Tải bản đầy đủ (.docx) (125 trang)

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ ÁI MỘ QUẬN LONG BIÊN – THÀNH PHỐ HÀ NỘI THEO HƯỚNG TÍCH HỢP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.04 KB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ ÁI MỘ
QUẬN LONG BIÊN – THÀNH PHỐ HÀ NỘI
THEO HƯỚNG TÍCH HỢP

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 8140114

Học viên: Ngô Thị Thúy Anh
Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN THỊ HOÀI

HÀ NỘI – 2018


2

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT( Cần bỏ bớt chữ viết tắt đê
giảm tỉ lệ sao chép)
BD: Bồi dưỡng
BGH: Ban Giám Hiệu
CBQL: Cán bộ quản lý
CM: Chuyên môn
CSVC: Cơ sở vật chất
DH: Dạy học
DHTH: Dạy học tích hợp
GD: Giáo dục
GD&ĐT: Giáo Dục và Đào Tạo


GV: Giáo viên
HĐDH: Hoạt động dạy học
HS: Học sinh
KH: Kế hoạch
PP: Phương pháp
PPDH: Phương pháp dạy học
QL: Quản lý
QLGD: Quản lý giáo dục
SGK: Sách giáo khoa
TBDH: Thiết bị dạy học
TDTT: Thể dục thể thao
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
NXB: Nhà xuất bản
XHCN: Xã hội chủ nghĩa


3

DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Kết quả khảo sát về việc dạy trên lớp của giáo viên
Bảng 2.2. Kết quả khảo sát về việc xây dựng kế hoạch dạy học

Trang 57
Trang 59

của giáo viên
Bảng 2.3. Kết quả đánh giá của CBQL, GV về kết quả dạy học tại

Trang 61


trường THCS Ái Mộ - quận Long Biên- thành phố Hà Nội
Bảng 2.4. Kết quả đánh giá về tổ chức dạy tích hợp tại trường

Trang 62

THCS Ái Mộ - quận Long Biên- thành phố Hà Nội
Bảng 2.5. Kết quả khảo sát về việc kiểm tra, đánh giá kết quả học

Trang 63

tập của học sinh tại trường THCS Ái Mộ - quận Long Biênthành phố Hà Nội
Bảng 2.6. Kết quả khảo sát về mức độ học sinh thực hiện các nội

Trang 64

dung hoạt động học tập tại trường THCS Ái Mộ - quận Long
Biên- thành phố Hà Nội
Bảng 2.7. Kết quả khảo sát về việc sử dụng thiết bị dạy học tại

Trang 66

trường THCS Ái Mộ - quận Long Biên- thành phố Hà Nội
Bảng 2.8. Kết quả khảo sát học sinh về CSVC, trang thiết bị của

Trang 67

trường THCS Ái Mộ - quận Long Biên- thành phố Hà Nội
Bảng 2.9. Kết quả khảo sát CBQL, GV về việc sinh hoạt


Trang 68

tổ/nhóm chuyên môn của giáo viên tại trường THCS Ái Mộ quận Long Biên- thành phố Hà Nội
Bảng 2.10. Kết quả khảo sát về việc sử dụng thiết bị dạy học tại
trường THCS Ái Mộ - quận Long Biên- thành phố Hà Nội
Bảng 3.1. Kết quả khảo sát tính cần thiết của các biện pháp
Bảng 3.2. Kết quả khảo sát tính khả thi của các biện pháp

Trang 70
Trang 101
Trang 103


4

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thế kỉ 21 tới đem theo những luồng gió mới và đưa đất nước ta bước vào
thời kỳ hội nhập khoa học – kỹ thuật với thế giới. Những diễn biến của tình hình
phát triển trên thế giới về khoa học – công nghệ hiện đại đã đặt ra cho nước ta
những thời cơ cũng như thách thức mới. Một trong những lĩnh vực chịu tác động
sâu sắc của bối cảnh hội nhập là GD&ĐT. Vì thế GD&ĐT phải có những đổi mới
để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương
khóa XI của Đảng đã ban hành Nghị quyết 29-NQ/TƯ ngày 4/11/2013 về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế. Nghị quyết khẳng định “ Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu
tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ
yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học .

Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công
dân”.
Tiếp theo, Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2014 về đổi
mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông cũng nêu rõ: “ Mục tiêu giáo
dục phổ thông là tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng
lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học
sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền
thống văn hóa, lịch sử, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng
thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn”. Mục tiêu và mục đích của nền giáo
dục là hình thành và phát triển nhân cách cho người học nhằm đáp ứng nhu cầu
phát triển của thời đại.


5
Theo đó, một trong những giải pháp thực hiện nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện giúp học sinh hình thành năng lực, kỹ năng và biết vận dụng kiến thức
vào cuộc sống để giải quyết các vấn đề thực tiễn được đặt ra là hoạt động dạy học
theo hướng tích hợp.
Ngoài lợi ích từ việc làm cho người học hiểu đúng bản chất của sự vật hiện
tượng trong chỉnh thể của nó, dạy học theo hướng tích hợp còn là một cách thức
hữu hiệu trong việc sử dụng kiến thức liên môn theo đặc trưng của từng nhóm bộ
môn mà không phải sử dụng quá nhiều đầu sách, nhiều bộ môn khiến cho người
học không phải chịu áp lực lớn về việc học mà vẫn phù hợp với xu thế tinh lọc
kiến thức trong giáo dục phổ thông hiện đại. Đó là cách tổng hợp các kiến thức
gần nhau, liên quan với nhau sẽ được tích hợp vào cùng một môn học. (Ví dụ:
Nhóm kiến thức Khoa học xã hội gồm các môn: Lịch sử- Địa lý…) Sự tích hợp
này sẽ làm rõ được sự gắn kết giữa các kiến thức, đồng thời tránh được sự trùng
lặp không cần thiết về nội dung của các “môn học”. Nói cách khác, dạy học tích
hợp giúp giảm tải được kiến thức không thực sự phù hợp với mục đích giáo dục, để
có điều kiện tăng kiến thức phù hợp và giúp người học có khả năng tổng hợp kiến

thức. Dạy học tích hợp là một phương thức giáo dục tiên tiến góp phần đắc lực
vào giáo dục toàn diện. Đặc biệt kì diệu là khi mỗi sự vật, hiện tượng này được
nhìn nhận trong mối quan hệ hữu cơ với các sự vật, hiện tượng khác thì sẽ khơi dậy
được cảm hứng tìm tòi, khám phá của người học và đem lại hiệu quả học tập cao
hơn.
Với việc xác định vai trò to lớn của dạy học theo định hướng tích hợp, đòi
hỏi người quản lý nhà trường phải chú trọng hơn đến việc tổ chức hoạt động dạy
học theo định hướng tích hợp. Và ngành giáo dục quận Long Biên nói chung,
trường THCS Ái Mộ nói riêng đã và đang triển khai khá hiệu quả việc tổ chức hoạt
động dạy học tích cực trên.


6
Quận Long Biên là một đơn vị hành chính trẻ mới được thành lập năm 2006,
trên cơ sở tách một phần đất tự nhiên và dân số của huyện gia Lâm, quận nằm giữa
tả ngạn sông Hồng và hữu ngạn sông Đuống. Chưa hết, địa danh Long Biên còn là
một vùng đất nổi tiếng, gắn với biết bao nhân vật và sự kiện lịch sử từ thời hai Bà
Trưng. Cùng với các truyền thống tốt đẹp ấy, giáo dục của Long Biên cũng rất khởi
sắc bởi với tư duy đổi mới của lãnh đạo Quận và xác định tầm quan trọng của giáo
dục, hệ thống giáo dục của Quận được đầu tư lớn, đồng bộ, hiện đại về cơ sở vật
chất. Đây cũng là một trong những điều kiện tiên quyết giúp ngành giáo dục quận
nhà phát triển không ngừng.
Cùng với bề dày lịch sử của quận nhà, trường THCS Ái Mộ vốn được thành
lập từ năm 1978 nằm trên địa bàn thị trấn Gia lâm nay là phường Ngọc Lâm với
diện tích 5995m2 gồm 32 phòng học, một nhà giáo dục thể chất, đủ các phòng chức
năng,khu hiệu bộ, khu sân chơi gần 2500m2. Trường đã được công nhận nhà
trường chuẩn Quốc gia từ tháng 11/2010. Với truyền thống dạy tốt, học tốt, có uy
tín cao, đội ngũ giáo viên đoàn kết, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng.
Đến nay, thầy và trò nhà trường trong 39 năm qua đã đạt được những thành tích
đáng ghi nhận. Trong đó, nổi bật là chất lượng giáo dục toàn diện đã được khẳng

định trong nhiều năm qua. Để có kết quả đáng tự hào đó, không thể không kể đến
công tác quản lý hoạt động dạy học tại trường theo định hướng dạy học tích hợp
đã được lãnh đạo nhà trường đặc biệt chú trọng, quan tâm. Nhà trường đã quán
triệt yêu cầu về nội dung tổ chức các hoạt động dạy học theo định hướng dạy học
tích hợp trở thành nội dung chính trong thi đua dạy và học. Mặc dù vậy, công tác
quản lý hoạt động dạy học theo định hướng dạy học tích hợp nhà trường cũng cần
phải được đầu tư đúng mức hơn nhằm đáp ứng xu hướng đổi mới giáo dục của thời
kỳ hội nhập.


7
Qua những năm công tác tại trường THCS Ái Mộ, tác giả nhận thấy việc
tìm hiểu thực trạng quản lý hoạt động dạy học trong nhà trường theo định hướng
dạy học tích hợp là cần thiết và phù hợp với thực tiễn. Từ đó đề xuất những biện
pháp tổ chức nhằm nâng cao chất lượng dạy học theo hướng tích hợp của nhà
trường là một vấn đề cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu vấn đề: “ Tổ
chức hoạt động dạy học tại trường trung học cơ sở Ái Mộ Quận Long Biên thành phố Hà Nội theo hướng tích hợp ”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về công tác quản lý của ban giám hiệu đối với
hoạt động dạy học theo hướng dạy học tích hợp và thực trạng quản lý hoạt động
dạy học ở trường trung học cơ sở Ái Mộ theo hướng tích hợp, đề xuất một số biện
pháp quản lý nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động dạy học theo hướng
tích hợp cho học sinh trong nhà trường trung học cơ sở Ái Mộ thuộc quận Long
Biên, thành phố Hà Nội.
3. Khách thê và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: CBQL, GV và học sinh trường THCS Ái Mộ
quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Tổ chức hoạt động dạy học tại trường THCS Ái
Mộ theo hướng tích hợp.

4. Giả thuyết khoa học
Thực hiện chủ trương dạy học tích hợp trong các môn học, công tác quản lý
hoạt động dạy học tại trường THCS Ái Mộ theo định hướng dạy học tích hợp đã có
những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế do một
số nguyên nhân chủ quan và khách quan tác động vào hoạt động này, trong đó có
công tác quản lý nói chung và tổ chức hoạt động dạy học theo định hướng tích hợp


8
nói riêng. Nếu đề xuất các biện pháp quản lý của người quản lý đối với hoạt động
dạy học theo định hướng tích cực một cách hợp lý và thiết thực thì sẽ nâng cao hơn
nữa chất lượng dạy học tại nhà trường THCS Ái Mộ đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo
dục hiện nay với định hướng dạy học theo hướng tích hợp.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học theo định hướng
dạy học tích hợp trong trường THCS Ái Mộ quận Long Biên – Thành phố Hà Nội.
5.2. Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng quản lý hoạt động dạy học
trong nhà trường THCS Ái Mộ theo định hướng dạy học tích hợp.
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học theo hướng tích
hợp nhằm nâng cao hứng thú, chất lượng dạy học, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo
dục tại trường THCS Ái Mộ.
6. Phạm vi nghiên cứu đề tài
6.1. Giới hạn đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động dạy học gồm hai nội dung: Quản lý hoạt động dạy của
giáo viên và quản lý hoạt động học của học sinh, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu
việc tổ chức hoạt động dạy của giáo viên trường THCS Ái Mộ theo hướng dạy học
tích hợp.
6.2. Chủ thể quản lý
Tham gia vào công tác quản lý hoạt động dạy học cho học sinh THCS có
nhiều cấp quản lý như Giám đốc Sở giáo dục, Hiệu trưởng, hiệu phó, giáo viên bộ

môn, phụ huynh học sinh … tuy nhiên đề tài tập trung nghiên cứu về biện pháp tổ
chức của hiệu trưởng đối với hoạt động dạy học của giáo viên theo hướng tích
hợp. Đề tài nghiên cứu theo hướng tiếp cận nội dung quản lý, tức là nghiên cứu các
nội dung tổ chức hoạt động dạy học theo hướng tích hợp.


9
6.3. Khách thể khảo sát
- Cán bộ quản lý trường THCS Ái Mộ.
- Tổ trưởng chuyên môn, giáo viên trường THCS Ái Mộ
- Số lượng khảo sát: 03 CBQL, 62 giáo viên, 434 học sinh.
6.4. Giới hạn thời gian lấy số liệu
Đề tài sử dụng các số liệu thống kê về giáo dục của trường THCS Ái Mộ từ
năm học 2014 – 2015 đến năm học 2016 – 2017.
7. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ nghiên cứu trong phạm vi giới hạn đề tài
nêu trên, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Phương pháp này được sử dụng nhằm phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa và
khái quát hóa các vấn đề lý luận từ các văn bản, tài liệu, Nghị quyết của Đảng,
Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo và Phòng giáo dục
Quận Long Biên về quản lý hoạt động dạy học theo định hướng dạy học tích hợp.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra viết
Xây dựng hệ thống các câu hỏi, các phiếu trưng cầu ý kiến dành cho cán bộ
quản lý, giáo viên về hoạt động dạy học và quản lý hoạt động dạy học theo định
hướng dạy học tích hợp.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Tiến hành trao đổi trực tiếp với cán bộ quản lý và giáo viên nhằm tìm hiểu
kỹ hơn về thực trạng hoạt động dạy học và quản lý hoạt động dạy học tại trường

THCS Ái Mộ - Long Biên theo hướng dạy học tích hợp nhằm đưa ra những kết
luận về thực trạng của vấn đề.


10
7.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
Bằng một số thuật toán của toán học thống kê áp dụng trong nghiên cứu giáo
dục, phương pháp này được sử dụng với mục đích xử lý các kết quả điều tra, phân
tích kết quả nghiên cứu, đồng thời để đánh giá mức độ tin cậy của phương pháp
điều tra.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn gồm có ba chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức hoạt động dạy học tại trường THCS theo
hướng tích hợp.
Chương 2: Thực trạng tổ chức hoạt động dạy học tại trường THCS Ái Mộ
theo hướng tích hợp.
Chương 3: Các biện pháp tổ chức hoạt động dạy học tại trường THCS Ái
Mộ quận Long Biên – thành phố Hà Nội theo hướng tích hợp.


11

CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG
DẠY HỌC TẠI TRƯỜNG THCS THEO ĐỊNH HƯỚNG
TÍCH HỢP.
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề ( Phần viết tổng quan cần có các trích
dẫn liên tục)
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
Tích hợp là một trong những xu hướng mới của lí luận dạy học và đang

được nhiều nước trên thế giới quan tâm thực hiện. Nó cũng là xu hướng dạy học
chung của nhiều quốc gia có trình độ dạy học tiên tiến như Pháp, Anh, Hoa Kỳ
Trung Quốc, Phillipin. Tại Phillipin cuốn giáo trình được biên soạn có tên Fusion
(sự hoà kết, sự hợp nhất) trong đó phối kết hợp nhiều kiến thức, kĩ năng để phát
huy sức mạnh tổng hợp đồng bộ của các phân môn trong tình huống nhận thức
cũng như trong tình huống thực tiễn. Các phân môn đều hướng tới mục tiêu chung
là hình thành, rèn luyện những kĩ năng quan trọng trong thu nạp thông tin( nên có
trích dẫn) và cung cấp thông tin. Trong chương trình cải cách giáo dục của một số
nước, quan điểm tích hợp được ghi rõ trong chương trình như là một yêu cầu bắt
buộc
Theo thống kê của Unesco, từ năm 1960 đến năm 1974 có 208 chương trình
môn khoa học thể hiện quan điểm tích hợp ở những mức độ khác nhau từ liên môn,
kết hợp đến tích hợp hoàn toàn theo chủ đề.( cần có trích dẫn)
Tháng 9 – 1968, Hội đồng liên quốc gia về giảng dạy khoa học đã tổ chức
Hội nghị tích hợp việc giảng dạy các khoa học để đưa ra các lý do phải dạy học
tích hợp các khoa học, dạy học tích hợp là gì, cách thức dạy học tích hợp và những
triển vọng của dạy học tích hợp, trong đó có nêu ra rằng: Tích hợp không chỉ diễn
ra ở nội dung mà còn tích hợp cả ở phương pháp lẫn các kĩ năng, kĩ xảo cần hình


12
thành ở người học. Tích hợp không chỉ ở một ngành học nào mà là liên ngành.
Tích hợp không chỉ ở một bậc học nào mà ở tất cả các bậc học.( Cần có trích dẫn)
1.1.2. Nghiên cứu ở trong nước
Trong những năm đầu thế kỷ XXI, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công
nghệ thông tin, đứng trước nhiệm vụ đổi mới giáo dục đào tạo nói chung và đổi
mới nội dung, phương pháp dạy học nói riêng, nhiều nhà giáo dục học, tâm lý học
đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề về đổi mới nội dung, phương pháp dạy học theo
hướng nâng cao tính hiện đại và gắn khoa học với đời sống thực tiễn sản xuất, vấn
đề lấy học sinh làm trung tâm; đều tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt

động của giáo viên và học sinh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
Đối với lĩnh vực quản lý giáo dục cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu
chủ yếu về mặt lý luận như quản lý và các chức năng quản lý, về tiêu chuẩn và các
chức năng cần có của người quản lý, về vai trò của hiệu trưởng và đội ngũ CBQL,
về sự liên hệ giữa khoa học quản lý và các khoa học khác. Cũng có những công
trình nghiên cứu về chân dung người cán bộ quản lý nhà trường. Trong các công
trình đó, các tác giả đã nhấn mạnh vai trò của quản lý trong việc thực hiện mục tiêu
giáo dục. Có thể nhắc đến một số đề tài:
Tác giả Đào Trọng Quang với bài “ Biên soạn sách giáo khoa theo quan
điểm tích hợp, cơ sở lý luận và một số kinh nghiệm”. Tác giả đã đề cập tới bản
chất của sư phạm tích hợp, quan điểm tích hợp, một số nguyên tắc chủ đạo và một
số kỹ thuật của tích hợp. [30]
Tác giả Đỗ Ngọc Thống đã nêu một hệ thống quan điểm tích hợp và dạy học
theo hướng tích hợp, đã nhấn mạnh sự khác biệt giữa cộng gộp kiến thức và tích
hợp kiến thức trong cuốn “Đổi mới dạy và học Ngữ văn ở THCS” [33]
Tác giả Trần Viết Thụ trong công trình nghiên cứu “Vận dụng nguyên tắc
liên môn khi dạy các vấn đề văn hóa trong SGK trong lịch sử THPT” đã vận dụng


13
kiến thức văn học, địa lý, chính trị vào giảng dạy bộ môn lịch sử theo quan điểm
liên môn. [34]
Tác giả Lê Trọng Sơn với công trình “Vận dụng tích hợp giáo dục dân số
qua dạy học phần sinh lý người ở lớp 9 THCS” tác giả đã nhấn mạnh việc tích hợp
dân số vào môn Sinh học 9 là thích hợp với nội dung cũng như độ tuổi của học
sinh. [32]
Tác giả Đoàn Thị Thùy Dương trong luận văn thạc sĩ với đề tài “ Rèn luyện
thao tác lập luận và so sánh cho học sinh lớp 11 theo quan điểm tích hợp và tích
cực” đã nhấn mạnh việc xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn của thao tác lập luận
so sánh để đề xuất cách thức tổ chức dạy học theo hướng tích hợp trong dạy văn

nghị luận.[9]
Các tác giả đã nghiên cứu hoạt động dạy học theo hướng tích hợp ở các nhà
trường, đồng thời giúp cho tác giả luận văn định hướng nghiên cứu đề tài của
mình.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm dạy học
- Dạy học được hiểu là một hình thức đặc biệt của giáo dục (nghĩa rộng),
xem như là một trường hợp riêng của nó (của giáo dục). Dạy học là con đường đặc
biệt quan trọng trong mối quan hệ biện chứng và phối hợp với các con đường, các
hoạt động khác trong quá trình giáo dục để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ
giáo dục đặt ra. [35; tr.15]
- Dạy học là một quá trình truyền thụ, tổ chức nhận thức kiến thức, kinh
nghiệm xã hội và nghề nghiệp cho người học nhằm hình thành và phát triển nhân
cách nói chung và nhân cách nghề nghiệp nói riêng. Dạy học bao hàm trong nó sự
học và sự dạy gắn bó với nhau, trong đó sự dạy không chỉ là sự giảng dạy mà còn
là sự tổ chức, chỉ đạo và điều khiển sự học. [23; tr.23]


14
- Dạy học là một mặt của quá trình dạy và học do người giáo viên thực hiện
theo nội dung, chương trình đào tạo đã định nhằm giúp người học đạt được các
mục tiêu học tập theo từng bài học hoặc toàn khóa đào tạo. Hoạt động dạy học
không chỉ hướng đến yêu cầu truyền thụ kiến thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo và
thái độ nghề nghiệp đúng đắn ở người học mà còn góp phần phát triển tính tích cực
và tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. [23;tr.23]
- Dạy là hoạt động của giáo viên, không chỉ là hoạt động truyền thụ cho học
sinh những nội dung đáp ứng được các mục tiêu đề ra, mà còn hơn nữa là hoạt
động giúp đỡ chỉ đạo và hướng dẫn học sinh trong quá trình lĩnh hội. Chỉ khi nào
nắm bắt được các điều kiện bên trong (hiểu biết, năng lực, hứng thú,…) của học
sinh thì giáo viên mới đưa ra được những tác động sư phạm phù hợp để hoạt động

học đạt được kết quả mong muốn.[26;tr.28]
Tóm lại “Dạy học là một bộ phận của quá trình sư phạm tổng thể, là một
trong những con đường để thực hiện mục đích giáo dục. Dạy học là hoạt động
phối hợp của hai chủ thể đó là giáo viên và học sinh. Dạy và học là hai hoạt động
được thực hiện đồng thời với cùng một nội dung và hướng tới cùng một mục đích.
Phải khẳng định rằng, nếu hai hoạt động này bị tách rời sẽ lập tức phá vỡ hoạt
động dạy học. Học tập không có giáo viên trở thành tự học, giảng dạy không có
học sinh trở thành độc thoại”.
* Chức năng của việc dạy học
Hoạt động dạy gồm hai chức năng truyền đạt và điểu khiển, luôn luôn tác
động và thống nhất với nhau. Dạy phải xuất phát từ logic khoa học của khái niệm
và logic sư phạm của tâm lý học lĩnh hội. Quá trình dạy học là một hệ toàn vẹn, ở
đó các thành tố của nó luôn luôn tương tác với nhau theo những quy luật riêng,
thâm nhập vào nhau, quy định lẫn nhau để tạo nên một sự thống nhất biện chứng.
+ Giữa dạy với học.


15
+ Giữa truyền đạt với điều khiển trong dạy.
+ Giữa lĩnh hội với tự điều khiển trong học.
Nội dung dạy học là điểm xuất phát của dạy và lại là điểm kết thúc của học.
Quá trình dạy học là hoạt động cộng đồng hợp tác giữa các chủ thể: thày - cá thể
trò, trò - trò trong nhóm, thày - nhóm trò. Sự tương tác theo kiểu cộng đồng hợp
tác giữa dạy và học là yếu tố duy trì và phát triển sự thống nhất toàn vẹn của quá
trình dạy học, nghĩa là của chất lượng dạy học. Dạy tốt, học tốt chính là bảo đảm
được ba phép biện chứng (ba sự thống nhất) nói trên trong hoạt động cộng tác. Đó
là sự thống nhất của điều khiển, bị điều khiển và tự điểu khiển, có sự đảm bảo liên
hệ nghich thường xuyên bền vững.
- Cái khác nhau của các quan niệm dạy học nằm ở chỗ đã nhấn mạnh hơn
yếu tố nào trong các chức năng của dạy và học. Theo quan niệm truyền thống nhấn

manh chức năng truyền đạt của việc dạy và chức năng lĩnh hội của việc học mà
chưa chú ý thích đáng chức năng điều khiển quá trình nhận thức, quá trình lĩnh hội
của người học của việc dạy học và tính tích cực, chủ động tự điều khiển quá trình
nhận thức của người học trong quá trình học của mình. Ngược lại theo quan niệm
về việc dạy học, người ta rất coi trọng yếu tố điều khiển sư phạm của giáo viên, ở
đây vai trò của giáo viên đã có sự thay đổi, người giáo viên phải biết gợi mở,
hướng dẫn, dạy cho người học cách tìm kiếm và xử lí thông tin, từ đó vận dụng
chúng. Tuy nhiên, muốn được như vậy cần coi trọng môi trường cộng tác giữa việc
dạy và việc học và người học phải biết tự điều khiền quá trình nhận thức của mình
thông qua việc tích cực, chủ động, tự lực chiếm lĩnh lấy nội dung học với sự hỗ trợ
của người dạy.[ 26;tr.34]
- Trong hoạt động học, người ta đã thấy được tính thống nhất của hai chức
năng vừa thu nhận kiến thức vừa kết hợp với sự tự điều khiển kiến thức của mình.
Để hoạt động học thu được kết quả tốt người học không chỉ thu nhận kiến thức mới


16
mà còn phải tích cực, tự điều khiển nhận thức của mình, tức là người học phải tích
cực, chủ động, sáng tạo tìm tòi kiến thức mới. Có như vậy thì quá trình tự thu nhận
kiến thức của người học mới thu được kết quả cao nhất và hoạt động học sẽ diễn ra
một cách tích cực.[ 23;tr.24]
* Bản chất của hoạt động học
Học sinh là chủ thể của hoạt động học tập, chủ thể có ý thức, chủ động, tích
cực và sáng tạo trong nhận thức và rèn luyện nhân cách. Mọi hoạt động đều có ý
thức. Việc học tập càng phải có ý thức. Người học phải xác định được mục đích
học tập, có động cơ và thái độ học tập đúng, có kế hoạch học tập chủ động và luôn
tích cực thực hiện tốt kế hoạch đó. Tích cực học tập thể hiện ở cả hai mặt: chuyên
cần và tính sâu sắc trong các hoạt động trí tuệ. Cách học tích cực thể hiện trong
việc tìm hiểu, xử lý thông tin và vận dụng chúng vào việc giải quyết các nhiệm vụ
học tập vào thực tiễn cuộc sống, thể hiện trong sự tìm tòi khám phá vấn đề mới

bằng phương pháp mới, cái mới không phải là sự sao chép mà là sự sáng tạo của
mỗi cá nhân.
Mặc dù học sinh là chủ thể của hoạt động học là chủ thể tích cực trong nhận
thức, rèn luyện và tu dưỡng bản thân, tuy nhiên học sinh còn là đối tượng giảng
dạy và giáo dục của thầy giáo, là người phải tiếp thu sự chỉ dẫn dạy bảo từ phía
thầy giáo. Người học quyết định chất lượng học tập của mình[ 35; tr.22]
* Mối quan hệ giữa hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò
- Hoạt động dạy và hoạt động học là hai mặt của một quá trình luôn gắn bó
không tách rời nhau, tác động qua lại bổ sung cho nhau, thống nhất biện chứng với
nhau, quyết định lẫn nhau, thâm nhập vào nhau tạo thành một hoạt động chung
nhằm giúp cho người học phát triển trí tuệ, góp phần hoàn thiện nhân cách.
- Quá trình dạy học là chuỗi liên tiếp các hoạt động dạy của giáo viên và
hoạt động học của học sinh. Hai hoạt động này đan xen, hỗ trợ nhau cùng phát


17
triển, luôn luôn tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, sinh thành ra nhau, giáo
viên thể hiện vai trò chủ đạo hướng học sinh vào những hoạt động có mục đích và
nội dung cụ thể.
- Mỗi hành động thao tác của giáo viên được nối tiếp bằng các hành động,
thao tác của học sinh, nhờ sự nối tiếp đó mà hoạt động dạy và hoạt động học được
được kết hợp nhuần nhuyễn với nhau. Tuy nhiên hai hoạt động này phải được diễn
ra trong môi trường kinh tế – xã hội với những hoàn cảnh, tình huống và thời gian
nhất định và được kiểm tra đánh giá kết quả cụ thể.
- Hoạt động dạy và hoạt động học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thể
hiện ở mối quan hệ tương tác giữa các thành tố: mục tiêu, nội dung, phương pháp
của hoạt động dạy và hoạt động học.
- Phân tích mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học, chúng ta có
thể đi đến kết luận: Hoạt động học, trong đó có hoạt động nhận thức của học sinh
có vai trò quyết định kết quả dạy học. Để hoạt động học có kết quả thì trước tiên

chúng ta phải coi trọng vai trò người giáo viên, giáo viên phải xuất phát từ lôgíc
của khái niệm khoa học, xây dựng công nghệ dạy học, tổ chức tối ưu hoạt động
cộng tác của dạy và học, thực hiện tốt các chức năng của dạy cũng như của học,
đồng thời bảo đảm mối liên hệ với học sinh thường xuyên, bền vững. Vì vậy, muốn
nâng cao mức độ khoa học của việc dạy học ở trường phổ thông thì người hiệu
trưởng phải đặc biệt chú ý hoàn thiện hoạt động dạy của giáo viên; hỗ trợ cho họ
trong quá trình dạy sẽ hình thành và phát triển ở học sinh các phương pháp, cách
thức phát hiện lại các thông tin học tập. Đây là khâu cơ bản để tiếp tục hoàn thiện
tổ chức hoạt động học của học sinh.[ 38;tr.30]


18
1.2.2. Khái niệm tích hợp
Tích hợp (tiếng Anh: Integration) có nguồn gốc từ tiếng Latinh, với nghĩa
xác lập lại cái chung, cái toàn thể, cái thống nhất trên cơ sở những bộ phận riêng
lẻ. ( Cần phải bổ sung trích dẫn)
Integration (n)/ integrate (v) trong tiếng Anh có nghĩa là hợp lại thành một
hệ thống thống nhất, sự bổ sung thành thể thống nhất, sự hợp nhất, sự hòa hợp với
môi trường, (tiếng Anh – Mỹ còn có nghĩa sự hòa hợp chủng tộc, sự mở rộng cho
mọi chủng tộc). ( Cần phải bổ sung trích dẫn từ điển )
Trong tiếng Việt, tích hợp được ghép từ hai từ tích và hợp. Tích: (danh từ) là
kết quả của phép nhân; (động từ): dồn góp từng ít cho thành số lượng đáng kể
Hợp:(danh từ): tập hợp mọi phần tử của các tập hợp khác; (động từ): gộp chung;
(tính từ): không mâu thuẫn, đúng với đòi hỏi. Tích hợp: lắp ráp, kết nối các thành
phần của một hệ thống theo quan điểm tạo nên một hệ thống toàn bộ. [37; tr 981)
Tác giả ? “Tích hợp giáo dục là quá trình học sinh dưới sự chỉ đạo của giáo
viên thực hiện việc chuyển đổi liên tiếp các thông tin từ ngôn ngữ của một môn
học sang ngôn ngữ môn học khác mà nhờ quá trình đó học sinh nắm vững kiến
thức, hình thành khái niệm, phát triển các phẩm chất cá nhân”.[8; tr.45]
Tác giả ? “Tích hợp là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống các kiến

thức (khái niệm) thuộc các môn học khác nhau thành một nội dung thống nhất, dựa
trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập trong các môn học
đó”. [6; tr.7]
Như vậy, tích hợp có thể hiểu là sự kết hợp, sự hợp nhất, sự hòa nhập các bộ
phận, các phần tử khác nhau thành một thể thống nhất.
Quan điểm tích hợp trong dạy học thường được thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Tích hợp nhiều kĩ năng trong một môn học.
- Tích hợp kiến thức các môn học khác qua môn học đang dạy.


19
- Tích hợp chương trình chính khoá và ngoại khoá.
- Tích hợp kiến thức lí thuyết và thực tiễn.
- Tích hợp những kiến thức, kĩ năng, thái độ cần được dạy trong tất cả các
môn học, bao gồm khả năng sử dụng ngôn ngữ, tình cảm với gia đình, quê hương,
đất nước, những hiểu biết cơ bản về môi trường, khoa học, năng lực suy nghĩ và
năng lực tìm tòi, nghiên cứu…
1.2.3. Dạy học theo hướng tích hợp
Theo Từ điển Giáo dục học: Dạy học tích hợp là hành động liên kết các đối
tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác
nhau trong cùng một kế hoạch dạy học.
Dạy học tích hợp là hoạt động dạy học đòi hỏi nhiều sự đầu tư của GV cho
mỗi bài dạy, không chỉ về kiến thức, về PP mà còn cả về hoạt động tìm hiểu HS.
GV cần biết HS đã được trang bị những kiến thức gì trước khi học một bài cụ thể,
HS cần được học cái gì trong bài học này, làm thế nào để HS có thể hứng thú với
kiến thức mới ấy, phương pháp GV đưa ra có phù hợp với đối tượng HS chưa...
Về mặt nội dung, dạy học tích hợp cần bắt đầu từ việc dạy những kiến thức
cơ bản nhất và hữu dụng nhất. Kiến thức dù ở thời đại nào cũng sẽ nhanh chóng trở
nên lạc hậu nếu không được thường xuyên bổ sung cập nhật, trong khi đó thời gian
HS học trong nhà trường phổ thông lại có hạn cho nên nhà trường không thể dạy

HS theo lối “nhồi nhét” kiến thức. Việc trang bị cho HS những kiến thức cơ bản và
cùng với nó là PP học tập khoa học là rất cần thiết để giúp HS có khả năng tự học,
tự làm giàu thêm tri thức của bản thân.
Về mặt PP, dạy học tích hợp dựa trên cơ sở vận dụng những gì HS đã biết
để hướng dẫn HS tiếp cận một kiến thức mới, tức là dạy HS cách chiếm lĩnh kiến
thức. Muốn khơi gợi được thái độ học tập chủ động của HS, GV cần tạo ra được
những vấn đề có sự mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết, sau đó dẫn dắt HS


20
tìm câu trả lời cho cái chưa biết. Khi tham gia vào hoạt động học tập, HS cùng lúc
phải thực hiện nhiều thao tác: quan sát, phân tích, nêu nhận xét…và nhiều kĩ năng
như: cách ứng xử khi làm việc với tập thể, cách tranh luận, bày tỏ ý kiến, huy động
kiến thức đã biết về môn học hoặc những kiến thức có liên quan để giải quyết vấn
đề, … Còn GV có vai trò là người hướng dẫn, điều chỉnh, nhận xét để giúp HS
nhận ra vấn đề (về kiến thức, về cách thức làm việc, về thái độ cần có khi tham gia
thảo luận…).
1.2.4. Tổ chức hoạt động dạy học theo hướng tích hợp
1.2.4.1. Dạy và học qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Trong phương pháp dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt động
"dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt động
học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự khám phá những điều
mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên
sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp
quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của
mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp "làm ra"
kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và
phát huy tiềm năng sáng tạo.
Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà
còn hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh biết

hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.
1.2.4.2. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh
không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy
học. Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin, khoa
học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão - thì không thể nhồi nhét vào đầu óc


21
học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho học sinh
phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải
được chú trọng.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện
cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho
họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ
được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học
trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự
học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ
tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo
viên.
1.2.4.3. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể
đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự
phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học
được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.
Áp dụng phương pháp tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này càng
lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp
ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học
sinh.
Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được

hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp
thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường
chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến
mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên


22
một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của
người thầy giáo.
Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm,
tổ, lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác
trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là
lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp
giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ
sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc
lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Mô hình hợp
tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần
với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia,
liên quốc gia; năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà
trường phải chuẩn bị cho học sinh.
1.2.4.4. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định
thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện
nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây, giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp
tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự
điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi
để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt
động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường

phải trang bị cho học sinh.


23
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con
người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá
không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà
phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình
huống thực tế.
Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là
một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời hơn
để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng
vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế,
tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực
chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ
theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính, giáo viên có
vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo viên đã phải đầu tư công
sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện bài
lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các
hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh. Giáo viên phải có trình
độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng
dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo
viên.
1.3. Hoạt động dạy học tại trường trung học cơ sở theo hướng tích hợp
1.3.1. Vị trí, nhiệm vụ và quyền hạn của trường trung học cơ sở
Điều 2 và Điều 3 Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ
thông và trường phổ thông có nhiều cấp học, Ban hành kèm theo Thông tư số:
12/2011/TT-BGDĐT ngày 23/8/2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy
định:[5]



24
Điều 2. Vị trí của trường trung học trong hệ thống giáo dục quốc dân
Trường trung học là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục quốc
dân. Trường có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng.
Điều 3. Nhiệm vụ và quyền hạn của trường trung học
Trường trung học có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục tiêu,
chương trình giáo dục phổ thông dành cho cấp THCS và cấp THPT do Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Công khai mục tiêu, nội dung các hoạt động
giáo dục, nguồn lực và tài chính, kết quả đánh giá chất lượng giáo dục.
2. Quản lý giáo viên, cán bộ, nhân viên theo quy định của pháp luật.
3. Tuyển sinh và tiếp nhận học sinh; vận động học sinh đến trường; quản lý
học sinh theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
4. Thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục trong phạm vi được phân công.
5. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực cho hoạt động giáo dục. Phối
hợp với gia đình học sinh, tổ chức và cá nhân trong hoạt động giáo dục.
6. Quản lý, sử dụng và bảo quản cơ sở vật chất, trang thiết bị theo quy định
của Nhà nước.
7. Tổ chức cho giáo viên, nhân viên, học sinh tham gia hoạt động xã hội.
8. Thực hiện các hoạt động về kiểm định chất lượng giáo dục.
9. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
1.3.2. Xác định mục tiêu, nội dung, chương trình dạy học bám sát vào
quan điểm tích hợp.
1.3.2.1. Mục tiêu của giáo dục trung học cơ sở
“Giáo dục THCS nhằm giúp HS củng cố và phát triển những kết quả của
giáo dục tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban



25
đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học THPT trung cấp, học nghề hoặc đi
vào cuộc sống lao động” [21, tr.75].
Xác định đúng đắn mục tiêu giáo dục trong từng thời kỳ phát triển của đất
nước có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thành các mục tiêu xã hội và
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu giáo dục như là một phần định hướng,
chỉ đường cho các khuôn mẫu phát triển và làm nền tảng cho sự vận động của tình
hình hiện tại đến tương lai.
Để nền giáo dục Việt Nam phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn thì việc phát
huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững. Khi
bước vào thời kỳ mới, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: Mục tiêu chủ yếu là thực
hiện giáo dục toàn diện; đức dục; trí dục; thể dục; mỹ dục ở tất cả các bậc học.
Ngoài ra các mục tiêu cụ thể nhằm xác định nhằm thực hiện phổ cập giáo dục tiểu
học trong cả nước năm 2000, phổ cập giáo dục THCS năm 2010, phổ cập bậc trung
học năm 2020.
Giáo dục THCS bảo đảm phần lớn thanh, thiếu niên trong độ tuổi phổ cập
giáo dục ở thành thị và vùng nông thôn có đủ kiến thức để học THPT, trung cấp
chuyên nghiệp hoặc đào tạo nghề. Từ đó, tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa
tuổi được học tập thường xuyên, học tập suốt đời.
Để xác định mục tiêu dạy học cho từng bài học, từng tiết dạy cụ thể, GV cần
bám sát vào mục tiêu chung và theo quan điểm đổi mới, trong đó có mục tiêu dạy
học theo hướng tích hợp.
1.3.2.2. Nội dung giáo dục trung học cơ sở.
Khoản 1, Điều 24 Luật Giáo dục quy định: Nội dung GD phổ thông phải
đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và hệ thống:
Gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của HS, đáp
ứng mục tiêu giáo dục ở mỗi bậc học, cấp học.



×