đoạn cửa sổ đến giai đoạn nhiễm HIV không có triệu chứng, rồi
xuất hiện bệnh hạch dai dẳng toàn thân và cuối cùng là các biểu hiện cận
AIDS và AIDS. Thời gian từ khi nhiễm HIV đến khi diễn biến thành trung
bình khoảng 5-7 năm. Trong khi đó, người nhiễm HIV mặc dù không có
biểu hiện gì trên lâm sàng vẫn luôn có khả năng lây nhiễm cho người khác.
Đến khi có biểu hiện của AIDS và được phát hiện thì người đó đã gây bệnh
cho nhiều người [29].
Cận lâm sàng: Cách duy nhất để khẳng định một người bị nhiễm HIV

hay không phải dựa vào kết quả xét nghiệm máu.
1.1.3.2. Chẩn đoán cận lâm sàng đếm tế bào CD4
Xét nghiệm máu đếm tế bào T-CD4: Hàng ngày, cơ thể chúng ta bị tấn
công bởi rất nhiều loại mầm bệnh nhưng sở dĩ chúng ta không thường xuyên
bị ốm là do cơ thể có hệ thống miễn dịch chống lại các mầm bệnh này. Hệ
thống miễn dịch của cơ thể có nhiều yếu tố, trong đó tế bào bạch cầu lympho


9

T-CD4 đóng vai trò chỉ huy, huy động các yếu tố miễn dịch chống lại tác nhân
gây bệnh mỗi khi chúng xâm nhập vào cơ thể . Khi virut HIV vào cơ thể,
chúng chủ yếu xâm nhập vào tế bào T-CD4, nhân lên trong đó và dần dần phá
vỡ các tế bào này. Khi số tế bào T-CD4 bị phá huỷ càng nhiều so với tế bào
mà cơ thể mới sản sinh ra thì khả năng huy động hệ thống miễn dịch của cơ
thể để chống lại mầm bệnh càng yếu và cơ thể càng dễ mắc bệnh. Quá trình
này diễn ra từ từ trong vòng nhiều năm [18], [11].
1.1.3.3. Chẩn đoán nhiễm trùng cơ hội [18], [11].
Nhiều loại mầm bệnh hiếm khi gây bệnh ở những người có hệ thống
miễn dịch bình thường nay nhân cơ hội hệ thống miễn dịch bị suy yếu để gây
bệnh. Những bệnh nhân này được gọi là nhiễm trùng cơ hội. Ở một số người,
một số loại nhiễm trùng như zona và lao bắt đầu xuất hiện khi lượng T-CD4
còn dưới 350 tế bào trong 1ml máu. Nhưng nhiễm trùng cơ hội đặc biệt bùng
phát khi T-CD4 còn dưới 200. Các nhiễm trùng thường gặp trong giai đoạn
này bao gồm nấm miệng, nấm thực quản, viêm phổi do Pneumocystic carinii
(gọi tắt là viêm phổi PCP), bạch sản dạng lông ở lưỡi… khi CD4 giảm thấp
hơn nữa, khoảng dưới 50, cơ thể dễ bị tấn công bởi các bệnh nguy hiểm dễ
gây tử vong hơn như viêm màng não, viêm võng mạc…
Tuy nhiên, một số người vẫn khoẻ mạnh mạc dù lượng CD4 đã giảm
thấp. Những người này một khi bị các nhiễm trùng cơ hội thì thường rất nặng

và tử vong nhanh do lượng CD4 còn rất ít, khả năng miễn dịch của cơ thể rất
kém. Do vậy, lượng CD4 vẫn được coi là một chỉ báo quan trọng về tình trạng
sức khoẻ của người có HIV.


10

1.1.3.4. Các giai đoạn lâm sàng [30], [18]
- Giai đoạn 1 (không có triệu chứng)
+ Hạch to toàn thân
- Giai đoạn 2 (triệu chứng nhẹ)
+ Sút cân không rõ nguyên nhân (< 10% trọng lượng cơ thể)
+ Viêm hầu họng, mũi
+ Zona, herpes, viêm bã nhờn, nhiễm nấm móng
+ Viêm miệng tái diễn, Phát ban sẩn ngứa
- Giai đoạn 3 (Triệu chứng tiến triển)
+ Sút cân nặng không rõ nguyên nhân (>10% trọng lượng cơ thể)
+ Tiêu chảy, sốt không rõ nguyên nhân
+ Nhiễm nấm Candida miệng tái diễn, lao phổi
+ Nhiễm trùng nặng do vi khuẩn
+ Viêm loét miệng hoại tử cấp, viêm lợi.
+ Thiếu máu (Hb < 80g/l), giảm bạch cầu trung tính hoặc và giảm
tiểu cầu mạn tính.
- Giai đoạn 4 (triệu chứng nặng)
+ Hội chứng suy mòn do HIV (sụt cân > 10%, sốt > 1 tháng hoặc
+
+
+
+


tiêu chảy > 1 tháng không rõ nguyên nhân).
Viêm phổi do Pneumocystis jiroveci (PCP)
Candida thực quản hoặc phế quản, phổi.
Tiêu chảy mạn tính.
Nhiễm trùng huyết tái diễn…

1.1.3.5. Điều trị nhiễm HIV và AIDS
Hiện nay chưa có thuốc điều trị khỏi HIV/AIDS do vậy việc điều trị hiện
nay chủ yếu nhằm:
Hạn chế sự nhân lên của HIV bằng cách dùng các thuốc ức chế men sao
chép ngược và phục hồi miễn dịch. Điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội,
nâng cao thể trạng. Những người nhiễm HIV/AIDS cũng chính là nhóm đối
tượng có nguy cơ cao với tình trạng bệnh tật, đặc biệt là các bệnh nhiễm trùng
và thiếu dinh dưỡng. Để giúp cho cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe
của người nhiễm HIV, bộ Y tế đã có Quyết định số 5418/QĐ-BYT ngày


11

01/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Y tế “Hướng dẫn điều trị và chăm sóc
HIV/AIDS” [30].
1.2. Mối liên quan giữa dinh dưỡng và HIV
Sự liên quan giữa HIV và suy dinh dưỡng đã được nhiều nghiên cứu trên
thế giới chứng minh theo như nghiên cứu ở Malawi năm 2005 ước tính có
14.4% người nhiễm HIV và có khoảng 5% dân số dưới 5 tuổi bị suy dinh
dưỡng nặng trong đó có rất nhiều trẻ em bị nhiễm HIV [31].
Theo nghiên cứu của Green năm 1995 thì tình trạng suy dinh dưỡng ở
người nhiễm HIV/AIDS là khá phổ biến [32]. Những người bị nhiễm HIV có
nguy cơ cao bị sụt cân và trở thành suy dinh dưỡng. Họ có rủi ro dễ mắc
nhiều chứng bệnh và đặc biệt là mắc bệnh lao dẫn đến tử vong. Nhiều nghiên

cứu trên thế giới cho thấy tình trạng suy dinh dưỡng và mất cân nặng thường
do ba nguyên nhân: do ăn vào không đủ nhu cầu năng lượng, nhu cầu về năng
lượng tăng lên do mắc các bệnh nhiễm trùng và giảm hấp thu các chất dinh
dưỡng [33], [34], [35], [36]. HIV có thể gây ra hoặc ảnh hưởng tới tình trạng
SDD và do vậy càng gây tổn hại hơn cho hệ miễn dịch vốn đã bị vi rút HIV
tấn công, tăng khả năng bị nhiễm trùng cơ hội. Các bệnh nhân không ăn uống
tốt sẽ rất khó sử dụng ARV do họ thường bị những tác dụng phụ gây khó chịu
và có rủi ro cao khiến họ rất dễ dẫn tới bỏ thuốc điều trị. Do vậy rõ ràng
nhiễm HIV gây hậu quả xấu tới tình trạng dinh dưỡng. Đặc biệt có nghiên cứu
cho thấy mối liên quan chặt chẽ giữa thiếu hụt vi chất (nhất là kẽm) và tế bào
TCD4. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của kẽm trong việc hỗ trợ miễn
dịch [37]. Tuy nhu cầu vitamin và khoáng chất chỉ chiếm một lượng nhỏ trong
chế độ ăn hàng ngày nhưng chúng là những chất thiết yếu.
Ảnh hưởng của sụt cân và suy dinh dưỡng với người nhiễm HIV:
Nguyên nhân chính khiến người nhiễm HIV bị sụt cân và suy dinh


12

dưỡng là do: nhu cầu năng lượng gia tăng do bị nhiễm trùng, hàm lượng các
chất dinh dưỡng và năng lượng đưa vào không đủ nhu cầu như khuyến cáo và
giảm hấp thu các khoáng chất.
Việc thiếu hụt năng lượng cũng như vi chất đều gây tổn hại đến hệ miễn
dịch và dẫn tới các nhiễm trùng cơ hội. Khi trọng lượng sụt giảm 5% họ đều
có biểu hiện gia tăng tình trạng bệnh tật cũng như tỷ lệ tử vong [38], [39].
Tình trạng suy dinh dưỡng, hội chứng suy kiệt còn khiến cho hàm lượng
khoáng chất bị sụt giảm, do đó gây thay đổi hằng tính nội môi và càng làm
cho người nhiễm HIV dễ bị tử vong hơn. Suy dinh dưỡng và sự hao mòn cũng
làm cho hệ miễn dịch của người nhiễm HIV càng suy yếu hơn, giảm tế bào TCD4 [40], làm cho họ dễ mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội [41], đặc biệt ở
những người mới bắt đầu được điều trị bằng ARV [42], thêm nữa sự phân bố

mỡ trong cơ thể cũng bị biến đổi gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe [34], [35].
Khi suy dinh dưỡng và hội chứng hao mòn được coi như một tình trạng
sức khỏe cần được quan tâm trong chứng bệnh HIV/AIDS, thì các vấn đề
khác liên quan đến dinh dưỡng cần phải theo dõi: như hội chứng chuyển hóa,
hàm lượng cholesterol và lượng glucose máu, cấu trúc xương bị hư tổn cũng
như các bệnh khác cũng đồng thời xuất hiện.
Được thể hiện qua sơ đồ của USAID, WHO: vòng xoắn bệnh lý của suy
dinh dưỡng và HIV [43]. Và tổ chức lương nông thế giới đã đưa ra các lời
khuyên cũng như các tác động của dinh dưỡng kém với người nhiễm
HIV/AIDS.


13

Hình 1.1. Vòng xoắn bệnh lý giữa HIV và dinh dưỡng kém [44]
Vì thế, điều cấp thiết là người nhiễm HIV/AIDS cần phải tuân theo một
chế độ dinh dưỡng giúp tái tạo các tế bào, khối lượng chất béo và cơ bắp đã bị
mất. Mục tiêu ngắn hạn cũng như dài hạn là cung cấp đủ nhu cầu năng lượng
cũng như các vitamin, khoáng chất (đặc biệt các vi chất tăng cường hệ miễn
dịch như kẽm, vitamin A, vitamin C..) cho người nhiễm HIV giúp họ hệ miễn
dịch được tốt hơn nhằm giảm nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội như
lao, tiêu chảy, nấm…
Chiến lược về dinh dưỡng bao gồm cả sự lựa chọn thực phẩm phù hợp,
cũng như là đảm bảo an ninh lương thực và việc sử dụng thuốc men đúng liều
lượng không những làm tăng hiệu quả điều trị mà còn kiểm soát được các
triệu chứng về tiêu hóa [45].
Do vậy việc tuân thủ một chế độ dinh dưỡng hợp lý, cân đối, đầy đủ theo
khuyến nghị là hết sức cần thiết cho người nhiễm HIV [46],[47]. Theo kết quả
nghiên cứu của Swaminathan S và cộng sự tại Ấn Độ, việc cung cấp đủ năng
lượng từ các chất sinh năng lượng cho người nhiễm HIV đã khiến họ tăng

cân, tăng BMI, tăng vòng cánh tay…cũng như việc cung cấp đủ các chất dinh


14

dưỡng khác như vi chất như vitamin A, selen, vitamin E, kẽm, calci, vitamin
D [48], [49] ngoài việc làm giảm tần suất mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội nó
cũng làm giảm nguy cơ tim mạch, loãng xương [36], [50], [14] và nâng cao
chất lượng cuộc sống của họ [39]. Tại Việt Nam, cũng đã có một vài dự án hỗ
trợ các phụ nữ nhiễm HIV bằng cách dạy họ nấu ăn giúp họ tự chăm sóc được
bản thân và gia đình cho đầy đủ, cân đối và phù hợp với thực tế. Kết quả là
sau 10 bài giảng các phụ nữ đều lên trung bình 1,2 kg và còn tiếp tục duy trì
cân nặng (sau 12 tháng), một số người còn tăng cân tiếp [51], [8]. Đồng thời
dự án còn đưa ra các gợi ý về dinh dưỡng giúp người nhiễm HIV tăng cân và
xây dựng thực đơn cho người bệnh [52].

Hình 1.2. mối liên quan giữa dinh dưỡng tốt và HIV[44]
Như vậy, một chế độ dinh dưỡng hợp lý, cân đối và đầy đủ là hết sức cần
thiết cho người nhiễm HIV: giúp họ tăng cân trở lại, duy trì cân nặng, giúp
tăng cường hệ miễn dịch do vậy cải thiện được khả năng chống lại vi rút HIV
và các bệnh nhiễm trùng cơ hội, giảm tần suất mắc các bệnh nhiễm trùng cơ
hội và làm ngắn thời gian mắc các bệnh này lại do vậy cũng làm chậm quá
trình tiến triển sang AIDS. Điều này rất có ý nghĩa với người nhiễm HIV – nó


15

khiến cho tuổi thọ của họ được kéo dài hơn. Và như vậy sẽ cắt đứt được vòng
xoắn bệnh lý do thiếu hụt dinh dưỡng gây ra. Chế độ dinh dưỡng tốt không
chỉ giúp người nhiễm HIV kéo dài tuổi thọ mà còn duy trì một cuộc sống

khỏe mạnh, giảm thiểu sự thay đổi hình thức bên ngoài do các phản ứng phụ
của thuốc đặc trị bệnh, giảm tình trạng gầy mòn, giảm sự tiêu hao khối nạc
của cơ thể cũng như giảm tình trạng suy dinh dưỡng.
1.3. Các phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng [53], [54].
Đánh giá dinh dưỡng là quá trình thu thập và phân tích thông tin số liệu
về tình trạng dinh dưỡng và nhận định tình hình trên cơ sở các thông tin số
liệu đó. Một số phương pháp chính sử dụng đánh giá dinh dưỡng:
- Phương pháp nhân trắc học.
- Phương pháp điều tra khẩu phần và tập quán ăn uống.
- Các thăm khám thực thể, dấu hiệu lâm sàng.
- Các xét nghiệm cận lâm sàng chủ yếu là hóa sinh ở dịch thể và các chất
bài tiết (máu, nước tiểu....) để phát hiện mức bão hòa chất dinh dưỡng.
1.3.1. Phương pháp nhân trắc học
Nhân trắc học dinh dưỡng là đo các biến đổi về kích thước cơ thể và các
mô cấu trúc nên cơ thể theo tuổi và mức độ dinh dưỡng khác nhau [54], [55].
Ở những người trưởng thành dựa vào chỉ tiêu nhân trắc để nhận định tình
trạng dinh dưỡng là khó khăn hơn so với trẻ nhỏ. Nhưng vẫn được sử dụng
đặc biệt trong các trường hợp có mất cân bằng trường diễn giữa năng lượng
ăn vào và nhu cầu cơ thể. Cân nặng và chiều cao riêng rẽ không đánh giá
được tình trạng dinh dưỡng mà phải cần phối hợp giữa cân nặng và chiều cao
và các kích thước khác, Cấu trúc cơ thể và các dự trữ về năng lượng và
protein, thông qua các mô mềm bề mặt: chu vi vòng cánh tay, lớp mỡ dưới da
và cơ...


16

Thuận lợi của phương pháp này là:
- Các bước tiến hành đơn giản, an toàn và có thể dùng ở mọi nơi.
- Các phương tiện, chi phí rẻ.

- Thu được thông tin về TTDD trong một thời gian dài trước đó một cách
tin cậy.
- Có thể dùng để đánh giá thay đổi dinh dưỡng theo thời gian.
- Như một test sàng lọc để phát hiện nguy cơ cao với suy dinh dưỡng.
Chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index, BMI): là chỉ số cơ bản của cân nặng
trên chiều cao, thường được sử dụng để nhận định về tình trạng dinh dưỡng
cho người trưởng thành. BMI là một chỉ số được dùng để ước đoán lượng
mỡ của cơ thể. BMI thường được sử dụng để phân loại thừa cân và béo phì ở
người lớn. Đây cũng là chỉ số đo lường hữu dụng nhất cho cộng đồng để
chẩn đoán thừa cân béo phì vì BMI là chỉ số đơn giản, không bị ảnh hưởng
bởi tuổi, giới. Tuy nhiên, BMI cũng chỉ nên được coi là chỉ số mang tính
định hướng vì nó có thể không tương xứng với cùng mức béo phì ở những cá
thể khác nhau [56],[57].
Hiện tại WHO khuyến cáo nên dùng BMI để nhận định về tình trạng
dinh dưỡng, đánh giá mức độ béo gầy [38], [58].
BMI =
1.3.2. Các chỉ số hoá sinh
Một số chỉ số sinh hóa thường được sử dụng trong đánh giá tình trạng
dinh dưỡng trên lâm sàng: Albumin, prealbumin, transferin,...

 Albumin.
Albumin là một protein huyết thanh có nguồn gốc từ gan, chiếm 60%
protein toàn phần, là một trong những phân tử nhỏ nhất trong huyết tương
(trọng lượng phân tử 69.000) với thời gian bán hủy 14- 20 ngày, có vai trò


17

như một phân tử vận chuyển cho các chất khoáng, hormone, sắc tố, acid béo,
…và tạo áp tời khoảng 80% suất keo trong các mao mạch. Hơn 50% nằm

ngoài mao mạch, chỉ khoảng 5% được sản xuất tại gan hàng ngày [59]. Do đó
mức tiêu thụ protein trong một ngày hầu như không ảnh hưởng đến mức
albumin của bệnh nhân [60]. Tuy nhiên, Albumin được xem như một chất âm
tính của phản ứng pha cấp, nó bị ảnh hưởng bởi tình trạng viêm và thuốc, đặc
biệt là bị ảnh hưởng bởi chức năng gan như suy gan, sốt, nhiễm trùng máu,
chấn thương, sau phẫu thuật, hay ung thư đã được chứng minh có khả năng
làm giảm Albumin huyết thanh. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra Albumin không
đáng tin cậy để được sử dụng như một dấu hiệu chẩn đoán suy dinh dưỡng
protein – calo [61], nhưng cũng có bằng chứng chứng minh Albumin là công
cụ hữu ích để chẩn đoán suy dinh dưỡng ở bệnh nhân ghép tim và chỉnh hình .
Ngoài ra, các hiệu ứng liên quan đến tư thế (nằm ngửa, ngồi, đứng, tập thể
dục) với nồng độ Albumin cũng được báo cáo, do liên quan tới sự thay đổi áp
lực thủy tĩnh và áp lực keo theo tư thế của cơ thể [62]. Vì vậy, Albumin không
phải một thước đo chính xác nhất để xác định suy dinh dưỡng.



Prealbumin
Prealbumin (tên khác là transthyretin) là một protein giàu trytophan,

nguồn gốc từ gan, do đó nó bị ảnh hưởng bởi một số tình trạng viêm giống
như nhiễm trùng và bệnh gan. Là một protein vận chuyển hormon thyroid và
nó tồn tại trong tuần hoàn cùng protein gắn retinol (retinol binding protein RBP) theo tỉ lệ 1:1 - prealbumin phức hợp – tránh bị lọc bởi cầu thận. Thời
gian bán hủy của prealbumin ngắn hơn so với albumin (khoảng 2-3 ngày),
kích thước của prealbumin cũng nhỏ hơn rất nhiều so với albumin. Nếu sự bổ
sung vitamin A đầy đủ và chức năng thận bình thường thì transthyretin và


×