Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NỮ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở BẾN TRE HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 123 trang )

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NỮ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở BẾN TRE HIỆN NAY


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .............................................................................................………….1
1. Tính cấp thiết của đề tài......................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.........................................................2
3. Mục đích nghiên cứu..........................................................................................5
4. Khách thể nghiên cứu và Đối tượng nghiên cứu................................................5
5. Giả thuyết khoa học............................................................................................6
6. Nhiệm vụ của nghiên cứu...................................................................................6
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu........................................................................6
8. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................6
9. Cấu trúc của luận văn.........................................................................................7
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp của luận văn.......................................7
NỘI DUNG............................................................................................................8
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NỮ
TRONG

XÂY DỰNG

NÔNG THÔN

MỚI



BẾN TRE



HIỆN

NAY..........................................................................................................................8
1.1. Cơ sở lý luận..................................................................................................8
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản .............................................................................8
1.1.2. Quan điểm của Đảng và Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực
nữ ..................................................................... ..........................................................
.13
1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................17
1.2.1. Đặc điểm của nguồn nhân lực nữ ở Bến Tre hiện nay ..............................17
1.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội của Bến Tre......................................................23
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực nữ..........................29


1.2.4. Vai trò của Phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới ở Bến Tre hiện
nay ...................................................................................................................... .......
...34
Tiểu kết chương 1 .................................................................................. ...........38
Chương 2: PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NỮ TRONG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở BẾN TRE HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI
PHÁP .....................................................................................................................39
2.1. Thực trạng về phát triển nguồn nhân lực nữ trong xây dựng nông thôn
mới ở Bến Tre hiện nay ........................................................................................39
2.1.1. Những thành quả về phát triển nguồn nhân lực nữ trong xây dựng nông
thôn mới ở Bến Tre hiện nay ..................................................................................40
2.1.2. Nguyên nhân của những thành quả về phát triển nguồn nhân lực nữ trong
xây dựng nông thôn mới ở Bến Tre hiện nay .........................................................64
2.1.3. Những hạn chế về phát triển nguồn nhân lực nữ trong xây dựng nông thôn
mới ở Bến Tre hiện nay ..........................................................................................68

2.1.4. Nguyên nhân của những hạn chế về phát triển nguồn nhân lực nữ trong
xây dựng nông thôn mới ở Bến Tre hiện nay .........................................................75
2.2. Một số giải pháp về phát triển nguồn nhân lực nữ trong xây dựng nông
thôn mới ở Bến Tre ..............................................................................................78
2.2.1. Tăng cường vai trò chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của Đảng, nhà nước; thể
hiện vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp trong việc phát triển nguồn nhân lực
nữ ở Bến Tre hiện nay............................................................................................78
2.2.2. Tăng cường công tác đầu tư cho giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng
sức khỏe nguồn nhân lực nữ ..................................................................................87
2.2.3. Đổi mới các chính sách thu hút, sử dụng nguồn lao động nữ, giải quyết tốt
việc làm cho phụ nữ Bến Tre .................................................................................95
2.3.4. Nâng cao tính chủ động, tích cực tham gia hoạt động xã hội, phấn đấu
vươn lên để tạo sự bình đẳng giới nhằm phát huy vai trò của phụ nữ Bến Tre trong
xây dựng nông thôn mới .........................................................................................97


Tiểu kết chương 2.........................................................................………………..
…………………………………………...98
Kết luận................………………..…………………………………………...100
DANH

MỤC

TÀI

LIỆU

THAM

KHẢO


.........................................................................………………………..................992


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng nông thôn mới có ý nghĩa to lớn và tác động toàn diện đến nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực với sự tham gia của nhiều lực lượng khác nhau. Trong đó,
phụ nữ được xác định vừa là chủ thể trực tiếp tham gia vừa là chủ thể thụ hưởng
thụ những thành quả từ phong trào này. Hiệu quả đạt được từ việc phát triển nguồn
nhân lực nữ trong xây dựng nông thôn mới đem lại lợi ích trên nhiều phương diện
khác nhau. Thông qua đó tạo cơ hội để từng chủ thể phụ nữ khẳng định quyền làm
chủ, kiến tạo cuộc sống ngày càng ấm no, sung túc bền vững. Với xã hội, có phát
huy tốt nguồn nhân lực nữ sẽ đem đến sự phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế và cả quốc phòng an ninh trên địa bàn nông thôn.
Phụ nữ có vai trò quan trọng vừa là lực lượng lao động cơ bản của xã hội, vừa
có trách nhiệm trực tiếp sản xuất ra con người. Chính vì thế mà Đảng ta luôn quan
tâm đến công tác phụ nữ và đã chỉ đạo thực hiện rất nhiều chính sách cho phụ nữ
phát triển.
Chính nhờ sự quan tâm sâu sát của các cấp ủy mà phụ nữ ngày càng phát triển
cả về số lượng và chất lượng, phụ nữ cũng đã có nhiều đóng góp tích cực vào công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tồ quốc.
Ở Bến Tre, xây dựng nông thôn mới là một chủ trương đúng đắn của Đảng,
Nhà nước nhằm thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn ở nước ta. Với truyền thống cách mạng, bằng sự năng động, tích cực và
sáng tạo đã giúp cho phụ nữ được phát huy mạnh mẽ trên tất cả các mặt, các tiêu
chí trong phong trào xây dựng nông thôn mới, từ việc nhiệt tình, tích cực tham gia
quy hoạch và thực hiện quy hoạch đến việc tự nguyện, tự giác đóng góp từ vật chất
đến tinh thần, không những chủ động, sáng tạo trong tổ chức sản xuất, phát triển

kinh tế mà còn hăng hái tham gia các phong trào ở địa phương. Việc phát triển
nguồn nhân lực nữ ở Bến Tre trên thực tế đã thực sự đem lại một diện mạo nông
thôn không ngừng đổi thay theo hướng văn minh, hiện đại.


2
Tuy nhiên, việc phát triển nguồn nhân lực nữ ở Bến Tre gặp khó khăn, bất cập
từ nhiều góc độ. Những nghiên cứu hiện nay về phụ nữ ở Đồng bằng sông Cửu
Long nói chung và Bến Tre nói riêng còn chưa quan tâm đúng mức, bởi lẽ phụ nữ
Bến Tre là nơi bị ảnh hưởng sâu sắc các quan điểm Nho giáo, nên quan niệm:
“trọng nam khinh nữ” đã thấm sâu vào mỗi người dân nơi đây (trong đó có cả phụ
nữ). Bản thân phụ nữ nông thôn Bến Tre còn giữ lối sống khép kín, chưa mạnh dạn
đóng góp hết khả năng của mình vào hoạt động xã hội. Đây chính là những rào cản
bất lợi đối với phụ nữ trong quá trình tôn vinh vị thế của mình. Bên cạnh đó, việc
tiếp cận xã hội như tiềm kiếm việc làm và học hỏi kinh nghiệm, kỹ năng nghề
nghiệp còn hạn chế, còn tồn tại những hạn chế nội sinh như: về trình độ học vấn,
chuyên môn nghề nghiệp, tay nghề; những nhược điểm trong tâm lý, tính cách
chưa được điều chỉnh, xóa bỏ. Những hạn chế này thực sự là rào cản “xiềng xích”
mà Phụ nữ đang tự trói buộc bản thân mình, làm cho vai trò phụ nữ chưa được phát
huy tối đa, có hiệu quả.
Chính vì thế, việc tìm ra giải pháp để đào tạo và bồi dưỡng đúng mức nhằm
phát triển nguồn nhân lực nữ trong giai đoạn hiện nay là vấn đề hết sức quan trọng,
là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Vì thế, tôi chọn vấn đề: “Phát
triển nguồn nhân lực nữ trong xây dựng nông thôn mới ở Bến Tre hiện nay”
làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, nói đến sự đóng góp của phụ nữ trong phát triền kinh tế ở địa
phương thì có rất nhiều công trình nghiên cứu. Với nhiều khía cạnh khác nhau.
Thứ nhất, nhóm nghiên cứu các công trình về vai trò của phụ nữ, tiêu biểu
như: “Con người và nguồn lực con người trong phát triển”, của viện thông tin khoa

học xã hội ( 1995), nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội ; Công trình khoa học
cấp nhà nước “ Con người Việt Nam - Mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh
tế - xã hội” (1995); “Phát triển nguồn nhân lực, kinh nghiệm thế giới và thực tiễn
nước ta” tác giả PGS. Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm (1996), nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội; những công trình nghiên cứu này đã khẳng định vai trò của phụ


3
nữ trong phát triển kinh tế và những kinh nghiệm trong việc phát triển nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu thực tế; “Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, tác giả Phạm Minh Hạc (2001), nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia; “Lao động, việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm
đổi mới” tác giả Nolwen Henaff và Jean - Yves Martin (2002), nhà xuất bản chính
trị Quốc gia; “Các công trình nghiên cứu liên quan đến nguồn nhân lực nữ chất
lượng cao”, tác giả TS. Bùi Thị Ngọc Lan (2002), nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
các công trình này đã nghiên cứu về nguồn lực xây dựng và phát triển kinh tế, vai
trò của các nguồn lực, từ đó đưa ra được những giải pháp để phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao; Luận án tiến sĩ: “Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta” của tác giả Trần Kim Hải, 1999. Luận án này
đã chỉ ra được việc sử dung nguồn nhân lực hiện nay với những bất cập và hạn chế
để đưa ra được những giải pháp tốt trong quá trình sử dụng nguồn nhân lực hợp lý.
Luận án tiến sĩ: “Vai trò của người phụ nữ trong công nghiệp hóa nông thôn” của
tác giả Hoàng Bá Thịnh ( 2001); Luận án tiến sĩ: “Phát triển nguồn nhân lực nữ
nhằm tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội ở miền núi phía Bắc Việt
Nam”, của tác giả Lê Thị Thúy ( 2013); Luận án tiến sĩ: “Vấn đề phát triển nguồn
nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay”, của tác giả Nguyễn Thị Giáng
Hương (2013); Luận văn thạc sĩ: “Phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở
tỉnh Lạng Sơn hiện nay”, của tác giả Vi Thị Thảo (2015); Luận văn thạc sĩ: “Phát
triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở thành phố Hải Phòng trong giai đoạn
hiện nay”, của tác giả Nguyễn Thị Ánh Nguyệt, (2015), luận văn tập trung nghiên

cứu để phát triển nguồn nhân lực nữ chất lương cao, tìm ra những giải pháp để
nâng cao và phát triển nguồn lực nữ chất lương cao, “Phụ nữ, giới và phát triển”
(2000), tác giả Tiến sĩ. Trần Thị Vân Anh và Lê Ngọc Hùng, nhà xuất bản chính trị
Quốc Gia, Hà nội, công trình đã nghiên cứu về “giới” tìm ra những giải pháp về
“bình đẳng giới” trong xã hội hiện nay, “Gia đình Việt Nam và vai trò người phụ
nữ trong gia đoạn hiện nay”, tác giả Dương Thị Minh (2004), nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội; “Phát huy nguồn nhân lực trí thức nữ Việt Nam trong sự


4
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, tác giả Đỗ Thị Thạch (2005), nhà xuất bản
chính trị quốc gia, Hà Nội, quyển sách trình bày những vấn đề lý luận chung và
kinh nghiệm quý báo trong phát triển nguồn nhân lực trí thức.
Thứ hai, nhóm nghiên cứu về: Chương trình xây dựng nông thôn mới và vai
trò của tất cả nguồn nhân lực trong thực hiện chương trình. Tiêu biểu là bài viết:
“Kết quả sau bốn năm thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới”, của tác
giả Nguyễn Sinh Cúc, tác giả tập trung khái quát về kết quả đạt được cơ bản của
bốn năm triển khai thực hiện xây dựng nông thôn mới (2011 - 2014) thông qua
những mô hình tiêu biểu ở một số địa phương như: Đồng Nai, Thái Bình, Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Lâm Đồng. Đồng thời, tác giả chỉ ra những khó khăn,
hạn chế và đề xuất một số giải pháp chủ yếu để quá trình xây dựng nông thôn mới
trong những năm tiếp theo được tốt hơn. Đặc biệt, với bài: “Phát triển hợp tác xã
nông nghiệp kiểu mới - khâu đột phá để cơ cấu lại nông nghiệp”, của tác giả
Nguyễn Thiện Nhân, đã chỉ ra một giải pháp rất quan trọng nhằm tăng thu nhập
cho người dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới đó là con đường tất yếu cần
phải hướng đến mô hình hợp tác xã kiểu mới gắn với sự ra đời của của “Luật Hợp
tác xã năm 2012”. Đến nay, đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề
này. Đối với các đề tài khoa học, đáng chú ý có: “Một số giải pháp xây dựng nông
thôn mới vùng ven biển Đồng bằng sông Hồng”, (2012); “Bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa truyền thống vùng đồng bằng Bắc bộ trong xây dựng nông thôn mới

hiện nay (2014), 02 đề tài khoa học trên tuy đối tượng nghiên cứu có khác nhau,
nhưng đều xoay quanh chủ đề: xây dựng nông thôn mới và những giải pháp đề ra
đều nhằm mục đích làm thế nào để phong trào đạt được nhiều thành tựu to lớn hơn.
Có thể nhận định, ngay từ khi Đảng ta đề ra chủ trương xây dựng nông thôn mới, ở
khu vực phía Bắc đã và đang có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề này với
những góc độ tiếp cận khác nhau.
Đối với các công trình khoa học cấp tỉnh nghiên cứu về xây dựng nông thôn
mới có đề tài: Đề xuất các giải pháp chủ yếu xây dựng xã nông thôn mới theo bộ
tiêu chí của tỉnh Bến Tre giai đoạn 2012 - 2014 của Liên hiệp các Hội khoa học và


5
kỹ thuật tỉnh Bến Tre chủ trì thực hiện. Đề tài đi sâu khảo sát thực tế quá trình triển
khai xây dựng nông thôn mới ở 03 xã: Sơn Định (huyện Chợ Lách), Phú Nhuận
(Thành phố Bến Tre) và Tân Thủy (huyện Ba Tri) tương ứng với đặc thù của ba
vùng sinh thái nước ngọt, nước lợ và nước mặn.
Tuy nhiên, khảo sát vai trò của phụ nữ với tư cách là chủ thể trong quá trình
thực tiễn xây dựng xã nông thôn mới ở Bến Tre như thế nào thì chưa có công trình
nghiên cứu nào thực hiện, trong khi đó Bến Tre là nơi giàu tiềm năng để phát triển
nông nghiệp vì trên thực tế lực lượng lao động nữ đã và đang đóng góp đáng kể
vào thành tựu chung cho nền kinh tế nông nghiệp của tỉnh. Cho nên, việc phát triển
nguồn nhân lực nữ ở Bến Tre trong xây dựng nông thôn mới được quan tâm nghiên
cứu và tổng kết thực tiễn.
Những năm qua việc nghiên cứu về: Nguồn nhân lực nữ trong phát triền kinh
tế - xã hội”, những Hội thảo về phát triển phụ nữ như: “Vai trò giới tính và nguồn
nhân lực trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội” do Ủy ban các vần đề xã hội
của Quốc hội tổ chức năm 1995, các công trình đề cập đến vai trò của phụ nữ trong
phát triển xã hội. Vì vậy, tác giả mong muốn làm sáng tỏ hơn vấn đề phụ nữ trong
xây dựng nông thôn mới trong luận văn.
3. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích nguồn nhân lực nữ trong xây dựng nông thôn mới ở Bến
Tre hiện nay, từ đó đã nêu lên thực trạng của vấn đề và đề ra những giải pháp cơ
bản và cần thiết nhất để phát triển nguồn nhân lực nữ trong quá trình xây dựng
nông thôn mới ở Bến Tre đến năm 2020.
4. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Nguồn nhân lực nữ tỉnh Bến Tre
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Phát triển nguồn nhân lực nữ trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bến Tre
hiện nay.


6
5. Giả thuyết khoa học
Nguồn nhân lực nữ ở Bến Tre là một lực lượng quan trọng nó ảnh hưởng
mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội. Nếu chúng ta phát triển tốt
nguồn lực này sẽ góp phần đưa Bến Tre sớm hoàn thành công cuộc xây dựng nông
thôn mới mà Nghị quyết của Tỉnh đã đề ra.
6. Nhiệm vụ của nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn hướng vào giải quyết các nhiệm vụ
sau:
- Một là, chỉ ra được sự cần thiết phải phát triển nguồn nhân lực nữ ở Bến Tre
hiện nay.
- Hai là, nêu lên được thực trạng phát triển nguồn nhân lực nữ trong xây dựng
nông thôn mới ở Bến Tre trong giai đoạn hiện nay, giúp chúng ta thấy được những
thuận lợi và khó khăn. Từ đó, rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm từ thực
trạng của nó trong thời gian qua.
- Ba là, đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực nữ trong quá
trình xây dựng nông thôn mới ở Bến Tre đến năm 2020.
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu

- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực nữ trong quá
trình xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bến Tre từ năm 2011 đến 2015 và các giải
pháp để phát triển nguồn nhân lực nữ trong xây dựng nông thôn mới ở Bến Tre đến
năm 2020.
- Đề tài nghiên cứu ở Tỉnh Bến Tre
- Khảo sát số liệu năm 2011 – 2015; năm 2017
8. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài thực hiện dựa trên một số nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận như:
phương pháp luận của triết học của Chủ nghĩa Mác - Lênin; Tư tưởng Hồ Chí
Minh như: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó đã tiến hành sử


7
dụng phương pháp: Đọc, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa, phân
loại…. các tài liệu, giáo trình, các công trình nghiên cứu có liên quan.
- Thực hiện bằng những phương pháp nghiên cứu thực tiễn như: phương pháp
quan sát vấn đề, phương pháp điều tra phỏng vấn, trò chuyện
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 2 chương, 4 tiết.
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp của luận văn
10.1. Những luận điểm cơ bản
- Phụ nữ là một lực lượng đông đảo, có vai trò vô cùng quan trọng không thể
thay thế trong gia đình nói riêng, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung và
xây dựng nông thôn mới ở Bến Tre hiện nay nói riêng.
- Phát triển nguồn nhân lực nữ trong xây dựng nông thôn mới ở Bến Tre hiện
nay là một trong những mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp xây
dựng con người mới, đáp ứng những nhu cầu mới của xã hội hiện đại, sự nghiệp vì
sự tiến bộ của phụ nữ.
10.2. Đóng góp của đề tài

- Một là, luận văn đã khái quát những lý luận cơ bản về Phụ nữ Việt Nam nói
chung và tỉnh Bến Tre nói riêng.
- Hai là, đưa ra một số chứng minh để phân tích và làm sáng tỏ thực trạng
phát triển nguồn nhân lực nữ trong xây dựng nông thôn mới ở Bến tre. Từ đó, rút
ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm
- Ba là, đưa ra những quan điểm và một số giải pháp chủ yếu thực hiện mục
tiêu phát triển nguồn nhân lực nữ của tỉnh Bến Tre đến năm 2020.
- Bốn là, qua số liệu thực tế giúp triển khai thực hiện các nhiệm vụ trong phát
triển nguồn nhân lực nữ của tỉnh.
- Năm là, rút ra quy trình cần thiết để thực hiện có hiệu quả về phát triển
nguồn nhân lực nữ trong xây dựng nông thôn mới ở Bến Tre hiện nay.


8
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NỮ TRONG XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở BẾN TRE HIỆN NAY
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực nữ và phát triển nguồn
nhân lực nữ.
* Nguồn nhân lực là một vấn đề hết sức quan trọng của sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội ở bất kỳ quốc gia nào. Việt Nam đang từng bước xây dựng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thì việc chú trọng phát triển
nguồn nhân lực là vấn đề hết sức cần thiết.
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: “Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề,
là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc
tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng” [16, tr.18].
So với các nguồn lực khác thì việc quản lý, sử dụng nguồn lực con người là
hết sức khó khăn, phức tạp, bởi con người là một thực thể sinh vật rất nhạy cảm

với vấn đề tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra trong môi trường
sống của họ.
Theo David Begg: “Nguồn nhân lực là toàn bộ quá trình chuyên môn mà con
người tích luỹ được, nó được đánh giá cao vì tiềm năng đem lại thu nhập trong
tương lai. Cũng giống như nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực là kết quả đầu tư
trong quá khứ với mục đích đem lại thu nhập trong tương lai” [31, tr.282].
Theo GS.TS Phạm Minh Hạc: “Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao
động của một nước hoặc một địa phương, tức nguồn lao động được chuẩn bị (ở
các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là
những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp
ứng được yêu cầu của cơ chế chuyển đổi cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [30, tr.269].


9
Theo Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng: “Nguồn nhân lực được xem xét dưới hai góc
độ năng lực xã hội và tính năng động xã hội. Ở góc độ thứ nhất, nguồn nhân lực là
nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số,
có khả năng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Xem xét nguồn nhân
lực dưới dạng tiềm năng giúp định hướng phát triển nguồn nhân lực để đảm bảo
không ngừng nâng cao năng lực xã hội của nguồn nhân lực thông qua giáo dục,
đào tạo, chăm sóc sức khoẻ. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở dạng tiềm năng thì chưa
đủ. Muốn phát huy tiềm năng đó phải chuyển nguồn nhân lực sang trạng thái động
thành vốn nhân lực, tức là nâng cao tính năng động xã hội của con người thông
qua các chính sách, thể chế và giải phóng triệt để tiềm năng con người. Con người
với tiềm năng vô tận nếu được tự do phát triển, tự do sáng tạo và cống hiến, được
trả đúng giá trị lao động thì tiềm năng vô tận đó được khai thác phát huy trở
thành nguồn vốn vô cùng to lớn” [29, tr.5].
Từ khái niệm trên cho thấy nguồn lực con người bao gồm sức mạnh về thể
chất, trí tuệ, tinh thần của các cá nhân trong một cộng đồng, một quốc gia, hay nói

cách khác là nguồn nhân lực là tiềm năng về trí tuệ, thể lực và tâm lực của con
người trong độ tuổi lao động, là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội.
Tóm lại, định nghĩa nguồn nhân lực: là tổng thể số lượng và chất lượng con
người với tổng hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy
động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.
* Nguồn nhân lực nữ được hiểu theo 2 nghĩa như sau:
Theo nghĩa rộng: “Nguồn nhân lực nữ bao gồm tổng hòa các tiêu chí của bộ
phận dân số nữ đang có khả năng tham gia vào quá trình lao động xã hội và các
thế hệ phụ nữ nối tiếp sẽ phục vụ xã hội” [33, tr.27].
Theo nghĩa hẹp: “Nguồn nhân lực nữ với tư cách là lực lượng lao động của
xã hội, bao gồm nhóm phụ nữ trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Pháp
luật Việt Nam qui định độ tuổi lao động đối với nữ (nữ từ đủ 15 tuổi đến hết 55
tuổi, nam từ đủ 15 tuổi đến hết 60 tuổi) ” [33, tr.28].


10
Khi nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ, chúng ta cần chú ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất, nguồn nhân lực nữ là lực lượng lao động quan trọng, tham gia trực
tiếp vào quá trình phát triển của đất nước, có vai trò và ý nghĩa rất lớn để xây
dựng kinh tế của từng địa phương. Mặt khác, phụ nữ chiếm một nữa dân số nên
việc tìm hiểu và đưa ra khái niệm về nguồn nhân lực nữ theo hai cách trên chưa
mang tính toàn diện mà chỉ mang tính chất tương đối, nó còn phải dựa vào việc
điều chỉnh quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Thứ hai, điều đáng chú ý là chúng ta cần phải có cách thức tiếp cận đúng đắn,
quán triệt quan điểm về giới và phát triển. Quan điểm về “giới” xem phụ nữ như là
những tác nhân của sự biến đổi hơn là những người nhân sự giúp đỡ của phát triển
một cách thụ động, với quan điểm này vấn đề phụ nữ không nghiên cứu một cách
trách rời mà luôn chú trọng đến các mối liên hệ giới khi đề ra các biện pháp để
giúp đỡ họ. Khi nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ chúng ta phải đặc trong mối
quan hệ giữa nam và nữ.

* Phát triển nguồn nhân lực nữ,
Phát triển “nguồn nhân lực” hay “con người”, là phạm trụ triết học nhằm chỉ
sự vận động, biến đổi về chất của con người - thực thể tự nhiên - xã hội cả mặt thể
chất và tinh thần, đạo đức và tài năng với tất cả nhu cầu, lợi ích và tất cả những
tiềm năng của nó phù hợp với yêu cầu phát triển xã hội này định như một quá trình
lịch sử tự nhiên, khách quan.
Phát triền nguồn nhân lực nữ: là quá trình chúng ta tạo ra số lượng và chất
lượng nguồn nhân lực nữ và số lượng và chất lượng phụ nữ ấy phải mang lại hiệu
quả cao, chất lượng công việc cụ thể, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước, là việc chúng ta phải đề cao vị thế, vai trò của phụ nữ
trong sự phát triển của đất nước.
Tóm lại: “Phát triền nguồn nhân lực nữ là sự kết hợp giữa điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan nhằm tạo ra sự gia tăng về số lượng, chất lượng và cơ


11
cấu; đồng thời tạo sự bình đẳng về giới để đóng góp ngày càng tốt hơn cho sự
phát triển bền vững của đất nước [33, tr.37].
Để thực hiện thì trước hết cần phải có tạo được quyền cơ bản cho phụ nữ như:
được bình đẳng trong học hành, được quan tâm chăm sóc sức khỏe, bình đẳng
trong thu nhập, trong các mối quan hệ xã hội, quyền chia sẽ những gánh nặng công
việc gia đình, tiếp cận nguồn vốn, khoa học công nghệ và các nguồn lực sản xuất
khác, bình đẳng trong chế độ chính sách và trong tiếng nói chung của xã hội.
Để phát triền được nguồn nhân lực nữ thì vai trò của Đảng và Nhà nước rất
quan trọng, cần phải thực hiện tốt công tác bình đẳng giới, làm sao để mọi người
hiểu rõ là nam giới và phụ nữ đều có quyền hạn như nhau trong xã hội. Phụ nữ
cũng có quyền của mình và thụ hưởng những thành quả từ việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước mang lại.
1.1.1.2. Khái niệm về nông thôn, nông thôn mới và xây dựng nông thôn mới.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta khẳng định: “Khai thác
lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới để phát triển sản xuất hàng hóa lớn với năng
suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao. Tăng nhanh sản lượng và

kim ngạch xuất khẩu nông sản, nâng cao thu nhập và đời sống nông dân, bảo đảm
vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Xây dựng mô hình sản xuất kinh doanh
phù hợp với từng loại cây giống. Khuyến khích tập trung ruộng đất; phát triển gia
trại, trang trại, doanh nghiệp, nông nghiệp phù hợp về quy mô và điều kiện của
từng vùng”. Đây chính là sự chỉ đạo nhất quán về tư duy và hành động góp phần
thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
* Nông thôn: Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cho rằng: “Nông
thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn
được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã”. Bến Tre nói đến
nông thôn có nghĩa là nơi không phải thành thị, thị trấn là nơi có những hàng dừa
xanh tấp, có những con đường cong cong ôm lấy những bờ đê, những cánh đồng


12
xanh biên biết, có những cánh cò trắng tung bay, là nơi có lũy tre làng, những con
trâu đang ăn cỏ ...
Nông thôn mới: trước hết phải là nông thôn, không phải là thị trấn, thị xã,
thành phố được các cơ quan chính quyền địa phương công nhận đạt tiêu chí của
Trung ương quy định về nông thôn mới. Có thể nói một cách khái quát: “là địa
bàn nông thôn có kinh tế, hạ tầng phát triển, làng xã văn minh, môi trường sạch
đẹp, đời sống của người dân phát triển và nâng cao, truyền thống và bản sắc văn
hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy, an ninh chính trị được giữ vững”.
Và “Mô hình nông thôn mới là tổng thể những đặc điểm, cấu trúc tạo thành
một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chí mới, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra cho
nông thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu nông thôn được xây dựng so với mô
hình nông thôn cũ ở tính tiên tiến về mọi mặt”(Nguồn: Quyết định 800/QĐ-TTg
ngày 4/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ).
Như vậy, chúng ta thấy rằng muốn có nông thôn mới phải đảm bảo được các
yêu cầu cơ bản là: thực hiện được 19 tiêu chí của Trung ương ban hành.

Nông thôn mới là phải có diện mạo nông thôn xanh – sạch – đẹp, có kết cấu
hạ tầng từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu sản xuất phát triển và cuộc sống văn
minh, hiện đại của người dân, không những phải có những công trình, điện, đường,
trường, trạm, giao thông, thủy lợi, công trình văn hóa, thể thao, du lịch hợp vệ
sinh, môi trường có chất lượng theo tiêu chuẩn, mà trong từng nhà dân cũng phải
được chỉnh trang lại, nhà ở, công trình vệ sinh, chăn nuôi, chuồng trại, cải tạo vườn
tạp, ăn ở gọn gàng, ngăn nắp, sạch đẹp ...
Nông thôn mới phải làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, ở đó
không ngừng tăng thêm việc làm, thu nhập và có điều kiện để vươn tới một cuộc
sống sung túc về cả vật chất và tinh thần, đoàn kết xóm làng, văn minh, hiện đại.
* Tóm lại, xây dựng nông thôn mới là: cuộc cách mạng toàn dân cùng tham
gia xây dựng phát triển triển sản xuất toàn diện cả về nông nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ, có môi trường xanh, sạch, đẹp, nhà cửa khang trang, kinh tế hạ tầng nông


13
thôn đảm bảo, thu nhập người dân tăng lên, đời sống vật chất, tinh thần của người
dân được nâng cao, giúp cho người dân có niềm tin, động lực và chăm chỉ làm
việc, làm cho gia đình phát triển, xã hội ngày càng dân chủ, văn minh.
1.1.2. Quan điểm của Đảng và Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực nữ
1.1.2.1. Quan điểm của Đảng về nguồn nhân lực nữ
Đảng và Nhà nước ta ban hành nhiều văn bản về công tác phụ nữ. Nghị quyết
số 04-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 12/7/1993 về: “đổi mới và tăng cường công
tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”, với tinh thần thực hiện đề ra mục tiêu:
“cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người phụ nữ; nâng cao địa vị xã
hội; nâng cao nhận thức về quyền bình đẳng của phụ nữ”. Với Nghị quyết này
Đảng ta mong muốn có sự thay đổi về công tác phụ nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ
phát triển, nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của phụ nữ, mọi người trong xã
hội không phân biệt đối xử với phụ nữ, phải có nhận thức đúng về vai trò của
người phụ nữ trong xã hội, đảm bảo sự bình đẳng cho phụ nữ trong tất cả các lĩnh

vực đời sống xã hội.
Trong công tác cán bộ, đều chú trọng đến việc đề bạt cán bộ nữ, lên án việc
xem thường, những biểu hiện khắc khe, hẹp hòi trong đánh giá cũng như trong quá
trình đề bạt cán bộ nữ. Chỉ thị 37-CT/TW của Ban Bí thư ngày 16/5/1994 về công
tác cán bộ nữ trong tình hình mới đã nhấn mạnh: “Chống những biểu hiện lệch lạc
coi thường phụ nữ, khắt khe, hẹp hòi trong đánh giá, đề bạt cán bộ nữ”, đề ra chỉ
tiêu “có ít nhất 20% phụ nữ tham gia ở các vị trí cấp cao, hình thành các chính
sách để phát triển kỹ năng phụ nữ, xây dựng kế hoạch tập huấn cho cán bộ nữ,
tăng số phụ nữ có việc làm...”. Chỉ thị này Trung ương coi trọng vai trò phụ nữ
trong công tác cán bộ, vai trò phụ nữ trong các cơ quan Đảng và Nhà nước ngày
càng có vị trí nhất định. Ngày 4 tháng 10 năm 1997, Chính phủ phê duyệt: “chiến
lược quốc gia vì sự phát triến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010”. Với vấn đề
cần thiết là: “cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho phụ nữ, đảm bảo cho phụ
nữ thực hiện chức năng của họ và sự tham gia bình của phụ nữ trong mọi hoạt
động, đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Để tạo được sự


14
bình đẳng cho phụ nữ trong tất cả các lĩnh vực, Quốc hội khóa XI, kì họp thứ 10,
đã thông qua: “Luật Bình đẳng giới” và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7
năm 2007. Quốc hội khóa XII, kì họp thứ 2 ngày 21 tháng 11 năm 2007 đã thông
qua: “Luật Phòng chống bạo lực gia đình”, từ đó quy định được về trách nhiệm và
quyền hạn của tất cả mọi người trong xã hội thực hiện.
Những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
về công tác phụ nữ đã làm cho phụ nữ bình đẳng về mọi mặt, đóng góp hết sức lực
của mình vào sự nghiệp đổi mới của đất nước. Để đáp ứng tình hình nhiệm vụ cách
mạng và thực tiễn phong trào phụ nữ trong giai đoạn hiện nay, Bộ Chính trị khóa X
đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về: “công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết đã thể hiện sự quan tâm của
Đảng đối với công tác phụ nữ nhằm phát huy hơn nữa vai trò của phụ nữ trong thời

kì phát triển mới của đất nước. Nghị quyết đã kế thừa và phát triển những quan
điểm, chủ trương, chính sách được xác định trước đó về công tác phụ nữ. Nghị
quyết số: 11-NQ/TW thể hiện tập trung nhất, đầy đủ, sâu sắc những nhiệm vụ, giải
pháp để phát triển phụ nữ trong giai đoạn hiện nay, để giúp cho phụ nữ tham gia
đóng góp một cách chủ động, tích cực là điều kiện khơi dậy sự phấn đấu của phụ
nữ vào sự phát triển chung của đất nước. Chính vì những quan điểm của Đảng về
đề cao vai trò phụ nữ cho nên trong xây dựng nông thôn mới hiện nay vai trò của
phụ nữ ngày càng được đề cao, những biểu hiện coi nhẹ thiếu quan tâm hoặc quan
tâm theo kiểu chiếu cố, quan tâm trên lời nói, quan tâm một cách hình thức mà
không có những chủ trương, chính sách và việc làm thiết thực, cụ thể và hiệu quả
đều trái với quan điểm của Đảng.
Quan điểm này xác định rõ lực lượng phụ nữ nước ta rất đông đảo, hoạt động
trong mọi lĩnh vực, vùng miền và đã phát huy tinh thần làm chủ, tiềm năng sáng
tạo; nhưng trên thực tế cũng đang gặp nhiều khó khăn, thách thức nhất định. Do
đó, công tác phụ nữ cần có khéo léo làm tốt công tác vận động. Cán bộ nữ là một
bộ phận quan trọng cần coi trọng công tác quy hoạch, cán bộ nữ, nhất là cán bộ
chủ chốt các cấp, cán bộ trẻ để tạo nguồn kế cận. Tập trung xây dựng đội ngũ cán


15
bộ Hội, đặc biệt là cán bộ cơ sở, vùng có nhiều phụ nữ tôn giáo để chị em có đủ
tiêu chuẩn, trình độ chính trị, bản lĩnh và năng lực, giàu nhiệt tình với công tác Hội
và sự nghiệp bình đẳng giới.
Trên cơ sở các văn bản của Trung ương về phụ nữ, Quyết định số: 800/QĐTTg ngày ngày 04 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt:
“chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 –
2020”, trên cơ sở đó Tỉnh ủy Bến Tre đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TU về:
“xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011- 2015 và định hướng đến năm 2020”,
phát huy mọi nguồn lực xây dựng nông thôn mới. Nghị quyết chỉ đạo các sở, ban
ngành trong tỉnh phải phấn đấu xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, tham gia công
tác kiểm tra, giám sát, thực hiện, đóng góp vào ngân sách của địa phương với tinh

thần tự nguyện, tự giác, tham gia trực tiếp vào việc bảo vệ môi trường, nâng cao
đời sống về vật chất và tinh thần cho người dân. Vì thế, để thực hiện thành công
mục tiêu trên thì vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới là vô cùng to
lớn.
Ðặc biệt là Ðề án số: 01-ÐA/TU, ngày 12 tháng 6 năm 2012 của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy về: “xây dựng, bố trí, sử dụng cán bộ nữ, cán bộ trẻ giữ chức danh
lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015 và định
hướng đến năm 2020”. Đề án đã đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để tăng
tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ giữ các chức danh lãnh đạo, quản lý của tỉnh và triển
khai thực hiện trong toàn Ðảng bộ. Các cấp ủy Ðảng, lãnh đạo các ngành, các cấp
luôn quan tâm chăm lo công tác cán bộ nữ, đã phát hiện, mạnh dạn giới thiệu nhiều
cán bộ nữ ưu tú, có năng lực, triển vọng phát triển để kết nạp vào Ðảng, đưa vào
quy hoạch, bổ nhiệm giữ các chức danh lãnh đạo, quản lý.
Quán triệt Quyết định số: 1600/QĐ-TTg về phê duyệt: “chương trình mục
tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020”, các cấp Hội đã
triển khai thực hiện, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác Hội từ tỉnh đến cơ
sở. Từ đó, đã vận động quần chúng trong giai đoạn mới nhằm thúc đẩy phong trào
xây dựng nông thôn mới ở địa phương.


16
Nghị quyết Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ XII nhiệm kỳ 2017-2022 về
“xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”, gắn với: “chương trình mục tiêu Quốc gia
xây dựng nông thôn mới”, Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Bến Tre chỉ
đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp triển khai lồng ghép và nhân rộng việc vận
động: “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” gắn với việc thực hiện phong trào:
“xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh”, tại địa phương.
Công tác phụ nữ là một vấn đề hết sức quan trọng trong hoạt động lãnh đạo
của Đảng, là việc làm thường xuyên của các cấp, các ngành và cả hệ thống chính
trị.

Các cấp Hội tham mưu, đề xuất và trực tiếp tổ chức, tập hợp, động viên đông
đảo các tầng lớp phụ nữ, có sự quyết tâm cao để thực hiện có hiệu quả về công tác
phụ nữ.
1.1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực nữ
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến phụ nữ và luôn đánh giá
cao vai trò của phụ trong xây dựng và phát triển đất nước. Người nhấn mạnh: “non
sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cùng già, ra sức dệt thêu mà tốt đẹp, rực
rỡ”. Đánh giá rất cao vai trò phụ nữ trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Người còn
khẳng định: “nhân dân ta anh hùng là nhờ có các mẹ Việt Nam anh hùng”.
Cũng chính tinh thần yêu nước, thương dân, đau lòng trước sự áp bức bất
công của kẻ thù, nhìn thấy sự cơ cực, khổ sở của người dân nhất là phụ nữ, Bác đã
ra đi tìm đường cứu nước. Người luôn luôn khát khao giải phóng áp bức cho dân
tộc, đặc biệt là phụ nữ. Người khẳng định: “....đàn bà con gái cũng nằm trong
nhân dân, nếu cả dân tộc được tự do, đương nhiên họ cũng được tự do. Ngược lại
nếu dân tộc còn trong cảnh nô lệ thì họ và con cái họ cũng sống trong cảnh nô lệ”
[45, tr112]. Người còn khẳng định: “xem trong lịch sử cách mệnh chẳng có lần
nào là không có đàn bà con gái tham gia” [45, tr.443]
Đánh giá được tầm quan trọng của nguồn nhân lực nữ đối với sự phát triển
của mỗi quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhìn nhận, đánh gía đúng năng lực


17
của nguồn nhân lực nữ. Người đã thu phục động, viên phụ nữ tham gia xây dựng
đất nước. Trong cách mạng Bác đánh giá cao vai trò của lực lượng nữ: “lực lượng
cách mạng của phụ nữ là trọng yếu. Nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không
tham gia vào những cuộc đấu tranh cách mạng thì cách mạng không thể thắng lợi
được” [43, tr.167-168].
Người cho rằng: Đảng và Nhà nước ta cần mãi mãi ghi nhớ công ơn to lớn của
các bà mẹ Việt Nam, những người phụ nữ đã sinh ra và cống hiến những người con
ưu tú, kiên cường đã chiến đấu, hy sinh anh dũng bảo vệ non tổ quốc.

Bác luôn luôn tìm ra con đường giải phóng phụ nữ, phải cởi trói cho phụ nữ.
Trong hoàn cảnh nào Bác luôn khát khao giải phóng áp bức, bóc lột bất công cho
người dân nhất là giải phóng phụ nữ, Người luôn: động viên, nhắc nhở chị em cố
gắng học tập, sáng tạo vươn lên để khẳng định bản thân, phải tự lực, tự cường đấu
tranh để giải phóng cho mình. Phụ nữ phải cố gắng phát huy nhằm xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Người kêu gọi: “chị em phụ nữ nông thôn thi đua góp sức hoàn
thành tốt cải cách ruộng đất, thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, những chị
em trí thức nên thi đua phát triển văn hóa, thi đua học hành và xung phong trong
mọi công việc”. Trong Hiến pháp năm 1946, người kêu gọi: “…. phụ nữ Việt Nam
đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của
một công dân” [45, tr.228].
Người đã phê bình: “phụ nữ ta còn có nhược điểm như là lúng túng bỡ ngỡ,
thiếu tự tin vào chính mình”, không vượt qua được khó khăn của bản thân như: gia
đình, con cái... Người căn dặn: tất cả phụ nữ phải nhìn thấy được trách nhiệm của
mình đối với bản thân, gia đình, xã hội và đối với đất nước, phải thi đua lao động
và phát huy bản thân tham gia vào sản xuất, xây dựng nước nhà. Vì thế để thực
hiện được thì phụ nữ phải tự tin, dũng cảm, không trông chờ, ỷ lại vào Đảng vào
chính quyền mà phải tự học, tự rèn luyện nâng cao trình độ bản thân.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Đặc điểm của nguồn nhân lực nữ ở Bến Tre hiện nay


18
* Những mặt tích cực của nguồn nhân lực nữ ở Bến Tre hiện nay
Phụ nữ Bến Tre có đặc điểm giống như phụ nữ Đồng bằng Sông Cửu Long và
phụ nữ Việt Nam là có tinh thần yêu nước nồng nàn, nhân hậu, đảm đang, thương
yêu chồng con, hi sinh tất cả vì gia đình, cần cù, chịu thương chịu khó.
Phụ nữ Bến Tre có truyền thống tốt đẹp là giàu lòng yêu nước, có ý chí vươn
lên vượt qua khó khăn, thách thức để hoàn thành nhiệm vụ, làm chủ được bản thân,
gia đình và xã hội. Bên cạnh đó, với sự lãnh đạo, hỗ trợ của Đảng và Nhà nước,

của các ban ngành, đoàn thể xã hội trong đó là sự hỗ trợ của Hội Liên hiệp Phụ nữ
tỉnh đã động viên phụ nữ hăng hái thi đua, tích cực tham gia phong trào lao động
sản xuất, khắc phục khó khăn giúp nhau phát triển kinh tế, đã đem lại cho quê
hương Bến Tre ngày càng thêm giàu đẹp, thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội
toàn quốc lần thứ XII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ X đề ra.
Hiện nay trong các gia đình phụ nữ nông thôn phần lớn đã xóa bỏ được tư
tưởng trọng nam, khinh nữ, các thành viên gia đình sống hòa thuận, chia sẻ và giúp
đỡ lẫn nhau trong công việc, làm cho người phụ nữ về cơ bản giảm bớt gánh nặng
công việc gia đình, phụ nữ có điều kiện học hỏi, trao đổi những kinh nghiệm và
tham gia làm chủ gia đình, chăm sóc con cái, tham gia xây dựng kinh tế nông thôn
và hưởng thụ phúc lợi từ nông thôn mang lại, tham gia vào công tác bảo vệ môi
trường, phòng ngừa tệ nạn xã hội, xây dựng gia đình, làng xóm yên vui, hạnh phúc.
Đến nay, phụ nữ còn thể hiện quyền làm chủ của mình thông qua việc hỗ trợ
của các cấp Hội phụ nữ, đã góp phần tạo động lực cho người phụ nữ thể hiện vị thế
của mình trong xã hội.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Bến tre đã làm tốt việc chỉ đạo và liên kết, phối hợp các
ngành chức năng ban hành và tổ chức nhiều kế hoạch nhằm giúp đỡ, tạo mọi điều
kiện thuận lợi nhất để phụ nữ phát triển kinh tế bằng việc vận động, quản lý nguồn
tiết kiệm tại chi hội nhiệm kỳ 2012-2017 và triển khai đến 100% huyện, thành phố
và cơ sở.


19
Theo Cục thống kê tỉnh Bến Tre có diện tích đất nông nghiệp khá lớn, chiếm
75, 99% diện tích đất của tỉnh, cho nên dân số sống ở nông thôn chiếm tỷ lệ lớn
dân số Bến Tre khá đông, năm 2016 là 1.265.217 người, trong đó nữ cao hơn nam
chiếm hơn 50%, đặc biệt Bến Tre, do đặc điểm vị trí, địa lý nên dân cư tập trung
đông ở nông thôn, số lượng phụ nữ ở nông thôn hiện nay cao hơn nam giới, từ đó
có thể khẳng định rằng: phụ nữ nông thôn ở Bến Tre hiện nay có vai trò quan trọng
trong phát triển kinh tế nông nghiệp và là lực lượng thiết yếu nhất trong xây dựng

nông thôn mới hiện nay.
Năm 2016, Bến Tre có tỷ lệ nữ chiếm 50,9%, nam giới chỉ chiếm 49,1%, dân
số. Từ đó, cho thấy nguồn lao động nữ nông thôn ở Bến Tre dồi dào về số lượng,
nếu chúng ta đào tạo và phát huy tốt nguồn nhân lực nữ này thì công cuộc xây
dựng nông thôn mới ở Bến Tre sớm hoàn thành.
Chính vì thế, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đã xây dựng nhiều dự
án và triển khai thực hiện tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển, với nhiều chính sách
giúp nhau phát triển kinh tế. Thực tế, trong những năm vừa qua đã có rất nhiều phụ
nữ thoát nghèo và đã làm giàu chính đáng, phụ nữ được hỗ trợ vay vốn làm ăn và
thoát nghèo. Hiện nay, cuộc sống của phụ nữ đặc biệt là nông thôn ổn định, theo
cục thống kê tỉnh Bến Tre, “thu nhập của phụ nữ nông thôn trung bình năm 2016
là 2.378.000 đồng, thành thị là 2.99400 đồng, tất cả các xã trong tỉnh đều có điện
thấp sáng” [9, tr.4].
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh tiếp tục chỉ đạo Hội các cấp tiến hành rà soát thu
thập số lượng lao động nữ có trình độ thấp đưa đi đào tạo, học bổ túc văn hóa hoặc
học nghề, tổ chức các lớp học bổ túc văn hóa buổi tối, những ngày nghỉ làm việc
để thu hút sự tham gia của phụ nữ nông thôn. Các trung tâm dạy nghề, Trường Cao
đẳng của tỉnh thường xuyên mở lớp dạy nghề cho phụ nữ, lực lượng lao động đã
nhanh chóng tiếp cận những tiến bộ khoa học kỹ thuật và đã ứng dụng tốt có hiệu
quả trong sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu khoa học, rèn luyện chuyên môn
nghiệp vụ, tay nghề, mạnh dạn đầu tư phát triển kinh tế, nâng chuỗi giá trị vật nuôi,
cây trồng, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, liên kết kinh doanh, tiêu thụ sản


20
phẩm tham gia ngày càng nhiều vào các chương trình phát triển ở từng địa phương
góp phần tích cực thực hiện phong trào xây dựng nông thôn mới. Bình đẳng giới
đối với phụ nữ được quan tâm, địa vị phụ nữ ngày càng nâng cao, phụ nữ đã tham
gia tích cực rộng rãi tất cả các lĩnh vực, giúp tăng thu nhập, ổn định cuộc sống, từ
năm 2011 đến 2016, trong việc tham gia xây dựng nông thôn mới phụ nữ Bến Tre

đã thể hiện vai trò tích cực của mình trên tất cả các lĩnh vực hoạt động sau:
Một là, trong quá trình lao động sản xuất: các doanh nghiệp nữ trong tỉnh
mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, thu nhập
ngày phát triển“Với sự nỗ lực không ngừng phụ nữ Bến Tre ngày càng khẳng định
phẩm chất, năng lực, trình độ, tình nguyện, xung kích trong mọi phong trào hành
động cách mạng và hoạt động Hội Phụ nữ thể hiện trong nghiên cứu khoa học và
lao động sản xuất” [8, tr.13]. Trên các lĩnh vực quản lý, sản xuất nhiều tấm gương
tập thể, cá nhân tiêu biểu được tôn vinh và vinh danh trong tổng kết các phong trào
thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”;
“Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, phụ nữ sản xuất kinh doanh giỏi; phụ nữ nuôi con
khỏe, dạy con ngoan của các cấp Hội.
Hai là, tham gia thực hiện tốt lĩnh vực văn hoá - xã hội: Phụ nữ ngành giáo
dục, y tế chiếm tỷ lệ cao trên 76.4 %. Bên cạnh đó, lao động nữ trong ngành giáo
dục đã có cống hiến lớn trong việc nâng cao hoạt động giáo dục, đào tạo ở các cấp
học, bậc học và các loại hình học tập; thành tựu phổ cập giáo dục trung học cơ sở,
trung học phổ thông. Hoạt động trên mặt trận văn hoá, thể dục thể thao đã thu hút
số lượng lớn nữ tham gia và có nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, văn nghệ quần
chúng được đánh giá cao cũng như đạt huy chương vàng trong các giải thể thao
cấp toàn quốc và Đông Nam Á.
Ba là, ý thức tham gia bảo vệ quốc phòng - an ninh: tích cực tham gia phong
trào an ninh trật tự địa phương. Nữ cán bộ, chiến sỹ, sỹ quan lực lượng vũ trang,
dân quân tự vệ đã năng động, sáng tạo xây dựng nhiều mô hình, cách làm hay
trong phục vụ nhân dân. Trong lĩnh vực quân đội nhiều chị đã thực hiện có hiệu


21
quả nhiệm vụ được sự tín nhiệm của nhân dân và lòng tin của cấp chỉ huy và được
giữ những vị trí quan trọng trong ngành.
Bốn là, lĩnh vực xây dựng Đảng, chính quyền: xung kích đi đầu trong thi đua:
“Đồng khởi mới”, kết hợp với việc “chung tay xây dựng nông thôn mới, đô thị văn

minh”, cuộc vận động:“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Hầu hết
các chương trình tổ chức thực hiện đều có đông đảo lực lượng phụ nữ tích cực,
hăng hái tham gia. Từ các phong trào hành động cách mạng và rèn luyện trong
thực tiễn đã có 4.884 chị được đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam, giới
thiệu cán bộ nữ bổ sung vào ban chấp hành cấp ủy các cấp theo đúng quy trình
hướng dẫn. Có 100% huyện, thành phố giới thiệu cán bộ nữ đưa vào quy hoạch
A1, A2. Kết quả Đại hội Đảng nhiệm kỳ 2015 – 2020, “tỷ lệ nữ đều tăng cả 3 cấp
so nhiệm kỳ trước. Kết quả cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIV càng hân hoan hơn khi
một người con ưu tú đến từ xã Châu Hòa, huyện Giồng Trôm - đồng chí Nguyễn
Thị Kim Ngân được nhân dân cả nước tin tưởng giao trọng trách, là người nữ đầu
tiên giữ vai trò đứng đầu cơ quan lập pháp của đất nước” [8, tr.14].
- Năm là, trong quan hệ gia đình: sẵn sàng tham gia hoạt động giao tiếp xã
hội, phát triển kinh tế, nuôi dạy con cái, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của
dân tộc cũng như mối quan hệ bình đẳng với các thành viên gia đình thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vai trò, vị trí của phụ nữ trong gia đình và ngoài
xã hội ngày càng được khẳng định, ghi nhận, đặc biệt phụ nữ Bến Tre tham gia
ngày càng nhiều vào các hoạt động kinh tế và an sinh xã hội.
Kết quả trên, một lần nữa khẳng định sự tiếp nối truyền thống của đội quân
tóc dài năm xưa, phụ nữ Bến Tre hôm nay luôn phát huy truyền thống, phẩm chất
tốt đẹp, nỗ lực phấn đấu, tự tin vững bước, hưởng ứng thực hiện có hiệu quả các
hoạt động trên mọi lĩnh vực, thật sự là cầu nối giữa Đảng với nhân dân.
* Bên cạnh các mặt tích cực đạt được, phụ nữ Bến Tre còn hạn chế ở các mặt
sau:
Một là, số lượng lao động được qua đào tạo trong nền kinh còn rất thấp cả
nam và nữ. Trong sản xuất sản phẩm làm ra chủ yếu ở dạng thô, chất lượng thấp và


×