Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (845.85 KB, 95 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH THANH HÙNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG TỪ THỰC TIỄN
QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH THANH HÙNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG TỪ THỰC TIỄN
QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Chính sách công
Mã số: 8 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN DANH SƠN


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung nghiên cứu trình bày trong luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công với đề tài “Thực hiện chính sách phát
triển đô thị bền vững từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh” là
công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn
Danh Sơn. Các thông tin, số liệu, kết quả nghiên cứu trình bày trong luận văn
là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các tư liệu, trích dẫn trong luận văn có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Tôi
xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những nội dung trên.
Tác giả luận văn

Huỳnh Thanh Hùng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM .............................................. 8
1.1. Các khái niệm ............................................................................................ 8
1.2. Tiêu chí đô thị bền vững ......................................................................... 13
1.3. Chính sách phát triển đô thị theo hướng bền vững ở Việt Nam .............. 16
1.4. Các bước tổ chức thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững ......... 22
1.5. Chủ thể và các bên liên quan trong thực hiện chính sách phát triển đô thị
bền vững ......................................................................................................... 24
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
ĐÔ THỊ BỀN VỮNG TẠI QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH............................................................................................................. 28

2.1. Chủ trương và chính sách phát triển đô thị bền vững của thành phố Hồ
Chí Minh ......................................................................................................... 28
2.2. Tổ chức thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững ở quận Bình Tân
thời gian qua ................................................................................................... 34
2.3. Kết quả đạt được và đánh giá .................................................................. 48
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆNCHÍNH
SÁCH PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG TỪ THỰC TIỄN QUẬN
BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................................. 63
3.1. Quan điểm, phương hướng và mục tiêu phát triển đô thị bền vững quận
Bình Tân ......................................................................................................... 63
3.2. Giải pháp tăng cường thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững
quận Bình Tân thời gian tới ........................................................................... 67
KẾT LUẬN ................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NXB

Nhà xuất bản

PGS.TS

Phó Giáo sư, Tiến sỹ

PPP

Public – Private – Partnership (Mô hình đối tác công tư)


UBND

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Tên bảng, biểu

Trang

Bảng 2.1. Phân loại đất theo mục đích sử dụng đất .................................... 35
Bảng 2.2. Phân loại đất theo đơn vị hành chính ......................................... 36
Bảng 2.3. Quy mô dân số quận Bình Tân giai đoạn 2011 – 2017 .............. 38
Biểu 2.1. Tỷ trọng các ngành kinh tế quận giai đoạn 2011 – 2017 ............ 49
Biểu 2.2. Kết quả thu, chi ngân sách quận giai đoạn 2011 – 2017 ............. 49


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, tiến trình đô thị hóa ở
Việt Nam đã gắn kết với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
đạt được nhiều kết quả quan trọng: hệ thống đô thị Việt Nam đã có bước
phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Theo số liệu thống kê của Cục
phát triển đô thị (Bộ Xây dựng), tỷ lệ đô thị hóa tăng từ khoảng 19,6% với
629 đô thị năm 1999 lên khoảng 37,5% với 813 đô thị năm 2017, trong đó
có 02 đô thị đặc biệt (thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh), 19 đô thị
loại I, 23 đô thị loại II, 45 đô thị loại III, 84 đô thị loại IV, 640 đô thị loại V.
Đô thị hóa tăng nhanh tại các vùng kinh tế trọng điểm, vùng đô thị lớn phân
bố đồng đều hơn trên phạm vi cả nước. Nhiều đô thị mới hình thành và phát

triển, đô thị hiện hữu từng bước được nâng cấp cải tạo, mở rộng về quy mô
đất đai, hạ tầng kỹ thuật (giao thông, cấp điện, cấp nước, thoát nước thải, vệ
sinh môi trường,…) và hạ tầng xã hội (giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao,…),
bộ mặt đô thị đã có nhiều thay đổi theo hướng văn minh, hiện đại, đời sống
dân cư đô thị từng bước được nâng cao.
Cùng với xu thế phát triển đô thị chung của cả nước, quận Bình Tân là
một đô thị trực thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Trong những năm qua, quận
Bình Tân đã thực hiện chủ trương phát triển kinh tế gắn với quy hoạch phát
triển đô thị, giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện chính sách an sinh xã hội
và đã đạt được những kết quả tích cực. Lãnh đạo quận Bình Tân luôn quan
tâm coi trọng công tác quy hoạch phát triển đô thị nhằm hướng tới phát triển
đô thị bền vững, góp phần vào việc hiện thực hóa mục tiêu phấn đấu xây dựng
quận Bình Tân trở thành một quận “giàu đẹp, văn minh, hiện đại, nghĩa tình”,
một quận có môi trường đô thị văn minh, có thiên nhiên trong lành và đời

1


sống văn hóa cao; một trong những quận phát triển hài hòa, thân thiện. Tuy
nhiên, với đặc điểm là quận đô thị hóa, áp lực tăng dân số cơ học cao (từ
633.543 người năm 2013 tăng lên 729.367 người năm 2017), kèm theo đó là
các nhu cầu về nhà ở, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, các dịch vụ tiện ích,… để
phục vụ cho đời sống người dân đòi hỏi ngày càng cao, đây là một thách thức
rất lớn đặt ra cho công tác quản lý phát triển đô thị của quận. Mặc dù, quận
Bình Tân hiện nay có nhiều khu đô thị mới đã và đang hình thành làm thay
đổi diện mạo của quận, như: khu đô thị Lý Chiêu Hoàng, khu đô thị An Lạc –
Bình Trị Đông, khu đô thị Nam Hùng Vương – Bắc Trần Văn Kiểu, khu đô
thị Tên Lửa, khu đô thị dân cư mới Vĩnh Lộc,… Các khu đô thị mới này đã
góp phần tích cực vào kết quả phát triển nhà ở mỗi năm, cũng như góp phần
nâng cao chất lượng dịch vụ đô thị, tạo lập môi trường đô thị hiện đại và giảm

áp lực cho khu vực nội đô của thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, nhìn
chung các khu đô thị mới trên địa bàn quận Bình Tân vẫn chỉ là đáp ứng tức
thời cho bài toán tăng quỹ đất ở, nhà ở, còn việc tạo lập một môi trường sống
thực sự thì chưa thể đáp ứng nổi. Và thực tế cũng còn rất nhiều vấn đề đang
tồn tại trong các đô thị. Đó là tình trạng hệ thống cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ,
thiếu các tiện ích xã hội như: siêu thị, trường học, bệnh viện, công viên cây
xanh, hệ thống giao thông công cộng, ô nhiễm môi trường nước, không khí,
thu gom và xử lý rác thải,...Đây là những biểu hiện của việc phát triển chưa
thực sự bền vững. Trong các nguyên nhân của tình trạng này có nguyên nhân
từ tổ chức thực hiện chính sách phát triển đô thị theo hướng bền vững.
Xuất phát từ thực tế phát triển đô thị ở quận Bình Tân, thành phố Hồ
Chí Minh học viên lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách phát triển đô thị
bền vững từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh” để làm
luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chính sách phát triển đô thị bền vững là chủ đề được các nhà nghiên
cứu quan tâm với tiếp cận theo những góc độ khác nhau. Dưới đây là một số
công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài:
- Vụ Quản lý Kiến trúc Quy hoạch - Bộ Xây dựng (1998): Định hướng
quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam đến năm 2020, Nxb Xây dựng,
Hà Nội.
- Nguyễn Thế Nghĩa, Tôn Nữ Quỳnh Trân (Chủ biên) (2002), Phát
triển đô thị bền vững, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Đào Hoàng Tuấn (2008), Phát triển bền vững đô thị: Những vấn đề lý
luận và kinh nghiệm của thế giới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Lê Hồng Kế và các cộng sự (2006), Phân tích những tác động của

chính sách đô thị hóa đối với sự phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb Lao
động xã hội, Hà Nội.
- Nguyễn Quang Thái và Ngô Thắng Lợi (2007), Phát triển bền vững ở
Việt Nam: Thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng, Nxb Lao động - xã
hội, Hà Nội.
- Phạm Thị Bích Yên (2011), Đô thị hóa Việt Nam trong quá trình công
nghiệp hóa, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2011.
- Lê Thanh Sang (Chủ biên) (2017), Đô thị hóa và phát triển bền vững
vùng Nam Bộ: lý luận, thực tiễn và đối thoại chính sách (kỷ yếu hội thảo
Khoa học Quốc gia),Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu, các bài viết trên đã phản ánh rất nhiều góc
độ khác nhau về tình hình quản lý quy hoạch phát triển đô thị cả nước nói
chung và ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Đặc biệt đã phản ánh sự cấp
thiết cần có cơ chế, chính sách, giải pháp giải quyết vấn đề quản lý quy hoạch
phát triển đô thị trong tiến trình tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội tại các

3


địa phương trong cả nước, đặc biệt là tại các đô thị lớn. Mặc dù các nghiên
cứu này các tác giả đã phản ánh tình trạng cấp thiết về quản lý quy hoạch phát
triển đô thị và đề xuất được những giải pháp để ổn định đời sống của người
dân trong tiến trình đô thị hoá và phát triển đô thị, nhưng về chính sách phát
triển đô thị lớn, đặc biệt như thành phố Hồ Chí Minh, thì còn rất nhiều vấn đề
đặt ra cả về tính chất đặc thù và cả về tổ chức thực hiện các đặc thù của chính
sách phát triển đô thị trong bối cảnh mới hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thực hiện chính
sách phát triển đô thị theo hướng bền vững, hiện đại ở Việt Nam;

- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững
tại quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh;
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường thực hiện chính sách phát
triển đô thị bền vững tại quận Bình Tân trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các khái niệm về thực hiện chính sách phát triển đô thị
bền vững, trong đó xác định tất yếu, các yếu tố cùng các tiêu chí đô thị bền
vững mà chính sách phát triển đô thị hướng tới trong tổ chức thực hiện.
- Vận dụng lý luận về chính sách công để nghiên cứu thực hiện chính
sách phát triển đô thị bền vững qua thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ
Chí Minh, từ đó tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu cùng nguyên nhân trong
tổ chức thực hiện chính sách.
- Nghiên cứu đưa ra giải pháp nhằm tăng cường thực hiện chính sách
phát triển đô thị bền vững từ thực tiễn quận Bình Tân, phù hợp với điều kiện
thực tế đáp ứng nhu cầu phát triển, cũng như yêu cầu và vị trí, vai trò của quận.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề có liên quan đến thực hiện chính
sách phát triển đô thị bền vững ở địa bàn cấp quận.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi thời gian: giai đoạn 2011 – 2017, trong đó 2011 là năm đầu
thực hiện kế hoạch 5 năm (2011-2015) phát triển đô thị của quận Bình Tân
cũng như của thành phố Hồ Chí Minh; và 2017 là năm có số liệu thống kê
mới nhất cho đến thời điểm thực hiện luận văn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu và vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã
hội học, quản lý học và đô thị học; vận dụng phương pháp luận và lý thuyết
về chính sách công. Đó là cách tiếp cận nghiên cứu chính sách công theo chu
trình thực hiện chính sách từ hoạch định đến xây dựng, tổ chức thực hiện và
đánh giá thực hiện chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập, tổng hợp tài liệu, số liệu: Hệ thống tài liệu là
cơ sở quan trọng giúp cho việc hình thành và hoàn thiện cơ sở lý luận cũng
như những nghiên cứu, phân tích cụ thể về lịch sử phát triển, sự biến đổi và
phát triển của đô thị ở quận Bình Tân theo thời gian. Hệ thống tài liệu thu
thập được bao gồm: tài liệu liên quan đến lịch sử phát triển của quận Bình
Tân, tài liệu về các văn kiện, Nghị quyết, quyết định của Đảng, Nhà nước, bộ
ngành ở Trung ương và địa phương; các tài liệu, công trình nghiên cứu, các
báo cáo, thống kê của chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên

5


quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách phát triển đô thị bền vững
ở nước ta nói chung và thực tế quận Bình Tân nói riêng.
- Phương pháp thống kê và so sánh: được sử dụng trong quá trình
nghiên cứu nhằm xử lý các số liệu thống kê đã thu thập được để phân tích đặc
điểm của quá trình thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững khu vực
nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích chính sách công, bao gồm kỹ thuật phân tích
SWOT (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức) để xác định các điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức, từ đó tìm ra các vấn đề và nguyên nhân
trong tổ chức thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững tại địa bàn
nghiên cứu.

- Phương pháp thực địa: Khảo sát tình hình thực tế tổ chức thực hiện
chính sách phát triển đô thị bền vững tại quận Bình Tân nhằm kiểm định và
thu thập thêm thông tin.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hiện chính
sách phát triển đô thị bền vững ở cấp quận trong bối cảnh mới (đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng phó với biến đổi khí hậu).
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Cung cấp những chứng cứ thực tiễn về tổ chức thực hiện chính sách
phát triển đô thị bền vững từ thực tế quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh
cùng các vấn đề được phát hiện cũng như các giải pháp tăng cường tổ chức
thực hiện chính sách.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được bố cục theo 3 chương sau:

6


- Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách phát triển đô thị bền
vững ở Việt Nam.
- Chương 2: Thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững tại quận
Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh.
- Chương 3: Một số giải pháp tăng cường thực hiện chính sách phát
triển đô thị bền vững từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh.

7



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
ĐÔ THỊ BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM

1.1. Các khái niệm
1.1.1. Chính sách công và thực hiện chính sách công
- Chính sách công thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, do
đó khái niệm về chính sách công phụ thuộc nhiều vào bản chất của nhà nước.
Cho đến nay, một số nhà khoa học trong và ngoài nước đưa ra các quan niệm
và định nghĩa về chính sách công như sau:
+ Theo James Anderson: “Chính sách công là một quá trình hành động
có mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các
vấn đề mà họ quan tâm”.
+ Thomas R. Dye thì cho rằng “Chính sách công là cái mà Chính phủ
lựa chọn làm hay không làm”. Đây là định nghĩa ngắn gọn, được nhiều học
giả tán thành, nó phản ánh được nội hàm cơ bản của chính sách công.
+ PGS.TS. Lê Chi Mai cho rằng “Chính sách công có những đặc trưng cơ
bản nhất như: chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước; chính sách công
không chỉ là các quyết định (thể hiện trên văn bản) mà còn là những hành động,
hành vi thực tiễn (thực hiện chính sách); chính sách công tập trung giải quyết
những vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định;
chính sách công gồm nhiều quyết định chính sách có liên quan lẫn nhau”.
+ Theo PGS.TS. Đỗ Phú Hải nêu ra định nghĩa một cách chung nhất về
chính sách công như sau: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định có
liên quan để “lựa chọn” mục tiêu và những giải pháp, công cụ chính sách
nhằm giải quyết các vấn đề chính sách theo mục tiêu tổng thể đã xác định của
đảng chính trị cầm quyền”.

8



Khái niệm chính sách công được sử dụng chính thức hiện nay được xác
định tại Nghị định của Chính phủ số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 Quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, là “định hướng, giải pháp của Nhà nước để giải quyết vấn đề
của thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu nhất định” (Điều 3).
Từ những khái niệm trên ta thấy rằng bản chất của chính sách là công
cụ để Nhà nước tác động, điều chỉnh các hoạt động và hành vi của các tổ
chức, cá nhân trong xã hội hướng tới các mục tiêu phát triển.
- Thực hiện chính sách công là một khâu hợp thành chu trình chính
sách công, là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể trong chính sách
thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu định hướng. Tổ
chức thực hiện chính sách là để thực hiện các mục tiêu chính sách và mục tiêu
chung. Mục tiêu của chính sách có liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực
nên không thể cùng một lúc giải quyết hết tất cả mà phải lần lượt và việc thực
hiện chính sách công giải quyết các vấn đề trong mối quan hệ biện chứng với
mục tiêu chung, từ đó có thể giải quyết các vấn đề đặt ra.
Thực hiện chính sách công có nghĩa là chính sách công được thực thi
triển khai rộng rãi trong đời sống xã hội và đem lại kết quả mong muốn. Kết
quả này càng nhiều thì chính sách và thực hiện chính sách càng có hiệu quả
và ngược lại.
1.1.2. Đô thị và phát triển đô thị bền vững
- Đô thị là một hình thức quần cư đặc biệt của xã hội loài người. Đô thị
được hình thành là điểm tập trung dân cư, tài sản và có vai trò thúc đẩy sự
phát triển kinh tế, xã hội của một vùng nhất định [26]. Từ hoàn cảnh, cuộc
sống thực tế, phong tục tập quán, nhận thức về xã hội khác nhau ở mỗi quốc
gia trên thế giới mà định nghĩa, quan niệm về đô thị ở các nước cũng có
những điểm khác biệt.

9



Các quốc gia Châu Âu định nghĩa đô thị dựa trên cơ bản việc sử dụng
đất thuộc đô thị, dùng ảnh chụp từ vệ tinh thay vì dùng thống kê từng khu phố
để quyết định ranh giới của đô thị. Tại Pháp, một đô thị là một khu vực bao
gồm một vùng phát triển do xây cất. Ngoài tiêu chí sử dụng đất thì đô thị còn
có điều kiện là mật độ dân số nhất định nào đó và đa phần dân số không hành
nghề nông nghiệp hay đánh cá. Tại Ba Lan thì định nghĩa chính thức về “đô
thị” khá đơn giản, nó được hiểu là các địa phương có danh xưng là thị trấn,
thành phố; vùng “nông thôn” là những vùng nằm ngoài ranh giới của các thị
trấn này.[30]
Ở Châu Mỹ mà cụ thể là nước Mỹ thì lại có khái niệm về khu đô thị,
cụ thể là có hai loại khu đô thị: một loại để chỉ các khu có trên 50.000 dân trở
lên là urbanized area và một loại có dân số dưới 50.000 gọi là urban cluster.
Cục Điều tra dân số Hoa Kỳ định nghĩa một khu đô thị như “những cụm
thống kê cốt lõi có mật độ dân số ít nhất là 1.000 người trên một dặm vuông
Anh và những cụm thống kê xung quanh nó có tổng mật độ dân số ít nhất là
500 người trên một dặm vuông”. Tại Nhật Bản, đô thị được định nghĩa là các
vùng cận kề nhau gồm các khu dân cư đông đúc, trong đó mật độ dân số phải
trên 4.000 người trên một cây số vuông.[30]
Tại Việt Nam hiện nay, khái niệm đô thị đã được luật hóa trong Luật
Quy hoạch đô thị năm 2015. Theo đó, đô thị được định nghĩa: “Đô thị là khu
vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh
vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn
hóa hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của
quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại
thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã; thị trấn”.
Ngày nay, đô thị không chỉ đơn thuần là nơi tập trung dân cư đông đúc
với các hoạt động mang tính chất phi nông nghiệp; các trung tâm đơn chức


10


năng về hành chính hoặc thương mại,...mà đô thị đã trở thành một không gian
cư trú của dân cư, là kết quả tất yếu của một quá trình phát triển kinh tế - xã
hội, đóng vai trò là trung tâm tổng hợp hoặc về một số mặt: hành chính, kinh
tế - xã hội... của một vùng hoặc quốc gia, biểu hiện của nó là sự tập trung dân
cư với mật độ cao với lối sống đô thị và các hoạt động phi nông nghiệp chiếm
ưu thế, có cơ sở hạ tầng phát triển ngày càng hiện đại.
- Phát triển bền vững: Lần đầu tiên, năm 1987, trong báo cáo “Tương
lai của chúng ta” Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển (WCED) do
cựu thủ tướng Na Uy, Gro Harlem Brundtland làm chủ tịch đã đưa ra ý tưởng
và khái niệm về phát triển bền vững. Đó là“Những thế hệ hiện tại cần đáp
ứng các nhu cầu của mình, mà không làm tổn hại đến khả năng của các thế
hệ tương lai trong đáp ứng các nhu cầu của họ” [38].
Tiếp theo sau đó, nhiều định nghĩa khác nhau lần lượt ra đời như:
+ Chương trình môi trường của Liên hiệp quốc (UNEP) có đưa ra định
nghĩa:“Phát triển bền vững là quá trình nâng cao chất lượng cuộc sống của
nhân loại trong phạm vi đáp ứng được của các hệ sinh thái” [38].
+ Ngân hàng thế giới –WB cho rằng:“Phát triển bền vững chính là sự
duy trì và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người về mặt xã hội, kinh
tế, môi trường trong giới hạn khả năng chịu tải của các hệ sinh thái dịch vụ
và cơ sở tài nguyên của môi trường, nghĩa là vẫn đảm bảo tính bền vững của
môi trường” [38].
+ Theo H.Barton, International Institute for environmental and
development – IIED:“Phát triển bền vững là một quá trình dàn xếp, thỏa hiệp
giữa các hệ thống kinh tế, tự nhiên và xã hội”, tức là phát triển bền vững phải
đảm bảo 3 mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường hài hòa với nhau” [38].
+ Và theo Luật Bảo vệ môi trường 2014 của nước ta:“Phát triển bền
vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại


11


đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp
chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ
môi trường”.
Từ những khái niệm trên có thể thấy rằng, về bản chất, phát triển bền
vững là một quá trình biến đổi mạnh mẽ trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội
nhằm tạo ra sự tối ưu nhất trong tăng trưởng để đáp ứng nhu cầu nâng cao
chất lượng cuộc sống của con người mà không làm tổn hại đến hệ các sinh
thái và môi trường trong hiện tại cũng như trong tương lai. Tổng quát hơn,
phát triển bền vững chính là một quá trình liên tục cân bằng và hòa nhập các
mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái. Nó đảm bảo sự trường tồn
của nhân loại. Chính vì vậy, phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu chiến
lược cho toàn cầu, cho từng quốc gia, cho từng khu vực, vùng đô thị, cũng
như cho từng đô thị.
- Phát triển đô thị bền vững: khái niệm về phát triển đô thị bền vững
phải xuất phát từ quan điểm tổng hòa phát triển các lĩnh vực trụ cột của đô thị
(kinh tế, xã hội, môi trường), cân bằng các hệ sinh thái và bảo đảm cho mọi tổ
chức liên kết hữu cơ về không gian các chức năng hoạt động của đô thị, hệ
thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội; có mối quan hệ chặt chẽ
giữa đô thị - nông thôn, nhất là với khu vực ven đô.
Trên cơ sở nguyên lý phát triển bền vững, các nhà nghiên cứu và quản
lý về phát triển đô thị đều cho rằng khái niệm phát triển đô thị bền vững có
thể được hiểu là mối quan hệ hữu cơ, mật thiết giữa các nhân tố cấu thành đô
thị như một chỉnh thể, là: kinh tế đô thị, văn hóa - xã hội đô thị, môi trường sinh thái đô thị, cơ sở hạ tầng đô thị và quản lý đô thị.
Hiện nay dưới tác động của biến đổi khí hậu và cách mạng công nghiệp
thế hệ mới 4.0, các nhà nghiên cứu và quản lý về phát triển đô thị còn đưa ra
khái niệm phát triển đô thị/thành phố xanh (green city) và đô thị/thành phố


12


thông minh (smart city). Thực chất đô thị/thành phố xanh cũng là đô thị/thành
phố bền vững được gắn với ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu; còn
thực chất đô thị/thành phố thông minh cũng là đô thị/thành phố bền vững
được gắn với ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo để quản lý, nâng
cao tiêu chuẩn cuộc sống đô thị, cải thiện chất lượng phục vụ của chính quyền
thành phố và sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng, tài nguyên thiên nhiên.
1.1.3. Thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững: là toàn bộ quá
trình hoạt động của các chủ thể bằng nhiều cách thức khác nhau tác động vào
đối tượng quản lý nhằm hiện thực hóa các quyết định có liên quan của Nhà
nước về phát triển đô thị bền vững, với các mục tiêu cụ thể, giải pháp và công
cụ chính sách theo định hướng của Đảng và Nhà nước.
1.2. Tiêu chí đô thị bền vững
1.2.1. Tiêu chí đô thị bền vững của thế giới
Tùy thuộc vào bối cảnh phát triển quốc gia, khu vực mà các nước xác
định cho mình các tiêu chí đô thị bền vững.
Trong dự án đô thị bền vững ở châu Âu do Viện Môi trường Đô thị
Quốc tế điều phối với sự tham gia của 12 thành phố: Aalborg (Đan Mạch),
Amsterdam, Breda và DenHaag hay Hague (Hà Lan), Angers (Pháp),
Brussels (Bỉ), Freiburg và Hannover, Leipzig (Đức), Leicester (Anh), Temi
(Italia), Valencia (Tây Ban Nha). Dự án được thực hiện bởi sự tài trợ của ủy
ban châu Âu với mục đích là phát triển một hệ thống các chỉ tiêu có thể đo
được chung cho các thành phố toàn châu Âu [52]. Kết quả của 5 năm thực
hiện khảo sát và đánh giá (1985-1990), đã xây dựng được 10 chỉ tiêu cốt lõi
bao hàm các nội dung bền vững sau đây cho hệ thống đô thị châu Âu:
(1) Môi trường trong lành, được đánh giá bằng số ngày trong năm có
chất lượng không khí không vượt quá tiêu chuẩn địa phương.


13


(2) Không gian xanh, được đánh giá bằng tỷ lệ phần trăm số người đến
được với vườn cây xanh ở khoảng cách nhất định.
(3) Sử dụng hiệu quả tài nguyên, được đánh giá bằng toàn bộ năng
lượng; nước tiêu thụ; phế thải đem loại bỏ (không kể số phế thải được tái chế
hay sử dụng lại) tính theo đầu người trong một năm. Tỷ lệ giữa các nguồn
năng lượng có thể tái sinh và không tái sinh.
(4) Chất lượng môi trường tin cậy, được tính bằng tỷ lệ không gian mở
cho diện tích được dùng ô tô.
(5) Khả năng đi lại, được tính bằng số kilomét đi bằng phương tiện giao
thông (ô tô, xe đạp, vận tải công cộng…) tính theo đầu người trong một năm.
(6) Nền kinh tế xanh, được đánh giá bằng tỷ lệ phần trăm số công ty đã
kết hợp các phương pháp kiểm toán và quản lý sinh thái (EMAS) hoặc các
phương pháp tương tự.
(7) Độ trường tồn, được đánh giá bằng số các hoạt động hoặc phương
tiện văn hoá và xã hội (danh mục này còn đang được bổ sung).
(8) Sự tham gia của cộng đồng, được xác định thông qua số các nhóm
hoặc tổ chức tình nguyện tính trên 1.000 dân và ước chừng số thành viên.
(9) Công bằng xã hội, được phản ánh qua tỷ lệ phần trăm số người sống
dưới mức nghèo khổ, và tỷ lệ số người không được tiếp cận tới những dịch vụ
cơ bản của đô thị như nhà ở, việc làm, độ ổn định của thu nhập, hưởng chăm
sóc y tế, giáo dục chính quy…
(10) Phúc lợi, được đánh giá thông qua việc khảo sát sự thoả mãn của
các công dân về chất lượng đời sống (nội dung khảo sát được địa phương
quyết định).
Trên cơ sở những chỉ tiêu cốt lõi, các thành phố dựa vào đặc điểm địa
phương của mình mà bổ sung thêm những chỉ tiêu cơ bản, dựa vào điều kiện


14


vùng mà bổ sung những chỉ tiêu đặc trưng vùng để hoàn thiện chỉ tiêu đô thị
bền vững cho từng đô thị cụ thể.
1.2.2. Tiêu chí đô thị bền vững ở Việt Nam
Các nhà nghiên cứu và quản lý phát triển đô thị trên thế giới đã đề xuất
xây dựng các tiêu chí đô thị bền vững. Theo một tổng quan nghiên cứu đăng trên
tạp chí Kiến trúc “Tích hợp hệ thống tiêu chí đô thị bền vững trong quy hoạch đô
thị tại Thành phố Hồ Chí Minh” ( thì các tiêu chí đô thị bền
vững của Chương trình “Thiên niên kỷ XXI” Liên Hiệp Quốc gồm 10 nhóm
tiêu chí bền vững trong quá trình đô thị hóa; của Ngân hàng thế giới (World
Bank) gồm 4 nhóm tiêu chí. Bộ Xây dựng Việt Nam xác định 6 nhóm tiêu chí
đánh giá “Đô thị kiểu mẫu” (tại Thông tư số 15/2008/TT-BXD ngày
17/6/2008 hướng dẫn về việc đánh giá, công nhận khu đô thị mới kiểu mẫu).
Thành phố Hồ Chí Minh đang nghiên cứu xây dựng Bộ tiêu chí xây dựng
thành phố Hồ Chí Minh văn minh hiện đại, theo nghĩa là một thành phố xanh,
sạch, thông minh, phát triển theo hướng bền vững.
Nhìn chung, cũng theo khái quát của nghiên cứu tổng quan trên, bộ tiêu
chí đô thị bền vững gồm các nhóm thuộc tính sau:
- Nhóm thuộc tính về đô thị lành mạnh;
- Nhóm thuộc tính về đô thị hấp dẫn;
- Nhóm thuộc tính về đô thị an toàn;
- Nhóm thuộc tính về đô thị hiệu quả, công bằng.
Chi tiết các tiêu chí trong từng nhóm nêu tại Phụ lục. Ở Việt Nam chưa
xây dựng bộ tiêu chí đô thị bền vững, mà mới có bộ tiêu chí đánh giá “khu đô
thị mới kiểu mẫu” (tại Thông tư của Bộ Xây dựng số 15/2008/TT-BXD nêu

15



trên). Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, theo tác giả luận văn, có thể vận dụng
bộ tiêu chí đô thị bền vững nêu tại Phụ lục.
1.3. Chính sách phát triển đô thị theo hướng bền vững ở Việt Nam
1.3.1. Quan điểm
Theo Quyết định số 445/QĐ-TTg ngày 07 tháng 4 năm 2009 của Chính
phủ thì việc hình thành và phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025
và tầm nhìn đến năm 2050 phải dựa trên các quan điểm:
- Phù hợp với sự phân bố và trình độ phát triển lực lượng sản xuất, với
yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam;
- Phát triển và phân bố hợp lý trên địa bàn cả nước, tạo ra sự phát triển
cân đối giữa các vùng. Coi trọng mối liên kết đô thị - nông thôn, bảo đảm
chiến lược an ninh lương thực quốc gia; nâng cao chất lượng đô thị, bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống phù hợp từng giai đoạn phát triển
chung của đất nước;
- Phát triển ổn định, bền vững, trên cơ sở tổ chức không gian phù hợp,
sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đất đai, tiết kiệm năng lượng; bảo vệ
môi trường, cân bằng sinh thái;
- Xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật với cấp độ
thích hợp hoặc hiện đại, theo yêu cầu khai thác, sử dụng và chiến lược phát
triển của mỗi đô thị;
- Kết hợp chặt chẽ với việc bảo đảm an ninh, quốc phòng và an toàn xã
hội; đối với các đô thị ven biển, hải đảo và dọc hàng lang biên giới phải đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ và giữ vững chủ quyền quốc gia.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đề ra mục tiêu phát triển hệ thống đô thị
Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 là: “Từng bước xây dựng
hoàn chỉnh hệ thống đô thị Việt Nam phát triển theo mô hình mạng lưới đô


16


thị; có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội phù hợp, đồng bộ, hiện đại; có
môi trường và chất lượng sống đô thị tốt; có nền kiến trúc đô thị tiên tiến,
giàu bản sắc; có vị thế xứng đáng, có tính cạnh tranh cao trong phát triển kinh
tế - xã hội quốc gia, khu vực và quốc tế, góp phần thực hiện tốt hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc”.
1.3.2. Chính sách quốc gia
1.3.2.1. Những định hướng chính sách
Việc phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn
đến năm 2050 có các định hướng sau:
* Xác định rõ chức năng của từng loại đô thị trong hệ thống đô thị cả nước
- Các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh phải
giữ được vai trò là trung tâm kinh tế, chính trị xã hội, đào tạo kỹ thuật và là
đầu mối giao thông trong vùng, cả nước và quốc tế, có cơ sở kinh tế theo
hướng dịch vụ và công nghiệp.
- Các đô thị vừa và nhỏ phải giữ được vai trò là trung tâm kinh tế, văn
hóa, dịch vụ của khu vực, có cơ sở kinh tế chuyển dịch theo hướng công
nghiệp, dịch vụ và du lịch.
- Bên cạnh đó trong quá trình phát triển đô thị hiện nay các thị trấn, thị
tứ là trung tâm kinh tế, văn hóa và dịch vụ cho mỗi xã và cụm xã, nhằm đẩy
mạnh đô thị hóa ở nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Từ nay đến năm
2015 ưu tiên phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, các vùng đô thị lớn và
các khu kinh tế tổng hợp đóng vai trò là cực tăng trưởng chủ đạo cấp quốc
gia; từ năm 2015 đến 2025 ưu tiên phát triển các vùng đô thị hóa cơ bản, giảm
thiểu sự phát triển phân tán, cục bộ; giai đoạn từ năm 2026 đến năm 2050
chuyển dần sang phát triển theo mạng lưới đô thị.
* Định hướng mức tăng trưởng đô thị


17


- Năm 2015, dự báo dân số đô thị cả nước khoảng 35 triệu người,
chiếm 38% dân số cả nước; năm 2020, dân số ở các đô thị khoảng 44 triệu
người, chiếm 45% dân số cả nước; năm 2025, dân số ở các đô thị khoảng 52
triệu người, chiếm 50% dân số cả nước.
- Năm 2015, tổng số đô thị trong cả nước khoảng trên 870, trong đó đô
thị đặc biệt là 02; loại I là 09; loại II là 23; loại III là 65, loại IV là 79 và loại
V là 687 đô thị. Năm 2025, tổng số đô thị trong cả nước khoảng 1000 đô thị,
trong đó đô thị loại I đến đặc biệt là 17; loại II là 20; loại III là 81, loại IV là
122, còn lại là đô thị loại V.
* Định hướng về nhu cầu sử dụng đất đô thị
Dự báo đến năm 2015, nhu cầu đất xây dựng đô thị khoảng 335.000 ha,
chiếm 1,06% diện tích tự nhiên cả nước, chỉ tiêu trung bình là 95m2/người.
Năm 2055, nhu cầu đất xây dựng đô thị khoảng 450.000 ha, chiếm 1,4% diện
tích tự nhiên cả nước, chỉ tiêu trung bình là 85m2/người.
* Định hướng phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị
- Tại các đô thị lớn, cực lớn (đô thị đặc biệt, đô thị loại I và II) có tỷ lệ
đất giao thông chiếm từ 20% - 26% đất xây dựng đô thị, các đô thị trung bình
và nhỏ (đô thị loại III trở lên) chiếm từ 15% - 20% đất xây dựng đô thị; tỷ lệ
vận tải hành khách công cộng ở các đô thị lớn đạt trên 35% vào năm 2015 và
trên 50% vào năm 2025.
- Năm 2015 đạt trên 80%, năm 2025 trên 90% dân số đô thị được cấp
nước sạch; 100% các đô thị được cấp điện sinh hoạt vào năm 2015; trên 80%
các tuyến phố chính đô thị được chiếu sáng và trên 50% được chiếu sáng cảnh
quan vào năm 2025; bảo đảm nước thải và chất thải rắn đô thị được thu gom
và xử lý triệt để đạt tiêu chuẩn theo quy định.
- Cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông phát triển mạnh mẽ đáp ứng
yêu cầu phát triển của đô thị và hội nhập kinh tế quốc tế; năm 2015 đạt trên


18


80% và năm 2025 đạt 100% chính quyền các đô thị từ loại III trở lên áp dụng
chính quyền đô thị điện tử, công dân đô thị điện tử.
1.3.2.2. Các chính sách quản lý phát triển đô thị vững
Trên cơ sở những định hướng về phát triển đô thị ở Việt Nam, Chính
phủ đã xác định chính sách quản lý phát triển đô thị Việt Nam theo hướng bền
vững, trong đó các quy định chính sách cụ thể dựa trên các căn cứ pháp lý cơ
bản tại Luật Quy hoạch đô thị (ban hành năm 2015) và Luật Xây dựng (ban
hành năm 2014). Các văn bản quy phạm pháp luật dưới các luật này được ban
hành dưới dạng nghị định, thông tư, quyết định của Chính phủ và các bộ
ngành theo thẩm quyền cũng như quyết định của UBND cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương cụ thể hóa chính sách quốc gia phù hợp với điều kiện
địa phương. Trên cơ sở Luật Quy hoạch đô thị, Chính phủ cũng đã ban hành
Chương trình phát triển đô thị quốc gia giai đoạn 2012 – 2020 (tại Quyết
định số 1659/QĐ-TTg ngày 7/11/2012).
Chính sách phát triển đô thị theo hướng bền vững ở nước ta bao gồm
các nội dung cơ bản sau:
* Tăng cường năng lực của bộ máy quản lý đô thị, đổi mới cơ chế,
chính sách phát triển và quản lý đô thị
- Đổi mới cơ chế, chính sách phát triển đô thị trong các lĩnh vực quản lý
nhà nước, quản lý quy hoạch, quản lý nhà, đất; quản lý đầu tư xây dựng, quản
lý khai thác sử dụng công trình đô thị, tạo ra sự thay đổi cơ bản đối với hệ
thống đô thị cả nước.
- Nâng cao vai trò chức năng và quyền hạn của các Bộ, ngành và địa
phương trong tổ chức, thực hiện, quản lý phát triển đô thị. Tăng cường phân
cấp quản lý đô thị; nâng cao quyền hạn, trách nhiệm của chính quyền đô thị
các cấp.

* Tạo vốn phát triển cơ sở hạ tầng đô thị

19


×