Tải bản đầy đủ (.docx) (133 trang)

GIÁO DỤC KỸ NĂNG GIAO TIẾP VỚI CÁC CƯ DÂN NÔNG THÔN TẠI CÁC TRUNG TÂM HỌC TẬP CỘNG ĐỒNG CHO SINH VIÊN HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.23 KB, 133 trang )

GIÁO DỤC KỸ NĂNG GIAO TIẾP VỚI CÁC CƯ DÂN NÔNG
THÔN TẠI CÁC TRUNG TÂM HỌC TẬP
CỘNG ĐỒNG CHO SINH VIÊN HỌC VIỆN
NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM


MỤC LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
VIẾT TẮT

ĐỌC LÀ

ASEAN

Hiệp hội quốc gia Đông Nam Á

GD

Giáo dục

GV

Giảng viên

HVNN

Học viện Nông nghiệp

KN



Kỹ năng

KNGT

KN giao tiếp

QH

Quốc hội

SV

Sinh viên

HTCĐ

Trung tâm học tập cộng đồng


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi ASEAN ngày càng đông các thành viên tham gia, cơ hội về chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ngày càng được mở rộng. ASEAN sẽ trở thành

một cộng đồng kinh tế, một thị trường chung, nơi sản xuất và phân phối lớn
nhất Đông Nam Á. Lúc này, ASEAN sẽ luân chuyển các yếu tố căn bản đó là:
Vốn, hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và lao động. Khi người lao động được làm
việc, định cư và được đối xử bình đẳng tại các nước thành viên ASEAN thì
đây lại là khó khăn, thách thức cho đội ngũ người lao động tại Việt Nam [13].
Theo thống kê Tổ chức lao động quốc tế (2015) chất lượng nguồn nhân
lực Việt Nam thấp hơn Singapore 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần và thấp
hơn Hàn Quốc 10 lần. Năng suất lao động của Việt Nam bằng 1/5 Malaysia
và 2/5 Thái Lan. Điều này không những là thách thức lớn đối với nền kinh tế
mà còn là bài toán khó cho những cơ sở GD ở Việt Nam, nơi cung cấp nguồn
nhân lực trí thức cho đất nước. SV tốt nghiệp ra trường giỏi về kiến thức
chuyên môn, KN nghề nghiệp đó là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Theo khảo
sát của các nhà xã hội học, ở một người thành đạt chỉ dựa vào 25% kiến thức
chuyên môn, còn lại 75% do KN mềm ở họ quyết định, trong đó KNGT là
KN mềm được đề cập đầu tiên [13].
Nhưng thực tế hiện nay, bên cạnh những SV ý thức được tầm quan
trọng của giao tiếp và luôn rèn luyện, học hỏi, tham gia các khóa đào tạo bên
ngoài trường về KNGT thì một bộ phận không nhỏ SV hầu như chưa quan tâm
để rèn luyện KNGT, chưa chuẩn bị cho mình hành trang trong cuộc sống hằng
ngày và sau khi rời giảng đường đại học. Chính việc không ý thức về tầm quan
trọng của giao tiếp, đã khiến cho KNGT của SV còn yếu, rất nhiều SV không
biết cách bắt đầu một câu chuyện dù là đơn giản nhất, không biết ứng xử và thể

6


hiện thế mạnh của mình khi đứng trước nhà tuyển dụng hay đơn giản là viết
một lá đơn xin việc như thế nào. Do đó, SV không trình bày được ý tưởng,
kinh nghiệm, cũng như năng lực của bản thân,… một cách hiệu quả trước
người khác. Đối với mỗi cá nhân, KNGT là một lợi thế để thể hiện bản thân

cũng như nắm bắt cơ hội trong cuộc sống. Mỗi người, trong quá trình sống và
học tập, làm việc luôn cần phải cố gắng để trau dồi và hoàn thiện KNGT quan
trọng này. Đặc biệt, đối với SV thì KNGT này không chỉ góp phần nâng cao
KN tiếp cận kiến thức, mà còn mở ra cho SV KN nắm bắt các cơ hội nghề
nghiệp đến với mình và thành công trong nghề nghiệp tương lai.
Đặc thù của SV HVNN Việt Nam, đối tượng tiếp xúc trực tiếp và nhiều
nhất khi đi thực tập nghề nghiệp và trong công việc sau này chính là các các
cư dân nông thôn. Ngay từ năm thứ hai, thứ ba khi xuống các cơ sở thực tập,
SV sẽ tiếp xúc và làm việc với các cư dân nông thôn chủ yếu tại các trung tâm
HTCĐ, trên đồng ruộng, tại các trang trại chăn nuôi, hoặc khu thí nghiệm
nông nghiệp... trung tâm HTCĐ là những cơ sở GD trong hệ thống GD quốc
dân, nơi tạo điều kiện thuận lợi cho mọi lứa tuổi học tập thường xuyên, học
tập suốt đời, được phổ biến kiến thức và sáng kiến kinh nghiệm trong sản xuất
và cuộc sống nhằm tăng năng suất lao động. SV khi đi thực tập nghề nghiệp
thường sẽ giao tiếp với các cư dân nông thôn tại các trung tâm HTCĐ để
giảng dạy kiến thức nông nghiệp được học tại HVNN Việt Nam, chia sẻ, trao
đổi, trò chuyện với các cư dân nông thôn về những KN trong trồng trọt hay
chăn nuôi, hay những kiến thức liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp… Vì vậy,
muốn thực hiện tốt công việc của mình và học hỏi được nhiều kinh nghiệm
sản xuất thực tiễn buộc SV phải biết cách giao tiếp, hợp tác với cư dân nông
thôn tại các trung tâm HTCĐ. Nhưng hiện nay, SV HVNN Việt Nam vẫn
chưa chú trọng vào các KNGT, đa số SV còn e ngại trong giao tiếp, ngại thể
hiện bản thân trước đám đông, thậm chí ngại tham gia phát biểu xây dựng bài
và nêu quan điểm cá nhân trong các giờ học. Điều này dần tạo ra một thói

7


quen không tốt, làm hạn chế KN giao tiếp của bản thân, và xa hơn, có thể làm
giảm KN tiếp cận thông tin, giảm hiệu quả công việc. Nguyên nhân là do đa

số SV chưa nhận thức đúng đắn được tầm quan trọng về vai trò, ý nghĩa của
KNGT; mặt khác việc học trên lớp, SV mới chỉ được tiếp cận với học phần
“KN giao tiếp” với thời lượng 30 tiết (đây là học phần tự chọn của một số
ngành học tại HVNN Việt Nam quản lý và một trong tổ hợp 6 học phần KN
mềm do Trung tâm KN mềm quản lý), nên mức độ nhận thức và các KNGT
áp dụng chưa được nhiều, đặc biệt chưa có một nội dung kiến thức nào hướng
dẫn SV KNGT với các cư dân nông thôn tại các trung tâm HTCĐ. Chính vì lý
do này, khi đi thực tập tại các cơ sở và khi được tiếp xúc với các các cư dân
nông thôn, đặc biệt tại các trung tâm HTCĐ SV trở nên lúng túng, ngại giao
tiếp, chưa biết cách giao tiếp đúng chuẩn mực.
Xuất phát từ phân tích trên chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: Giáo
dục kỹ năng giao tiếp với các cư dân nông thôn tại các trung tâm học tập
cộng đồng cho sinh viên Học viện nông nghiệp Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng GD KNGT với các các cư dân
nông thôn tại các trung tâm HTCĐ của SV HVNN Việt Nam, từ đó đề ra các
biện pháp nhằm khắc phục những tồn tại, nâng cao KNGT với các cư dân
nông thôn tại các trung tâm HTCĐ cho SV HVNN Việt Nam.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình GD KNGT với các cư dân nông thôn
tại các trung tâm HTCĐ cho SV HVNN Việt Nam.
- Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp GD KNGT với các cư dân nông
thôn tại các trung tâm HTCĐ cho SV HVNN Việt Nam.

8


4. Giả thuyết khoa học
KNGT của SV với các cư dân nông thôn tại các trung tâm HTCĐ còn
thiếu tính chủ động trong quá trình giao tiếp. Nếu đưa ra được các biện pháp

GD KNGT khoa học, phù hợp sẽ nâng cao được KNGT với các cư dân nông
thôn tại các trung tâm HTCĐ cho SV HVNN Việt Nam.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về giao tiếp, GD KNGT với các cư dân
nông thôn tại các trung tâm HTCĐ cho SV.
- Nghiên cứu khảo sát, đánh giá về thực trạng KNGT của SV, GD
KNGT với các cư dân nông thôn tại các trung tâm HTCĐ cho SV HVNN Việt
Nam.
- Đề xuất các biện pháp GD KNGT với các cư dân nông thôn tại các
trung tâm HTCĐ cho SV HVNN Việt Nam.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng khảo sát:
Bao gồm 100 SV khoa Kinh tế và phát triển nông thôn, 100 SV khoa
Thú y, 100 SV khoa Nông học, 300 SV này đang học năm thứ hai và năm thứ
ba, đã đi thực tập nghề nghiệp tại cơ sở.
Khảo sát 30 GV, cán bộ quản lý thường xuyên đưa SV đi thực tập tại
các cơ sở.
- Nội dung nghiên cứu:
Nghiên cứu các KNGT cơ bản của SV hiện nay gồm 4 KN như: KN
lắng nghe, KN truyền đạt thông tin; KN thuyết trình; KN viết văn bản.
Các KNGT đặc trưng với các cư dân nông thôn tại các trung tâm
HTCĐ gồm 6 KN: KN làm quen; KN tạo niềm tin; KN chia sẻ thông tin, kiến

9


thức nông nghiệp; KN thu thập thông tin và phân tích thông tin; KN điều kiển
quá trình giao tiếp; KN thuyết phục.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết

Phân tích các vấn đề liên quan tới đề tài như các quan điểm, các lý
thuyết của các tác giả, các công trình nghiên cứu. Từ đó, hệ thống lại các vấn
đề lý luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Trên cơ sở đó, xây dựng cơ sở lý
luận, khái niệm, công cụ của đề tài.
Cách tiến hành: Tìm hiểu, đọc, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ
thống hóa những tài liệu (trong và ngoài nước) có liên quan tới đề tài.
7.2. Phương pháp điều tra
Mục đích sử dụng phương pháp là thông qua các phiếu hỏi nhằm tìm
hiểu nhận thức về ý nghĩa của KNGT nói chung và KNGT với các cư dân
nông thôn tại các trung tâm HTCĐ nói riêng. Các hình thức GD KNGT cho
SV, GD KNGT với các cư dân nông thôn tại các trung tâm HTCĐ của HVNN
Việt Nam, nội dung GD KNGT với các cư dân nông thôn tại các trung tâm
HTCĐ. Tìm ra thực trạng GD KNGT với các cư dân nông thôn tại các trung
tâm HTCĐ của SV HVNN Việt Nam, từ đó đề xuất các biện pháp nhằm nâng
cao các KNGT với các cư dân nông thôn tại các trung tâm HTCĐ cho SV.
Cách tiến hành: Thiết kế phiếu điều tra, sau đó phát cho GV, SV nhằm
thu thập số liệu, làm căn cứ để phân tích đề tài.
7.3. Phương pháp quan sát
Tiến hành quan sát các hoạt động cũng như cách thức giao tiếp của SV
để có thêm căn cứ đánh giá khách quan, chính xác hơn về nội dung nghiên
cứu trong đề tài.

10


7.4. Phương pháp phỏng vấn sâu
Thu thập thông tin bằng cách trao đổi trực tiếp một số GV đưa SV đi
thực tập và SV khi tham gia giao tiếp với các cư dân nông thôn tại các trung
tâm HTCĐ. Kết quả nghiên cứu sẽ hỗ trợ, làm tăng độ tin cậy và sức thuyết
phục của phương pháp điều tra.

7.5. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
Sử dụng toán thống kê để thu thập, xử lý số liệu nghiên cứu thực trạng.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, phần nội dung gồm có ba
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về GD KNGT với các cư dân nông thôn tại
các trung tâm HTCĐ cho SV.
Chương 2: Thực trạng GD KNGT với các cư dân nông thôn tại các
trung tâm HTCĐ cho SV HVNN Việt Nam.
Chương 3: Biện pháp GD KNGT với các cư dân nông thôn tại các
trung tâm HTCĐ cho SV HVNN Việt Nam.

11


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC
KỸ NĂNG GIAO TIẾP VỚI CÁC CƯ DÂN NÔNG THÔN TẠI
CÁC TRUNG TÂM HỌC TẬP CỘNG ĐỒNG CHO SINH VIÊN
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Trong lịch sử phát triển của loài người, ngôn ngữ có một vai trò quan
trọng trong đời sống cộng đồng và đời sống của mỗi con người. Nó thúc đẩy
sự phát triển tư duy, là cơ sở nhận thức xã hội và là phương tiện để giao tiếp.
Thông qua tiếng nói, chữ viết và các hành động phi ngôn ngữ mỗi người thực
hiện việc giao tiếp trong xã hội. Ngày nay, ngoài tiếng mẹ đẻ, để tiếp nhận và
giao tiếp trong cộng đồng nhân loại, con người có thể dùng tiếng nước ngoài.
Trong xã hội hiện đại, với sự phát triển của công nghệ thông tin, con người
còn giao tiếp thông qua mạng internet và các trang mạng xã hội. Vì vậy, các
hình thức và phương tiện giao tiếp trong xã hội được mở rộng, đa dạng và
phong phú.

Ngay từ thời cổ đại, các nhà GD, triết học đã quan tâm đến các vấn đề
giao tiếp. Khổng Tử (551 - 497 trước công nguyên) là một triết gia, là một
nhà GD lỗi lạc của Trung Quốc thời cổ đại, người khẳng định: “Đọc thuộc ba
trăm thước kinh thư giỏi, giao việc đi sứ không có KN đối đáp, học kiểu như
vậy chẳng có ích gì”. Tư tưởng đó của Khổng Tử cho thấy ngoài việc học
kiến thức chuyên môn, kiến thức văn hóa còn phải học cách giao tiếp để giao
tiếp thành công và hiệu quả trong công việc [4].
Theo J.A.Comenxki (1592-1670) nhà GD lỗi lạc người Nga ông khẳng
định: “học tập không phải là lĩnh hội kiến thức bên trong sách vở mà còn lĩnh
hội kiến thức từ bầu trời, mặt đất, cầy sồi, cây dẻ”. Điều này càng khẳng định

12


một lần nữa ngoài việc học lấy kiến thức chuyên môn, người học cần phải
biết cách giao tiếp, ứng xử với mọi người, mọi vật xung quanh [32].
Từ những năm đầu của thế kỷ XX, có nhiều nhà triết học, tâm lý học,
xã hội học đã tiếp tục quan tâm đến lĩnh vực giao tiếp. Nhà triết học và tâm lý
học người Mỹ G.Mít, nhà bác học người Đức C.Giaspe, nhà triết học Nhật
Bản Mactin Babo… đã có những nghiên cứu trong lĩnh vực giao tiếp. Trong
đó, các nhà nghiên cứu khoa học cũng chú ý về hiện tượng tiếp xúc giữa con
người với con người [32].
Bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ trước, hàng loạt các nhà tâm lý
học hiện đại, với nhiều công trình nghiên cứu, đã đưa ra phạm trù giao tiếp
như là một phạm trù cơ bản. Nó được thể hiện trong các công trình “giao tiếp
là vấn đề của tâm lý học đại cương” của B.Ph.Lotnov, “tâm lý học giao tiếp”
của AA.Bodaliov [32].
Một trong bốn trụ cột của nền GD toàn cầu trong thế kỷ XXI đã được
UNESCO đề xuất “học để chung sống” và được coi là một trong những trụ
cột quan trọng, then chốt của GD hiện đại. Câu hỏi đặt ra là “KN nào là cần

thiết cho mỗi con người để thành công trong công việc và cuộc sống?”, một
trong những KN toàn cầu đòi hỏi ở mỗi người hoàn thiện là phải có “KNGT”.
Chương trình GD các giá trị sống của UNESCO được coi là đối tác của các
nhà GD trên toàn cầu [34].
Từ những năm 90 của thể kỷ XX, thuật ngữ “KN sống” đã xuất hiện
trong các công trình nghiên cứu của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc
(UNICEF), trước tiên là chương trình “GD những giá trị sống” với 12 giá trị
cơ bản cần GD cho thế hệ trẻ. Phần lớn các công trình nghiên cứu quan niệm
KN sống theo nghĩa hẹp, đồng nhất với KN xã hội. Dự án do UNICEF tiến
hành ở các nước Đông Nam Á là những nghiên cứu có tính hệ thống. Trong
xu thế hội nhập mỗi quốc gia phải có những định hướng cơ bản trong GD và

13


GD những KN sống nhằm đào tạo thế hệ trẻ có đủ phẩm chất, năng lực đáp
ứng nhu cầu phát triển của xã hội [4].
Tại Úc, hội đồng Kinh doanh (The Business Council of Australia –
BCA) cùng với Phòng thương mại và công nghiệp (the Australian Chamber of
Commerce and Industry – ACCI) với sự bảo trợ của Bộ GD - Đào tạo và
Khoa học, hội đồng quốc gia tại Úc đã đề xuất cuốn “KN hành nghề cho
tương lai”. Cuốn sách đã đề cập tới các kiến thức, KN mà yêu cầu người lao
động phải có. Các KN hành nghề do cuốn sách trình bày bao gồm 8 KN:
KNGT, KN làm việc nhóm, KN giải quyết vấn đề, KN sáng tạo và mạo hiểm,
KN lập kế hoạch và tổ chức công việc, KN quản lý bản thân, KN học tập, KN
công nghệ, trong 8 KN đề cập trên thì KNGT là một trong những KN được đề
cập đầu tiên [29].
Chính phủ Canada cũng có một Bộ phận chuyên phụ trách về việc
nghiên cứu và phát triển các KN cần thiết nhất cho người lao động đó chính là
“Bộ Phát triển Nguồn nhân lực và KN Canada (Human Resources and Skills

Development Canada – HRSDC)”. Bộ này đã nghiên cứu và đưa ra danh sách
21 KN cần thiết nhất cho người lao động, và KNGT cũng là KN đầu tiên
được Bộ này đề cập tới [29].
Các nhà GD, triết học, tâm lý học, xã hội học… đã có những quan điểm
cách nhìn về vấn đề giao tiếp và KNGT. Những luận điểm quan trọng đó là
một quá trình phát triển và các nhà nghiên cứu trên thế giới luôn tìm tòi để
hoàn thiện trong quá trình GD và GD KNGT.
1.1.2. Tại Việt Nam
Trong lịch sử phát triển của dân tộc, của nhà nước Việt Nam, vấn đề
giao tiếp đã được coi trọng, nó được coi là nền tảng, là một trong những tiêu
chuẩn, thước đo đánh giá nhân cách, đạo đức của con người, là biểu hiện của
nét đẹp văn hóa “tiền của phân giàu nghèo, giao tiếp phân tầng văn hóa”.

14


Người Việt xưa ảnh hưởng nhiều văn hóa Trung Quốc qua tác động bởi
sự đô hộ gần một nghìn năm của phương Bắc, tác động của Khổng giáo, họ
có những biểu hiện giao tiếp hoàn toàn khác nhau với cách giao tiếp của
người Việt Nam hiện đại. Trong hoạt động sản xuất, hoạt động xã hội, con
người luôn có nhu cầu giao tiếp với nhau và những hoạt động giao tiếp được
mỗi người quan tâm, nó được lưu truyền, gìn giữ, dạy và học… giữa mọi
người trong xã hội [17].
Tại Việt Nam, bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ trước, có nhiều bài
viết và công trình nghiên cứu về vấn đề giao tiếp dưới góc độ tâm lý học của
các nhà tâm lý học có thể chia thành một số hướng nghiên cứu như sau:
- Hướng thứ nhất: Nghiên cứu bản chất tâm lý học của giao tiếp, đặc
điểm giao tiếp của con người, chỉ ra nội dung, phương tiện giao tiếp… có
công trình của Phạm Minh Hạc, Ngô Công Hoàn, Nguyễn Quang Uẩn,
Nguyễn Ngọc Bích, Trần trọng Thủy, Nguyễn Sinh Huy…[24][42][47].

- Hướng thứ hai: Nghiên cứu giao tiếp như là một tiến trình truyền đạt
thông tin, đặc điểm giao tiếp của người tham gia vào truyền thông, có công
trình của Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Thị Oanh, Nguyễn Khắc Viện…[33].
- Hướng thứ ba: Nghiên cứu thực trạng đặc điểm giao tiếp của một số
đối tượng là SV sư phạm, đề xuất các tác động nhằm nâng cao hiệu quả giao
tiếp của họ như đề tài của Tống Duy Riêm, Bùi Ngọc Thiết, Trần Thị Kim
Thoa…[33].
- Hướng thứ tư: Nghiên cứu về KNGT trong lãnh đạo, quản lý kinh tế,
kinh doanh, du lịch, sư phạm… có công trình của Mai Hữu Khuê, Nguyễn
Thạc, Hoàng Anh, Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Văn Đính…[33].
Như vậy, vấn đề giao tiếp đã được nhiều nhà xã hội học, tâm lý học
nghiên cứu bình diện lý luận và thực tiễn.
Ngoài ra, có thể kể tên một số tài liệu và đề tài nghiên cứu về KNGT sau:

15


Nghiên cứu về KNGT sư phạm của SV dưới góc độ Tâm lý học, tác giả
Hoàng Anh (2007) đã đề xuất những hoạt động giao tiếp hình thành nhân cách
của con người [2].
“Giáo trình KNGT” của Chu Văn Đức năm 2005 viết cho SV các
trường cao đẳng, đại học. Nội dung của cuốn giáo trình, tác giả có đề cập tới
những cơ sở lý luận của giao tiếp, các KNGT cơ bản, cách rèn luyện các
KNGT cho SV [21].
Giáo trình “Giao tiếp sư phạm” của Đặng Thị Vân năm 2009, dành cho
SV HVNN Việt Nam. Tác giả cũng đã đề cập tới các KNGT sư phạm cơ bản
nhất cho SV, đặc biệt là SV của HVNN Việt nam [48].
Luận án tiến sĩ khoa GD với đề tài“Giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học
sinh phổ thông vùng nông thôn miền núi phía Bắc” của Ngô Giang Nam
(2013) – Trường Đại học Thái Nguyên nghiên cứu sâu về thực trạng giáo dục

KN sống liên quan đến KNGT cho học sinh miền núi phía Bắc, đồng thời đề
xuất giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả nội dung này [33].
Luận án tiến sĩ khoa học GD với đề tài “Phát triển môi trường giao
tiếp cho SV sư phạm ở các trường cao đẳng miền núi phía Bắc” của tác giả
Đoàn Thị Cúc (2013) cũng đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình giao
tiếp của SV, từ đó đề xuất các biện pháp khắc phục [12].
Luận án tiến sĩ với đề tài “KNGT sư phạm của SV các ngành sư phạm
trường Đại học sư phạm Đại học Đà Nẵng” của tác giả Lê Duy Hùng (2009)
đã nêu ra ba nhóm kỹ năng chính: KN định hướng giao tiếp, KN điều khiển
bản thân, KN điều khiển đối phương [27].
Luận án tiến sĩ khoa học với đề tài “Hệ thống kỹ năng giảng dạy trên
lớp về môn giáo dục học và quy trình rèn kỹ năng đó cho sinh viên khoa Tâm
lý giáo dục” của tác giả Nguyễn Như An (1993) [1].

16


Luận án tiến sĩ khoa học với đề tài “GD KN sống cho học sinh trung
học phổ thông thông qua hoạt động GD ngoài giờ lên lớp” của tác giả Phan
Thanh Vân (2010) cũng chỉ ra được những KN sống cơ bản cho học sinh
trung học phổ thông trong các hoạt động trải nghiệm ngoài giờ lên lớp [50].
Năm 2010, tập thể tác giả do Nguyễn Hữu Độ làm chủ biên đã biên
soạn tài liệu “GD nếp sống thanh lịch – văn minh cho học sinh Hà Nội” và đã
thí điểm đối với học sinh lớp 5 qua thực hiện các KNGT ứng xử trong mối
quan hệ gia đình, nhà trường và xã hội. Đây là một tài liệu có tính thực tiễn
trong GD KNGT cho học sinh tại Hà Nội [20][8].
Hà Thị Thư đã nghiên cứu đề tài “KN tổ chức giao tiếp nhóm của SV
ngành công tác xã hội” đăng trên tạp chí Tâm lý học xã hội số 10, trang 3646/2015. Trong bài viết tác giả có đề cập tới KNGT của SV khi làm việc
nhóm, đặc biệt đó là KN thu hút/lôi cuốn mọi người trong nhóm [43].
Có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu về KNGT trong một số lĩnh vực,

nghề nghiệp cụ thể. Tác giả Trần Trọng Thủy trong bài: “Tình người, giao
tiếp và văn hóa giao tiếp” (1998) đã phân tích mối quan hệ giữa tình người,
văn hóa và giao tiếp, tác giả khẳng định: “Văn hóa giao tiếp có liên quan mật
thiết với các KNGT, có một số KNGT đặc trưng của con người như: KN chỉnh
sửa các ấn tượng ban đầu của mình về người khác khi mới làm quen với họ;
KN bước vào giao tiếp với người khác một cách không có định kiến. Những
KNGT này không có sẵn, mà thông qua học tập, rèn luyện” [42]. Tác giả
Nguyễn Đình Xuân trong cuốn “Giáo trình tâm lý học quản lý” (2011) cũng
đề cập đến một số kỹ thuật giao tiếp như: “Lựa chọn địa điểm, thời gian tiếp
khách, làm chủ cảm xúc của mình trong giao tiếp, thuật nghe và dẫn dắt mọi
người để tin những điều mình nói [52].
Tác giả Thái Chí Dũng trong tác phẩm “KNGT và thương lượng trong
kinh doanh” (2015) [16] và Đinh Văn Tiến với “Nghệ thuật đàm phán trong

17


kinh doanh” (2014) [39] đã quan tâm trình bày một số KNGT trong công
trình của mình: KN lắng nghe, KN đặt câu hỏi, KN nói, KN viết.
Có một vài tác giả đã nghiên cứu KNGT với cư dân nông thôn như bài
giảng “KNGT trong khuyến nông” của nhóm tác giả trường đại học Nông lâm
thành phố Hồ Chí Minh (2010) cũng khẳng định: Giao tiếp là hình thức đặc
trưng cho mối quan hệ giữa con người với con người mà cụ thể là các cư dân
nông thôn trong nông nghiệp qua đó nảy sinh sự tiếp xúc tâm lý và được biểu
hiện ở các quá trình thông tin, hiểu biết, rung cảm, ảnh hưởng tác động qua
lại lẫn nhau. Cuốn sách“Giới thiệu về lâm nghiệp cộng đồng” (1999) do
Ulrich Apel biên soạn thuộc dự án phát triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà của
Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. Tài liệu cũng chỉ ra những đặc điểm
giao tiếp với nông dân, các KNGT với nông dân như KN lắng nghe, các ngôn
ngữ cử chỉ, các làm quen, những câu hỏi khi giao tiếp với người dân cách tiếp

cận bằng sử dụng PRA và RRA [46],.
Các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu ở trên dù mang tính khái
quát hay phân tích chuyên sâu về một khía cạnh nào đó trong quản lý GD nói
chung và GD KNGT nói riêng đều là những công trình có giá trị về mặt lý
luận và thực tiễn trong GD KNGT cho học sinh, SV. Nhưng, đến nay chưa có
đề tài hay nghiên cứu nào về GD KNGT với các cư dân nông thôn tại các
trung tâm HTCĐ cho SV HVNN Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu thực
trạng để đề xuất những giải pháp đẩy mạnh GD KNGT cho SV là có ý nghĩa.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Giao tiếp
Giao tiếp là điều kiện tất yếu cho sự phát triển và tồn tại của con người.
Nó đóng vai trò rất quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách của
mỗi cá nhân, giao tiếp ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống tinh thần của mỗi

18


con người. Không ai có thể hình thành và phát triển nhân cách hoàn thiện mà
không cần giao tiếp. Vậy giao tiếp là gì?
Theo LX.Vưgôtxki: “Giao tiếp là sự thông báo hoặc là quan hệ qua lại
một cách thuần túy giữa người với người như là một sự trao đổi quan điểm
và cảm xúc” [48].
Theo Panferov: “Giao tiếp là sự tác động qua lại, trao đổi thông tin,
nhờ sự giúp đỡ của những phương tiện khác, của sự thông báo với mục đích
xây dựng mối quan hệ qua lại có lợi đối với hoạt động chung” [48].
Theo BB.Bôgôxlovxki: “Giao tiếp là sự tác động qua lại giữa con
người với con người trong đó diễn ra sự tiếp xúc tâm lý, biểu hiện sự trao đổi
thông tin, rung cảm lẫn nhau, hiểu biết lẫn nhau và ảnh hưởng lẫn nhau”.
Đây là khái niệm tiến bộ nhất vì đã nên lên được bản chất và chức năng của
tâm lý [9].

Theo A.N. Leonchiev: “Giao tiếp là hệ thống quá trình có mục đích, có
động cơ, đảm bảo sự tương tác giữa người này với người khác trong hoạt
động tập thể, thực hiện các quan hệ xã hội và nhân cách, sử dụng các công
cụ đặc thù trước hết là ngôn ngữ”. Quan điểm của nhà nghiên cứu tâm lý học
Macxit cho chúng ta cái nhìn khái quát về giao tiếp, giao tiếp là hoạt động
động xác lập và vận hành các mối quan hệ người – người nhằm hiện thực hóa
các mối quan hệ xã hội con người với nhau [28].
Ở Việt Nam, vấn đề giao tiếp đã nhận được sự quan tâm rất nhiều của
các nhà Tâm lý học và GD học, nó được khai thác khác nhau dưới nhiều góc
độ khác nhau như giao tiếp thông thường ở các lứa tuổi, giao tiếp công vụ [5]
[23].
Theo Ngô Công Hoàn: “Giao tiếp là quá trình tiếp xúc giữa con người
với con người nhằm mục đích trao đổi tư tưởng, tình cảm, vốn kinh nghiệm
sống, KN, kỹ xảo, nghề nghiệp” [24].

19


Theo từ điểm bách khoa toàn thư mở Wikipedia giao tiếp được chia
thành ba loại [45]:
- Giao tiếp truyền thống: là các mối quan hệ giữa người và người hình
thành trong quá trình phát triển xã hội, đó là quan hệ giữa ông bà, cha me, con
cái, hàng xóm,… và cuối cùng trở thành văn hoá ứng xử riêng trong xã hội.
- Giao tiếp chức năng: xuất phát từ sự chuyên hoá trong xã hội, ngôn
ngữ,… đó là những quy ước, những chuẩn mực, thông lệ chung trong xã hội
cho phép mọi người không quen biết nhau, rất khác nhau nhưng khi thực hiện
những vai trò xã hội đều sử dụng kiểu giao tiếp đó (như quan hệ giữa lãnh đạo
và nhân viên, người bán và người mua, chánh án và bị cáo...).
- Giao tiếp tự do: là những quy tắc và mục đích giao tiếp không quy
định trước như khuôn mẫu, nó xuất hiện trong quá trình tiếp xúc, tuỳ theo sự

phát triển của các mối quan hệ. Loại hình giao tiếp này trong cuộc sống thực
tế là vô cùng phong phú, trên cơ sở những thông tin có được và để giải toả
xung đột mỗi cá nhân.
Nhấn mạnh đến khía cạnh tâm lý của giao tiếp, tác giả Trần Trọng Thủy
quan niệm: “giao tiếp của con người là một quá trình có chủ định hay không
có chủ định, có ý thức hay không có ý thức mà là trong đó, các cảm xúc và tư
tưởng được biểu đạt trong các thông điệp bằng phi ngôn ngữ”. Khái niệm
giao tiếp của tác giả được khai thác là một quá trình có chủ định hoặc không
chủ định, thực hiện bằng lời hoặc không bằng lời, có thể kiểm soát được và có
thể không kiểm soát được bằng ý thức con người [42].
Tiếp cận dưới góc độ mối quan hệ liên nhân cách của con người, tác giả
Nguyễn Quang Uẩn viết: “giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người và
người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về tình cảm, tri
giác lẫn nhau. Hay nói cách khác đi, giao tiếp xác lập và vận hành các mối
quan hệ người – người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này

20


với chủ thể khác”. Ở đây, tác giả đã xem giao tiếp như điều kiện của sự tồn tại
và phát triển của con người. Thông qua giao tiếp, các mối quan hệ của con
người được phát triển [47].
Tóm lại: Từ các cách hiểu khái quát về giao tiếp, dựa vào nội hàm của
giao tiếp chúng ta có thể hiểu giao tiếp một cách cụ thể như sau: Giao tiếp là
quá trình tiếp xúc, quan hệ giữa con người với con người, nhằm mục đích
trao đổi các thông tin, hiểu biết lẫn nhau, tâm tư tình cảm của nhau.
1.2.2. Kỹ năng
KN là một vấn đề rất phức tạp. Cho tới thời điểm này trên thế giới và ở
ngay trong nước ta cũng có những cái nhìn, những khía cạnh, những quan
điểm khác nhau về KN:

Theo các nhà tâm lý học trên thế giới: “KN không đơn thuần là mặt kỹ
thuật mà nó còn biểu hiện về năng lực của con người” [29].
Theo các nhà GD Việt Nam: “KN là khả năng của con người thực hiện
có kết quả hành động tương ứng với mục đích và điều kiện trong đó hành
động xảy ra” [29].
Theo Lê Văn Hồng “KN là khả vận dụng kiến thức để giải quyết một
nhiệm vụ mới” [26]. Tác giả Nguyễn Văn Đồng cho rằng “KN là năng lực
vận dụng những tri thức đã được lĩnh hội để thực hiện có hiệu quả một hoạt
động tương ứng trong những điều kiện cụ thể”[19] hay tác giả Nguyễn Quang
Uẩn cho rằng: “KN là năng lực của con người biết vận hành các thao tác của
một hành động theo quy trình” [47].
Từ những khái niệm của những nhà nghiên cứu trên cho thấy những
điểm chung trong quan niệm về KN:
- Tri thức là cơ sở, là nền tảng để hình thành KN. Tri thức ở đây bao
gồm tri thức về cách thức hành động và tri thức về đối tượng hành động.
- KN là sự chuyển hóa tri thức thành năng lực hành động cá nhân.

21


- KN luôn gắn với một hành động hoặc một hoạt động nhất định nhằm
đạt được mục đích đặt ra.
Tóm lại: Từ những phân tích trên chúng tôi hiểu khái niệm của KN
như sau: KN là năng lực thực hiện một hành động hay một hoạt động nào đó
bằng cách lựa chọn và vận dụng những tri thức, cách thức hành động, thao
tác đúng đắn để đạt được mục đích đề ra.
1.2.3. Giáo dục
Theo ông John Dewey (1859 – 1952), nhà triết học, nhà tâm lí học và
nhà cải cách GD người Mỹ, ông cho rằng cá nhân con người không bao giờ
vượt qua được quy luật của sự chết và cùng với sự chết thì những kiến thức,

kinh nghiệm mà cá nhân mang theo cũng sẽ biến mất. Tuy nhiên, tồn tại xã
hội lại đòi hỏi phải những kiến thức, kinh nghiệm của con người phải vượt
qua được sự khống chế của sự chết để duy trì tính liên tục của sự sống xã hội.
GD là “KN” của loài người để đảm bảo tồn tại xã hội, xã hội không chỉ tồn
tại nhờ truyền dạy, nhưng còn tồn tại chính trong quá trình truyền dạy ấy.
John Dewey, cũng đề cập đến việc truyền đạt, nhưng ông nói rõ hơn về mục
tiêu cuối cùng của việc GD, là dạy dỗ [36].
Theo Nguyễn Văn Hộ (2002): GD là một hiện tượng xã hội, trong đó
một tập hợp xã hội (nhóm) đã tích lũy được vốn kinh nghiệm nhất định truyền
đạt lại cho nhóm xã hội khác nhằm giúp họ tham gia vào đời sống xã hội,
giúp họ hiểu được các chuẩn mực, khuôn mẫu, giá trị xã hội để trở thành
những nhân cách phù hợp với đòi hỏi của lợi ích xã hội. Đây chính là nét đặc
trưng cơ bản của GD với tư cách là hiện tượng xã hội [25].
Theo Nguyễn Văn Hộ (2002): GD là hiện tượng xã hội đặc biệt của xã
hội loài người, một hiện tượng có mục đích và chỉ có xã hội loài người mới

22


có. Các hiện tượng GD đó được nảy sinh ngay từ khi có xã hội loài người và
nhu cầu cấp thiết của sự phát triển xã hội. Nhờ đó các thế hệ sau chiếm lĩnh
được kinh nghiệm, những tri thức có thể giúp họ tham gia tích cực vào mọi
hoạt động trong cuộc sống và những lĩnh vực hoạt động khác, làm cho xã hội
loài người luôn tồn tại và phát triển không ngừng [25].
Như vậy: GD là một hoạt động có ý thức của con người nhằm vào mục
đích phát triển con người và phát triển xã hội.
1.2.4. Giáo dục kỹ năng giao tiếp với các cư dân nông thôn tại các trung
tâm học tập cộng dồng cho sinh viên
* Kỹ năng giao tiếp
KNGT là một trong những KN mềm cực kỳ quan trọng trong thế kỷ

XXI. Đó là một tập hợp những qui tắc, nghệ thuật, cách ứng xử, đối đáp được
đúc rút qua kinh nghiệm thực tế hằng ngày giúp mọi người giao tiếp hiệu quả
thuyết phục hơn khi áp dụng thuần thục KNGT. Có thể nói KNGT đã được
nâng lên thành nghệ thuật giao tiếp bởi trong KNGT có rất nhiều KN nhỏ
khác như KN lắng nghe, KN thấu hiểu, KN sử dụng ngôn ngữ cơ thể, KN sử
dụng ngôn từ, âm điệu… Để có được KNGT tốt đòi hỏi người sử dụng phải
thực hành thường xuyên, áp dụng vào mọi hoàn cảnh mới có thể cải thiện tốt
KNGT của mình.
Nghiên cứu về KNGT, các nhà nghiên cứu có những quan niệm khác
nhau, cách nhìn khác nhau và cách khai thác khác nhau.
Tác giả Nguyễn Thị Bích Thu (2010) quan niệm “KNGT là năng lực
của người biểu hiện trong quá trình giao tiếp. Đó là khả năng sử dụng hợp lý
các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ… là hệ thống các thao tác cử chỉ,
điệu bộ hành vi được chủ thể giao tiếp phối hợp hài hòa”. Trong thực tế,
KNGT không chỉ phụ thuộc vào phương tiện mà nó phụ thuộc khá nhiều vào

23


vốn sống, vốn kinh nghiệm, phụ thuộc vào những nét văn hóa đặc trưng vùng
miền mà người đó sinh sống, có khi chịu ảnh hưởng của sự GD, quản lý của
gia đình [41].
Theo tác giả Ngô Công Hoàn (1998), “KNGT là khả năng tri giác hiểu
được những biểu hiện bên ngoài cũng như những diễn biến bên trong của các
hiện tượng, trạng thái, phẩm chất tâm lý của đối tượng giao tiếp”. Hay nói
cách khác KNGT là toàn bộ những cử chỉ, thái độ, thao tác, ngôn ngữ được
phối hợp hài hòa, của cá nhân với cá nhân, cá nhân với một nhóm xã hội
nhằm điều chỉnh đối tượng giao tiếp để thực hiện mục tiêu của chủ thể giao
tiếp [24].
Tác giả Nguyễn Bá Minh (2008) “KNGT là nhóm KN bao gồm các

hành động liên quan đến việc hình thành mối quan hệ hợp tác giữa chủ thể và
đối tượng giao tiếp, giữa đối tượng giao tiếp với nhau”. Ở đây, KNGT được
hiểu là nhóm KN hỗ trợ cho người giao tiếp nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt
động giao tiếp trong xã hội. Trong xã hội và trong hoạt động giao tiếp của con
người, KNGT là khả năng sử dụng ngôn ngữ và khả năng biểu cảm của con
người, với sự phối hợp hài hòa giữa lời nói và cử chỉ của chủ thể và đối tượng
giao tiếp [32].
Tóm lại: KNGT là năng lực tiến hành các thao tác, hành động, kể cả
năng lực thực hiện xúc cảm, thái độ nhằm giúp chủ thể giao tiếp trao đổi
thông tin, tư tưởng, tình cảm với đối tượng giao tiếp một cách hiệu quả nhất
nhằm đạt được mục đích giao tiếp.
* Giáo dục kỹ năng giao tiếp
GD KNGT là quá trình tổ chức các hoạt động GD nhằm giúp người học
hình thành và rèn luyện các thao tác, hành động để trao đổi, tiếp nhận và xử lý

24


thông tin bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ trong mối quan hệ của SV với mọi
người xung quanh.
* Giáo dục kỹ năng giao tiếp với các cư dân nông thôn tại các trung
tâm học tập cộng đồng cho sinh viên
GD KNGT với các cư dân nông thôn tại các trung tâm HTCĐ là quá
trình tổ chức các hoạt động GD nhằm giúp SV hình thành và rèn luyện các
thao tác và hành động để trao đổi, tiếp nhận, xử lý thông tin bằng ngôn ngữ và
phi ngôn ngữ để hướng dẫn, định hướng, trao đổi, cũng như hình thành các
KNGT khi tiếp xúc với cư dân nông thôn.
1.2.5. Sinh viên
* Khái niệm
SV là người học tập tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp. Ở đó

họ được truyền đạt kiến thức bài bản về một ngành nghề, chuẩn bị cho công
việc sau này của họ. Họ được xã hội công nhận qua những bằng cấp đạt được
trong quá trình học. Quá trình học của họ theo phương pháp chính quy, tức là
họ đã phải trải qua bậc tiểu học và trung học.
* Đặc điểm tâm lý của sinh viên
Theo Nguyễn Kế Hào (2004) tuổi SV bao gồm từ 18 đến 25 tuổi, tương
ứng với thời kỳ thứ 3 của tuổi thanh thiếu niên. Các nhà nghiên cứu thường
chia tuổi thanh thiếu niên thành ba thời kỳ chủ yếu: 1) 11/12 tuổi – 14/15 tuổi
– thời kỳ “một nửa trẻ con”; 2) 14/15 tuổi – 17/18 tuổi – thời kỳ “một nửa
người lớn”; và 3) 17/18 tuổi – 23/25 tuổi – thời kỳ tiền trưởng thành [22].
SV là một nhóm xã hội đặc biệt, là những người đang theo học ở bậc
cao đẳng, đại học để chuẩn bị cho hoạt động sản xuất vật chất hay tinh thần
của xã hội. Nhóm xã hội đặc biệt này là nguồn bổ sung cho đội ngũ trí thức,
được đào tạo cho lao động trí óc với nghiệp vụ cao và tham gia tích cực vào
hoạt động đa dạng có ích cho xã hội [38].

25


×