Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

NÂNG CAO NĂNG LỰC TỔ CHỨC THỰC TIỄN CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRẠI GIAM KHU VỰC TÂY NAM BỘ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.88 KB, 111 trang )

1

NÂNG CAO NĂNG LỰC TỔ CHỨC THỰC TIỄN
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
TRẠI GIAM KHU VỰC TÂY NAM BỘ HIỆN NAY

1

1


2

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

2

2


3

1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2010, Luật thi hành án hình sự được Quốc hội thông qua và co
hiệu từ ngày 01/7/2011, công tác thi hành án phạt tù tại các trại giam thuộc
Tổng cục Cảnh sát thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư pháp (Tổng cục VIII)
thuộc Bộ Công an không ngừng được hoàn thiện, gop phần quan trọng trong
sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc
sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân. Lực lượng Cảnh sát thi hành án


hình sự và Hỗ trợ tư pháp được rèn luyện trong thực tiễn chiến đầu đầy cam
go, hy sinh, gian khổ để ngày càng trưởng thành, lớn mạnh và hoàn thiện về
mọi mặt; lập nhiều chiến công, được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận,
đánh giá cao. Tiếp tục phát huy truyền thống nhân ái của dân tộc, bản chất tốt
đẹp của chủ nghĩa xã hội; cùng với phẩm chất và tư cách người công an cách
mạng, lòng bao dung, thương người, các thế hệ cán bộ, chiến sỹ lực lượng
Cảnh sát thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư pháp đã không ngừng vượt qua thử
thách; tạo môi trường giáo dục lành mạnh, tiến bộ; phối hợp với chính quyền
các cấp, các đoàn thể, tổ chức xã hội để giáo dục, cảm hoa người lầm lỗi
hoàn lương.
Giáo dục phạm nhân trở thành người co ích cho xã hội và giúp họ tái hòa
nhập cộng đồng là mục đích cuối cùng của công tác thi hành án hình sự. Để
đạt được mục đích này, nhiều năm qua, được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng
ủy Công an Trung ương và lãnh đạo Bộ, lãnh đạo Tổng cục VIII đã chỉ đạo tổ
chức thực hiện các nội dung, hình thức giáo dục cải tạo phạm nhân một cách
sáng tạo, trên cơ sở các quy định của Luật thi hành án hình sự và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Cùng với thực hiện việc giáo dục, nhiệm vụ trước hết là
phải làm cho phạm nhân nhận thấy tính nghiêm minh của pháp luật để họ sửa
chữa lỗi lầm; nhưng với bản tính ưu việt, nhân đạo của chế độ xã hội chủ
nghĩa, ngoài việc trừng trị còn giáo dục họ trở thành người lương thiện. Như

3

3


4

vậy trong công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân ở trại giam thì việc giáo dục
phạm nhân trở thành người co ích cho xã hội là yêu cầu xuyên suốt đo cũng là

mục đích cuối cùng, vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ chủ yếu trong hoạt động
của trại giam; và nhân tố quyết định sự thành công trong công tác giáo dục
phạm nhân không ai khác đo chính là người cán bộ trại giam.
Bên cạnh đo, là người chiến sỹ Cảnh sát thi hành án hình sự, phải luôn
nhận thức đúng về tầm quan trọng của công việc đang thực hiện, phải co tâm
huyết với nghề; vẫn còn một bộ phận cán bộ chiến sỹ chưa nhận thức hết vai
trò, trách nhiệm của bản thân trong thực hiện nhiệm vụ; chưa phát huy tinh
thần tự giác, tính năng động, sáng tạo trong công tác. Việc học tập, rèn luyện
nâng cao năng lực công tác, trình độ lý luận, đạo đức cách mạng còn diễn ra
chưa đồng đều. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ chiến sĩ đôi
lúc còn chưa thực sự làm cho họ hiểu sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước, những quy định của ngành công an. Khả năng tổ chức, giải
quyết các mâu thuẫn, việc xử lý các tình huống của một số không ít cán bộ
lãnh đạo, chỉ huy chưa hiệu quả, hoạt động của các bộ phận còn tách biệt,
đơn lẻ, chưa co sự phối hợp, thống nhất, việc chỉ đạo đôi khi còn chồng chéo.
Hiện tượng noi chưa đi đôi với làm, hoặc yếu về nội dung hay phương pháp,
tác phong công tác vẫn còn ở một số cán bộ lãnh đạo, quản lý. Việc tổ chức
thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết,
chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến
chốn; kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, noi không đi đôi với làm, hoặc làm
chiếu lệ.
Công tác giáo dục phạm nhân chưa phát huy hết được hiệu quả của no,
vẫn còn tình trạng phạm nhân chưa an tâm tư tưởng trong quá trình chấp
hành bản án phạt tù, vi phạm nội quy trại giam, co hành vi chống đối lại các

4

4



5

tác động giáo dục, quản lý từ cán bộ. Mặt khác, hoạt động giáo dục phạm
nhân còn bộc lộ nhiều hạn chế, còn nặng về lý luận, thiếu các hoạt động thực
tiễn, nội dung giáo dục còn nghèo nàn chưa co chiều sâu, chưa mang tính kịp
thời trong việc cập nhật thông tin; việc giáo dục còn mang tính hình thức,
mệnh lệnh cưỡng chế, nhẹ về cảm hoa, cán bộ làm công tác giáo dục chưa
thực sự là tấm gương để phạm nhân học tập, làm theo.
Từ những hạn chế trên đây, việc xây dựng lực lượng cảnh sát thi hành
án hình sự và hỗ trợ tư pháp chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu
cách mạng trong tình hình mới đã và đang đòi hỏi sự cần thiết nâng cao năng
lực thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy.
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài “Nâng cao năng lực tổ chức thực
tiễn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trại giam khu vực Tây Nam Bộ
hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Để đáp ứng nhu cầu nâng cao trình độ tư duy, năng lực tổ chức và chỉ đạo
thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, những năm gần đây, ở nước ta đã co những công
trình nghiên cứu về đội ngũ cán bộ, nghiên cứu về năng lực, năng lực tổ chức
thực tiễn, các tác giả đã tiếp cận từ nhiều goc độ và khía cạnh khác nhau:
Thứ nhất, nhóm công trình nghiên cứu về năng lực tổ chức thực tiễn tại
các địa phương.
Trần Thành - Viện nghiên cứu Triết học, học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh đã chủ biên cuốn “Bản lĩnh chính trị với năng lực của cán bộ lãnh
đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay” (Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1995). Trong công trình này, các tác giả quan niệm năng
lực của người lãnh đạo, quản lý là năng lực tổ chức; đo là việc thể hiện người
ta làm tốn ít thời gian, ít sức lực của cải, vật chất mà kết quả lại tốt. Điều này
không thể co được ở người chưa hề làm công tác lãnh đạo, điều hành một


5

5


6

công việc cụ thể, hay điều hành cả một cơ quan, tổ chức. Vì vậy, khi đánh giá
năng lực của một cán bộ cần phải căn cứ vào hiệu quả công việc là chính,
đồng thời cũng cần biết được trình độ học vấn và quá trình công tác; ngoài ra
cũng cần phân tích rõ những yếu tố đã làm cho cá nhân hoàn thành công việc,
người ta không chỉ xem cá nhân đo làm gì, kết quả ra sao mà còn xem làm
như thế nào. Năng lực của người lãnh đạo, quản lý được thực hiện bởi cơ chế
thực tại của trí tuệ đã được lĩnh hội trong hoạt động thực tiễn, cộng với tư
duy sáng tạo và khả năng thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Vấn đề nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ cấp cơ
sở cũng được đề cập tới trong hai luận văn Thạc sĩ triết học: 1) Nâng cao
năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (qua thực
tế Long An), 1997 của Phạm Văn Hai. 2) Vấn đề tổ chức thực tiễn của cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở Ninh Thuận hiện nay (2002) của Phạm Văn
Liên. Cả hai tác giả luận văn đã noi trên đã đề cập đến nhiều vấn đề về công
tác cán bộ, về tổ chức thực tiễn và nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Long An và Ninh Thuận một cách co hệ
thống và mang tính đúc kết thực tiễn cao, nêu lên các vấn đề về tồn tại và hạn
chế trong công tác cán bộ, cũng như đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ. Tuy nhiên, các công trình này
phạm vi chỉ giới hạn ở cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Long An và Ninh Thuận.
Trong Luận văn thạc sĩ Triết học (2003) "Nâng cao năng lực tổ chức
thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện miền núi ở Lâm Đồng hiện

nay", tác giả Lê Thị Thanh Phụng đã nêu lên được thực trạng về tình hình cán
bộ, những hạn chế, yếu kém trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, năng
lực nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ cần khắc phục: còn nhiều cán bộ chưa đạt
chuẩn về đào tạo cơ bản cũng như về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và các
kỹ năng quản lý nhà nước, một bộ phận cán bộ trẻ kế cận, được đào tạo tốt

6

6


7

hơn nhưng trình độ chuyên môn, năng lực nghiệp vụ của họ vẫn chưa đáp
ứng yêu cầu công tác đặt ra. Từ đo tác giả đã đưa ra các giải pháp quan trọng
để nâng cao chất lượng cán bộ, nhất là công tác đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục
chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ.
Trần Văn Phòng - Viện nghiên cứu Triết học, Học Viện TCQG Hồ Chí
Minh đã chủ biên cuốn, “Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng” (Nxb. Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2008). Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân tích năng
lực tổng kết thực tiễn và vai trò của no đối với hoạt động lãnh đạo của cán bộ
chủ chốt cấp tỉnh; chỉ ra được thực trạng năng lực tổng kết thực tiễn của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt vùng đồng bằng sông Hồng cùng những nguyên
nhân dẫn đến thực trạng này; từ đo đề xuất một số nguyên tắc cũng như giải
pháp nhằm từng bước nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn cho đội ngũ cán bộ
ở đây.
Nguyễn Chí Hiếu trong bài "Một số suy nghĩ về phạm trù thực tiễn của
triết học Mác - Lênin" (Tạp chí Thông tin những vấn đề triết học và đời sống,
số 9, 2008) đã khái quát một số nội dung thuộc phạm trù thực tiễn trong triết

học Mác - Lênin. Theo tác giả, các nhà kinh điển Mác - Lênin hiểu thực tiễn
như là toàn bộ hoạt động co tính vật chất mang tính lịch sử - xã hội của con
người, nhờ co hoạt động thực tiễn mà con người co thể cải biến tự nhiên, xã
hội và hoàn thiện chính bản thân mình.
Công trình nghiên cứu về năng lực thực tiễn của cán bộ Quân đội nhân
dân qua đề tài “Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của người chính trị viên
trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” (2013) do Th.S Nguyễn Văn
Huy làm chủ nhiệm đã làm rõ được thực chất và các vấn đề co tính quy luật
trong việc nâng cao năng lực thực tiễn của người cán bộ Quân đội nhân dân,

7

7


8

đánh giá được thực trạng của công tác cán bộ, chỉ ra những mâu thuẫn và yêu
cầu nâng cao năng lực thực tiễn của người cán bộ Quân đội nhân dân.
Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu về phẩm chất, năng lực của cán
bộ trong mối tương quan như xây dựng tiêu chuẩn cán bộ, phong cách lãnh
đạo, biểu hiện của năng lực tổ chức thực tiễn.
Đề tài khoa học cấp nhà nước “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước” (1997 - 2001) do GS. TS Nguyễn Phú Trọng làm chủ nhiệm và
PGS. TS Trần Xuân Sầm làm pho chủ nhiệm đã luận giải căn cứ lý luận và
thực tiễn về xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoa,
hiện đại hoa đất nước. Theo nhom tác giả, thời đại ngày nay là thời đại của
khoa học công nghệ, công nghệ thông tin phát triển một cách nhanh chong, đòi
hỏi người cán bộ phải co tư duy năng động, linh hoạt bắt kịp với cái mới. Hơn

nữa, trong bối cảnh toàn cầu hoa và hội nhập quốc tế hiện nay, người cán bộ
phải học tập không ngừng, làm chủ khoa học công nghệ và ngoại ngữ để xử lý
các tình huống liên quan đến nước ngoài, mang tầm quốc tế.
Triết học và tâm lý học, xã hội học cũng đã co nhiều công trình lớn, các
công trình này đã bàn sâu về năng lực công tác, năng lực hoạt động lao động
sáng tạo; năng lực nghiên cứu khoa học; năng lực quản lý cơ quan, năng lực
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước của các nhà chính trị, nhà quản lý kinh tế,
văn hoa, khoa học. Đo là tác phẩm của nhom tác giả do Tô Huy Rứa, Trần
Khắc Viện đồng chủ biên: “Làm người cộng sản trong giai đoạn hiện nay”
(Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003). Theo các tác giả, giai đoạn hiện nay
yêu cầu người cộng sản phải chỉ co đủ phẩm chất cách mạng cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư mà còn phải co tư duy biện chứng, năng động, linh hoạt,
xử lý nhanh mọi tình huống phức tạp của đời sống đa dạng, phức tạp hiện đại.
Cùng một ý kiến tương tự như vậy, tác giả Phạm Hữu Dật trong cuốn

8

8


9

“Phương sách dùng người của ông cha ta trong lịch sử” (Nxb. Chính trị quốc
gia, 1994) đã nêu lên một số kinh nghiệm của cha ông trong lịch sử về thuật
dùng người cán bộ trên nguyên tắc tôn trọng người tài như nhà nho Thân
Nhân Trung đã noi: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”.
Thứ ba, nhóm các công trình nghiên cứu về hoạt động của phạm nhân,
công tác giáo dục phạm nhân tại các trại giam của Bộ Công an.
Đây là nhom đề tài nghiên cứu những vấn đề liên quan đến thực tiễn
công tác quản lý trại giam khu vực Tây Nam Bộ, co thể kể một số công trình

tiêu biểu: 1) Đề tài “Tổ chức lao động sản xuất và dạy nghề cho phạm nhân
các trại giam thuộc lực lượng Công an quản lý (1999), do Phạm Đức Chấn
làm chủ nhiệm. 2) “Sự thích ứng tâm lý của phạm nhân với chế độ sinh hoạt
và chế độ lao động trong trại giam” (2002), do Chu Văn Đức làm chủ nhiệm;
3) “Xây dựng môi trường giáo dục phạm nhân trong các trại giam” (2007)
do Th.S Phan Xuân Sơn làm chủ nhiệm. Các đề tài nghiên cứu khoa học kể
trên đã nghiên cứu các vấn đề về tâm lý phạm nhân, công tác lao động dạy
nghề cho phạm nhân; công tác giáo dục, vai trò của cán bộ giáo dục (quản
giáo), môi trường giáo dục phạm nhân trong các trại giam. Qua đo các tác giả
đồng thời đề xuất một số giải pháp xây dựng môi trường giáo dục, công tác tổ
chức lao động sản xuất và hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân, gop phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, giam giữ, giáo dục cải tạo
phạm nhân, giúp họ tái hòa nhập cộng đồng.
Thứ tư, nhóm các bài báo, phóng sự phản ánh tình hình thực tế các trại
giam ở Khu vực Tây Nam Bộ, điển hình là Trại giam Châu Bình.
Đây là các bài báo đăng trên báo “Công an nhân dân”, báo “Thanh niên”,
báo “Đồng khởi” (điện tử), điển hình là các bài: 1) Nhật Khánh (2015), Ấm
tình tết ở trại giam lớn nhất Miền Tây, cập nhật 18/02/2015. 2) Văn Đức &
Phú Lữ (2016), Trại giam Phước Hòa đón nhận huân chương bảo vệ Tổ quốc

9

9


10

hạng ba, Báo “Công an nhân dân” điện tử, cập nhật 03/11/2016. 3) ) A.
Quỳnh & N. Hằng (2016), Sức sống “trung đoàn thép”Tây Nam Bộ, Báo
điện tử “Công an nhân dân”, cập nhật 26/10/ 2016. 4) Trung Hiếu & Ngọc Lệ

(2017), Nỗi niềm tết sau cổng trại giam: hơn 31 năm đón tết xa nhà, Báo
“Thanh Niên” điện tử, cập nhật 11/01/2017. 5) Thanh Thảo (2017), Trại giam
Châu Bình tổ chức xếp sách Nghệ thuật, Báo “Đồng Khởi” điện tử, cập nhật
04/01/2017.
Trong các bài báo và phong sự, các tác giả đã phản ánh sự quan tâm của
Đảng ủy các cấp chính quyền, đặc biệt là của các giám thị trại giam Tây Nam
Bộ đến các phạm nhân đang thực hiện quá trình cải tạo tại đây. Qua các
phong sự, điều tra, phỏng vấn, người đọc hình dung một không khí sinh hoạt
dân chủ, bình đẳng trên tinh thần nhân ái, lấy mục đích chính là cải tạo phạm
nhân, đưa họ trở về tái hòa nhập cộng đồng. Trong số 11 trại giam ở Tây Nam
Bộ, thì trại giam Châu Bình luôn là ngọn cờ đầu, là tấm gương trong các hoạt
động nhằm khuyến khích, động viên các phạm nhân co tinh thần lạc quan
phấn đấu cải tạo tốt để sớm hòa nhập cộng đồng, trở thành những công dân
tốt sau này. Các bài báo đồng thời cung cấp những tư liệu, bức ảnh sinh động
giúp cho xã hội nhận thức đúng về cuộc sống trong trại gam, về chính sách
khoan hồng của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong vấn đề giáo dục, cải tạo
những người đã từng lầm lỡ.
Nội dung các bài báo, các quyển sách và luận án trên đã gop phần giúp
tác giả co thêm kiến thức để nhận thức đầy đủ hơn về năng lực, năng lực tổ
chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ hiện nay, cùng những giải pháp co ý nghĩa
thiết thực; là cơ sở và là nguồn tài liệu quan trọng để tác giả tham khảo trong
việc triển khai luận văn của mình. Với các goc độ nghiên cứu khác nhau của
mình, các tác giả đã đề cập đến vấn đề năng lực, năng lực tổ chức thực tiễn,
giải pháp nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ... điều đo co ý nghĩa

10

10



11

to lớn đối với việc kế thừa và phát huy những kinh nghiệm hay, những
phương pháp sáng tạo trong hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ hiện nay.
Bên cạnh đo, sự phong phú của các công trình nghiên cứu, các bài viết noi
trên càng phản ánh tầm quan trọng và yêu cầu thực tiễn của việc nâng cao
năng lực của đội ngũ cán bộ nhất là năng lực tổ chức thực tiễn.
Tuy nhiên, chưa co một công trình nào nghiên cứu trình bày một cách
trực tiếp đến năng lực thực tiễn và việc nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn
đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trại giam; vận dụng lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta vào tìm
hiểu những vấn đề nâng cao hiệu quả tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý trại giam là vấn đề cần thiết, hy vọng luận văn của tác giả sẽ
lấp đầy khoảng trống đo và gop phần nhỏ bé của mình trong công cuộc xây
dựng lực lượng Công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung, đánh giá khách quan
thực trạng và nguyên nhân của thực trạng trong quá trình tổ chức thực tiễn của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trại giam, từ đo đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trại
giam khu vực Tây Nam Bộ hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng
4.1. Khách thể nghiên cứu: Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý tại các trại
giam khu vực Tây Nam Bộ hiện nay.
4.2. Đối tượng nghiên cứu: Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý tại các trại giam khu vực Tây Nam Bộ hiện nay.
5. Giả thuyết khoa học

11


11


12

Năng lực của cán bộ hiện nay, nhất là năng lực tổ chức thực tiễn chưa
được quan tâm đúng mức, chưa xác định rõ tầm quan trọng và mối quan hệ
giữa lý luận và thực tiễn trong công tác cán bộ cũng như trong hoạt động thực
tiễn của đội ngũ cán bộ. Nếu nghiên cứu thành công, đề tài sẽ gop phần nâng
cao năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trại giam
trong giai đoạn hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, đề tài tập trung đi vào giải quyết các
nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận chung của đề tài.
- Đánh giá thực trạng nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý trại giam khu vực Tây Nam Bộ.
- Đề xuất giải pháp gop phần nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn và hiệu
quả công tác nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý trại giam trong thời gian tới.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn
của cán bộ lãnh đạo, quản lý tại các trại giam khu vực Tây Nam Bộ từ năm
2011 đến nay.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp chung
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về công tác cán bộ; đồng thời sử dụng

phương pháp nghiên cứu tài liệu kết hợp phương pháp thu thập thông tin,

12

12


13

phương pháp phân tích, tổng hợp; lôgic, lịch sử, khái quát hoa,… để hỗ trợ
cho quá trình nghiên cứu đề tài.
8.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp thống nhất giữa logic và lịch sử, giữa phân tích, tổng
hợp, thống kê, đối chiếu, so sánh, điều tra xã hội học, phiếu hỏi.
- Phương pháp tọa đàm, trao đổi, quan sát, phỏng vấn chuyên gia.
9. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
9.1. Những luận điểm cơ bản
Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
là cần thiết, co ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn
của đơn vị là giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân; vừa xây dựng đội ngũ kế
thừa, đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao pho.
Đánh giá đúng thực trạng về năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý qua đo đề xuất giải pháp về đào tạo bồi dưỡng, điều
động, luân chuyển sẽ gop phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng giáo
dục phạm nhân ở các trại giam khu vực Miền Tây Nam Bộ hiện nay. Việc
nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn không chỉ ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý mà còn ở tất cả các bộ phận trong trại giam.
9.2. Đóng góp mới của tác giả
Về lý luận: nghiên cứu một cách hệ thống lý luận năng lực tổ chức thực
tiễn, những yếu tố cấu thành, đặc thù đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý trại

giam ở Việt Nam hiện nay.
Về thực tiễn: Đưa ra các giải pháp gop phần nâng cao năng lực tổ chức
thực tiễn và hiệu quả công tác nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn trong thời
gian tới.

13

13


14

Luận văn sau khi hoàn thành và nghiệm thu sẽ là tài liệu nghiên cứu cho
cán bộ lãnh đạo, quản lý tại các trại giam khu vực Miền Tây Nam Bộ hiện nay
và những người giảng dạy, học tập, nghiên cứu triết học.
10. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 02 chương và 06 tiết.

14

14


15

Chương 1 NĂNG LỰC TỔ CHỨC THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ CỦA
NÓ ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRẠI
GIAM KHU VỰC TÂY NAM BỘ HIỆN NAY
1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Năng lực và năng lực tổ chức thực tiễn
Theo quan điểm của các nhà tâm lý học, năng lực của con người là tổng
hợp những đặc điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc
trưng của một hoạt động nhất định, qua đo nhằm đảm bảo cho hoạt động đạt
hiệu quả cao nhất. Năng lực được hình thành trên cơ sở các tư chất tự nhiên
của cá nhân, no đong vai trò quan trọng; năng lực không phải hoàn toàn do tự
nhiên mà co, phần lớn được hình thành từ quá trình công tác, rèn luyện. Tâm
lý học chia năng lực thành nhiều dạng khác nhau, điển hình là năng lực chung
và năng lực chuyên môn.
Năng lực chung là năng lực cần thiết cho con người trong nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau như: năng lực phán xét tư duy lao động,
năng lực khái quát hoa, năng lực tưởng tượng.
Năng lực chuyên môn là năng lực đặc trưng trong một lĩnh vực nhất định
của xã hội như: năng lực tổ chức thực tiễn, năng lực âm nhạc, hội họa, toán học.
Năng lực chung và năng lực chuyên môn co mối quan hệ qua lại hữu cơ
với nhau, năng lực chung là cơ sở của năng lực chuyên môn, nếu chúng càng
phát triển thì càng dễ thành đạt được năng lực chuyên môn. Ngược lại, trong
những điều kiện nhất định, sự phát triển của năng lực chuyên môn lại co ảnh
hưởng đến sự phát triển của năng lực chung. Khi năng lực chung phát triển

15

15


16

đến một trình độ cần thiết, cùng với một vài năng lực chuyên môn tương ứng
thì mọi hoạt động đều đạt hiệu quả cao.
Theo Từ điển năng lực của Đại học Harvard thì “Năng lực, một trong

những thuật ngữ chung nhất là “thứ” mà một cá nhân phải thể hiện và chứng
minh nó có hiệu quả trong công việc, vai trò, chức năng hoặc nhiệm vụ của
bản thân” [26, tr.2] Với quan điểm này, năng lực là ám chỉ trực tiếp về tác
nghiệp hay hành nghề khi diễn giải “thứ” này là bao gồm hành vi phù hợp với
việc làm, đo là những gì mà một người noi hay tạo ra kết quả bằng việc thực
hiện tốt hay không tốt; co với động cơ, đo là một người cảm thấy thế nào về
công việc, tổ chức hoặc vị trí địa lý; và kiến thức hay kỹ năng kỹ thuật, đo là sự
am hiểu về công nghệ, quy trình thủ tục, tổ chức, việc làm,… Năng lực được
xác định thông qua các nghiên cứu về việc làm và vai trò trong công việc.
Khi một người co năng lực tương ứng với một hành động hay một công
việc nào đo thì người đo được công nhận là co năng lực, được quyền giải
quyết và mang lại hiệu quả đối với công việc đo. Ngược lại, người nào muốn
giải quyết được một công việc và muốn được người khác thừa nhận là co
năng lực giải quyết công việc đo thì họ phải chứng minh và thể hiện được
rằng bản thân mình co đủ năng lực để thực hiện công việc ấy.
Theo “Từ điển tiếng Việt” do Nxb Đà Nẵng phát hành năm 1997: “Năng
lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên có sẵn để thực hiện một
hoạt động nào đó ở mức độ cao; hoặc năng lực được hiểu là phẩm chất của
con người tạo cho người đó có khả năng hoàn thành có kết quả một quá trình
hoạt động nhất định” [44, tr.639]. Năng lực được hiểu là tổng hợp những
thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một
hoạt động nhất định nhằm đảm bảo hoàn thành và đạt kết quả tốt trong lĩnh
vực hoạt động ấy.

16

16


17


Qua đo ta thấy, năng lực là tổng hợp các khả năng và phẩm chất tâm sinh
lý của mỗi con người tạo nên sức mạnh để giải quyết một vấn đề nào đo ,
năng lực vừa “tự nhiên” co sẵn và đồng thời đo là kết quả của quá trình học
tập, rèn luyện và hoạt động thực tiễn của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết “Năng lực của con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà co, mà
một phần lớn do công tác, do tập luyện mà co” [38, tr.180]. Co thể noi, năng
lực không chỉ là tư chất bẩm sinh vốn co thuần túy của con người “tự động
đảm bảo cho con người đạt kết quả trong hoạt động nào đo, mà là kết quả của
sự phối hợp những tư chất bẩm sinh vốn co với sự rèn luyện, tu dưỡng, học
tập thông qua hoạt động thực tiễn của con người” [21, tr.8].
Phạm trù thực tiễn: theo quan điểm của Triết học Mác, thực tiễn là phạm
trù triết học, dùng để chỉ toàn bộ những hoạt động động vật chất cảm tính, co
mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm mục đích cải tạo thế
giới tự nhiên và xã hội phục vụ cho con người. Quan điểm thực tiễn là quan
điểm cơ bản và quan trọng nhất của Triết học Mác, toàn bộ hệ thống lý luận
của Triết học Mác đã được xây dựng trên nền tảng của thực tiễn. Khi co quan
điểm thực tiễn khoa học mới hình thành nên thế giới quan, phương pháp luận,
nhận thức luận và giá trị quan của Triết học Mác. Triết học Mác chứa đựng
nhiều tính chất như tính phát triển, tính biện chứng, tính khách quan, tính duy
vật. Triết học Mác là sự thống nhất mang tính cách mạng như: giữa chủ nghĩa
duy vật và phương pháp biện chứng, giữa quan điểm tự nhiên và quan điểm
lịch sử, giữa thế giới quan và phương pháp luận, giữ lý luận về chân lý và lý
luận về giá trị… Tất cả những quan điểm này của Triết học Mác đều co nguồn
gốc từ quan điểm thực tiễn cũng như sự lý giải khoa học đối với thực tiễn.
Thực tiễn không chỉ đơn giản là mục đích, cơ sở, là động lực, tiêu chuẩn để
kiểm tra chân lý… mà thực tiễn còn là cơ sở quan trọng để nghiên cứu vấn đề
nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn.

17


17


18

Tổ chức thực tiễn chủ yếu là liên quan đến các hoạt động của con người,
là hoạt động cơ bản, co tính đặc thù của con người nhằm cải tạo, biến đổi đối
tượng phục vụ con người cùng với sự phát triển của xã hội. Co thể cho rằng,
tổ chức thực tiễn là một dạng hoạt động của con người nhằm hoàn thành một
nhiệm vụ nào đo trong quá trình thực hiện mục đích của mình.
Khi bàn về vấn đề thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “bao nhiêu
cách tổ chức, cách làm việc đều vì lợi ích của quần chúng. Vì vậy, cách tổ
chức và cách làm việc không phù hợp với quần chúng thì ta phải co đề nghị
lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại” [39, tr.246]. Hồ Chí Minh đã chỉ ra vai trò
của người cán bộ, đảng viên trong hoạt động tổ chức thực tiễn, no như cái dây
chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù
tốt, dù chạy toàn bộ bộ máy cũng bị tê liệt. Cán bộ chính là những người đem
chính sách của chính phủ, các đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ
dở thì dù chính sách hay cũng không thể thực hiện được [38, tr.275].
Với quan điểm trên ta thấy rằng, mục tiêu cơ bản của tổ chức thực tiễn là
đưa những vấn đề đã được nhận thức, đã được đề cập trong đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước thành hành động thực tế và tạo nên những biến
đổi trong hiện thực cuộc sống xã hội. Điều này không co nghĩa là tổ chức thực
tiễn không cần đến nghiên cứu khoa học công phu hay những suy nghĩ mang
tính sáng tạo, đột phá… Tổ chức thực tiễn không xem nhẹ lý luận, tổ chức
thực tiễn luôn khẳng định vai trò quan trọng là thực hiện các mục tiêu đã đề
ra. Vì vậy, tổ chức thực tiễn được xem xét trước hết dưới goc độ hoạt động
vật chất mang tính lịch sử cụ thể của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã
hội. Nhằm thực hiện những mục tiêu đã được con người nhận thức cũng như

đã đề ra, huy động một cách tốt nhất các lực lượng, nguồn lực, vận dụng một
cách linh hoạt các khả năng chủ quan, các nhân tố khách quan… với những
cơ chế, phương pháp tác động phù hợp. Đây là một trong những hoạt động hết

18

18


19

sức phức tạp, đan xen lẫn nhau nhằm đặt ra các mục tiêu cụ thể nhằm thỏa
mãn nhu cầu và mục đích của mình.
Những năm gần đây, co nhiều công trình khoa học ở nước ta bàn về vấn
đề tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp, các lĩnh
vực khác nhau. Dưới những goc độ, khía cạnh khác nhau thì tổ chức thực tiễn
chính là hoạt động của con người nhằm thực hiện một nhiệm vụ nào đo của
mình với mục đích nhất định. Đo là một quá trình bao gồm các khâu nhận
thức những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, quá trình cụ thể hoa đường lối, nghị
quyết thành các quyết định để tổ chức thực hiện, các quá trình: huy động, tập
hợp lực lượng để thực hiện các quyết định; quá trình kiểm tra, đánh giá, tổng
kết rút kinh nghiệm. Bên cạnh đo, co quan điểm lại cho rằng tổ chức thực tiễn
là quá trình bao gồm sự liên kết, phối hợp các nhân tố khách quan và chủ
quan, các yếu tố vật chất và tinh thần, tri thức và tình cảm,… thành một hệ
thống, chính thể hoạt động nhịp nhàng, cân đối, co hiệu quả nhằm đạt được
mục tiêu đã xác định [21, tr.6].
Co ý kiến lại cho rằng: tổ chức thực tiễn là quá trình bao gồm sự liên kết,
phối hợp các nhân tố khách quan và chủ quan, các yếu tố về vật chất và tinh
thần; truyền thống và thời đại, con người; xã hội và tự nhiên; sức lao động, tư
liệu lao động, hoàn cảnh điều kiện trong nước và quốc tế thành một hệ thống,

một chỉnh thể hoạt động nhịp nhàng cân đối, co hiệu quả nhằm đạt được mục
tiêu xác định [42, tr.64].
Qua các quan điểm của các nhà kinh điển học, các nhà nghiên cứu trong
nước, ta thấy co nhiều điểm tương đồng nhau như đã đề cập được những nội
dung cơ bản của tổ chức thực tiễn, mục đích của các hoạt động thực tiễn…
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả đưa ra quan điểm về năng
lực tổ chức thực tiễn cụ thể như sau: Năng lực tổ chức thực tiễn là tổng hợp
những khả năng và điều kiện cùng những hiểu biết, những kỹ năng và phẩm

19

19


20

chất tâm sinh lý ở mỗi người, nhằm hiện thực hóa các văn bản, nghị quyết
trong thực tiễn đạt hiệu quả cao, theo mục tiêu đã xác định.
Năng lực tổ chức thực tiễn là noi đến năng lực của một chủ thể nào đo
trong việc tổ chức thực tiễn (hoạt động vật chất của con người). Trong phạm
vi nghiên cứu của luận văn này, tác giả tập trung phân tích năng lực tổ chức
thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trại giam ở Tây Nam Bộ.
Những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được đi vào
cuộc sống, cụ thể hoa bằng những việc làm, hoạt động xã hội đo là thước đo,
tiêu chuẩn để đánh giá năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ, nhất là cán bộ
lãnh đạo, quản lý trong tất cả các lĩnh vực, các Bộ, Ngành mà cụ thể là lực
lượng công an nhân dân, trong đo co cán bộ lãnh đạo, quản lý trại giam.
Năng lực tổ chức thực tiễn được thể hiện cụ thể trong bốn nội dung cơ
bản sau:
Thứ nhất, năng lực tổ chức thực tiễn là khả năng lựa chọn phương án tối

ưu để xây dựng và ban hành các quyết định. Người lãnh đạo trong bất cứ
trường hợp nào, muốn co được khả năng này đòi hỏi ở người đo phải co khả
năng thu thập và xử lý thông tin; luôn đảm bảo thông tin chính xác, kịp thời,
đầy đủ của các lĩnh vực trong đời sống xã hội; đồng thời với điều đo là khả
năng cụ thể hoa các chỉ thị, văn bản, chủ trương của cấp trên thành hành động
cụ thể, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, hoàn cảnh thực tế của cơ quan, đơn
vị mình. Thông tin là phương tiện để thống nhất mọi hoạt động của tổ chức
nhằm giúp cho cơ quan, tổ chức đo đạt được mục tiêu chung. Nếu không co
thông tin cung cấp thì người lãnh đạo, quản lý cũng như cả cơ quan không thể
thực hiện được nhiệm vụ của mình. Thông tin là cơ sở quan trọng để người
lãnh đạo, quản lý ban hành các quyết định; không chỉ thông tin từ cấp trên
như các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị… mà ở đây thông tin còn
đến từ sự trao đổi thông tin với cả cấp dưới, họ biết được những thời cơ và

20

20


21

thách thức đối với cơ quan, tổ chức của mình. Thông tin còn là phương tiện
đặc trưng của hoạt động lãnh đạo, quản lý bởi vì mệnh lệnh của người lãnh
đạo quản lý được chuyển đến những người thực hiện cấp dưới thông qua
thông tin. Trong tất cả các hoạt động lãnh đạo, quản lý thì các hoạt động thu
thập, xử lý, truyền đạt, lưu trữ thông tin là tiêu đề, là công cụ của hoạt động
lãnh đạo, quản lý. Từ hoạt động này, người lãnh đạo quản lý thực hiện tiếp tục
các hoạt động tổng hợp, khái quát, đánh giá, phân tích tình hình chung, riêng,
cụ thể đối với cơ quan tổ chức mình; nắm được tiềm năng, khả năng và những
hạn chế, tồn tại của cơ quan, tổ chức mình khi thực hiện nhiệm vụ được giao.

Cho nên việc nắm bắt, xử lý thông tin chính xác nhất quyết định chất lượng
lãnh đạo, quản lý.
Vì thế, đối với bất kỳ người lãnh đạo, quản lý trong cơ quan, tổ chức phải
nắm được thông tin một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác về nội dung co liên
quan đến công tác của mình trước khi ban hành quyết định. Phải luôn nắm bắt
và hiểu vấn đề mới đi đến việc ra quyết định như chủ tịch Hồ Chí Minh đã noi
“phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng”. Một quyết định sai lầm khi
đưa và thực tiễn thực hiện no mang đế một hậu quả kho lường.
Thứ hai, năng lực tổ chức thực hiện quyết định
Người cán bộ lãnh đạo, chỉ huy muốn tổ chức thực hiện quyết định cần
phải tổ chức bộ máy cán bộ và bố trí sử dụng con người trong bộ máy đo. Noi
đến bộ máy là noi đến con người, con người đong vai trò chủ thể trong mọi
hoạt động của bộ máy đo. Tổ chức bộ máy tinh giản, gọn nhẹ, thể hiện sự linh
hoạt và sáng tạo thì khả năng tổ chức thực hiện quyết định đạt tỷ lệ thành
công và hiệu quả càng cao. Bên cạnh đo, năng lực tổ chức thực tiễn còn đòi
hỏi người cán bộ lãnh đạo chỉ huy phải co khả năng, nhạy bén trong việc lựa
chọn người co đức, tài; bồi dưỡng và bố trí con người đúng việc, đúng chỗ…
phát huy được thế mạnh, sở trường của mỗi cá nhân, phù hợp từng vị trí công

21

21


22

việc, để từ đo hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Thực tế cho thấy, nếu
không co bộ máy, không co con người tổ chức thực hiện thì sẽ không co quá
trình tổ chức thực tiễn.
Thực hiện quyết định là nội dung quan trọng, cốt lõi của tổ chức thực

tiễn. Căn cứ vào từng quyết định cụ thể và điều kiện của cơ quan, đơn vị
mình; người lãnh đạo quản lý cần co năng lực phân công công việc, sự chuẩn
bị về phương tiện, kỹ thuật, điều kiện về vật chất, tài chính để khi thực hiện
không bị động. Bên cạnh đo, đối với các quyết định lãnh đạo mang tầm chiến
lược, co ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của cơ quan, đơn vị; người
lãnh đạo quản lý co thể tổ chức thực hiện thí điểm trên phạm vi nhỏ để kiểm
tra tính khả thi của quyết định, sau đo tổ chức thực hiện trên toàn cơ quan,
đơn vị mình.
Thứ ba, năng lực phải kiểm tra, đánh giá việc thực hiện quyết định
Công tác lãnh đạo, quản lý đòi hỏi phải co sự kiểm tra, giám sát; đây là
một trong những chức năng cơ bản của lãnh đạo quản lý. Kiểm tra nhằm phát
hiện những tồn tại, thiếu sot, thuận lợi và kho khăn; cũng như các vấn đề khác
phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện các quyết định để kịp thời khắc
phục, chấn chỉnh; đôn đốc, động viên thực hiện khi gặp kho khăn. Kiểm tra
cũng là thể hiện tính khách quan, khoa học của việc tổ chức thực hiện các
quyết định, nhằm định hướng và nâng cao hiệu quả thực hiện các quyết định
lãnh đạo, quản lý trong tổ chức thực tiễn như quan điểm của Đảng ta đã nêu:
“Lãnh đạo mà không co kiểm tra thì coi như không co lãnh đạo” [12, tr.123].
Thứ tư, tổ chức thực tiễn phải có tổng kết, đánh giá, rút ra bài học kinh
nghiệm khi thực hiện quyết định
Tổng kết là công việc thường xuyên của bất kỳ cơ quan, tổ chức nào
trong quá trình hoạt động. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã noi: “Công việc gì, bất
kỳ thành công hay thất bại, chúng ta cần nghiên cứu đến cội rễ, phân tích thật

22

22


23


rõ ràng rồi mới kết luận. Kết luận đo sẽ là cái chìa khoa phát triển công việc
và để giúp cho cán bộ tiến tới” [36, tr.256]. Bên cạnh khả năng lãnh đạo, quản
lý của người lãnh đạo chỉ huy thì việc tổng kết, đánh giá cũng chính là bước
cuối cùng của chu trình tổ chức thực tiễn, đồng thời no cũng mở ra một chu
trình mới cho hoạt động này. Từ tổng kết, đánh giá việc tổ chức thực hiện các
quyết định lãnh đạo của mình, người lãnh đạo co cái nhìn bao quát, toàn diện
về quá trình lãnh đạo, qua phân tích, đánh giá, so sánh giúp ta thấy được
những thuận lợi, kho khăn khi tổ chức thực hiện, để đưa ra những phương
pháp phù hợp trong thời gian tiếp theo. Bên cạnh việc tổng kết, đánh giá việc
thực hiện các quyết định lãnh đạo, quản lý còn giúp người lãnh đạo quản lý
đánh giá một cách khách quan, toàn diện về năng lực, trình độ, phẩm chất của
đội ngũ cán bộ của mình để từ đo co hướng đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sắp
xếp một cách hợp lý.
Từ ý nghĩa quan trọng của tổng kết, đánh giá việc tổ chức thực hiện các
quyết định, để khái quát và rút ra các vấn đề co giá trị cốt lõi, trọng tâm nhằm
bổ sung, hoàn thiện và phát triển lý luận. Tuy nhiên, việc tổng kết, đánh giá
việc thực hiện các quyết định co ý nghĩa hay không, co hiệu quả như thế nào,
co tránh được việc tổng kết chỉ đánh giá ở các hiện tượng đang diễn ra, không
đi vào đánh giá đúng bản chất của vấn đề; tổng kết chỉ liệt kê, mô tả một cách
chung chung; tổng kết dạng “làm báo cáo, báo cáo hay”, khắc phục được
bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, bệnh kinh nghiệm, không tôn trọng khách
quan, điều đo phụ thuộc rất lớn vào vai trò của người lãnh đạo, quản lý trong
quá trình tổng kết thực tiễn. Người lãnh đạo, quản lý co năng lực sẽ lựa chọn
được vấn đề cần tổng kết, luôn co trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các
vấn đề cấp bách mà thực tiễn đang cần, những vấn đề mà khi tổ chức thực
hiện còn vướng mắc, chưa tháo gỡ hay phát sinh các yêu cầu khác khi thực
hiện. Ngoài việc tổng kết, đánh giá việc thực hiện các quyết định tại cơ quan,

23


23


24

tổ chức, đơn vị mình… người lãnh đạo, quản lý cần phải co tinh thần học hỏi
kinh nghiệm, mô hình, điển hình tiên tiến của các đơn vị khác, từ đo vận dụng
một cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của đơn vị
mình, không áp dụng một cách khuôn khổ, máy moc.
Bên cạnh đo, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, kinh tế - xã
hội và hội nhập quốc tế, người lãnh đạo, quản lý cần phải co khả năng tiếp
nhận thông tin về các lĩnh vực của đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn
hoa; phải co bản lĩnh tư tưởng chính trị vững vàng, không dao động trước mọi
luận điệu xuyên tạc, phải xây dựng tác phong làm việc khoa học; mẫu mực,
văn hoa trong ứng xử; không ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng,
lối sống trong sạch, giản dị, lành mạnh; noi phải đi đôi với làm, sẵn sàng nhận
và chịu trách nhiệm với các quyết định của mình; thật sự là tấm gương để cấp
dưới học tập, làm theo.
Năng lực tổ chức thực tiễn bàn đến trong luận văn này là năng lực của
người cán bộ lãnh đạo quản lý trại giam ở Tây Nam Bộ. Đây là bộ phận lãnh
đạo và quản lý trực tiếp phạm nhân 24/24 giờ, do vậy, no co ý nghĩa quan
trọng, quyết định đến sự hoạt động của trại giam. Đội ngũ này phải co năng
lực tổ chức thực tiễn tốt thì các trại giam mới hoạt động hiệu quả, việc quản
lý, giáo dục, cải tạo phạm nhân mới đạt hiệu quả, từ đo thể hiện được bản chất
ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Cán bộ lãnh đạo, quản lý trại giam
Theo Luật Cán bộ công chức năm 2008, “Cán bộ là công dân Việt Nam,
được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ chức danh theo nhiệm kỳ
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã

hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ở huyện, quận,
thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước”.
Với mỗi một cơ quan, tổ chức thì tiêu chuẩn cán bộ co những đặc điểm, yêu

24

24


25

cầu riêng nhưng cũng co nét tương đồng. Cán bộ phải co tiêu chuẩn nhất định
về phẩm chất đạo đức, tiêu chuẩn về chính trị, co kiến thức, trình độ chuyên
môn phù hợp với vị trí mà mình được bầu, bổ nhiệm.
Lãnh đạo là quá trình gây ảnh hưởng và dẫn dắt hành vi của cá nhân hay
nhom người nhằm hướng tới mục tiêu của tổ chức [20]. Lãnh đạo là một dạng
hoạt động lâu đời trong xã hội loài người, từ thời nguyên thủy đến xã hội hiện
đại. Lãnh đạo là một nhu cầu thiết yếu của một nhom người, được hình thành
từ sự phối hợp hoạt động của nhiều người, dựa trên sự phân công và hợp tác
trong quá trình lao động. Lãnh đạo được tiếp cận dưới nhiều goc độ, khía
cạnh khác nhau, lãnh đạo co thể là sự điều khiển, hướng dẫn, dẫn dắt, định
hướng cho tập thể, cá nhân hoạt động theo chủ trương, đường lối nhất định
nhằm đạt mục tiêu đã đề ra. Hoạt động lãnh đạo là cả một quá trình phức tạp,
là nghệ thuật; lãnh đạo đưa con người, một nhom người tự nguyện, nhiệt tình
phấn đấu và đạt được mục tiêu đã đề ra.
Cùng với lãnh đạo, quản lý ra đời từ sự phân công lao động trong xã hội
nhằm đạt được hiệu quả cao hơn. Quản lý là một hiện tượng xã hội, tồn tại
trong mọi chế độ xã hội, bất kỳ khi nào con người co nhu cầu kết hợp với
nhau để đạt đến mục tiêu chung. Theo nghĩa Hán Việt, quản lý là bao gồm
“quản” và “lý”, “quản” là sự trông coi, giữ gìn, duy trì ở trạng thái ổn định;

“lý” là sự sắp xếp, sửa sang, đổi mới để đi vào sự phát triển. Nếu người quản
lý chỉ tập trung vào việc “quản” thì tổ chức dễ rơi vào trì trệ, chậm phát triển;
nếu chỉ tập trung vào “lý” nghĩa là chỉ chăm lo về tổ chức sắp xếp, đổi mới
mà không dựa vào nền tảng của sự ổn định thì tổ chức sẽ phát triển không bền
vững. Như vậy, co thể hiểu quản lý là một quá trình tác động, gây ảnh hưởng
của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý một cách hợp quy luật nhằm đạt
được mục tiêu chung.

25

25


×