Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

VẤN ĐỀ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ TẠI HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.71 KB, 99 trang )

VẤN ĐỀ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ
CẤP CƠ SỞ TẠI HUYỆN CHÂU THÀNH,
TỈNH AN GIANG HIỆN NAY


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội Đảng XII khẳng định: Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực xã hội chủ nghĩa thuộc về nhân dân… Dân
chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình
đưa ra quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, tự nêu
sáng kiến, tranh luận đến giám sát thực hiện… Đặc biệt, Đại hội Đảng XII
tiếp tục nhấn mạnh: “tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở” [20, tr 38].
Để phát huy dân chủ trong toàn xã hội, khâu quan trọng nhất là việc
phát huy dân chủ ở cơ sở. Thực hiện được dân chủ ở cơ sở sẽ đảm bảo cho
người dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và rộng rãi nhất. Dân chủ ở cơ
sở là một trong những khâu quan trọng nhất, cấp bách nhất trong công cuộc
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Ngày 18- 02- 1988, Bộ
chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Namv(khóa VIII)
đã ra chỉ thị số 30/CT- TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở. Chính phủ đã ban hành Nghị định: 29/ 1998/ NĐ/ CP Quy chế thực hiện
dân chủ ở xã (11- 05- 1998). Ngày 28- 03- 2002. Ban Bí thư Trung ương
Đảng (khóa IX) ra chỉ thị số 10- CT/ TW tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng
và thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở.
Qua thực tế hai mươi năm thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở, nèn
dân chủ ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng như: Đã phát huy
được quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân, đã khơi nguồn và tạo ra


được sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của tất cả các tang lớp nhân dân.

3


Vì vậy, trong suốt 20 năm qua, nước ta đã giữ vững được ổn định chính trị xã hội, tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương và trên phạm
vi cả nước, củng cố hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc. Cũng qua thực hiện
dân chủ ở cơ sở, việc xây dựng Đảng ngày càng được củng cố, chính quyền
từ cơ sở đến trung ương ngày càng hoàn thiện và vững mạnh, Mặt trận và
các tổ chức chính trị - xã hội cũng không ngừng được đổi mới và vững
mạnh. Thực hiện dân chủ ở cơ sở đã làm cho việc xây dựng nền văn hóa
Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc đạt được nhiều thành tựu, việc xây dựng
Quy ước, Hương ước, lễ hội… giữ được các phong tục tập quán tốt đẹp,
giảm bớt các hủ tục văn hóá, phong tục lạc hậu… Nhưng cũng qua 20 năm
thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở cũng đã chỉ ra một số mặt hạn chế, bất
cập như: Một số số cơ sở vẫn chưa nghiêm túc trong thực hiện Chỉ thị 30
của Bộ chính trị. Một số nơi thì vẫn còn hình thức, chưa thành nền nếp,
không đồng bộ nên chưa huy động được sức mạnh tiềm tàng ở trong dân.
Việc tổng kết kinh nghiệm thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở không được
coi trọng, việc phát hiện những nhân tố mới còn chậm, việc chỉ đạo còn bất
cập. Vì vậy, kết quả của việc phát huy dân chủ ở cơ sở chưa cao dẫn đến
hạn chế của việc tạo ra sức mạnh toàn dân trong ổn định chính trị - xã hội,
phát triển kinh tế - xã hội, phát triển văn hóa- xã hội, bảo đảm an ninh,
quốc phòng… chưa được như mong muốn. Chính vì thế, việc tiếp tục
nghiên cứu thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở luôn là yêu cầu cấp bách
trong việc tiếp tục xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở từng địa
phương cũng như trên phạm vi cả nước
Trong 20 năm thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở, huyện Châu Thành
tỉnh An Giang cũng đã đạt được những thành công nhất định như:
-


Dưới sự lãnh đạo, quản lý của Đảng bộ và chính quyền huyện Châu

4


Thành, với việc tham gia tích cực của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội cùng với sự tham gia rộng rãi của nhân dân huyện Châu
Thành, quyền làm chủ của nhân dân huyện Châu Thành được khơi nguồn
và phát huy ở mức độ cao hơn so với các giai đoạn trước. Bầu không khí
dân chủ đã được tạo ra ở các thôn, ấp, ở các xã và toàn bộ huyên Châu
-

Thành.
Chính do thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở mà trong 20 năm qua, huyện
Châu Thành, tỉnh An Giang đã đạt được nhiều thành tích hơn so với các
huyện khác trong tỉnh An Giang. Về cơ bản, huyện Châu Thành đã đảm
bảo tốt việc giữ vững ổn định chính trị- xã hội, phát triển kinh tế - xã hội,

-

phát triển văn hóa- xã hội, đảm bảo sức mạnh của quốc phòng, an ninh…
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở, huyện Châu
Thành cũng đang bộc lộ những mặt hạn chế như: Nhiều thôn, ấp, xã,
phường vẫn còn tình trạng người dân bức xúc, một số đảng viên và cán bộ
chính quyền, đoàn thể chưa thực sự gương mẫu…; Với mong muốn nghiên
cứu đề xuất một số giải pháp, góp phần khắc phục những mặt hạn chế, bất
cập nêu trên, em đã lựa chọn đề tài: “Vấn đề thực hiện quy chế dân chủ cấp
cơ sở tại huyện Châu Thành, tỉnh An Giang hiện nay” làm đề tài luận văn
Thạc sĩ Triết học của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
2.1. Các công trình nghiên cứu về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Trước hết là những bài viết, bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về dân chủ ở nước ta. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ Tịch
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề dân chủ. Trước cách mạng
tháng 8- 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bàn đén nhiều phương diện phát
huy dân chủ để khơi dậy sức mạnh của toàn dân tộc tiến hành thắng lợi

5


cách mạng tháng 8 năm 1945. Sau 1945 và trong cuộc trường kì kháng
chiến chống Pháp (1945-1954), Chủ tịch Hồ Chí Minh đều nhấn mạnh đến
vấn đề dân chủ nhằm tạo ra sức mạnh toàn dân tộc để giữ vững thành quả
của cách mạng tháng 8 – 1945, bảo vệ và phát triển chính quyền non trẻ sau
cách mạng, tạo ra sức mạnh toàn dân tọc chiến thắng thực dân Pháp với
trận Điện Biên Phủ oai hùng (1954). Từ năm 1954 đến khi từ trần(9-1969),
Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục nhấn mạnh đến vấn đề dân chủ nhằm
đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiếp tục cuộc
đấu tranh cách mạng ở miền Nam thống nhất đất nước. Có thể nói, những
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ ở nước ta là khuôn
vàng thước ngọc, là kim chỉ nam cho Đảng, cho các nhà nghiên cứu khi
nghiên cứu về vấn đề dân chủ ở nước ta
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay, qua các văn kiện
của Đại hội Đảng đều nhấn mạnh đến vấn đề dân chủ, dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Đặc biệt từ Đại hội Đảng VI (1986) đến Đại hội Đảng XII (2011)
vấn đề dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã được nhận thức
ngày càng sâu sắc hơn. Những quan điểm của của Đảng Cộng sản Việt
Nam về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là những thành tựu
lý luận to lớn đóng góp vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin.

Các nhà nghiên cứu lý luận về dân chủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam đều có rhể lấy những định hướng nghiên cứu từ những luận
điểm về lý luận cũng như thực tiễn về vấn đề dân chủ, dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Những nhà nghiên cứu chính trị nổi tiếng ở nước ta cũng như ở nước
ngoài dù ít hay nhiều đều đề cấp đến vấn đề dân chủ, dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Trong 32 năm Đổi mới đất nước đã có hàng trăm công

6


trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Những bài nghiên cứu này có gía trị khoa học và thực tiễn song
cũng cấn có cơ quan tổng hợp lại để làm thành bộ tư liệu quí báu cho
những nhà nghiên cứu thế hệ sau. Ở bản luận văn Thạc sĩ Triết học này, em
xin chỉ nêu ra một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu sau:
-

Trong tác phẩm: “ Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”,
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội (2001), tác giả Nguyễn Phú Trọng, Trần
Xuân Sầm đã đề cập đến nền dân chủ xã hội chgủ nghĩa, đã xác định chất
lượng đội ngũ cán bộ có gắn bó với việc nhận thức và thực hiện nhiệm vụ
liên quan đến việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thời kì đẩy

-

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, chương trình cao cấp, tập 1, Nxb
chính trị quốc gia, Hà Nội 1996 đã đề cập toàn diện vấn đề dân chủ và nền

dân chủ xã hội chủ nghĩa. Các tác giả đã luận giải khái niệm dân chủ, quan
điểm tư sản về dân chủ và dân chủ kiểu tư sản, quan điẻm vô sản về dân
chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa; hệ thống chính trị với tư cách là cơ chế
thực hiện dân chủ; dân chủ và hệ thống chính trị trong thời kì quá độ lên

-

chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
Tác phẩm “Tư tưởng chính trị của Lê nin từ cách mạng Nga đến cách mạng
Việt nam” Nxb lý luận chính trị, Hà Nội 2004, tác giả Đỗ Tư đã đề cập đến
dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tác phẩm : “Xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân ở Việt
Nam”, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Tác giả Phùng Văn Tửu đã
trực tiếp bàn đến vấn đề chính quyền nhà nước của dân, do dân và vì dân
trong việc phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong tác phẩm: “Hệ
thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội ở miền Bắc nước

7


ta” Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tác giả Nguyễn Quốc Phẩm trực
-

tiếp bàn đến quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội ở miền núi
Trong tác phẩm “Thời kì mới và sứ mệnh của Đảng ta” Nxb chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001, tác giả Phạm Ngọc Quang, Trần Đình Nghiêm đã bàn
đến vấn đề dân chủ; nhân quyền chỉ được đảm bảo trong một nền chính trị
nhất nguyên. Tác giả phân tích vấn đề dân chủ, nhân quyền xã hội chủ
nghĩa và sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo tác giả,
để một Đảng duy nhất lãnh đạo mà có dân chủ xã hội chủ nghĩa thì phải

phát huy sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Tác giả
nhấn mạnh việc phát huy sức mạnh của toàn dân tộc sẽ không thực hiện
được nếu không gắn với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới
sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân
2.2. Các công trình nghiên cứu về dân chủ cơ sở, Quy chế dân chủ
cơ sở
- Đây là các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến đề tài
Luận văn
Hai mươi năm qua, có hàng trăm các bài nghiên cứu của các tác giả
nổi tiếng ở Việt Nam nghiên cứu về vấn đề dân chủ cơ sở, Quy chế dân chủ
cơ sở. Trong giới hạn của Luận văn, em chỉ xin được tóm tắt một số tác

-

phẩm, tác giả tiêu biểu sau:
Trong tác phẩm “Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã- một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Tác giả Dương Xuân
Ngọc đã phân tích rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc thực hiện
dân chủ ở cấp xã. Những vấn đề lý luận như dân chủ, dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở cấp cơ sở (cấp xã), những vấn đề thực tiễn như thực trạng dân chủ ở
cấp xã, nội dung, nhiệm vụ, giải pháp của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở

-

cấp xã.
Ở tác phẩm: “Thực hiện Quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền ở cấp
xã hiện nay”, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Tác giả Nguyễn Văn

8



Sáu - Hồ Văn Thông đã đề cập đến tầm quan trọng của việc thực hiện Quy
chế dân chủ, chỉ rõ mối liên hệ giữa việc thực hiện Quy chế dân chủ với
-

việc xây dựng chính quyền cấp xã
Trong tác phẩm “Thực hiện dân chủ ở cơ sở qua thực tiễn Viẹt Nam và
Trung Quốc”, Tạp chí Cộng sản - Tạp chí Cầu thị, Hà Nội, 2004, nhiều nhà
nghiên cứu đã đề cập trực tiếp, toàn diện đến dân chủ cơ sở và Quy chế dân
chủ cơ sở. Trong bài viết “Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong công cuộc đổi
mới ở Việt nam (báo cáo đề dẫn hội thảo, tác giả Lê Hữu Nghĩa nhấn mạnh:
Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng viẹc phát huy dân chủ ở cơ sở. Tác
giả cũng đã nêu rõ những mặt thành công và hạn chế cũng như chỉ ra
nguyên nhân của hạn chế sau 05 năm nước ta thực hiện Quy chế dân chủ ở

-

cơ sở.
Ở bài viết “Phát huy dân chủ ở cơ sở”, tác giả Hà Đăng đã làm rõ vấn đề:
Dân chủ cơ sở và chế độ làm chủ của nhân dân, dân chủ đại diện và dân
chủ trực tiếp, dân chủ ở cơ sở và cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”, dân chủ cơ sở và hệ thống chính trị ở cơ sở. Cũng trong bài viết
“Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi mới ở Việt Nam”, tác giả
Nguyễn Duy Qúy đã đề cập đến vấn đề: Dân chủ - mục tiêu và động lực
của đổi mới và phát triển ở Việt Nam; dân chủ ở cơ sở nước ta- từ nhận
thức lý luận đến hành động thực tiễn. Tác giả đã làm rõ hơn vấn đề dân chủ
ở cơ sở là giải quyết vấn đề lợi ích, trước hết là lợi ích vật chất, lợi ích phải
công bằng và quyền phải là thực quyền, mọi người phải được làm tất cả
những gì mà pháp luật không cấm. Tác giả cũng đã phân tích tầm quan


-

trọng của dân chủ ở cơ sở, làm rõ hơn khái niệm cơ sở…
Trong bài “Dân chủ ở cơ sở và hệ thống chính trị cơ sở”, tác giả Hữu Thọ
nêu ra: Những vấn đề gì cần bàn với dân, việc gì phải để dân quyết định,
việc gì phải báo cáo rộng rãi với dân… Tác giả cũng đã đặt câu hỏi là làm
thế nào để việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở được đều khắp và trở

9


-

thành nền nếp thường xuyên?
Cũng trong bài viết “Dân chủ ở cơ sở - Một sức mạnh truyền thống của dân
tộc Việt Nam”, tác giả Trần Bạch Đằng đã nêu ra một số vấn đề mang tính
giải pháp như: Pháp luật phải rõ ràng cho nhân dân hiểu và thực hiện, nhất
là những vấn đề liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhân dân dân ở cơ sở;
phải cần tham khảo ý kiến của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội; báo chí phải giúp nhân dân thực hiện quyền dân chủ và đấu tranh
chống tiêu cực; củng cố chính quyền cơ sở và đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất

-

năng lực là vấn đề quan trọng hàng đầu
Những tác phẩm bàn đến dân chủ cơ sở, Quy chế dân chủ cơ sở đã nêu trên
đều đề cập đến các vấn đề lý luận và thực tiễn trọng tâm như: Quan niệm
về dân chủ cơ sở, vị trí của dân chủ cơ sở, nội dung của Quy chế dân chủ
cơ sở, những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở,
những giải pháp nhằm thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã. Phường trong
từng giai đoạn từ 1998 đến nay. Những vấn đề trên là những tư liệu vô

cùng quan trọng trong việc tiếp tục nghiên cứu việc thực hiện Quy chế dân
chủ trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn phân
tích khách quan thực trạng và chỉ rõ nguyên nhân, đề xuất những giải pháp
cơ bản nhằm thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở huyện Châu Thành, tỉnh
An Giang trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu của Luận văn
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là quá trình nhận thức và hành
động trong việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở huyện Châu Thành, tỉnh
An Giang.
5. Giả thuyết khoa học
Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở huyện Châu Thành tỉnh An

10


Giang là giải quyết mắt khâu quan trọng nhất trong việc phát huy quyền
làm chủ của nhân dân huyện Châu Thành. Thực hiện - các giải pháp mà
luận văn nêu ra sẽ phát huy cao độ sức mạnh của toàn thế nhân dân, nhằm
đưa huyện Châu Thành giữ vững ổn định chính trị xã hội phát triển kinh tế,
văn hóa, giáo dục, quốc phòng, an ninh… Góp phần đưa tỉnh An Giang
cũng như đất nước vững bước trên con đường đổi mới và hội nhập quốc tế.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khẳng định vai trò của dân chủ cơ sở, Quy chế dân chủ cơ sở ở
huyện Châu Thành tỉnh An Giang
- Phân tích thực trạng của việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở
Huyện Châu Thành tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay
- Đề xuất giải pháp để nâng cao hiệu quả việc thực hiện Quy chế dân
chủ ở huyện Châu Thành tỉnh An Giang hiện nay.

7. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt không gian: Nghiên cứu việc thực hiện Quy chế dân chủ ở
xã, thị trấn tại huyện Châu Thành tỉnh An Giang
- Về mặt thời gian: Từ 2008 – nay.
8. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa Mác – Lênin.
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: Phương pháp khái
quát hóa, phương pháp logic – lịch sử, phương pháp phân tích, thống kê…

11


9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
gồm 2 chương và 6 tiết.
10. Những luận điểm cơ bản và những đóng góp mới của Luận văn
10.1. Những luận điểm cơ bản
- Dân chủ ở cơ sở, Quy chế dân chủ ở cơ sở là khâu cơ bản nhất
trong tiến trình xây dựng quyền làm chủ của nhân dân huyện Châu Thành,
tỉnh An Giang.
- Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở huyện Châu Thành, tỉnh An
Giang là một quá trình trải qua nhiều giai đoạn, trong đó ở mỗi giai đoạn
đều có những thành tựu và những hạn chế, bất cập. Vấn đề đặt ra là phải
tìm nguyên nhân của những hạn chế đó để đề xuất các giải pháp khắc phục
nhằm phát huy dân chủ cơ sở ở huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, tạo ra
sức mạnh toàn dân xây dựng huyện Châu Thành, tỉnh An Giang đạt được
nhiều thành quả hơn nữa trong công cuộc đổi mới và hội nhập
- Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện Quy chế
dân chủ ở huyện Châu Thành, tỉnh An Giang phải phù hợp với thực tiễn

của huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Các giải pháp này phải toàn diện
,đồng bộ thì mới đem lại được hiệu quả thiết thực.
10.2. Đóng góp mới của tác giả
-

Làm rõ hơn nữa vấn đề dân chủ cơ sở và vai trò của việc thực hiện Quy chế
dân chủ cơ sở trong việc phát triển dân chủ cơ sở ở huyện Châu Thành tỉnh

12


-

An Giang.
Đánh giá khách quan thực trạng việc thực hiện Quy chế dân chủ ở huyện

-

Châu Thành tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay.
Đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ cơ
sở huyện Châu Thành tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay.

13


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY
CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN
GIANG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Vấn đề dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.1.1.1. Quan niệm về dân chủ
Dân chủ theo nghĩa thông thường là một trong những hình thức chính
quyền mà điều đặc chưng là việc tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số
phục tùng đa số và thừa nhận quyền tự do và bình đẳng của công dân.
Vấn đề dân chủ có cội nguồn từ thời Hy Lạp cổ đại. Theo tiếng Hy Lạp
thời cổ đại thỉ danh từ dân chủ được gọi là Demos (nhân dân) và Kratos
(quyền lực) tức là quyền lực của nhân dân. Như vậy dân chủ là một hình thức
tổ chức Nhà nước với nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số, mọi công dân
đều được tự do và bình đẳng.
Dân chủ ra đời, tồn tại, phát triển gắn với một thời kỳ lịch sử nhất
định. Ở xã hội thị tộc, đã có mầm mống của dân chủ. Do lực lượng sản
xuất của xã hội thị tộc lạc hậu, nên con người có nhu cầu ăn chung, làm
chung, sở hữu chung. Xã hội thị tộc lúc đó không có quân đội, không có
cánh sát, quý tộc, vua chúa, xử án… Nên mọi người kể cả phụ nữ đều

14


bình đẳng và tự do. Lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển, năng suất lao
động ngày càng cao hơn đã tạo ra sự dư thừa sản phẩm. Một số người đã
biến quyền lực chung thành quyền lực riêng để chiếm giữ số sản phẩm
dư thừa đó. Xã hội thị tộc xuất hiện chế độ tư hữu và xã hội diễn ra sự
phân hóa sâu sắc giữa người giàu và người nghèo dẫn đến sự xuất hiện
của giai cấp chủ nô và người nô lệ. Nhà nước chủ nô ra đời gắn liền với
sự ra đời nền dân chủ đầu tiên của nhân loại – nền dân chủ chủ nô.
1.1.1.2. Nền dân chủ chủ nô và nền dân chủ tư sản
Nền dân chủ chủ nô được xây dựng trên nền dựa vào đa số các công
dân mà các công dân này là giới quý tộc. Dân chủ chỉ dành cho giới quý

tộc còn người lao động thì bị áp bức nặng nề. Người nô lệ chỉ được coi là
một loại công cụ đặc biệt, một thứ công cụ biết nói. Do có nền dân chủ
tiến bộ so với chuyên chế, thủ phủ Aten trở thành vùng đất giàu có nhất
Hy Lạp cổ đại với kinh tế phát triển, thương mại sầm uất và đặc biệt là
văn hóa phát triển rực rỡ. Nhưng nền dân chủ chủ nô cũng đến mức suy
tàn do những cuộc khởi nghĩa của những người nô lệ. Nền dân chủ chủ nô
Hy Lạp bị thay thế bởi chế độ chuyên chế phong kiến. Chế độ chuyên chế
phong kiến về cơ bản không thừa nhận dân chủ. Giai cấp địa chỉ, quý tộc
thiết lập sự thống trị của mình bằng áp bức, bóc lột dã man đối với người
nông dân và những người lao động bị trị. Một số nhà nước phong kiến có
thể còn có một số biểu hiện dân chủ nhưng những biểu hiện này rất ít ỏi
và yếu ớt. Người nông dân với khát khao dân chủ vẫn chưa có được sức
mạnh để lật đổ chế độ chuyên chế phong kiến. Chỉ đến khi giai cấp tư sản
ra đời, với khẩu hiệu “Tự do, bình đẳng, bắc ái”, giai cấp tư sản đã có đủ
khả năng, sức mạnh tập hợp đông đảo lực lượng nông dân và những người

15


bị áp bức khác lật đổ chế độ chuyên chế phong kiến thiết lập nhà nước tư
sản và dẫn đến sự ra đời nền dân chủ tư sản. Nền dân chủ tư sản đã thủ
tiêu các quan hệ phong kiến, xóa bỏ độc quyền chuyên chế phong kiến,
đem lại quyền tự do bình đẳng và lợi ích trước hết cho giai cấp tư sản
song cũng thỏa mãn phần nào yêu cầu dân chủ cho giai cấp vô sản và
nông dân cũng như những người bị áp bức khác. Những cuộc cách mạng
tư sản thủ tiêu tình trạng lệ thuộc của người nông dân và bọn lãnh chúa,
thủ tiêu đặc quyền đặc lợi phong kiến, tạo nên cơ sở pháp lý, hiến pháp
cho một xã hội dân chủ hơn. Giai cấp tư sản sau thắng lợi lật đổ chế độ
phong kiến đã thiết lập thể chế dân chủ như quyền đầu phiếu phổ thông,
chế độ tam quyền phân lập, và đề cao quyền lập pháp, quyền và tự do cá

nhân (quyền ứng cử và đề cử), quyền bất khả xâm phạm về thân thể và
nhà ở, quyền bí mật thư tín, quyền tự do tín ngưỡng và tự do ngôn luận, tự
do báo chí, hội họp và đi lại… Nền dân chủ tư sản là một bước tiến dài so
với chế độ chuyên chế phong kiến và ngay cả đối với nền dân chủ chủ nô
trước đó. Nhưng nền dân chủ tư sản vẫn có những hạn chế không thể khắc
phục như: nền dân chủ này thực chất là dân chủ chỉ dành cho giai cấp tư
sản. Giai cấp tư sản lại là giai cấp bóc lột nên đã phản bội giai cấp vô sản,
nông dân và những người bị áp bức khác. Vì áp bức bóc lột người lao
động, giai cấp tư sản đã cắt xén tự do, bình đẳng của những người lao
động. Giai cấp tư sản đã dần dần biến chế độ dân chủ thành hình thức và
nền dân chủ bị cắt xén. Giai cấp công nhân, nông dân đã nổi dậy chống lại
giai cấp tư sản để thực hiện khát vọng dân chủ mà giai cấp tư sản đã phản
bội. Cuộc cách mạng vô sản với sự tham gia đông đảo của nông dân và
những người lao động đã lật đổ chế độ tư sản, dẫn đến việc thành lập Nhà
nước vô sản. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời.

16


1.1.1.3. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là hình thức chính trị phổ thông của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế
độ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên chế độ
chiếm hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Cơ sở kinh tế này đã tạo ra điều
kiện để nhân dân thực sự là người chủ của quyền lực, đảm bảo nhân dân
được tự do và bình đẳng thực sự. Nhà nước xã hội chủ nghĩa xây dựng một
hệ thống dân chủ mới đảm bảo tất cả mọi công dân đều tham gia vào công
việc của Nhà nước. V.I. Lênin cho rằng: “Chế độ dân chủ có nghĩa là chính
thức thừa nhận quyền bình đẳng giữa công dân, thừa nhận cho mọi người
được quyền ngang nhau trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý

nhà nước” [25, tr.123]. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, bên cạnh nền dân
chủ có tính dân cử, những hình thức dân cử trực tiếp khác nhau rất được coi
trọng như toàn dân thảo luận Hiến pháp… Nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm
bảo những quyền xã hội cá nhân, quyền lao động, quyền học tập, quyền
nghỉ ngơi… đảm bảo quyền tự do thực sự cho tất cả các công dân.
Để đảm bảo nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ gấp vạn lần dân
chủ tư sản thì dân chủ xã hội chủ nghĩa phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Đảng Cộng sản phải là lực lượng lãnh đạo các tổ chức nhà nước,
các tổ chức chính trị xã hội và toàn thể các công dân vì mục đích cao nhất
của Đảng Cộng sản là giải phóng người lao động khỏi mọi áp bức bóc lột,
đảm bảo mọi công dân được thực sự bình đẳng và tự do.
Như vậy, để hiểu rõ khái niệm dân chủ phải nghiên cứu khái niệm
dân chủ trên các phương diện sau:

17


-

Dân chủ là một phạm trù chính trị. Dân chủ là thiết chế chính trị thừa nhận
nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, dân chủ là một hình thức của
Nhà nước trong đó các công dân bình đẳng với nhau về quyền lợi và nghĩa

-

vụ.
Dân chủ là quan hệ bình đẳng giữa các giai cấp, là sự tham gia của nhân

-


dân vào các công việc của Nhà nước.
Dân chủ gắn bó trực tiếp với cơ sở kinh tế của xã hội. Cơ sở kinh tế của xã
hội chủ nô sinh ra nền dân chủ chủ nô. Cơ sở kinh tế của chế độ tư sản sinh
ra nền dân chủ tư sản. Cơ sở kinh tế của chế độ xã hội chủ nghĩa sinh ra
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy bất cứ nền dân chủ nào cũng mang

-

tính giai cấp.
Dân chủ là sản phẩm của lịch sử. Dân chủ ra đời tồn tại, phát triển gắn với
các giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại.
1.1.2. Quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi
nguồn dân chủ để tạo ra sức mạnh toàn dân tộc chiến thắng thực dân Pháp,
đế quốc Mỹ, thiết lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước dân
chủ đầu tiên của Đông Nam Á, và cũng là nước đầu tiên xây đựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nước ta là nước chủ. Bao nhiêu
lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công cuộc đổi mới,
xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công
việc của dân. Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra.

18


Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân” [30; tr.695].

Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ có nghĩa là dân là chủ, dân
làm chủ. Nếu dân không là chủ thì không thể có dân chủ. Vì thế, Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: Thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng có thể
giải quyết mọi khó khăn và có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động
viên được tất cả lực lượng nhân dân đưa cách mạng tiến lên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm rõ nội dung toàn diện của dân chủ:
Dân chủ trong kinh tế với việc đảm bảo việc làm cho người dân, lợi ích vật
chất ai cũng có ăn, có mặc, được học hành, chăm sóc sức khỏe, phải phân
phối công bằng dân chủ trong chính trị, trong quản lý xã hội, giải quyết các
vấn đề xã hội. Dân chủ trong văn hóa tinh thần với việc mọi người dân
được tự do tư tưởng trong sáng tạo văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan
tâm đến nguyên tắc tập trung dân chủ vì chỉ trên cơ sở thực hiện nguyên tắc
này mới đảm bảo nền dân chủ thực sự trên cơ sở vừa đảm bảo được tập
trung vừa đảm bảo được dân chủ. Hồ Chí minh rất chú trọng đến việc thực
hành dân chủ: “Trong nội bộ phải thực hành dân chủ, phải luôn tự kiểm
thảo để đi đến đoàn kết, phê bình và tự phê bình, từ trên xuống dưới, từ
dưới lên trên. Phê bình trên công tác cách mạng, phê bình để tiến bộ, không
phải để xoi mói” [ 31 tr.366]. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, trong việc
thực hành tiết kiệm chống tham ô, lãng phí thì “Cũng như mọi việc khác,
việc “chống” này phải động viên quần chúng, phải thực hành dân chủ, phải
làm cho quần chúng hiểu rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham gia thì mới
chắc chắn thành công. Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng
đầy đủ, mau chóng” [31; tr. 496]. Để thực hành dân chủ phải xây dựng các
tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể xã hội vững mạnh đảm

19


bảo cho nhân dân thực hiện quyền dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú
trọng việc bảo đảm và phát huy dân chủ trong Đảng vì có bảo đảm dân chủ

trong Đảng mới đảm bảo được dân chủ toàn xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng rất nhấn mạnh đến việc xây dựng Nhà nước vì Nhà nước là tổ chức
thể chế hóa bản chất dân chủ của chế độ, bảo đảm thực thi ý chí của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, bảo đảm lợi ích của nhân dân lao
động. Các tổ chức chính trị - xã hội thể hiện làm chủ và tham gia quản lý
xã hội của tất cả giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, thực hành dân chủ rộng rãi là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc mà nòng cốt là liên minh công - nông - tri thức.
1.1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản về Dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay
V.I. Lê-nin cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội thắng thế nhất thiết phải
thực hiện chế độ dân chủ hoàn toàn” [26; tr.327]. Vì vậy, sau khi thống nhất
đất nước (1975), Đảng ta lãnh đạo Đất nước tiến hành xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi cả nước. Đảng ta luôn thấm nhuần quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin về dân chủ tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, xây dựng
đất nước ta thực sự trở thành nước dân chủ.
-

Đại hội Đảng IV (1976) khẳng định: Muốn đưa sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa đến thắng lợi, điều kiện trước tiên là phải thiết lập và không
ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không ngừng phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Đảng ta rất nhấn mạnh

-

quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Đại hội V (1981) khẳng định: Về tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa
phát động phong trào cách mạng của quần chúng. Báo cáo nêu rõ: Nhân

20



dân lao động quyền làm chủ tập thể của mình, chủ yếu bằng Nhà nước dưới
sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường Nhà nước là vấn đề cấp bách để phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Đại hội tập trung vào nhiệm vụ: Giải quyết
các vấn đề cấp bách nhất để ổn định và cải thiện một bước đời sống nhân
-

dân.
Đại hội VI (1986): Văn kiện chỉ rõ các bài học là trong toàn bộ hoạt động
của mình Đảng phải quán triệt tư tưởng phải lấy dân làm gốc; xây dựng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Đảng chỉ rõ: xây dựng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Cơ chế Đảng lãnh
đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý được xác định là cơ chế chung
trong quản lý xã hội. Để phát huy sức mạnh của nhân dân, đại hội Đảng VI

-

nêu ra phương châm: Dân, Dân bàn, Dân làng, Dân kiểm tra.
Đại hội VII (1991) khẳng định: Nền dân chủ của nhân dân ngày càng được
phát huy. Bài học kinh nghiệm là: Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân và
vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử, sức mạnh
của Đảng là của sự gắn bó mật thiết của nhân dân, cương lĩnh xây dựng đất
nước ở thời kỳ quá độ nhấn mạnh: Một là, xây dựng nhà nước xã hội chủ
nghĩa, nhà nước của nhân dân, vì nhân dân lấy liên minh giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức làm nền tảng do Đảng Cộng

-


sản Việt Nam lãnh đạo. Thực hiện đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Đại hội VIII (1996): Tiếp tục khẳng định: Thực hiện đại đoàn kết dân tộc,
phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước,
xây dựng và hoàn thiện và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa của dân do
dân và vì dân, lấy liên minh công nông và tầng lớp trí thức làm nền tảng do
Đảng Cộng sản lãnh đạo. Văn kiện đại hội chỉ rõ tăng trưởng kinh tế phải
gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp
đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Thu hẹp dần khoảng cách về trình

21


độ pháp triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư,
phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền
-

ơn đáp nghĩa”, nhân hậu, thủy chung.
Đại hội IX (2001) khẳng định bài học: Đổi mới phải dựa vào dân, vì lợi ích
của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Nhân dân tích cực
thực hiện đổi mới trên mọi lĩnh vực, tạo ra nhiều điển hình tiên tiến, kinh
nghiệm hay, từ đó Đảng có cơ sở để tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận,
đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Để công cuộc đổi mới thành công phải động viên được

-

mọi tầng lớp nhân dân và các thành phần kinh tế tham gia.
Đại hội X (2006) khẳng định: Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Văn kiện đại hội X chỉ rõ: Dân chủ xã
hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây

dựng và bảo vệ tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước
và nhân dân. Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là
người tổ chức thực hiện thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường
lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước đều vì lợi ích của nhân
dân, có sự tham gia, góp ý kiến của nhân dân. Xây dựng một xã hội dân
chủ, trong đó cán bộ, Đảng viên và công chức phải thực sự là công bộc của
dân. Xác định các hình thức tổ chức và có cơ chế để nhằm thực hiện quyền
làm chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Đề cao trách
nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà nước đối với nhân dân. Tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân

-

và vì dân.
Đại hội XI (2011) khẳng định: Tiếp tục phát huy dân chủ và sức mạnh đại
đoàn kết dân tộc, nâng cao hiệu lực hoạt động của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, thực hiện hiệu quả cuộc đấu tranh phòng chống quan
liêu tham nhũng, lãng phí. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu

22


của Đảng, đổi mới quan hệ phân phối chính sách tiền lương của cán bộ
công chức, viên chức, người lao động, tập trung giải quyết một số vấn đề
bức xúc như (suy thoái đạo đức, lối sống, tệ nạn xã hội, trật tự, kỉ cương
-

xã hội).
Đại hội XII (2016) tiếp tục khẳng định: Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến
bộ, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc được củng cố. Đảng và Nhà nước tiếp

tục đề ra nhiều chủ chương, chính sách nhằm phát huy hơn nữa quyền làm
chủ, bảo đảm lợi ích của nhân dân, vai trò giám sát của nhân dân đối với
các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, cán bộ Đảng viên, công chức, viên
chức, các cấp ủy Đảng, chính quyền lắng nghe tăng cường đối thoại với các
tầng lớp nhân dân. Tôn trọng các loại ý kiến khác nhau, dân chủ trong
Đảng, trong các tổ chức và xã hội. Mở rộng, nâng cao; quyền làm chủ của
nhân dân được phát huy tốt hơn. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật được coi trọng.
Nước ta đang xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa mà nước ta đang xây dựng có bản chất sau:

-

Về chính trị:
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp
công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội “nhưng không
phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho giai cấp công nhân, mà
chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân trong đó
có giai cấp công nhân” [9, tr.158]. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nhân dân
lao động được làm chủ về mặt chính trị. Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa
thực chất là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Do đó dân chủ xã
hội chủ nghĩa vừa có bản chất của giai cấp công nhân vừa có tính nhân dân

23


rộng rãi và có tính dân tộc sâu sắc”. Dân chủ trong lĩnh vực chính trị được
thực hiện bằng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhân dân có quyền bầu cử và
ứng cử vào các cơ quan quyền lực của nhà nước. Công dân có quyền tham
gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của

nhà nước và địa phương. Nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà
nước được biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân. Nhân dân có quyền
được thông tin tự do ngôn luận, tự do báo chí. Nhân dân cũng có quyền
giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước, quyền khiếu nại tố cáo…

24


-

Về kinh tế:
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta “dựa trên chế độ công hữu
về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển
ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học công nghệ
hiện đại” [9; tr.159] nhằm đem lại lợi ích cho toàn thể nhân dân lao động.
Dân chủ trong kinh tế là người dân được thực hiện quyền làm chủ và bình
đẳng trên lĩnh vực kinh tế. Người dân được bình đẳng trong các thành
phần kinh tế, được làm chủ trực tiếp quá trình sản xuất kinh doanh, phân
phối sản phẩm và thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước. Công dân có
quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, có thể làm được những việc mà
pháp luật không cấm.

-

Về tư tưởng văn hóa:
Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta “lấy hệ tư tưởng Mác – Lênin,
hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm nền tảng”[9; tr.160] tinh thần của
xã hội. Nền dân chủ đó gắn liền với pháp luật kỷ cương. Dân chủ xã hội
chủ nghĩa kế thừa phát triển phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống
các dân tộc, tiếp thu các giá trị tư tưởng văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội ở

các quốc gia dân tộc khác. Người công dân được thực hiện quyền làm chủ
và bình đẳng trong lĩnh vực văn hóa. Nhân dân có quyền được tham gia
vào đời sống văn hóa, được hưởng lợi ích từ sáng tạo văn hóa nghệ thuật
của chính mình. Nhân dân có quyền sáng tạo ra các công trình nghệ thuật
văn hóa. Công dân có quyền trong lĩnh vực xã hội được làm chủ về xã hội.
Nhân dân có quyền lao động, quyền bình đẳng nam nữ, quyền được hưởng
an toàn xã hội và bảo hiểm xã hội. Nhân dân có quyền được bảo đảm về

25


×