Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

THỰC TRẠNG NUÔI CON BẰNG sữa mẹ của các bà mẹ SAU SINH tại KHOA PHỤ sản BỆNH VIỆN đa KHOA TRUNG tâm TỈNH LẠNG sơn năm 2017 và một số yếu tố LIÊN QUAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.05 KB, 64 trang )

B GIO DC V O TO

B Y T

TRNG I HC Y H NI
---------------***---------------

MAI TH NGUYT

THựC TRạNG NUÔI CON BằNG SữA Mẹ CủA CáC Bà
Mẹ
SAU SINH TạI KHOA PHụ SảN BệNH VIệN ĐA KHOA
TRUNG TÂM TỉNH LạNG SƠN NĂM 2017 Và MộT Số
YếU Tố LIÊN QUAN

CNG LUN VN THC S Y HC


HÀ NỘI - 2017


B GIO DC V O TO

B Y T

TRNG I HC Y H NI
---------------***---------------

MAI TH NGUYT

THựC TRạNG NUÔI CON BằNG SữA Mẹ CủA CáC Bà


Mẹ
SAU SINH TạI KHOA PHụ SảN BệNH VIệN ĐA KHOA
TRUNG TÂM TỉNH LạNG SƠN NĂM 2017 Và MộT Số
YếU Tố LIÊN QUAN
Chuyờn ngnh: Dinh dng
Mó s: 60720303

CNG LUN VN THC S Y HC
Ngi hng dn:
PGS.TS. Trn Th Phỳc Nguyt


Hà Nội - 2017
DANH MỤC CHỮ VIẾT

BMHT

Bú mẹ hoàn toàn

BV

Bệnh viện

DD

Dinh dưỡng

ĐKTT

Đa khoa trung tâm


ĐTV

Điều tra viên

KT

Kiến thức

NCBSM

Nuôi con bằng sữa mẹ

SDD

Suy dinh dưỡng

TH

Thực hành

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

UNICEF


Quỹ nhi đồng Liên Hiệp quốc

WHO

Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization)


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ...................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU............................................................3
1.1. Một số định nghĩa về sữa mẹ và nuôi con bằng sữa mẹ.........................3
1.1.1. Sữa mẹ..............................................................................................3
1.1.2. Nuôi con bằng sữa mẹ......................................................................3
1.1.3. Nuôi con bằng sữa mẹ sớm..............................................................3
1.1.4. Bú mẹ hoàn toàn...............................................................................3
1.2. Thành phần dinh dưỡng của sữa mẹ.......................................................3
1.2.1. Sữa non.............................................................................................4
1.2.2. Sữa ổn định.......................................................................................4
1.3. Tầm quan trọng của NCBSM và cho trẻ bú sớm trong vòng một giờ
đầu sau đẻ..............................................................................................5
1.3.1. Tầm quan trọng của NCBSM...........................................................5
1.3.2. Tầm quan trọng của cho trẻ bú sớm trong vòng một giờ đầu sau
sinh..................................................................................................9
1.4. Cách nuôi con bằng sữa mẹ..................................................................10
1.4.1. Cho trẻ bú sữa mẹ sớm...................................................................10
1.4.2. Số lần cho bú..................................................................................10
1.4.3. Cho bú hoàn toàn đến 6 tháng tuổi.................................................10
1.4.4. Thời điểm cai sữa:..........................................................................11
1.4.5. Cách cho trẻ bú...............................................................................11

1.5. Tình hình NCBSM, NCBSM sớm trên Thế giới và Việt Nam.............12


1.5.1. Tình hình NCBSM trên Thế giới....................................................12
1.5.2. Tình hình NCBSM Việt Nam.........................................................13
1.5.3. Tình hình cho trẻ bú sớm 1 giờ đầu sau sinh..................................14
1.6. Những yếu tố ảnh hưởng tới việc NCBSM và cho trẻ bú sớm trong
vòng một giờ đầu sau sinh..................................................................15
1.6.1. Trình độ văn hóa của bà mẹ............................................................15
1.6.2. Ảnh hưởng của tình trạng kinh tế, trình độ văn hóa xã hội tới việc
nuôi con.........................................................................................16
1.6.3. Ảnh hưởng của các cán bộ y tế, bạn bè và các thành viên của gia
đình................................................................................................18
1.7. Vài nét đặc điểm của Lạng Sơn...........................................................19
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............22
2.1. Thời gian, địa điểm, đối tượng nghiên cứu...........................................22
2.1.1. Thời gian.........................................................................................22
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu......................................................................22
2.1.3. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................22
2.2. Phương pháp nghiên cứu......................................................................22
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu........................................................................22
2.2.2. Sơ đồ nghiên cứu............................................................................23
2.2.3. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu:...............................................23
2.2.4. Các biến số và chỉ số nghiên cứu...................................................24
2.2.5. Các chỉ tiêu đánh giá......................................................................26
2.2.6. Sai số và cách khống chế sai số trong nghiên cứu.........................27
2.2.7. Xử lý và phân tích số liệu...............................................................27
2.2.8. Đạo đức trong nghiên cứu..............................................................28
CHƯƠNG 3: DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..................................29
3.1. Một số đặc điểm cá nhân của đối tượng nghiên cứu.............................29



3.1.1. Một số đặc điểm của bà mẹ............................................................29
3.1.2. Một số đặc điểm của trẻ..................................................................30
3.2. Kiến thức của các bà mẹ về NCBSM...................................................31
3.3. Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ sớm của các bà mẹ sau sinh............33
3.4. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng bú mẹ sớm...............................36
CHƯƠNG 4: DỰ KIẾN BÀN LUẬN..........................................................39
4.1. Kiến thức của bà mẹ về nuôi con bằng sữa mẹ.....................................39
4.1.1. Kiến thức chung của bà mẹ về NCBSM: NCBSM có tốt không, lý
do vì sao NCBSM tốt, lợi ích NCBSM.........................................39
4.1.2. Hiểu biết của bà mẹ về sữa non......................................................39
4.1.3. Hiểu biết của bà mẹ về bú mẹ hoàn toàn, thời gian cho trẻ bú hoàn
toàn................................................................................................39
4.1.4. Thời gian cai sữa cho trẻ................................................................39
4.1.5. Nguồn cung cấp thông tin về kiến thức NCBSM cho bà mẹ.........39
4.2. Thực hành cho trẻ bú sớm.....................................................................39
4.2.1. Thực hành cho trẻ bú sớm một giờ đầu sau sinh............................39
4.2.2. Tỉ lệ trẻ được bú mẹ sớm trong một giờ đầu sau sinh....................39
4.2.3. Tỉ lệ vắt bỏ sữa đầu.........................................................................39
4.2.4. Tỉ lệ cho trẻ ăn thức ăn khác trước bú mẹ......................................39
4.2.5. Tỉ lệ các bà mẹ cho trẻ bú mẹ hoàn toàn........................................39
4.3. Một số yếu tố liên quan đến thực hành cho trẻ bú sớm........................39
4.3.1. Những yếu tố từ phía trẻ.................................................................39
4.3.2. Những yếu tố từ phía mẹ................................................................39
4.3.3. Những yếu tố trong cuộc đẻ...........................................................39
DỰ KIẾN KẾT LUẬN..................................................................................40
DỰ KIẾN KHUYẾN NGHỊ.........................................................................41
TÀI LIỆU THAM KHẢO



PHỤ LỤC

DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Phân bố nhóm tuổi của đối tượng nghiên cứu...........................29
Bảng 3.2. Phân bố trình độ học vấn của các bà mẹ tại bệnh viện............29
Bảng 3.3. Phân bố nghề nghiệp của các bà mẹ...........................................30
Bảng 3.4. Cân nặng khi sinh của trẻ tại bệnh viện.....................................30
Bảng 3.5. Phân bố thứ tự sinh của trẻ tại bệnh viện..................................30
Bảng 3.6. Hiểu biết của các bà mẹ về lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ. .31
Bảng 3.7.Tỉ lệ các lý do của bà mẹ khi cho rằng NCBSM tốt...................31
Bảng 3.8. Đánh giá kiến thức của các bà mẹ về sữa non...........................32
Bảng 3.9: Kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn của các bà mẹ. 32
Bảng 3.10. Kiến thức về thời gian cho trẻ bú hoàn toàn của các bà mẹ tại BV.
.....................................................................................................32
Bảng 3.11. Kiến thức về thời gian cai sữa của các bà mẹ...........................32
Bảng 3.12. Nguồn thông tin cung cấp kiến thức về NCBSM của các bà mẹ
.....................................................................................................33
Bảng 3.13.Thời gian cho trẻ bú lần đầu sau sinh của các bà mẹ...............33
Bảng 3.14. Tỉ lệ cho trẻ bú sớm 1 giờ đầu sau sinh....................................33
Bảng 3.15. Tỉ lệ các lý do bà mẹ cho trẻ bú sớm 1 giờ đầu sau sinh.........34
Bảng 3.16. Tỉ lệ các lý do cho trẻ bú muộn trên 1 giờ sau sinh của các bà mẹ
.....................................................................................................34
Bảng 3.17. Tình trạng vắt bỏ sữa non của các bà mẹ sau khi sinh...........34
Bảng 3.18. Tỉ lệ trẻ được ăn trước bú mẹ lần đầu tại bệnh viện..............35


Bảng 3.19. Tỉ lệ loại thức ăn/nước uống cho trẻ ăn/uống trước bú mẹ. . .35
lần đầu.........................................................................................35
Bảng 3.20. Lý do các bà mẹ cho trẻ ăn thức ăn khác trước khi bú mẹ lần

đầu sau sinh...............................................................................35
Bảng 3.21. Liên quan giữa hình thức đẻ và tỉ lệ vắt bỏ sữa non của bà mẹ
sau sinh.......................................................................................36
Bảng 3.22. Liên quan giữa một số yếu tố của bà mẹ với thực hành cho trẻ
bú trong vòng 1 giờ đầu sau sinh.............................................36
Bảng 3.23. Liên quan giữa một số yếu tố của trẻ đến thực hành bú mẹ
trong vòng một giờ đầu sau sinh..............................................37
Bảng 3.24. Liên quan giữa kiến thức của bà mẹ về NCBSM với thực hành
cho trẻ bú sớm trong vòng một giờ đầu sau sinh...................37
Bảng 3.25. Liên quan giữa hình thức sinh con với thực hành cho trẻ bú
trong vòng 1 giờ đầu sau sinh...................................................38


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sữa mẹ là món quà quý giá nhất mà thiên nhiên ban tặng cho trẻ sơ
sinh và trẻ nhỏ. Quỹ nhi đồng Liên Hiệp quốc (UNICEF) đã thúc đẩy việc
nuôi con bằng sữa mẹ như là một thành phần chính của chiến lược cải thiện
đời sống trẻ thơ [1]. Trong thời gian 4- 6 tháng đầu sau sinh, sữa mẹ là nguồn
cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của trẻ, có tỉ
lệ các chất dinh dưỡng cân đối và dễ hấp thu, đặc biệt là prottein và vitamin
A. Nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ chống lại các bệnh nhiễm trùng và làm
giảm tử vong trẻ, đặc biệt là các nước đang phát triển, nơi mà điều kiện vệ
sinh thực phẩm còn kém. Sữa mẹ được xem là yếu tố khởi đầu, phát triển
thành phần của vi khuẩn đường ruột. Sữa mẹ chứa Oligo- saccharides làm
tăng sự phát triển của các các loài vi khuẩn Bifidobacteria, đây là loài vi
khuẩn có mặt sớm nhất trong đường tiêu hóa và sự có mặt của chúng trong
đường tiêu hóa là tốt cho sức khỏe của trẻ[2]. Đặc biệt là sữa non, dòng sữa
nhiều chất dinh dưỡng, nhiều kháng thể, dễ tiêu hóa, được tạo vào cuối thai

kỳ, là thực phẩm hoàn hảo nhất cho trẻ sơ sinh.
Chính vì vậy tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyến nghị, trẻ sơ sinh cần
được bú mẹ sớm trong vòng một giờ đầu sau khi sinh và được nuôi hoàn toàn
bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu đời, sau đó ăn bổ sung hợp lý nhưng vẫn duy
trì bú sữa mẹ đến 24 tháng tuổi. Chế độ DD hợp lý trong suốt thời gian này sẽ
cải thiện sự tăng trưởng và phát triển thể chất, thành tích học tập của trẻ.
Mặc dù vậy, thực tế tại Việt Nam các bà mẹ không có thói quen tốt
trong việc nuôi con bằng sữa mẹ khiến tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở trẻ em vẫn ở
mức cao, theo nghiên cứu năm 2008 của Từ Mai ở Viện dinh dưỡng, trẻ bú
mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 16,2%; trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng
đầu là 28,4%; tỷ lệ trẻ bú sớm trong vòng 1h sau khi sinh là 49,3%, trong đó
có 34,3% trẻ được bú mẹ trong vòng nửa giờ đầu sau khi sinh [2], của
Nguyễn Lân và cộng sự năm 2013 ở Phổ Yên, Thái Nguyên chỉ có 44,4% bà
mẹ cho con bú ngay trong vòng 1/2 giờ sau sinh và vẫn còn 15,2% bà mẹ cho


2

con bú sau 24h [3]. Điều đáng lo ngại hơn là chỉ có 10% bà mẹ nuôi con hoàn
toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu trong khi tỉ lệ này ở Campuchia là 65%,
trung bình Châu Á là 40%...Tại các thành phố lớn chỉ có 1 trong 3 bà mẹ cho
con bú ngay trong 1 giờ đầu sau sinh, trong khi đó tại các vùng nông thôn là 2
trong 3 phụ nữ [4].
Hiện nay trong khi chính sách đổi mới với nền kinh tế nhiều thành phần
đã đem lại những hiệu quả tăng trưởng rõ rệt, nhưng cũng xuất hiện những
phân cực không tránh khỏi trong xã hội giàu và nghèo, vùng phát triển và
vùng kém phát triển. Bên cạnh một bộ phận các bà mẹ có nhận thức chưa
đúng về nuôi con bằng sữa mẹ thì áp lực công việc cũng làm cho tỉ lệ nuôi
con bằng sữa mẹ đang giảm trầm trọng, không chỉ ở thành phố lớn mà còn lan
rộng đến các vùng nông thôn. Nhiều hội nghị về công tác bảo vệ bà mẹ trẻ em

cũng đã lên tiếng báo động về thực trạng đáng lo ngại này.
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi biên giới, thuộc khu vực Đông Bắc Việt
Nam, là nơi có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, việc nuôi con của các bà mẹ
vẫn còn nhiều hạn chế. Tọa lạc ở trung tâm thành phố, tại Khoa Phụ sản Bệnh viện đa khoa trung tâm tỉnh Lạng Sơn hàng năm tiếp nhận hàng nghìn
sản phụ vào chuyển dạ đẻ. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, các đánh giá
liên quan đến thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong thời gian nằm viện sau
sinh tại tỉnh, những yếu tố nào ảnh hưởng đến việc cho trẻ bú của các bà mẹ
như thế nào, là một vấn đề còn chưa được nghiên cứu. Xuất phát từ thực tế đó
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài " Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ của các
bà mẹ sau sinh tại khoa Phụ sản Bệnh viện đa khoa trung tâm tỉnh Lạng
Sơn năm 2017 và một số yếu tố liên quan" với các mục tiêu sau:
1. Đánh giá thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ trong thời
gian nằm viện sau sinh tại khoa Phụ sản - Bệnh viện ĐKTT tỉnh
Lạng Sơn năm 2017.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến thực hành cho trẻ bú sữa mẹ trong
thời gian nằm viện sau sinh của các bà mẹ tại khoa Phụ sản - Bệnh
viện ĐKTT tỉnh Lạng Sơn năm 2017.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số định nghĩa về sữa mẹ và nuôi con bằng sữa mẹ
Sữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất dành cho trẻ nhỏ. Sữa mẹ không chỉ là
nguồn dinh dưỡng hoàn hảo mà còn giúp trẻ dễ tiêu hóa, hấp thu. Nuôi con
bằng sữa mẹ mang lại lợi ích thiết thực cho cả mẹ và bé.
1.1.1. Sữa mẹ: là sữa được tạo thành từ hệ thống tuyến sữa trong vú của
người phụ nữ sau khi có thai, bắt đầu có nhiều từ khoảng 24 đến 48 tiếng sau
khi sinh. Để có sữa để nuôi dưỡng em bé thì ngay từ khi mang thai các tuyến

sữa của mẹ đã hoạt động để hình thành nên nhà máy sản xuất sữa tự nhiên
này. Sữa mẹ được xem như là nguồn dinh dưỡng quan trọng nhất cho trẻ sơ
sinh, trước khi trẻ có thể tiêu hóa các loại thực phẩm khác.
1.1.2. Nuôi con bằng sữa mẹ (breastfeeding): là cách nuôi dưỡng trong đó
trẻ được trực tiếp bú sữa mẹ hoặc gián tiếp uống sữa mẹ đã được vắt ra [5].
1.1.3. Nuôi con bằng sữa mẹ sớm (early breast feeding): theo định nghĩa của
Tổ chức y tế Thế giới (WHO): là cho trẻ bú sớm trong vòng một giờ đầu sau
sinh [5].
1.1.4. Bú mẹ hoàn toàn (exclusive breastfeeding): là cách thực hành trong đó
trẻ chỉ được ăn sữa mẹ qua bú trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua vắt sữa mẹ
hoặc bú trực tiếp từ người mẹ khác, ngoài ra không được nuôi bằng bất cứ
loại thức ăn đồ uống nào khác. Các thứ khác ngoại lệ được chấp nhận là các
giọt dạng dung dịch có chứa vitamin, khoáng chất hoặc thuốc [6].
1.2. Thành phần dinh dưỡng của sữa mẹ
Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho sự phát triển của trẻ sơ sinh 6
tháng đầu vì trong sữa mẹ có đầy đủ năng lượng và chất dinh dưỡng cần thiết
như protein, glucid, lipid và mỡ vitamin và muối khoáng với tỷ lệ thích hợp


4

cho sự hấp thu và phát triển của cơ thể trẻ. Việc cho bú mẹ trong thời gian đầu
đời là hết sức cần thiết nhằm đảm bảo cho bé ít bệnh tật, phát triển cân bằng
và hài hòa.
Nhờ sự phát triển của khoa học bắt đầu từ những năm 80 người ta mới
hiểu rõ thành phần và cơ chế hình thành sữa mẹ cũng như tầm quan trọng của
sữa mẹ. Ngày nay cùng với công nghệ hóa sinh, sinh học phân tử, sữa mẹ đã
được phân tích sâu sắc, thành phần gồm hàng trăm chất dinh dưỡng khác nhau
với thành phần cân đối và hợp lý.
Sữa mẹ trải qua 2 giai đoạn: sữa non và sữa ổn định

1.2.1. Sữa non: là sữa được bài tiết trong vài ngày đầu sau đẻ. Sữa non sánh
đặc màu vàng nhạt. Trong sữa non chứa nhiều năng lượng, protein, vitaminA,
đồng thời nhiều chất kháng khuẩn tăng cường miễn dịch cho trẻ. Bên cạnh đó
sữa non còn có tác dụng sổ nhẹ giúp cho việc tống phân xu nhanh ngăn chặn
vàng da trẻ sơ sinh [7].
1.2.2. Sữa ổn định: có đầy đủ và cân đối các thành phần dinh dưỡng. Protein
sữa mẹ chứa đầy đủ acidamin cần thiết với tỉ lệ cân đối và dễ hấp thu. Sữa mẹ
có acid béo cần thiết như acid linoleic cần cho sự phát triển của não, mắt và
sự bền vững thành mạch của trẻ, hơn nữa lipid trong sữa mẹ dễ được tiêu hóa
hơn do có lipase. Lactose trong sữa mẹ cung cấp thêm nguồn năng lượng cho
trẻ, một số lactose vào ruột lên men tạo thành acid lactic giúp cho hấp thu
canxi và muối khoáng tốt hơn. Sữa mẹ còn chứa nhiều các men, giúp cho trẻ
tiêu hóa và hấp thu tốt. Hoạt tính lysozym, amylaza của sữa non cao hơn 60
lần và ở sữa hoàn thiện là 40 lần so với sữa bò. Nhiều các men khác cũng có
mặt với nồng độ rất cao bao gồm transaminaza, catalaza, lactaza,
dehydrozenaza, proteaza và lipaza. Nội tiết tố giáp trạng và những nội tiết tố
khác cũng được tiết ra ở sữa mẹ (Lawrence,1980) [8]. Sữa mẹ còn có nhiều
vitamin và muối khoáng như vitamin A, C, calci, sắt, tỷ lệ Ca/P thích hợp dễ


5

hấp thu, phòng được một số bệnh do thiếu vi chất gây ra như khô mắt do thiếu
vitamin A, thiếu máu thiếu sắt, còi xương…[7]
Một thành phần quan trọng của sữa mẹ mà không một loại sữa nào
khác có thể thay thế được là chất kháng khuẩn. Đó là các kháng thể IgA có
nhiều nhất trong sữa non và giảm dần ở các ngày sau đó. Lactoferin là một
protein gắn sắt có tác dụng kìm khuẩn không cho vi khuẩn ưa sắt phát triển.
Các enzyme lactozym có tác dụng diệt khuẩn. Và hơn 80% tế bào trong sữa là
các lympho bào, thực bào có tác dụng thực bào và tiết IgA, interferon có tác

dụng ức chế hoạt động của vi khuẩn, virut, nấm… [9]. Ngoài ra trong sữa mẹ
còn có yếu tố kích thích sự phát triển của vi khuẩn lactobacillus bifidus, lấn át
sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh như Ecoli. Sữa mẹ có khoảng hơn 100
thành phần không tìm thấy trong bất kỳ loại sữa công thức nào, hầu như
không một đứa trẻ nào dị ứng với sữa mẹ mình.
1.3. Tầm quan trọng của NCBSM và cho trẻ bú sớm trong vòng một giờ
đầu sau đẻ
1.3.1. Tầm quan trọng của NCBSM
Trong những năm gần đây, NCBSM được quan tâm hàng đầu trong lĩnh
vực dinh dưỡng trẻ em. Đã có nhiều hội nghị trong nước và quốc tế giành
riêng cho vấn đề này vì tính thực tế và tính ưu việt của nó. Tổ chức Quỹ nhi
đồng liên hiệp quốc (UNICEF) đã coi NCBSM là một trong những biện pháp
quan trọng nhất để bảo vệ sức khỏe trẻ em [10].
1.3.1.1. Đối với trẻ
- NCBSM giúp trẻ phát triển tốt hơn
Do thành phần và tính chất ưu việt như vậy nên NCBSM là biện pháp
dinh dưỡng tối ưu cho trẻ [11]. Nhiều nghiên cứu cho thấy có một sự liên
quan giữa tình trạng dinh dưỡng của trẻ với việc NCBSM, những trẻ được
nuôi bằng sữa mẹ phát triển tốt hơn (Đào Ngọc Diễn, 1991, Bùi Thị Thu


6

Nhuận và cộng sự, 1986). Morow và cộng sự (1988) cho thấy có sự liên quan
chặt chẽ giữa sự phát triển hiểu biết của trẻ 2 tháng đầu với NCBSM và nhận
thấy rằng có một sự khác nhau có ý nghĩa giữa những trẻ được bú mẹ hoàn
toàn với trẻ ăn nhân tạo [12]. Trẻ bú sữa mẹ thường phát triển trí tuệ thông
minh hơn trẻ ăn sữa bò [7].
- NCBSM làm giảm tỷ lệ bệnh tật cho trẻ
Tổ chức UNICEF ước tính rằng hàng năm có khoảng 1 triệu trẻ em trên

toàn thế giới chết vì các lý do gián tiếp hay trực tiếp có liên quan đến không
hoặc thiếu nuôi dưỡng bằng sữa mẹ [13].
NCBSM là biện pháp nuôi dưỡng tự nhiên, tuyệt đối an toàn và hiệu
quả. Chandra (1979) thấy rằng trẻ được bú mẹ không những giảm tỉ lệ nhiễm
trùng mà còn giảm tỉ lệ dị ứng ở trẻ nhỏ [14]. Sữa mẹ có tác dụng chống dị
ứng. Trẻ bú mẹ ít bị dị ứng, ezema như ǎn sữa bò [7].
Ở Châu Mỹ La tinh hàng năm có khoảng 500 nghìn trẻ em dưới 5 tuổi
chết do ỉa chảy, mà hầu hết xảy ra ở trẻ em dưới 1 tuổi. Người ta nhận thấy
rằng nguy cơ trẻ chết do ỉa chảy ở trẻ em ăn nhân tạo cao hơn gấp 14 lần so
với trẻ được bú mẹ [15], [16]. Những nghiên cứu khác do Victora và cộng sự
(1977), (1987), Brend & cs (1988) cũng chỉ ra rằng hầu hết những trường hợp
bệnh nhiễm khuẩn cấp ở trẻ em có một sự liên quan lớn đối với trẻ được nuôi
bằng nhân tạo [17], [18], [19].
Ở Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Trọng An, Đào Ngọc Diễn (1983)
ở các trẻ nội ngoại thành cũng chỉ rõ tỉ lệ suy dinh dưỡng và mắc bệnh tiêu
chảy, nhiễm trùng hô hấp ở trẻ dưới 12 tháng cao hơn một cách có ý nghĩa ở
nhóm trẻ không được bú mẹ so với nhóm trẻ được bú mẹ [20].
Theo tài liệu của WHO, những trẻ từ 0 đến 2 tháng tuổi mà không được
bú mẹ thì tỷ lệ bị ỉa chảy cao hơn 2 lần và nguy cơ trẻ chết do những ảnh
hưởng của nó tăng gấp 25 lần so với những đứa trẻ được bú mẹ. Hơn thế nữa


7

những đứa trẻ không được bú mẹ nguy cơ chết do viêm phổi gấp 4 lần so với
những đứa trẻ được bú mẹ hoàn toàn (Zoya & cs, 1991) [21]. Cho con bú
hoàn toàn từ 4-6 tháng và tiếp tục cho bú ít nhất 2 năm làm giảm bệnh tật và
đặc biệt ỉa chảy và những bệnh nhiễm trùng khác. NCBSM làm giảm những
trường hợp chết do ỉa chảy 32%, nhiễm khuẩn hô hấp 22%, và những nhiễm
trùng khác là 17% (Monterio,1990) [22].

Ngoài bệnh tiêu chảy, nhiễm trùng hô hấp và suy dinh dưỡng, Ducan và
cộng sự (1993) nghiên cứu trên 1220 trẻ nhỏ chỉ ra rằng số trẻ bị viêm tai giữa
ở trẻ bú mẹ hoàn toàn từ 4-6 tháng chỉ bằng ½ trẻ không được bú mẹ và bằng
40% số trẻ được bú mẹ và cho ăn < 4 tháng [23].
Viện hàn lâm nhi khoa Hoa Kỳ năm 1997 đã công nhận những lợi ích
đối với trẻ được nuôi bằng sữa mẹ. Nghiên cứu tại Hoa Kỳ, Canada, Châu Âu
và các nước phát triển khác trên dân số ở tầng lớp trung lưu cho thấy việc
NCBSM giúp giảm tần suất và hoặc mức độ trầm trọng của bệnh tiêu chảy,
viêm đường hô hấp dưới, viêm tai giữa, nhiễm khuẩn huyết, viêm màng não
do vi khuẩn, nhiễm trùng niệu và viêm ruột hoại tử. Một số nghiên cứu cho
thấy NCBSM có thể có tác dụng bảo vệ đối với hội chứng đột tử ở trẻ em,
bệnh đái tháo đường phụ thuộc insulin, bệnh Crohn, viêm loét đại tràng, các
bệnh dị ứng và các bệnh lý mãn tính khác của đường tiêu hóa [24].
Theo thống kê của UNICEF cho thấy suy dinh dưỡng protein –năng
lượng xuất hiện nhiều nhất ở lứa tuổi từ 4 đến 18 tháng tuổi trong đó ở lứa
tuổi dưới 12 tháng có nguyên nhân chủ yếu là không được bú sữa mẹ hoặc
cho trẻ ăn bổ sung quá sớm [25].
1.3.1.2. Đối với mẹ
Bên cạnh những lợi ích của sữa mẹ đối với trẻ thì việc cho con bú cũng
mang lại rất nhiều lợi ích và thuận tiện cho người mẹ. NCBSM gíúp cho bà
mẹ chóng co hồi tử cung, tránh băng huyết sau đẻ. Khi trẻ bú sẽ kích thích


8

hypothalamus sản xuất ra một hormone khác đó là oxytocin có tác dụng co
các tế bào cơ ở xung quanh tuyến sữa gây nên phản xạ tiết sữa. Oxytocin
cũng có tác dụng trên cơ tử cung, do đó nếu trẻ bú mẹ ngay lập tức sau đẻ,
oxytocin sẽ được sản xuất và tác dụng lên tế bào cơ tử cung giúp cho việc
cầm máu nhanh sau đẻ [26], [27].

Cho con bú đòi hỏi một sự tiêu hao năng lượng từ 200 đến
500Kcal/ngày, tương đương với đạp xe đạp trong vòng 1 giờ. Điều này giúp
bà mẹ giảm cân nhanh hơn sau sinh [24].
NCBSM làm chậm có thai và có kinh trở lại sau sinh. Lượng sắt mà bà
mẹ dùng để tạo sữa ít hơn so với lượng sắt mất đi do hành kinh. Điều này
cũng giúp hạn chế thiếu máu do thiếu sắt [24].
NCBSM có thể làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng và ung thư vú ở
phụ nữ tiền mãn kinh [24].
Mặc dù cơ thể bà mẹ cần nhiều calcium cho việc tạo sữa, nhưng người
ta nhận thấy rằng sau khi cai bú, mật độ xương trở về như trước khi có thai,
thậm chí còn cao hơn. Vài nghiên cứu gần đây cho thấy các bà mẹ không cho
con bú có nguy cơ gãy xương chậu sau mãn kinh cao hơn so với các bà mẹ
NCBSM [24].
1.3.1.3. Gắn bó tình cảm mẹ con
Cho con bú giúp tạo ra sự kết nối tình cảm giữa mẹ và bé. Chỉ người mẹ
mới có thể làm công việc cho con bú và đây thực sự là một mối liên kết thiêng
liêng mà không ai có thể chia sẻ được.
Rất tiện lợi và linh động, không cần phải chuẩn bị hay phải chờ đợi.
NCBSM giúp mẹ và con có nhiều thời gian gần gũi tự nhiên đó là yếu tố
tâm lý quan trọng giúp cho sự phát triển hài hoà của đứa trẻ cả về trí tuệ, nhân
cách và tình cảm, giúp cho bà mẹ giảm căng thẳng và đặc biệt giảm tỉ lệ bệnh
trầm cảm sau sinh [24].


9

1.3.1.4. Hiệu quả kinh tế của NCBSM
Nuôi con bằng sữa mẹ giúp mẹ tiết kiệm hơn nhiều so với việc cho bé
ăn bằng sữa công thức, vì chi phí thức ăn bổ sung cần thiết cho người mẹ
không đáng kể so với chi phí khi mua sữa công thức cho bé. Điều này giúp

mẹ tiết kiệm một khoản tiền để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống hằng ngày của
gia đình tốt hơn.
Sữa mẹ luôn có sẵn và ở nhiệt độ thích hợp, cho trẻ ăn ngay dù mùa
đông hay mùa hè. Cho con bú sữa mẹ sẽ thuận lợi vì không phụ thuộc vào giờ
giấc, không cần phải đun nấu, dụng cụ pha chế. Khi người mẹ ǎn uống đầy
đủ, tinh thần thoải mái thì sẽ đủ sữa cho con bú.
Như vậy, NCBSM gắn liền với sự ra đời và trường tồn của nhân loại.
Tạo hóa sinh ra con người và ban tặng nguồn sữa mẹ quý giá cho trẻ nhỏ. Sữa
mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất đảm bảo sự sống còn và phát triển tối ưu cho
trẻ nhỏ mà không có một loại thức ăn gì có thể thay thế được.
1.3.2. Tầm quan trọng của cho trẻ bú sớm trong vòng một giờ đầu sau sinh
Cho trẻ bú sớm sau sinh là biện pháp rất quan trọng vì trong giờ đầu
tiên của cuộc đời trẻ sơ sinh ở trạng thái tỉnh táo nhanh nhẹn nhất và dễ thực
hiện hành vi bú mẹ nhất. Khi thời điểm này qua đi, trẻ trở nên buồn ngủ hơn
vì bắt đầu hồi phục sau quá trình thở. Trong giờ đầu tiên đó, quan trọng là để
trẻ gần mẹ, tránh tách mẹ và con để trẻ có cơ hội được bú sớm. Không cho trẻ
bú mẹ trong vòng một giờ đầu sau sinh là một trong những dấu hiệu dự báo
mạnh mẽ nhất việc trẻ sẽ bị thôi bú sớm sau 2 tháng [28].
Theo kết quả nghiên cứu của nhiều nghiên cứu trên thế giới đã khẳng
định rằng cho trẻ bú sớm trong vòng vài giờ đầu sau sinh và bú mẹ hoàn toàn
trong vòng 6 tháng đầu có thể cứu sống được trên 1 triệu trẻ em hàng năm, là
một can thiệp có hiệu quả nhất trong tất cả các can thiệp cứu sống trẻ em [29].


10

Nuôi con bằng sữa mẹ sớm làm cho sữa mẹ xuống sớm, bởi vì động tác
mút vú của trẻ sẽ kích thích tuyến yên giải phóng prolactin, nó sẽ kích thích
các tế bào tuyến sữa sản xuất ra sữa. Như vậy trẻ càng bú nhiều thì càng có
nhiều prolactin và sữa sẽ được tiết ra nhiều. Như vậy cách đơn giản nhất, kinh

điển nhất và tự nhiên nhất để tăng lượng sữa của bà mẹ là cho con bú thường
xuyên nhiều lần. Một đứa trẻ đói thường bú nhiều hơn là những đứa trẻ đã no,
nếu cho trẻ ăn những thức ăn khác trước khi bú, nó có thể làm cản trở sự tiết
sữa (Lawrence, 1980, Cameron & Hofvander, 1983. Helsing & King, 1985),
[30], [31], [8]. Nghiên cứu cho thấy, sữa mẹ được bắt đầu tiết ra sớm hơn ở
những người mẹ cho con bú sớm, cho bú nhiều lần. Sữa mẹ được bắt đầu tiết
ra sớm một cách rõ ràng ở những bà mẹ bắt đầu cho con bú trong vòng một
giờ đầu sau khi đẻ hơn các bà mẹ chờ cho sữa xuống tự nhiên
1.4. Cách nuôi con bằng sữa mẹ
1.4.1. Cho trẻ bú sữa mẹ sớm
Thời gian bắt đầu cho trẻ bú theo khuyến cáo của WHO cũng như chiến
lược hợp tác của WHO và UNICEF về sự sống còn của trẻ đã khuyến nghị mẹ
nên cho con bú sữa mẹ trong vòng giờ đầu sau đẻ giúp trẻ tận dụng được sữa
non là loại sữa tốt, hoàn hảo về dinh dưỡng và các chất sinh học thích ứng với
cơ thể non nớt của trẻ , bú càng sớm càng tốt và không cần cho trẻ mới đẻ ăn
bất kỳ thức ăn gì trước khi bú mẹ lần đầu.
1.4.2. Số lần cho bú: Trẻ bú càng nhiều thì sữa mẹ càng được bài tiết nhiều.
Số lần cho bú tùy thuộc vào nhu cầu của trẻ, cho trẻ bú bất cứ khi nào trẻ
muốn, ít nhất 8 lần trong ngày, bú cả ngày và đêm [32]. Mỗi bữa bú cho trẻ bú
kiệt một bên rồi mới chuyển sang vú bên kia để trẻ nhận được sữa cuối giàu
chất béo [7].
1.4.3. Cho bú hoàn toàn đến 6 tháng tuổi: Nghiên cứu của Almroth & cs
(1990) cho thấy rằng những đứa trẻ khỏe mạnh mà được bú mẹ đầy đủ thì nó


11

hoàn toàn thỏa mãn nhu cầu về năng lượng, đủ các dịch lỏng thậm chí trong
những ngày nóng và khô. Do vậy, không cần cung cấp nước cho những đứa
trẻ bú mẹ hoàn toàn ở cả những nơi điều kiện nóng và khô cằn [33]. Khi trẻ bị

bệnh, ngay cả khi trẻ bị tiêu chảy vẫn tiếp tục cho bú. Khi trẻ bị đẻ non, yếu
ớt không mút được vú mẹ, hay trong trường hợp bị mắc một số bệnh không
bú được cần vắt sữa cho trẻ ăn bằng thìa [34].
1.4.4. Thời điểm cai sữa:
Thời gian cho trẻ bú kéo dài trung bình 18 – 24 tháng hoặc lâu hơn nếu
có thể [32] [34], không nên cai sữa cho trẻ trước 12 tháng, khi cai sữa nên cai
từ từ để dần dần thay thế sữa mẹ và quen dần với thức ăn thay thế. Không cai
sữa khi trẻ bị ốm, bị tiêu chảy vì thức ăn thay thế hoàn toàn sữa mẹ dễ làm
cho trẻ rối loạn tiêu hóa gây hậu quả trẻ bị SDD. Khi cai sữa chú ý chế độ ăn
của trẻ phải đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng của trẻ với cách chế
biến thích hợp [34].
1.4.5. Cách cho trẻ bú: Khi cho trẻ bú, người mẹ ở tư thế thoải mái, có thể
nằm hoặc ngồi cho bú, để toàn thân trẻ sát vào người mẹ, miệng trẻ ngậm sâu
vào quầng đen bao quanh núm vú để động tác mút được tốt hơn. Thời gian
cho bú tuỳ theo đứa trẻ. Cho trẻ bú đến khi trẻ no, tự rời vú mẹ. Sau khi bú
xong một bên, nếu trẻ chưa đủ no thì chuyển sang vú bên kia [7].
Trẻ cần bú hết cả sữa đầu và sữa cuối [32].
Đối với bà mẹ mổ đẻ, trong những ngày đầu hậu phẫu có thể cho tre bú
ở tư thế nằm. Bà mẹ nằm nghiêng một bên, có thể dùng nhiều gối lót sau lưng
cho đỡ mỏi. Nhờ một người phụ ẵm bé cho nằm hướng mặt và thân bé về phía
bà mẹ, trong lúc tay của bà mẹ giữ chặt lấy mông bé. Nên lót thêm một gối
dầy phía trước bụng để tránh bé quấy đạp vào vết mổ ổ bụng [24].


12

1.5. Tình hình NCBSM, NCBSM sớm trên Thế giới và Việt Nam
1.5.1. Tình hình NCBSM trên Thế giới
Trong những năm gần đây các số liệu từ nhiều cuộc điều tra cho thấy
xu hướng NCBSM có dấu hiệu hồi phục: 98% trẻ ở Châu Phi, 96% trẻ ở Châu

Á và 90% trẻ ở Nam Mĩ đã được nuôi bằng sữa mẹ. Ngay tại Việt Nam con số
này cũng xấp xỉ 90%[35].
Ở Đông Nam Á, sữa mẹ vẫn là cách nuôi chính của các bà mẹ nhưng
có sự khác biệt lớn giữa nông thôn và thành thị về khoảng thời gian trẻ được
bú mẹ. Ở Bangkok theo điều tra năm 1987, thời gian cho con bú trung bình là
4 tháng trong khi ở nông thôn là 14 tháng [35].
Tỉ lệ trẻ em được nuôi bằng sữa mẹ và thời gian kéo dài việc NCBSM
khác nhau tùy các nước ở trên thế giới. Ở nông thôn Malaysia, tỉ lệ NCBSM
giảm một cách nhanh chóng từ 80% (1950-1969) xuống 69% (1989-1990). Ở
Trung Quốc từ 63% xuống 22% và ở Ấn Độ từ 70 – 40%. Tại Bắc Kinh
(Trung Quốc) khoảng 80% trẻ được bú mẹ trong những năm 1950, nhưng tỉ lệ
này giảm còn 13,8% ở thành phố năm 1984 và sau đó tỉ lệ trẻ được bú mẹ duy
trì khoảng 13-14% trong những năm 1987-1990. Chua (1989) nghiên cứu ở
Singapor thấy tỉ lệ trẻ được bú mẹ là 85-90% ở những bà mẹ giàu và 90% ở
những bà mẹ nghèo trong những năm 1950-1960, sau đó giảm xuống còn
60% và 36% [36]. Thời gian cho con bú cũng giảm ở Philippin từ năm 1973
đặc biệt ở thành phố trong các nhóm có điều kiện kinh tế và trình độ văn hóa
cao (Williamson 1990) [37].
Theo MICS 2006 chỉ có 16,9% hay cứ 6 bà mẹ mới có 1 người nuôi
con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu đời; 58% số bà mẹ cho trẻ bú
ngay trong vòng 1 giờ sau khi sinh. Tỉ lệ trẻ tiếp tục được bú mẹ cho tới khi 2
tuổi theo khuyến cáo vẫn dừng ở mức 22,9% [38].
Ở Châu Phi tỉ lệ trẻ được bú mẹ đến 12 tháng dao động khoảng 55-85%


13

tùy từng vùng. Nhìn chung tỉ lệ cho con bú ở các vùng nông thôn và các bà
mẹ thuộc nhóm kinh tế thấp cao hơn vùng thành thị. Trong số 23 nước ở Châu
Phi cho ăn bổ sung thường bắt đầu sớm 2-4 tháng [35].

Ở Châu Âu đã có xu hướng tăng cường NCBSM tỷ lệ các bà mẹ
NCBSM ở các nước Bungari, Đức, Hungari, và Thụy Sỹ dao động quanh
90%, tỷ lệ ở các nước Tây Âu thấp hơn dao động từ 35-67% [35].
1.5.2. Tình hình NCBSM Việt Nam
Ở Việt Nam từ đầu những năm 1980 đã có những nghiên cứu về tập
quán và thực hành nuôi con được tiến hành bởi nhiều tác giả và trong nhiều
vùng trên cả nước. Bú mẹ được khuyến khích và chấp nhận rộng rãi ở Việt
Nam, ước tính có tới 98% trẻ nhỏ được bú mẹ. Tỉ lệ này khác nhau theo từng
vùng địa lý, dân tộc, trình độ văn hóa của bà mẹ, nơi đẻ nhưng không đáng
kể, nơi ít nhất cũng có 90% trẻ được bú mẹ [39].
Đào Ngọc Diễn và cộng sự năm 1983 đã nghiên cứu trên 500 trẻ dưới
5 tuổi tại vùng nông thôn và nội thành Hà Nội, kết quả cho thấy hầu hết trẻ
được bú mẹ sau 2-3 ngày. Tỉ lệ trẻ được bú mẹ trong vòng 24h chỉ đạt 15,8%
ở nội thành và 35,5% ở cả 2 nhóm đủ sữa và thiếu sữa mẹ. Từ 68% đến 97%
trẻ được ăn thêm trong vòng 4 tháng đầu. Thời gian cai sữa trung bình là 12
tháng, trong đó 13,4% trẻ được cai sữa trước 12 tháng [20].
Năm 1996 theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Đình Quang về thực
hành nuôi con của bà mẹ nội và ngoại thành Hà Nội thấy tỉ lệ trẻ được bú sớm
trong nửa giờ đầu sau sinh là 30%, tỉ lệ trẻ bú mẹ trong 6 tháng đầu là 40%,
thời gian cho con bú trung bình là 14 tháng, tỉ lệ trẻ 12 tháng được tiếp tục bú
mẹ là 60%, tỉ lệ trẻ được ăn bổ sung trong 4 tháng đầu là 60,1% [40].
Kết quả nghiên cứu tập tính nuôi con dưới 24 tháng tuổi của các bà mẹ
tại phường Láng Hạ - Đống Đa Hà Nội năm 2000 của Lê Thị Kim Chung cho
thấy tỷ lệ trẻ được bú mẹ sớm trong ½ giờ đầu mới chỉ được 40%, tỉ lệ trẻ
được bú mẹ trong 4 tháng đầu là 62,7% [41].


14

Theo điều tra dân số và sức khỏe 2002, hiện chỉ có 30,8% trẻ dưới 2

tháng tuổi được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ, 8% số trẻ ở tháng thứ 4-5 được
bú mẹ hoàn toàn.
Báo cáo “Tiến bộ cho trẻ em của UNICEF” mới đây cho biết: Năm
2005 ở nước ta chỉ có 12,4% bà mẹ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6
tháng đầu, ngay cả trong 4 tháng đầu cũng chỉ có khoảng 30% [42].
Nghiên cứu gần đây của Dương Thị Cương cà cộng sự năm 2008, Tỉ lệ bà
mẹ có kiến thức đúng NCBSM là 17,91%, không đúng là 82,09%; thái độ đúng
là 99,29%, không đúng là 0,71%; thực hành đúng là 26,43%, không đúng là
73,57%.[43], Tôn Thị Anh Tú và cộng sự năm 2011, chỉ có 48.04% bà mẹ có
kiến thức đúng về Bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu[44], Trần thị Phúc Nguyệt
và cộng sự năm 2012 về thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ vùng
ven biển có con dưới 24 tháng tuổi tại xã Hải Minh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam
Định cho thấy tỷ lệ trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn đến 6 tháng tuổi là 63,0%. có 60,5%
bà mẹ cho con bú sớm 1 giờ đầu sau sinh, 18% bà mẹ vắt bỏ sữa non, 41,7% bà
mẹ cho rằng sữa non không có chất dinh dưỡng [45].
1.5.3. Tình hình cho trẻ bú sớm 1 giờ đầu sau sinh
Mặc dù lợi ích của việc cho trẻ bú sớm trong 1 giờ đầu sau sinh đã
được chứng minh nhưng tỉ lệ trẻ được bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh
rất khác nhau ở các nước trên thế giới. Ví dụ Ở Châu Á, hơn 80% số trẻ sơ
sinh không được bú sữa mẹ trong vòng 24 giờ đầu sau đẻ [46]. Ở Phần Lan
77%, Na Uy 71%, Thụy Sỹ 67%, Ba Lan 65%, Anh 46%, Ấn Độ 16%,
Indonesia 8% [46].
Tại Việt Nam tỉ lệ cho bú sớm sau sinh khác nhau giữa các nghiên cứu,
giữa các vùng, miền, khu vực, dân tộc. Nghiên cứu trong những năm gần đây
của Trương Thị Hoàng Lan năm 2003 tỉ lệ cho bú sớm trong nửa giờ đầu sau
sinh là 28,7% [39]. Ở miền trung tỉ lệ cho bú sớm sau sinh chỉ có 39%, trong


15


khi đó ở miền Bắc là 68% [47]. Mai Đức Thắng năm 2005 là 46,8% [48] và
các nghiên cứu của Lê Thị Hương ở huyện Cẩm Thủy tỉnh Thanh Hóa tháng 6
năm 2007 là 70,0% [49], huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị tháng 11 năm 2007
là 88,0% [50], ở huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái tháng 10 năm 2008 là 66,0%
[51], ở Viện dinh dưỡng năm 2009 tỷ lệ trẻ bú sớm trong vòng 1h sau khi sinh
là 49,3%, trong đó có 34,3% trẻ được bú mẹ trong vòng nửa giờ đầu sau khi
sinh[2], tại Viện Nhi Đồng I thành phố Hồ Chí Minh tháng 4 năm 2010 là
42,29% [52], ở 2 bệnh viện Hà Nội năm 2011 chỉ có 38,1% trẻ được bú sữa
mẹ sớm trong 1 giờ đầu sau sinh[53], ở Phổ Yên, Thái Nguyên năm 2013 chỉ
có 44,4% bà mẹ cho con bú ngay trong vòng 1/2 giờ sau sinh và vẫn còn
15,2% bà mẹ cho con bú sau 24h[3]. Ở xã Khánh Hà, Thường Tín, Hà Nội
năm 2013 chỉ có 42,3% các bà mẹ cho con bú sớm trong vòng một giờ đầu
sau sinh[54], tại thị trấn Rạng Đông, Nghĩa Hưng, Nam Định năm 2014 có
quá 1 nửa số bà mẹ được điều tra nghiên cứu cho con bú sau 1 giờ đầu sau
sinh [55]. Tại Quảng Ngãi năm 2015, tỷ lệ bà mẹ cho con bú sớm là
33,2%[56], nhưng tại Lương Sơn, Hòa Bình năm 2016 thì tỷ lệ thực hành cho
con bú sớm của các bà mẹ lại tương đối cao chiếm 79,9%[57].
1.6. Những yếu tố ảnh hưởng tới việc NCBSM và cho trẻ bú sớm trong
vòng một giờ đầu sau sinh
1.6.1. Trình độ văn hóa của bà mẹ
Nhiều nghiên cứu được tiến hành về các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ
NCBSM. Ezzatk và cs (1989) đã nghiên cứu trên 2994 trẻ em dưới 3 tuổi ở
Kuwait thấy rằng trẻ được nuôi bằng sữa mẹ thông dụng ở những bà mẹ mù chữ
(72,4%) hơn những bà mẹ có trình độ văn hóa cao (56,9%). Ở Newdelli đã thấy
rằng tỉ lệ NCBSM ở các bà mẹ mù chữ và các bà mẹ có điều kiện kinh tế thấp
cao hơn, trẻ ở những gia đình nghèo nhất thì được bú mẹ sớm sau khi đẻ hơn trẻ
của những gia đình giàu nhất (Kuman & cs, 1989) [27]. Về thời gian kéo dài thời


16


gian cho con bú cũng vậy 9,9 tháng ở các bà mẹ mù chữ và 4,2 tháng ở những bà
mẹ có trình độ đại học. Các bà mẹ có trình độ càng cao thì thời gian cho con bú
càng ngắn, và thời gian cho ăn bổ sung càng sớm [58].
Theo các nghiên cứu ở Banglades hầu hết các bà mẹ cho rằng sữa non
không phải là sữa thật sự, chỉ có 2 trong 43 bà mẹ là nói nó có chất dinh
dưỡng, không một bà mẹ nào biết về tác dụng chống nhiễm trùng của nó. Bởi
vì màu vàng đặc sánh, cho nên sữa non luôn được coi là sữa không tốt, bẩn và
có thể gây nên cho trẻ bị ỉa chảy, nên họ chỉ cho trẻ bắt đầu bú vào ngày thứ 2
hoặc thứ 3 (Dixon,1992., Najma, 1993) [59], [60].
Ngược lại, Sjo”lin và cs (1995) nghiên cứu trên 200 bà mẹ ở Nigeria
thấy rằng các bà mẹ sống trong điều kiện tốt và có trình độ cao thì thời gian
cho con bú kéo dài hơn [61]. Một nghiên cứu tại Việt Nam tiến hành bởi
Swenson và cộng sự (1993) cho thấy rằng thời gian cho con bú ở các bà mẹ
trình độ văn hóa cao và trong các bà mẹ sống ở các tỉnh khác nhau có khác
nhau nhưng không có sự khác nhau có ý nghĩa về thời gian cho con bú kéo
dài [62].
Cũng như vậy tại Việt nam đầu những năm 80 khi mới triển khai
chương trình NCBSM và cho trẻ bú sớm thì tỉ lệ số trẻ được bú mẹ trong
vòng một giờ đầu sau sinh là rất thấp, tỉ lệ bà mẹ hiểu biết về sữa non, tác
dụng của sữa non cũng rất ít. Ngược lại hiện nay khi những chương trình
truyền thông về sữa non, những khuyến cáo nên cho trẻ bú sớm sau sinh đã
nâng cao tầm hiểu biết của bà mẹ và tỉ lệ cho trẻ bú sớm sau sinh đã tăng lên
rõ rệt. Như vậy, kiến thức và thái độ của bà mẹ đóng một vai trò rất quan
trọng trong tình trạng dinh dưỡng và sự phát triển của trẻ em qua việc cho ăn,
việc chăm sóc trẻ.
1.6.2. Ảnh hưởng của tình trạng kinh tế, trình độ văn hóa xã hội tới việc
nuôi con.



×