Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Thi hành án hình sự từ thực tiễn huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (832.51 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH THANH DUY

THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN HÓC MÔN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH THANH DUY

THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN HÓC MÔN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Hình Sự và Tố Tụng Hình Sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN TẤT VIỄN

HÀ NỘI, năm 2019




LỜI CAM ĐOAN
Học viên xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng học viên. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
HỌC VIÊN LÀM LUẬN VĂN

Huỳnh Thanh Duy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ 8
1.1. Thi hành án hình sự - hoạt động mang tính hành chính - tư pháp ............. 8
1.2. Các nguyên tắc của thi hành án hình sự .................................................. 12
1.3. Thi hành án hình sự ở một số quốc gia .................................................... 19
Chương 2: TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ Ở
VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY ..................................................... 255
2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Luật thi hành án hình sự
năm 2010 ....................................................................................................... 255
2.2. Thi hành án hình sự theo Luật thi hành án hình sự năm 2010 ................. 29
2.3. Những điểm mới của Dự thảo luật Thi hành án hình sự 2018............... 294
Chương 3: THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN HÓC MÔN VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CÁC
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ .............................. 433
3.1. Kết quả thi hành án hình sự trên địa bàn huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ
Chí Minh ...................................................................................................... 433
3.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân ......................................... 500

3.3. Một số giải pháp đảm bảo thi hành hình sự từ thực tiễn huyện Hóc Môn
....................................................................................................................... 566
KẾT LUẬN .................................................................................................. 655
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

THAHS

Thi hành án hình sự

TAND

Tòa án nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân

VKSND


Viện Kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1: Số liệu THAHS đối với án phạt tù, án treo và án cải tạo
không giam giữ tại TAND huyện Hóc Môn giai đoạn 2014 – 2018
Bảng 3.2: Số liệu THAHS đối với các quyết định khác tại TAND
huyện Hóc Môn giai đoạn 2014 – 2018
Bảng 3.3: Số liệu THAHS đối với việc tiếp nhận người bị tạm giữ, tạm
giam tại Cơ quan THAHS Công an huyện Hóc Môn giai đoạn 2014 – 2018
Bảng 3.4: Số liệu THAHS đối với việc kiểm tra, giám sát của VKSND
huyện Hóc Môn giai đoạn 2014 – 2018


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động thi hành án hình sự (gọi tắt là THAHS) là rất quan trọng
nhằm đảm bảo việc thực thi của bản án, quyết định của Tòa án, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân và đảm bảo tính nghiêm minh của pháp
luật. Khi các bản án không được thi hành hoặc thi hành không đúng thì toàn
bộ quá trình hoạt động của hệ thống cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và các
hoạt động bổ trợ tư pháp sẽ kém tác dụng mặc dù việc xét xử là đúng, là
khách quan.
Hiến pháp năm 2013 là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất quy định
các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được cơ
quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; và nghiêm chỉnh chấp hành. Đây là một

nguyên tắc mang tính chất hiến định
Luật THAHS được ban hành thể hiện sự quan tâm của Nhà nước về
công tác thi hành án và sự hoàn thiện của pháp luật ngày tốt hơn. Đó là điểm
tiến bộ trong công tác quản lý của Nhà nước về công tác THAHS trong những
năm qua.
Bên cạnh sự tiến bộ trên, thì qua công tác thực tiễn vẫn còn những bất
cập và thiếu sót, chưa phù hợp với thực tiễn. Công tác thi hành án do nhiều cơ
quan khác nhau thực hiện, Tòa án xét xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án
phạt, Bộ Công an đảm nhiệm việc thi hành án phạt tù, Bộ Quốc phòng tổ chức
thi hành các bản án, quyết định của Tòa án Quân sự; lĩnh vực quản chế, cải tạo
không giam giữ, án treo… do chính quyền cơ sở hoặc cơ quan tổ chức nơi
người bị kết án cư trú hoặc làm việc đảm nhiệm...
Thực tế cho thấy hoạt động thi hành án do nhiều cơ quan thực hiện đã
tạo ra sự thiếu thống nhất trong quản lý thi hành án, thiếu sự phối hợp đồng bộ
giữa các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành án, do đó ảnh hưởng đến chất
lượng và hiệu quả của công tác thi hành án.
1


Từ thực tiễn THAHS đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc, đòi hỏi khoa
học pháp luật Tố tụng hình sự (gọi tắt là LTTHS) phải nghiên cứu giải quyết
và đề ra phương hướng khắc phục.
Huyện Hóc Môn là một huyện ngoại thành nằm về phía Tây Bắc Thành
phố Hồ Chí Minh, cách trung tâm thành phố 20 km, diện tích lớn thứ năm so
trong 24 Quận - Huyện của thành phố; có diện tích 109 km2, gồm 1 thị trấn và
11 xã với dân số hiện có theo thống kê tính đến năm 2015 là 422.471 người,
mật độ trung bình là 3.876 người/km2.
Huyện Hóc Môn: Phía Đông giáp tỉnh Bình Dương, Phía Tây giáp tỉnh
Long An, quận Bình Tân và huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Phía Nam giáp Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tuyến đường Quốc Lộ 22 (đường xuyên Á) chạy qua huyện Hóc Môn
nối liền giữa trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh với nước láng giềng
Campuchia.
Hóc Môn còn sở hữu những địa điểm di tích lịch sử nỗi tiếng như: Bảo
tàng Hóc Môn, Vườn trầu Bà Điểm, Ngã Ba Giồng, Đền Phan Công Hớn...
Và nhiều di tích tôn giáo khác như: Chơn Đức Thiền Viện, Chùa Hoằng
Pháp…
Huyện Hóc Môn đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận đạt chuẩn
các xã nông thôn mới. Qua đó, diện mạo nông thôn của huyện có nhiều khởi
sắc. Cơ sở hạ tầng được nâng cấp, huyện đã sửa chữa được nhiều tuyến
đường. Nhiều công trình văn hóa, trường học, trạm y tế…được đầu tư xây
dựng. Tốc độ tăng trưởng bình quân qua các năm tăng 19,95%/năm. Thu nhập
bình quân đầu người năm 2010 đạt 17 triệu đồng/người/năm, thì đến nay đã
đạt trên 51 triệu đồng/người/năm, phấn đấu đến năm 2020 phải đạt trên 63
triệu đồng/người/năm.

2


Vấn đề xã hội ở huyện nơi đây cũng diễn biến ngày càng phứt tạp do sự
phát triển của kinh tế; số lượng dân nhập cư ngày càng đông, kéo theo tệ nạn
xã hội ngày càng nhiều, nên tình hình tội phạm gia tăng và diễn biến phức tạp.
Theo số liệu của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn thì từ năm 2014 đến năm
2018 đã thụ lý 893 vụ án hình sự với 1.786 bị cáo.
Trước tình hình trên, việc nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn
đề liên quan đến công tác thi hành án hình sự là việc rất cần thiết, trên cơ sở
đó, đưa ra những giải pháp để tiếp tục hoàn thiện những quy định pháp luật và
giải quyết những vướng mắc qua thực tiễn áp dụng. Vấn đề trên không chỉ có
ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận mà còn hết sức có ý nghĩa về thực tiễn
trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.

Như vậy, xuất phát từ những vấn đề nêu trên nói lên tính cấp thiết của
việc nghiên cứu đề tài: "Thi hành án hình sự từ thực tiễn huyện Hóc Môn,
Thành phố Hồ Chí Minh" và cũng chính vì lý do đó mà tác giả chọn đề tài
này làm luận văn thạc sĩ luật học để nghiên cứu một các nghiêm túc, có hệ
thống và toàn diện.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan dến đề tài
Trước đòi hỏi khách quan của công tác THAHS, những năm gần đây,
đã có nhiều công trình nghiên cứu ở nhiều mức độ khác nhau, các khía cạnh,
phương diện khác nhau về THAHS và nhiệm, vụ, quyền hạn của các cơ quan
liên quan đến việc thực hiện quyền năng này như: Sách chuyên khảo Pháp
luật thi hành án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn của
GS.TS. Võ Khánh Vinh và PGS.TS. Nguyễn Mạnh Kháng [55]; Hoàng Thọ
Khiêm (1996) Xây dựng mô hình thống nhất công tác thi hành án, đề tài khoa
học [15]; Nguyễn Đình Lộc (2002) Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc tổ
chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp nhà nước. Hà
Nội, [16]; Phan Thị Mộng Tuyền (2018) Thi hành án phạt tù từ thực tiễn
3


Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Luật học [47]; Nguyễn Thị Kim
Nga (2018) Thi hành án treo từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn
thạc sĩ Luật học [19]; GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên (2011), Giáo trình
Luật thi hành án hình sự [54]...
Nhìn chung, đến nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách
chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn công tác
THAHS. Các công trình khoa học nêu trên chỉ nghiên cứu tính chất tổng thể,
nghiên cứu chung chung, dàn trải ở nhiều địa phương khác nhau; đặc điểm
phong tục tập quán, địa lý, khí hậu, dân cư, ,… mỗi nơi là không giống nhau
dẫn đến tình hình thực tiễn áp dụng luật THAHS là khác nhau.
Hiện nay cũng chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về tình

hình thực tiễn THAHS tại địa bàn huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bởi vậy, việc tác giả lựa chọn đề tài “Thi hành án hình sự từ thực tiễn huyện
Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn thạc sỹ luật học về nội
dung sẽ không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, cũng như
thực tiễn áp dụng pháp luật THAHS trên địa bàn huyện Hóc Môn, từ đó đề
xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện tốt công tác THAHS trên địa bàn.
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần giải quyết ba nhiệm vụ
sau:
- Thứ nhất, nghiên cứu lý luận và pháp luật THAHS trên các phương
diện:
+ Trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án nhân dân (gọi tắt là TAND) cấp huyện.
+ Quyền hạn và nhiệm vụ (quy trình thực hiện) của các cơ quan
THAHS thuộc địa bàn cấp huyện.
4


- Thứ hai, thực tiển áp dụng luật THAHS của Cơ quan THAHS Công
an huyện Hóc Môn, Viện kiểm sát nhân dân (gọi tắt là VKSND) và TAND
cùng cấp và làm rõ những vướng mắc, hạn chế và nguyên nhân tồn tại.
- Thứ ba, đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật về trình tự, thủ tục
THAHS của Cơ quan THAHS thuộc địa bàn cấp huyện, để làm thế nào đạt
hiệu quả cao nhất, góp phần đưa công lý thực thi trong cuộc sống.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và quy định
của pháp luật về THAHS cũng như thực tiễn thi hành của cơ quan THAHS

trên địa bàn huyện Hóc Môn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu pháp luật về THAHS trong khoảng thời gian
những năm gần đây; thực tiễn áp dụng pháp luật về THAHS theo quy định
của Luật THAHS năm 2010 và các chế định liên quan trong khoảng thời
gian từ năm 2014 đến năm 2018 tại huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí
Minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của học thuyết Mác-Lênin về
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để tìm ra mối liên
hệ giữa các hiện tượng để đánh giá các vấn đề nghiên cứu một cách khoa học.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là
phương pháp lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, khảo sát thực
tế, lý luận kết hợp với thực tiễn. Cụ thể:
Phương pháp phân tích: Dựa theo các quy phạm pháp luật hiện hành
trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự và THAHS, phân tích và làm rõ nội
dung THAHS.
5


Phương pháp thống kê: Thống kê số liệu thực tiễn từ các cơ quan
quản lý và cơ quan THAHS ở huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp tổng hợp: Trên cơ sở phương pháp thống kê, phân tích,
luận văn đưa ra những vấn đề khái quát nhất như về khái niệm, căn cứ và
các quy định của pháp luật về THAHS.
Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng phương pháp nghiên cứu điển hình, đề
cập đến một số tình huống từ thực tiễn THAHS trên địa bàn huyện Hóc Môn.
Đây là những tình huống chứa đựng vấn đề cần giải quyết trong thực tế dựa
trên lý luận về THAHS. Từ đó chuyển cái riêng, cái điển hình thành cái phổ
biến, trên cơ sở đó mà kiến nghị các giải pháp nâng cao chất lượng THAHS

trên địa bàn cấp huyện.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận
Đây là công trình nghiên cứu đề cập một cách tương đối hệ thống,
toàn diện những vấn đề lý luận về THAHS nói chung và thực tiễn thi hành
tại huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Ý nghĩa thực tiễn
Đây là công trình được giải quyết một cách có hệ thống và toàn diện về
THAHS mà từ trước đến nay chưa được giải quyết triệt để hoặc giải quyết ở
một khía cạnh nào đó của vấn đề. Kết quả nghiên cứu về lý luận và pháp luật
thực định cũng như những kiến nghị mà tác giả đưa ra có ý nghĩa như một đề
xuất khoa học góp phần hoàn thiện pháp luật trong THAHS, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho người phải thi hành án.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo có
ích cho những người quan tâm đến vấn đề về pháp luật hình sự, tố tụng hình
sự và nhất là THAHS trên địa bàn cấp huyện.

6


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Phần
phụ lục; nội dung của Luận văn được chia thành 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về THAHS.
Chương 2: Tổ chức và hoạt động THAHS ở Việt Nam từ năm 1945
đến nay.
Chương 3: Giải pháp bảo đảm thực hiện các quy định pháp luật về
THAHS từ thực tiễn huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.

7



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
1.1. Thi hành án hình sự - hoạt động mang tính hành chính - tư
pháp
1.1.1. Khái niệm thi hành án hình sự
THAHS là việc đưa ra thi hành, đảm bảo tính nghiêm minh và thực thi
của một bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật. Thi hành án là kết quả cuối
cùng của quá trình giải quyết vụ án hình sự, thi hành phần quyết định đã được
tuyên trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Nếu một bản án có hiệu lực pháp luật không thi hành thì toàn bộ hoạt
động của tất cả các quá trình trước đây trở thành vô giá trị. Chính vì vậy, việc
đảm bảo hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu
rất quan trọng, bởi nó đảm bảo tính thực thi của pháp luật, đảm bảo việc giáo
dục cảm hóa tư tưởng, giáo dục nhân cách cũng như góp phần ngăn ngừa
chung và tạo điều kiện tái hòa nhập cộng đồng cho bị án sau khi chấp hành
xong hình phạt.
Kết quả thực tế cuối cùng mà Nhà nước mong muốn đạt được khi quyết
định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm và áp dụng hình phạt đối với người
phạm tội là mục đích của THAHS. Nó thể hiện trước hết ở chỗ THAHS tác
động trực tiếp đến người phạm tội, không chỉ trừng trị mà còn nhằm giáo dục,
ngăn ngừa họ phạm tội mới.
Hiện nay, vấn đề khái niệm THAHS chưa có sự thống nhất, có rất
nhiều quan điểm về vấn đề khái niệm THAHS. Trong đó, quan điểm cho
rằng: THAHS là hoạt động tư pháp, là một giai đoạn của quá trình tố tụng.
Quan điểm khác cho rằng: THAHS là hoạt động hành chính hoặc hành chính
– tư pháp, mang tính chất “lưỡng tính” giữa hành chính và tư pháp, nối dài
giữa tư pháp và hành chính. [35, tr.77]


8


Quan điểm coi THAHS là hoạt động tư pháp, với lập luận cho rằng:
- THAHS là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng hình sự, là sự
tiếp nối để hiện thực hóa các bản án, quyết định (hình sự) của tòa án. Tính
thống nhất là đặc trưng cơ bản của thủ tục tố tụng tư pháp, đòi hỏi tất cả các
giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó có giai đoạn thi hành án, phải tuân thủ mục
đích chung của tố tụng hình sự là xác định sự thật khách quan và bảo đảm
thực hiện công lý.
- Khi bản án, quyết định của tòa án được thi hành đầy đủ thì công lý
mới thực sự được thực hiện nên việc tòa án tuyên bản án, quyết định (hình sự)
chưa phải là đã kết thúc hoạt động tư pháp. Vì vậy, THAHS phải là bộ phận
không thể tách rời của hoạt động tư pháp, thể hiện hiệu lực của quyền tư
pháp.
- Thi hành các bản án, quyết định (hình sự) của tòa án, tức là thi hành
một văn bản áp dụng pháp luật, một quyết định của cơ quan tư pháp, không
phải là triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật hay quyết định
hành chính cá biệt.
- Cơ quan THAHS không phải cơ quan tiến hành tố tụng nhưng là cơ
quan có nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động tư pháp, gắn với giai đoạn chấp
hành các bản án, quyết định (hình sự) của Tòa án là cơ quan thực hiện quyền
tư pháp.
Quan điểm coi THAHS là hoạt động hành chính hoặc hành chính - tư
pháp, mang tính chất “lưỡng tính” giữa hành chính và tư pháp, nối dài giữa
tư pháp và hành chính, với lập luận cho rằng:
- THAHS chỉ là hoạt động thi hành các bản án, quyết định (hình sự) của
Tòa án, không phải là hoạt động tư pháp vì không phải là hoạt động xét xử.
- Hoạt động THAHS phản ánh mối liên hệ giữa quyền hành pháp và
quyền tư pháp trong thi hành án; là một dạng hoạt động của quản lý hành

9


chính nhà nước vì các cơ quan THAHS trong hoạt động của mình tác động
trực tiếp đến đối tượng phải thi hành án bằng các biện pháp cưỡng chế được
pháp luật quy định. Thủ tục THAHS là quy trình của hoạt động chấp hành
không phải hoàn toàn là thủ tục tố tụng hình sự. Các nguyên tắc THAHS
không hoàn toàn giống các nguyên tắc của hoạt động tố tụng hình sự, bởi vừa
có yếu tố thuyết phục, vừa có yếu tố cưỡng chế.
- Trong các giai đoạn của THAHS có thể có nhiều cơ quan hành chính
nhà nước cùng tham gia, không phải chỉ có cơ quan Tòa án. Vì vậy không thể
coi THAHS là hoạt động tố tụng.
Qua nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn về THAHS, tác giả
nghiêng về quan điểm coi THAHS là một hoạt động hành chính - tư pháp.
Ngoài những lý do mà loại quan điểm coi THAHS là một hoạt động hành
chính - tư pháp đã nêu ở trên, còn các lý do khác, đó là:
- THAHS về bản chất và nội dụng khác với hoạt động tố tụng hình sự
Hoạt động tố tụng hình sự là quá trình làm rõ sự thật khách quan của vụ án
hình sự, xác định chân lý để áp dụng việc định đoạt hình phạt hay không áp
dụng hình phạt trong các bản án hay quyết định của Tòa án.
Cũng cần phải bổ sung thêm rằng: "Ngành luật thi hành án hình sự"
thực chất là pháp luật hành chính - tư pháp. Thực chất của hoạt động THAHS
là việc tổ chức thi hành các hình phạt, biện pháp tư pháp được qui định 'trong
các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật trên thực tế. Đó chính là dựa trên
cơ sở chân lý đã được hoạt động tố tụng hình sự chứng minh để thực thi công
lý. Như vậy, nguyên tắc trình tự, thủ tục THAHS khác với nguyên tắc trình
tự, thủ tục tố tụng hình sự. Hoạt động THAHS mặc dù có quan hệ chặt chẽ
với pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự nhưng thuộc phạm trù chấp
hành do pháp luật hành chính điều chỉnh, cơ quan hành chính nhà nước thực
hiện.

10


- Nội dung THAHS rất rộng, bao gồm: thủ tục, chế độ, tổ chức thi hành
án, áp dụng các biện pháp hành chính, giáo dục, y tế, văn hóa - xã hội và thực
hiện chế độ chính sách đối với người bị kết án. Các quan hệ xã hội cụ thể phát
sinh trong quá trình thi hành và chấp hành hình phạt như: việc đưa bản án ra
thi hành, chỉ định cơ quan tổ chức thi hành, tổ chức lực lượng, cơ sở vật chất
đảm bảo cho việc thi hành án; Luật THAHS năm 2010 ngoài những quy định
trên còn qui định về quyền và nghĩa vụ của người chấp hành án; nghĩa vụ của
cơ quan nhà nước hữu quan... do pháp luật hành chính - tư pháp, hay nói cách
khác, do pháp luật THAHS điều chỉnh.
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án hình sự
Thi hành án nói chung là hoạt động thi hành các nội dung phán quyết
được nêu trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án (cơ
quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp).
Hoạt động thi hành án, trong đó có THAHS có các chức năng cơ bản
là:
a) Chức năng bảo đảm, duy trì công lý;
b) Chức năng cưỡng chế;
c) Chức năng giáo dục.
Ngoài các dấu hiệu chung, so với thi hành án dân sự và thi hành án
hành chính, THAHS có những đặc điểm sau:
- Đối tượng tác động của THAHS là hình phạt liên quan đến quyền
nhân thân của con người gắn liền với mỗi cá nhân cụ thể và quyền về tài sản,
phi tài sản của cá nhân, tổ chức.
- So với thi hành án dân sự và thi hành án hành chính, tính cưỡng chế
nhà nước của THAHS ở mức nghiêm khắc nhất, người chấp hành án phải
tuyệt đối tuân thủ các yêu cầu của pháp luật, không có quyền thỏa thuận với
cơ quan thi hành án

11


- Sự đa dạng của các hình phạt và biện pháp tư pháp tòa án đã tuyên
như các hình phạt chính, hình phạt bổ sung; các biện pháp tư pháp. Một số
hình phạt có thời gian thi hành án dài như tù chung thân, tù có thời hạn. Có
hình phạt được thi hành theo thủ tục riêng (tử hình).
- Sự đa dạng về thời điểm thi hành án:
a) Một số bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được tòa án ra quyết
định thi hành;
b) Một số bản án hoặc quyết định của tòa án được thi hành ngay tại
phiên tòa;
- Sự đa dạng về áp dụng các phương pháp thi hành án:
a) Loại bỏ người phạm tội đặc biệt nguy hiểm ra khỏi xã hội (tử hình),
b) Buộc người phạm tội cách ly xã hội (đưa vào trại giam),
c) Áp dụng các biện pháp giáo dục, cải tạo đối với người phạm tội mà
không cần cách ly họ ra khỏi xã hội;
1.2. Các nguyên tắc của thi hành án hình sự
Các nguyên tắc của THAHS bao gồm: nguyên tắc pháp chế; nguyên
tắc dân chủ; nguyên tắc nhân đạo; nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và
trước cơ quan thi hành án; nguyên tắc kết hợp giáo dục, cải tạo với cưỡng
chế; nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của con
người và của công dân; nguyên tắc phân hóa và cá thể hóa nghĩa vụ chấp
hành bản án, quyết định của Tòa án; nguyên tắc bảo đảm sự phối hợp giữa các
cơ quan thi hành án với các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội và mọi
công dân trong hoạt động thi hành án.
1.2.1. Nguyên tắc pháp chế
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc cơ bản của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa (gọi tắt là XHCN), phản ánh bản chất Nhà nước
XHCN.

12


Trong lĩnh vực THAHS, nguyên tắc này đòi hỏi các quy phạm pháp
luật về THAHS phải được chấp hành nghiêm chỉnh. Các cơ quan quản lý
THAHS, cơ quan THAHS, cơ quan được giao một số nhiệm vụ THAHS và
người thực hiện nhiệm vụ quản lý hoặc trực tiếp THAHS tuyệt đối không
được tùy tiện đưa ra quy định hoặc thực hiện bất kỳ hành vi nào nhằm hạn
chế quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người phải chấp hành án. Mọi tuỳ tiện
trong quá trình tổ chức, THAHS đối với người chấp hành án đều coi là bất
hợp pháp, là vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc pháp chế là một trong những nguyên tắc cơ bản đối với tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta hiện nay nói chung và trong tổ
chức và hoạt động thi hành án nói riêng. Đảm bảo nguyên tắc pháp chế là yêu
cầu hàng đầu trong tổ chức và hoạt động THAHS. Theo đó, trong tổ chức và
hoạt động THAHS, nguyên tắc pháp chế thể hiện ở các yêu cầu sau:
- Các văn bản pháp luật phải là cơ sở cho việc trật tự hóa và bảo đảm
ổn định các quan hệ tổ chức và hoạt động thi hành án, là cơ sở của việc xây
dựng và giải quyết các mối quan hệ nảy sinh giữa các chủ thể tham gia các
quan hệ thi hành án, là cơ sở đảm bảo mục đích và hiệu quả của hoạt động
THAHS.
- Hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động
THAHS phải tương đối đầy đủ và phù hợp. Các văn bản quy phạm pháp luật
về THAHS phải được xây dựng trên cơ sở nhận thức đúng đắn các quy luật
khách quan của sự phát triển xã hội.
- Phải tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về
THAHS. Yêu cầu đó, trước hết, phải được quán triệt trong toàn bộ công tác tổ
chức thi hành án. Các cơ quan THAHS phải xử lý nghiêm minh mọi biểu hiện
vi phạm pháp luật từ phía những người có nghĩa vụ chấp hành án và những
người có trách nhiệm tổ chức việc thi hành án, phải có trách nhiệm tổ chức thi

13


hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật, loại bỏ sự tùy tiện, vô tổ chức, thiếu kỷ luật trong lĩnh vực THAHS.
1.2.2. Nguyên tắc nhân đạo
Một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam là nguyên
tắc nhân đạo. Nguyên tắc này được biểu hiện rõ nét nhất trong ngành
pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, và cả trong pháp luật THAHS.
Trong pháp luật THAHS, nguyên tắc nhân đạo biểu hiện chủ yếu ở các
mặt sau:
- Trong mục đích của hoạt động THAHS: Mục đích của hoạt động
THAHS là nhằm thực thi công lý, bảo đảm sự công bằng cần thiết cho
mọi thành viên trong xã hội trước pháp luật, từ đó bảo vệ có hiệu quả các loại
lợi ích trong xã hội.
- Trong biểu hiện cụ thể, nguyên tắc nhân đạo thể hiện ở việc pháp luật
nghiêm cấm các hành vi đày đọa, hành hạ về thân thể, các hành vi xâm phạm
nhân phẩm, danh dự đối với những người chấp hành án phạt tù. Nguyên tắc
nhân đạo cũng thể hiện ở quy chế giảm, miễn, hoặc tạm đình chỉ thi hành án
phạt tù, ở việc quy định rõ chế độ sinh hoạt, ăn ở học tập, lao động nghề
nghiệp trong thời gian thi hành án phạt tù để một mặt, hình thành thói quen
sinh hoạt cộng đồng, ý thức tôn trọng cộng đồng, ý thức tuân thủ, phục tùng
pháp luật của người phải chấp hành hình phạt, mặt khác, tránh tâm lý mặc
cảm, tự ti, hằn học, ác cảm, đó kỵ, thù địch, xa lánh cộng đồng…của những
người này sau khi hết thời hạn chấp hành hình phạt để giúp họ dễ dàng tái hòa
nhập cộng đồng; ở chính sách đối với người chưa thành niên: “Thi hành án
đối với người chưa thành niên chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa
sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành người có ích cho xã hội”; ở các chế
độ với người chấp hành án phạt tù là phụ nữ có thai; khuyến khích người chấp


14


hành án ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo, tự nguyện bồi
thường thiệt hại.
Nguyên tắc nhân đạo luôn được đặt cạnh nguyên tắc pháp chế trong
pháp luật THAHS.
1.2.3. Nguyên tắc dân chủ
Theo Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam nguyên tắc dân chủ thể
hiện quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng, ban hành và thực hiện
pháp luật. Các văn bản pháp luật được ban hành cần phải thể hiện ý chí của
nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân.
Dân chủ hóa xã hội vừa là mục tiêu vừa là nguyên tắc xuyên suốt quá
trình đổi mới ở nước ta, nhất là trong điều kiện vấn đề xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN đã được nêu thành một nguyên tắc hiến định. Trong lĩnh
vực tổ chức và hoạt động THAHS nguyên tắc dân chủ thể hiện ở các yêu cầu
sau:
- Tính dân chủ sâu sắc trong toàn bộ các nguyên tắc được quy định sử
dụng trong THAHS phải được thể hiện trong các quy phạm pháp luật, các
thiết chế bảo đảm THAHS.
- Xác lập cơ sở pháp lý và cơ chế thực hiện THAHS theo hướng bảo
đảm cho các tổ chức xã hội, tập thể lao động và mọi công dân tham gia vào
quá trình thi hành án và thực hiện quyền kiểm tra, giám sát xã hội đối với toàn
bộ hoạt động THAHS – Thiết lập những hình thức tổ chức dân chủ phù hợp
với việc thi hành từng loại án cụ thể. Những hình thức đó cần được thiết lập
cụ thể trong quá trình thi hành từng loại án nhằm khuyến khích, động viên
những người có nghĩa vụ chấp hành án, thực hiện tốt nghĩa vụ của mình.
Chẳng hạn, trong việc thi hành án phạt tù, các hình thức tự quản của phạm
nhân được tổ chức nhằm phát huy tích cực, tính tự giác của phạm nhân, tạo
điều kiện thuận lợi cho công tác thi hành án của các cơ quan chức.

15


- Bảo đảm tinh công khai, minh bạch, rõ ràng trong THAHS. Trật tự,
quy trình, thủ tục thi hành án phải được quy định rõ ràng và được thực thi
nghiêm chỉnh nhằm bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể tham gia quan hệ thi hành án. Có những hình thức hữu hiệu để những
người có liên quan đến việc thi hành án được bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của mình khỏi sự xâm hại trái phép của cơ quan thi hành án, trong đó
quyền khiếu nại, tố cáo hành vi trái pháp luật của những người và những cơ
quan thi hành án với các cơ quan thẩm quyền phải được bảo đảm một cách có
hiệu lực.
1.2.4. Nguyên tắc kết hợp giáo dục, cải tạo với cưỡng chế
Nguyên tắc này đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ, đúng đắn giữa giáo dục,
thuyết phục với cưỡng chế. Tùy từng đối tượng, từng trường hợp cụ thể mà áp
dụng linh hoạt các biện pháp đó nhằm tác động có hiệu quả đến người chấp
hành án và chỉ áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết theo quy định của pháp
luật đối với người chấp hành án khi biện pháp giáo dục, thuyết phục không có
hiệu quả, tuyệt đối không được coi trọng biện pháp này mà coi nhẹ biện pháp
kia; bởi mỗi biện pháp đều có ưu điểm và thế mạnh riêng, đòi hỏi cán bộ làm
công tác THAHS ngoài việc nắm vững các quy định của pháp luật còn phải
có kiến thức chuyên sâu về nghiệp vụ chuyên ngành, có bản lĩnh chính trị,
nghề nghiệp để quyết định áp dụng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và
cưỡng chế cho phù hợp, đúng pháp luật và đem lại hiệu quả cao nhất trong
việc giáo dục, cải tạo người chấp hành án.
1.2.5. Nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của
con người và của công dân
Các quyền và tự do cơ bản của công dân là một nguyên tắc Hiến định
được ghi nhận tại các Hiến pháp ở nước ta.
THAHS là lĩnh vực hoạt động có liên quan trực tiếp tới các quyền và tự

do của con người, đặc biệt là các quyền và tự do cơ bản được quy định trong
16


Hiến pháp như: quyền tự do thân thể, quyền được bảo hộ về tính mạng, tài
sản, danh dự, sức khỏe, nhân phẩm, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an
toàn và bí mật thư tín.
Trong THAHS, nội dung của nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm các
quyền và tự do cơ bản của con người và của công dân được thể hiện chủ yếu
ở các đòi hỏi sau:
- Khi tiến hành THAHS, cơ quan và người có thẩm quyền thi hành án
phải tôn trọng và bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân,
bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo
đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật về thư tín, điện
thoại, điện tín của công dân. Trên thực tế, do hoạt động thi hành án là lĩnh vực
hoạt động đặc thù mà nhiệm vụ thực hiện hoạt động đó lại chính là sự tước
đoạt các quyền cơ bản của con người hoặc hạn chế các quyền tự do công dân
của người có nghĩa vụ chấp hành án, vì vậy, trong khi thực hiện nhiệm vụ này
vẫn thường có tình trạng các cơ quan, người có thẩm quyền thi hành án chưa
nhận thức đúng yêu cầu của nguyên tắc nói trên, dẫn đến thái độ xem thường
người có nghĩa vụ chấp hành án, không quan tâm hoặc thậm chí vi phạm các
quyền con người của họ. Đây là một thực tế cần nhanh chóng khắc phục.
- Thường xuyên kiểm tra, kiểm sát tính hợp lý của việc áp dụng các
biện pháp cưỡng chế, khi xuất hiện các điều kiện hủy bỏ hoặc khi thấy có vi
phạm pháp luật phải kịp thời hủy bỏ các quyết định đó. Cần nhận thức rằng,
việc tước đoạt hoặc hạn chế các quyền và tự do của người phải chấp hành án
chỉ có thể được tiến hành trên cơ sở và trong sự tuân thủ nghiêm minh các
quy định của pháp luật. Cơ quan, người có thẩm quyền thi hành án chỉ được
áp dụng các biện pháp cưỡng chế khi có đầy đủ các căn cứ và chỉ trong giới
hạn được pháp luật quy định.


17


- Pháp luật và các cơ quan thực thi pháp luật phải tôn trọng sự tự
nguyện thi hành, sự tự thỏa thuận thi hành của những người có nghĩa vụ thi
hành, người được thi hành và các chủ thể khác có liên quan đến việc THAHS.
Ở đây, sự tự nguyện của người phải thi hành án được coi là một trong những
yếu tố quan trọng giúp hoạt động thi hành án được diễn ra thuận lợi, có hiệu
quả và có tể xem như một thành công, một thành quả tích cực của công tác thi
hành án, là thước đo về năng lực, khả quan công tác của cơ quan thi hành án,
không chỉ giúp tránh được những chi phí không cần thiết mà còn giúp duy trì
được một quan hệ đồng thuận trong sinh hoạt xã hội.
1.2.6. Nguyên tắc phân hóa và cá thể hóa nghĩa vụ chấp hành bản án,
quyết định của Toà án
Một trong những điểm đặc thù trong tổ chức và hoạt động THAHS là
một bản án do một con người cụ thể riêng biệt có nghĩa vụ chấp hành. Để bảo
đảm cho việc THAHS đạt được mục đích đề ra thì nhất thiết phải tính đến đầy
đủ đặc thù vừa nêu. Bản án được chấp hành bởi một con người cụ thể, có
hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh xã hội riêng biệt, với nhân cách, cá tính riêng
biệt và những ưu, nhược điểm cụ thể về thể chất và tinh thần, điều đó có
nghĩa là việc đề cao nguyên tắc bình đẳng trong chấp hành bản án hoàn toàn
không thể đồng nghĩa với việc đòi hỏi người có nghĩa vụ chấp hành án phải
chấp hành một cách vô điều kiện, đánh đồng với mọi người khác mà không
tính đến những đặc điểm nhân thân riêng bệt của họ. Nói cách khác, việc phân
hóa và cá thể hóa nghĩa vụ chấp hành bản án, quy định của Tòa án phải được
xem là một nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động THAHS.
Trong giai đoạn hiện nay, một trong những yêu cầu quan trọng của
nguyên tắc này là cần tiến hành một cách công phu sự phân hóa các đối
tượng, cá thể hóa họ theo những tiêu chí khoa học chặt chẽ trên cơ sở tính

toán đầy đủ đến nhân thân, hoàn cảnh gia đình, xã hội, những ưu, nhược điểm
về thể chất và tinh thần và từ đó tiến hành xây dựng các kế hoạch, chương
18


trình với các bước cụ thể trong việc thực hiện nhiệm vụ thi hành án đối với
các cá nhân, con người cụ thể. Bằng cách đó, việc THAHS mới có thể đảm
bảo cả yếu tố nhân văn và cả hiệu quả xã hội của tội phạm, xây dựng một xã
hội đồng thuận, yên vui, hành phúc cho mọi người.
1.2.7. Nguyên tắc bảo đảm sự phối hợp giữa các cơ quan thi hành án
với các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội và mọi công dân trong
hoạt động thi hành án.
Hiệu quả của hoạt động THAHS không chỉ phụ thuộc nhiều vào sự nỗ
lực của các cơ quan THAHS chuyên trách mà còn phụ thuộc vào sự tham gia
của chính quyền địa phương, của các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã
hội và của mọi công dân.
Mối quan hệ phối hợp giữa ba cơ quan: Cơ quan Thi hành án, Tòa
án, Viện Kiểm sát giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động THAHS.
Công dân có quyền khiếu nại và tố cáo những việc làm trái pháp luật
của các cơ quan THAHS. Các cơ quan có thẩm quyền phải xem xét và giải
quyết nhanh chóng các khiếu nại và tố cáo và có biện pháp khắc phục. Công
dân phải có trách nhiệm tạo điều kiện cho các cơ quan THAHS thực hiện
được nhiệm vụ của mình.
Như vậy, một trong những điều kiện đảm bảo cho hoạt động THAHS
có hiệu quả là sự phối hợp của các cơ quan nhà nước, của các tổ chức xã hội
và công dân với các cơ quan THAHS. [14]
1.3. Thi hành án hình sự ở một số quốc gia
1.3.1. Liên bang Nga
Sau khi Liên xô sụp đổ (1991), tổ chức và hoạt động THAHS ở Liên
bang Nga có nhiều thay đổi. Bộ luật THAHS của Liên bang Nga được Duma

quốc gia Nga thông qua ngày 18-12-1996, Thượng viện Liên bang Nga phê
chuẩn ngày 25-12-1996, Tổng thống ký lệnh công bố ngày 05-01-1997.
19


×