Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

NGHIÊN cứu đặc điểm HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG từ ở BỆNH NHÂN còn ĐAU LƯNG SAU bơm XI MĂNG tạo HÌNH đốt SỐNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.87 MB, 82 trang )

B GIO DC V O TO

B Y T

TRNG I HC Y H NI

NGUYN HNG NHUNG

NGHIÊN CứU ĐặC ĐIểM HìNH ảNH CộNG
HƯởNG Từ
ở BệNH NHÂN CòN ĐAU LƯNG SAU BƠM XI
MĂNG
TạO HìNH ĐốT SốNG

LUN VN THC S Y HC


H NI 2018
B GIO DC V O TO

B Y T

TRNG I HC Y H NI

NGUYN HNG NHUNG

NGHIÊN CứU ĐặC ĐIểM HìNH ảNH CộNG
HƯởNG Từ
ở BệNH NHÂN CòN ĐAU LƯNG SAU BƠM XI
MĂNG
TạO HìNH ĐốT SốNG


Chuyờn ngnh: Chn oỏn hỡnh nh
Mó s: 60720166

LUN VN THC S Y HC
NGI HNG DN KHOA HC:
TS. PHM HNG C


HÀ NỘI –2018
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp, tôi đã nhận
được sự quan tâm giúp đỡ của các thầy cô, các phòng ban, các anh chị các
bạn đồng nghiệp và gia đình.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới:
- Ban Giám hiệu, phòng Đào tạo sau đại học – Trường Đại học Y Hà Nội
- GS.TS. Phạm Minh Thông – chủ nhiệm bộ môn cùng toàn thể các thầy
trong Bộ môn Chẩn đoán hình ảnh – Trường Đại học Y Hà Nội đã chỉ
bảo, truyền đạt cho tôi những kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn quý
báu.
- Khoa Chẩn đoán hình ảnh Bệnh viện đa khoa Xanh Pôn đã giúp đỡ tôi
trong quá trình thực hành tại khoa.
- Lãnh đạo bệnh viện, phòng Nhân sự, Đơn vị Chẩn đoán hình ảnh Bệnh
viện đa khoa quốc tế Thu Cúc đã tạo điều kiện cho tôi được tham gia
khóa học này.
Tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc của mình tới
TS. Phạm Hồng Đức – Trưởng khoa Chẩn đoán hình ảnh Bệnh viện đa khoa
Xanh Pôn, giáo vụ Bộ môn Chẩn đoán hình ảnh Trường Đại học Y Hà Nội.
Thầy là người hướng dẫn, chỉ dạy tận tình tôi về chuyên môn trong quá trình
học tập cũng như trong quá trình hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các bác sỹ, kỹ thuật viên, điều dưỡng,

nhân viên trong Khoa Chẩn đoán hình ảnh và Trung tâm Tiêu hóa và Kỹ
thuật cao – Bệnh viện đa khoa Xanh Pôn. Các anh chị đã truyền đạt những


kinh nghiệm nghề nghiệp quý báu, giúp đỡ và chia sẻ với tôi trong quá trình
học tập và hoàn thành luận văn tại khoa.
Tôi xin cảm ơn các thầy trong Hội đồng khoa học chấm đề cương, các
thầy trong Hội đồng khoa học chấm luận văn tốt nghiệp đã dành thời gian
quý báu để góp ý, chỉ bảo để tôi sửa chữa những thiếu sót trong luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các học viên cao học, nội trú, chuyên khoa đã
giúp đỡ, chia sẻ với tôi những khó khăn trong quá trình học tập và buồn vui
trong cuộc sống.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới những người bệnh đã tham
gia vào nghiên cứu này. Những đóng góp của họ là tài liệu quý giá để tôi
hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm tạ và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
gia đình tôi, đã luôn bên cạnh, giúp đỡ, khích lệ và động viên tôi trong cuộc
sống và sự nghiệp.
Hà Nội, ngày 31 tháng 8 năm 2018

Nguyễn Hồng Nhung


LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Nguyễn Hồng Nhung, học viên Cao học, khóa 41, Chuyên ngành
Chẩn đoán hình ảnh, Trường Đại học Y Hà Nội xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn
của TS. Phạm Hồng Đức.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã

được công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,
trung thực và khách quan, đã được sự xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Hồng Nhung


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BN

:

Bệnh nhân

CĐHA
CHT
CLVT
CT
LS
THĐSQD
XQ

:
:
:

:
:
:
:

Chẩn đoán hình ảnh
Cộng hưởng từ
Cắt lớp vi tính
Can thiệp
Lâm sàng
Tạo hình đốt sống qua da
X quang


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC BIỂU ĐỒ


DANH MỤC HÌNH ẢNH


10

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tạo hình đốt sống qua da (THĐSQD) là kỹ thuật can thiệp được tiến
hành lần đầu năm 1984 bởi Galibert và Deramond tại Bệnh viện đại học Amiens,

Pháp để giảm đau cột sống cổ cho một bệnh nhân. Phương pháp này được thực
hiện bằng cách bơm vào thân đốt sống xi măng polymethylmethacrylate bởi
một cây kim được đặt qua da [1]. Hiện nay tạo hình đốt sống qua da đã được
tiến hành ở nhiều quốc gia trên thế giới nhằm giảm đau và làm bền vững thân
đốt sống chủ yếu cho bệnh nhân gãy xương cột sống do loãng xương [2].
Phương pháp này có nhiều ưu điểm được khẳng định qua nhiều nghiên cứu
trên thế giới: can thiệp tối thiểu, nhanh chóng, an toàn và hiệu quả [2],[3].
Tuy vậy, tạo hình đốt sống qua da bằng bơm xi măng vẫn còn một số hạn
chế như biến chứng rò xi măng vào mạch máu, thần kinh hay đĩa đệm [4], đặc
biệt trên bệnh nhân loãng xương có thể gặp biến chứng gãy lún các đốt sống
lân cận sau can thiệp gây đau tái phát [5],[6]. Đau lưng tái phát sau tạo hình
đốt sống qua da không phải là hiếm và có thể làm giảm đáng kể chất lượng
cuộc sống của bệnh nhân. Theo một số nghiên cứu của các tác giả Barr
(2000), Diamond (2003), Tanigawa (2006), Layton (2007), tỷ lệ đau sau tạo
hình đốt sống bằng xi măng dao động từ 5% đến 26% [7],[8],[9],[10]. Nguyên
nhân của hiện tượng đau tái phát này còn chưa được nghiên cứu kỹ do còn ít
thông tin về các trường hợp can thiệp không thành công.
Tại Việt Nam, từ năm 1999, THĐSQD lần lượt được áp dụng ở các bệnh
viện lớn để điều trị cho các bệnh nhân xẹp đốt sống [11]. Kết quả bước đầu khá
khả quan đã được khẳng định qua một số các nghiên cứu về hiệu quả của
phương pháp [12]. Mặc dù vậy, vẫn còn một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân sau tạo hình
đốt sống vẫn đau hoặc còn đau lưng [13]. Cộng hưởng từ cột sống là phương


11

pháp chẩn đoán có giá trị cao trong xác định các nguyên nhân gây đau lưng cấp
như phát hiện gãy cột sống mới, thoát vị đĩa đệm, chèn ép thần kinh [14]. Để
hiểu rõ hơn về vấn đề đau tái phát sau tạo hình đốt sống và xác định nguyên
nhân đau lưng có liên quan tới tạo hình đốt sống hay không, chúng tôi thực

hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ ở bệnh nhân
còn đau lưng sau bơm xi măng tạo hình đốt sống” với hai mục tiêu sau:
1. Mô tả đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ cột sống của bệnh nhân
trước thủ thuật bơm xi măng tạo hình đốt sống.
2. Mô tả đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ cột sống ở trường hợp
đau tái phát sau bơm xi măng tạo hình đốt sống.

CHƯƠNG 1


12

TỔNG QUAN
1.1. Giải phẫu cột sống và ứng dụng
Cột sống chạy dài từ dưới xương chẩm đến hết xương cụt. Cột sống gồm
khoảng 33 đốt sống xếp chồng lên nhau được chia làm 5 đoạn: 7 đốt sống cổ,
12 đốt sống lưng, 5 đốt sống thắt lưng, 5 đốt sống cùng hợp lại với nhau tạo
thành xương cùng và 3 đến 4 đốt cuối cùng rất nhỏ đính với nhau thành
xương cụt [15].
1.1.1. Cấu tạo chung đốt sống
Đốt sống ngực và thắt lưng có đặc điểm khá giống nhau, mỗi đốt sống có
cấu tạo chung gồm:
- Thân đốt sống
- Cung đốt sống: cuống sống và mảnh sống
- Mỏm sống: 2 mỏm ngang, 4 mỏm khớp và 1 mỏm gai
- Lỗ đốt sống

Hình 1.1. Cấu tạo thân đốt sống [16]
Trong kĩ thuật tạo hình đốt sống qua da, thường lựa chọn hướng chọc



13

Troca là hướng đi theo các cuống sống, đôi khi có thể sử dụng hướng bên.

Hình 1.2. Các hướng chọc troca theo cuống sống [1]
1.1.2. Đĩa đệm gian đốt
Giữa các thân đốt sống (trừ giữa đốt sống cổ C1 và C2) có các đĩa đệm,
là cấu trúc nâng đỡ cho cột sống.
Đĩa đệm có hình thấu kính lồi hai mặt, gồm nhân nhày, vòng sợi và mâm
sụn. Nhân nhày nằm ở khoảng nối 1/3 giữa và 1/3 sau của đĩa đệm, lúc sinh
80% nhân nhày là nước tuy nhiên tuổi càng cao thì lượng nước càng giảm,
dẫn tới giảm tính đàn hồi của nhân nhày.
1.1.3. Các dây chằng cột sống
Gồm dây chằng dọc trước, dây chằng dọc sau, dây chằng vàng, dây
chằng liên gai và trên gai, dây chằng bao khớp.


14

Dây chằng dọc trước: phủ mặt trước thân đốt sống và phần trước của
vòng sợi.
Dây chằng dọc sau: phủ phần sau của vòng sợi đĩa đệm, không phủ kín
mà để hở phần sau – bên của vòng sợi.
Dây chằng vàng: phủ phần sau của ông sống, góp phần che chở ống sống
và các rễ thần kinh. Phì đại dây chằng vàng cũng là một trong các nguyên
nhân gây đau kiểu rễ vùng thắt lưng – cùng.
1.1.4. Cấu tạo ống sống
Lỗ đốt sống nằm giữa các thân đốt sống ở phía trước, cuống và các cung
đốt sống ở phía sau. Các lỗ đốt sống khi chồng lên nhau tạo nên ống sống.

Đường kính trước sau ống sống trung bình khoảng 15 – 18mm, bình
thường đường kính trước sau ống sống giảm dần từ trên xuống 1 – 2mm.
Trong ống sống có tủy sống, tủy sống dừng ở ngang mức đốt sống thắt
lưng L2. Các rễ thần kinh L2 – L5, S1 – S5 và đôi dây thần kinh cụt (C01)
tạo thành đuôi ngựa tiếp tục chạy xuống dưới rồi đi ra qua các lỗ tiếp hợp
tương ứng.
1.1.5. Mạch máu của cột sống
Đốt sống, khoang ngoài màng cứng và các rễ thần kinh được cấp máu từ
các nhánh động mạch tách ra từ động mạch chủ và chạy dọc theo bờ ngoài
của thân đốt sống. Các nhánh mạch này nối với nhau và tạo thành vòng nối
quanh thân đốt sống và giữa các đốt sống với nhau.


15

Hình 1.3. Hệ động mạch và tĩnh mạch đốt sống [1]
Hệ thống tĩnh mạch đốt sống được tạo nên từ ba hệ thống tĩnh mạch
không có van, bao gồm các tĩnh mạch trong thân đốt sống, tĩnh mạch khoang
ngoài màng cứng và tĩnh mạch cạnh sống. Sự thông thương giữa các hệ thống
tĩnh mạch này sẽ có thể tạo ra tình trạng rò xi măng ra trước, ra sau hoặc cạnh
thân đốt sống.
1.2. Xẹp đốt sống
1.2.1. Khái niệm và dịch tễ xẹp đốt sống
Xẹp đốt sống được xác định là sự biến dạng và giảm chiều cao của đốt
sống trên phim X quang. Các nghiên cứu dựa trên định nghĩa này cho thấy có
18 – 26% phụ nữ da trắng mãn kinh bị xẹp đốt sống, tỷ lệ này ở đàn ông và
phụ nữ châu Âu nói chung là 12% [17],[18].
Nguy cơ xẹp đốt sống cũng tăng lên theo tuổi. Tỷ lệ này ở nam và nữ 50
tuổi lần lượt là 10% và 5%, tăng lên 15 – 20% và 20 – 25% ở lứa tuổi 80 [18].



16

1.2.2. Nguyên nhân xẹp đốt sống
Có nhiều nguyên nhân gây xẹp đốt sống. Loãng xương là nguyên nhân
gây xẹp đốt sống phổ biến nhất ở người cao tuổi, đặc biệt là nữ giới sau mãn
kinh do thay đổi hormone [19]. Loãng xương là tình trạng hủy xương diễn ra
nhanh hơn so với tái tạo xương làm giảm mật độ xương. Loãng xương tác
động lên tất cả các xương trên cơ thể nhưng các xương thường bị gãy nhất là
cổ xương đùi, cột sống và cổ tay [17].
Chấn thương cột sống, nhiễm trùng, bệnh lý ác tính cũng là các nguyên
nhân gây xẹp đốt sống [20],[21]. Di căn cột sống thường từ vú, phổi, tiền liệt
tuyến, vị trí hay gặp nhất là cột sống thắt lưng rồi đến cột sống ngực và cột
sống cổ. Phần lớn di căn thuộc loại tiêu xương dẫn tới xẹp đốt sống [22].
1.2.3. Hậu quả xẹp đốt sống
Xẹp đốt sống gây ra đau lưng, gù vẹo, giảm chiều cao, hạn chế vận động
và giảm chất lượng cuộc sống [23].
Xẹp đốt sống cũ cũng làm tăng nguy cơ xẹp đốt sống khác thêm 20%
trong năm kế tiếp [24]. Theo nghiên cứu của Kado (1999) tại Mỹ cho thấy
tỷ lệ tử vong tỷ lệ thuận với số lượng đốt sống xẹp, mặc dù có thể tỷ lệ tử
vong còn liên quan với các tình trạng khác trên bệnh nhân loãng xương
[25],[26]. Do vậy việc chẩn đoán và điều trị can thiệp sớm xẹp đốt sống sẽ
góp phần giảm nguy cơ xẹp thêm đốt sống mới và giải quyết vấn đề đau
lưng cho bệnh nhân.
1.3. Các phương pháp CĐHA đánh giá tổn thương cột sống
1.3.1. X quang thường quy
Phim X quang thường quy cột sống ở hai tư thế thẳng và nghiêng cho
phép đánh giá: đặc điểm biến dạng của cột sống, mức độ xẹp đốt sống, tổn



17

thương ở thân đốt và các thành phần của cung sau, qua đó phần nào xác định
sơ bộ nguyên nhân gây xẹp đốt sống. Xẹp đốt sống do loãng xương thường
xẹp hình chêm, xẹp đốt sống do u thường xẹp toàn bộ thân đốt.

Hình 1.4. Xẹp đốt sống trên X quang cột sống nghiêng
Mũi tên chỉ vào vị trí xẹp ở 1/3 trước (A),
1/3 giữa (B) hay 1/3 sau (C) của đốt sống [27].
Dựa vào sự thay đổi chiều cao thân đốt sống trên hình ảnh, Genant phân
loại xẹp đốt sống làm 4 độ [28]:
Độ 0: đốt sống có chiều cao bình thường
Độ 1: giảm chiều cao đốt sống 20 – 25% so với đốt sống liền kề
Độ 2: giảm chiều cao đốt sống 25 – 40% so với đốt sống liền kề
Độ 3: giảm chiều cao đốt sống > 40% so với đốt sống liền kề


18

Hình 1.5. Các dạng và mức độ xẹp đốt sống theo Genant [29]
1.3.2. Cắt lớp vi tính (CLVT)
CLVT có độ nhạy cao hơn X quang thường quy, có tác dụng khẳng định
những tổn thương phát hiện được trên phim X quang, phát hiện những tổn
thương nhỏ mà X quang thường quy không phát hiện được.
CLVT là phương pháp tốt nhất để đánh giá các tổn thương xương ở thân
đốt và ở cung sau, cho phép đánh giá tình trạng tường sau thân đốt (mức độ
phồng, vỡ, phá huỷ) và tình trạng tổn thương của cuống sống [30].


19


A

B

C

Hình 1.6. Xẹp đốt sống trên CLVT
Mũi tên gián đoạn chỉ đường vỡ trên hình cắt đứng dọc (A), cắt đứng ngang
(B) và cắt ngang (C). Mũi tên liên tục chỉ chồng hình của các thớ xương tại vị
trí đường vỡ [27].
Trên phim CLVT có tiêm thuốc cản quang cho phép đánh giá sự lan tràn của
tổn thương ra phần mềm xung quanh đốt sống, mức độ xâm lấn vào ống sống.
1.3.3. Cộng hưởng từ
Chụp CHT là một phương pháp thăm khám rất có giá trị nhằm đánh giá
các giai đoạn xẹp đốt sống do loãng xương (giai đoạn cấp tính, bán cấp và
mạn tính). Việc đánh giá này dựa vào sự thay đổi về tín hiệu của tủy xương
trên các chuỗi xung [31].
Tổn thương xẹp đốt sống giai đoạn cấp hay bán cấp là giai đoạn có phù
tủy xương: giảm tín hiệu trên chuỗi xung T1, tăng tín hiệu trên chuỗi xung T2
và STIR, có thể thấy đường vỡ xương là dải giảm tín hiệu trên các chuỗi xung
nằm trong vùng phù tủy xương [32].


20

B

A


Hình 1.7. Hình ảnh xẹp đốt sống mới trên CHT
Xẹp đốt sống mới trên xung T1 cắt dọc (A) và xung T2 xóa mỡ (B) có phù tủy
xương dạng dải (mũi tên) [27].
Tổn thương xẹp đốt sống giai đoạn muộn thường đồng tín hiệu với tủy
xương bình thường trên các chuỗi xung. Một số trường hợp xơ hóa nhiều sau
xẹp đốt sống trên CHT thường giảm tín hiệu hơn so với các tủy xương bình
thường khác.
Việc tìm kiếm dấu hiệu phù tủy xương trên CHT giúp ích rất nhiều cho
việc lựa chọn bệnh nhân ban đầu trước khi điều trị THĐSQD, từ đó làm tăng
tỷ lệ thành công của phương pháp này.
Ngoài ra, chụp CHT cột sống còn là phương pháp để đánh giá sự xâm
lấn, chèn ép tuỷ sống cũng như tổ chức phần mềm xung quanh cột sống. Cho
phép phát hiện sớm các tổn thương di căn cột sống trước khi có biểu hiện trên
hình ảnh CLVT.


21

1.4. Phương pháp điều trị xẹp đốt sống
1.4.1. Điều trị không phẫu thuật
Điều trị nội khoa là một trong những phương pháp đầu tay đối với xẹp
đốt sống. Điều trị nội bao gồm nghỉ ngơi, đeo đai cố định cột sống, dùng
thuốc giảm đau [33]. Sau khi bệnh nhân đỡ đau sẽ được tập vận động sớm.
Điều trị nội khoa thường được phối hợp với các phương pháp khác để
tăng hiệu quả điều trị.
Với bệnh nhân xẹp đốt sống bệnh lý, có thể được chỉ định liều xạ trị. Xạ
trị có tác dụng giảm đau trong khoảng 50% bệnh nhân xẹp đốt sống do đa u
tủy xương, ung thư tiền liệt tuyến và ung thư vú [34].
1.4.2. Phẫu thuật
Trường hợp xẹp đốt sống do loãng xương thường không có chỉ định

phẫu thuật. Phẫu thuật thường được đưa ra với tổn thương thần kinh tiến triển,
đau nhiều không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác và biến dạng đốt
sống nặng [35].
Phẫu thuật xẹp đốt sống do loãng xương là một trong những phẫu thuật
khó khăn. Tình trạng bệnh nhân ảnh hưởng nhiều tới kết quả hậu phẫu.
Đường tiếp cận cột sống có thể là phía trước, phía sau hoặc kết hợp cả hai để
mang lại hiệu quả điều trị tốt nhất.
1.4.3. Tạo hình đốt sống qua da
Tạo hình đốt sống qua da (Percutaneous vertebroplasty) lần đầu được
thực hiện ở Pháp vào cuối những năm 80 của thế kỷ XX. Đây là phương
pháp phổ biến nhất để điều trị xẹp đốt sống do loãng xương hiện nay.
Thủ thuật được tiến hành bằng việc bơm xi măng sinh học vào thân đốt
sống xẹp bằng kim 10 hoặc 11 Gauge qua cuống hoặc đường sau bên đốt


22

sống dưới màn tăng sáng (X quang, DSA) [36], [37]. Xi măng sinh học có
tác dụng làm vững chắc cột sống, giảm đau và làm chậm sự phát triển của
khối u [38],[39]. Với phương pháp này, bệnh nhân không phải nằm điều trị
lâu ngày mà thường ngoại trú và chỉ cần theo dõi trong bệnh viện một ngày
sau thủ thuật.

Hình 1.8. Phương pháp tạo hình đốt sống qua da [40]
Tai biến thường gặp của thủ thuật này là rò xi măng, tuy nhiên xi măng
thường rò ra phần mềm cạnh sống nhất và không ảnh hưởng nhiều đến kết
quả của phương pháp [41]. Ngoài ra, xi măng cũng thường rò vào khoang đĩa
đệm làm tăng nguy cơ xẹp đốt sống lân cận [42]. Xi măng có thể rò vào
khoang ngoài màng cứng gây chèn ép tuỷ, để tránh biến chứng này phải kiểm
soát chặt chẽ sự di chuyển của xi măng trong quá trình bơm, khi xi măng tiếp

cận tường sau đốt sống thì phải dừng lại ngay. Xi măng có thể rò vào lỗ gian
đốt gây chèn ép rễ thần kinh: thông thường dấu hiệu chèn ép tự biến mất sau
vài ngày, có thể giảm đau bằng thuốc giảm đau, trong trường hợp chèn ép
nặng, kéo dài cần phải phẫu thuật lấy bỏ. Trong nghiên cứu trên 616 bệnh
nhân tạo hình đốt sống qua da của Saracen và Kotwica, chỉ 0,8% (9 bệnh


23

nhân) có rò rỉ xi măng vào ống sống. Trong đó 1 bệnh nhân đa u tủy xương
cần phẫu thuật để loại bỏ phần xi măng gây chèn ép, các bệnh nhân khác giảm
đau sau khoảng 1 tháng có hoặc không điều trị với thuốc giảm đau [43]. Một
tai biến rất hiếm gặp nhưng có thể gây tử vong là rò xi măng vào hệ thống
tĩnh mạch về phổi gây tắc mạch phổi [44].
Ngoài tạo hình đốt sống bằng cách bơm xi măng trực tiếp vào đốt sống,
hiện nay kỹ thuật bơm xi măng có bóng (Kyphoplasty) cũng bắt đầu được áp
dụng rộng rãi [21]. Kỹ thuật của phương pháp tạo hình đốt sống bằng bóng
tương tự như tạo hình đốt sống qua da, nhưng thay vì bơm xi măng đơn thuần
thì người ta đưa bóng vào thân đốt sống xẹp. Hiệu quả giảm đau của tạo hình
đốt sống bằng bóng tương tự như tạo hình đốt sống qua da [45]. Ưu điểm của
phương pháp này so với tạo hình đốt sống qua da là khả năng hồi phục chiều
cao đốt sống và khả năng giảm tai biến rò xi măng. Tai biến của phương pháp
này chỉ chiếm tỷ lệ 0,7%, bao gồm thiếu oxy, tụ máu ngoài màng cứng, liệt hai
chi dưới và hội chứng tủy trước [35]. Tuy nhiên cần lưu ý khi lựa chọn phương
pháp điều trị là tạo hình đốt sống bằng bóng có giá thành đắt hơn nhiều so với
tạo hình đốt sống qua da [46].
1.5. Các nguyên nhân gây đau tái phát sau tạo hình đốt sống
Xẹp đốt sống lân cận: việc bơm xi măng làm đốt sống đó vững chắc hơn
nhưng các đốt sống lân cận quá yếu, đặc biệt trên bệnh nhân loãng xương làm
tăng nguy cơ bị lún xẹp [47]. Trên CHT thấy đốt sống lân cận với đốt đã được

tạo hình bị phù tủy, có thể có xẹp hoặc không.
Rò xi măng gây chèn ép tủy và rễ thần kinh: mặc dù hầu hết rò xi
măng không gây triệu chứng lâm sàng, rò xi măng có thể gây đau cấp trong
trường hợp chèn ép rễ thần kinh hoặc tủy sống. Triệu chứng phụ thuộc vào
mức độ rò. Chèn ép rễ có thể là thoáng qua và đáp ứng với thuốc giảm đau


24

chống viêm không steroid hoặc đau kéo dài cần phẫu thuật để lấy phần xi
măng rò [48].
Xương không lành do xi măng không kết dính: đau tái phát hoặc đau ngay
sau thủ thuật kèm hạn chế vận động, đau khi di chuyển một đoạn ngắn. Trên
CHT cho thấy sự có mặt của dịch tại đốt sống được can thiệp, dịch chỉ giới hạn
trong đốt sống mà không lan ra xung quanh. Sự có mặt của dịch có thể là biểu
hiện của xương gãy chưa được hàn gắn, bao gồm gãy thì hai do xi măng bị
thoát ra, hóa lỏng và không kết dính. Bệnh nhân có thể phải tiến hành thủ thuật
lại hoặc phẫu thuật nếu điều trị giảm đau không đỡ. Để phòng xi măng hóa
lỏng sớm bệnh nhân nên nằm bất động khoảng 2 – 3 ngày sau thủ thuật [49].
Nhiễm trùng: viêm cột sống là biến chứng hiếm của THĐSQD [50]. Yếu
tố nguy cơ của biến chứng này là tình trạng suy giảm miễn dịch và nhiễm
trùng toàn thân. Bệnh nhân đau cột sống kèm sốt, tăng bạch cầu và CRP. X
quang thường quy thường không có dấu hiệu gì, hoặc có tổn thương hủy
xương ở bề mặt đốt sống. Phim CHT cho biết nhiều thông tin: áp xe quanh xi
măng và vùng cạnh sống trên chuỗi xung STIR, phù phần tủy còn lại của đốt
sống được tạo hình và đốt sống lân cận [49].
Đau tự phát không rõ nguyên nhân: đau tự phát sau bơm xi măng không
rõ nguyên nhân được báo cáo trong y văn nhưng rất hiếm [49]. Đau ngay sau
thủ thuật và không tìm thấy nguyên nhân cơ học gây đau trên phim CLVT,
trên chuỗi xung STIR và T2 cũng không thấy thay đổi tín hiệu đáng kể so với

phim CHT tiền phẫu. Một số giả thuyết cho rằng thiếu máu cục bộ hoặc tăng
áp lực đột ngột trong khoang gian đốt, hoặc nhiệt tạo ra bởi xi măng tác động
đến tủy và rễ gây phản ứng viêm là nguyên nhân của triệu chứng này [51],
[52].


25

1.6. Một số nghiên cứu về THĐSQD trên thế giới và ở Việt Nam
1.6.1. Trên thế giới
Trong nhiều thập kỷ trước xi măng hóa học đã được dùng để cố định
chỏm xương đùi nhân tạo và thân xương. Kĩ thuật bơm xi măng vào thân đốt
sống qua da được thực hiện lần đầu vào năm 1984 bởi Hervé Deramond và
Pierre Galibert tại bệnh viện trường đại học Amiens, pháp trên một bệnh nhân
bị u máu thân đốt C2 [1].
Năm 2000, Grados và cộng sự nghiên cứu kết quả của THĐSQD trên
25 bệnh nhân với 34 đốt sống được can thiệp cho thấy hiệu quả của phương
pháp này đối với giảm đau do xẹp đốt sống, không có biến chứng nghiêm
trọng nào, tuy nhiên các bệnh nhân sau can thiệp có thể có nguy cơ gãy các
đốt sống lân cận [53].
Nghiên cứu của Kaufmann và cộng sự trên 75 bệnh nhân năm 2001 cho
biết tuổi của đốt sống bị tổn thương không ảnh hưởng đến đau hay hạn chế
vận động sau tạo hình đốt sống qua da. Tuy nhiên đốt sống bị tổn thương lâu
thì cần nhiều thuốc giảm đau sau can thiệp hơn [54].
Theo Lin (2004), 14/38 trường hợp đau tái phát trong vòng 1 năm sau
tạo hình đốt sống là do xẹp đốt sống khác, 10/14 trường hợp xẹp đốt lân cận
với đốt đã can thiệp [55].
Năm 2013, Zhang và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu meta tìm hiểu
nguy cơ gãy mới sau THĐSQD ở 559 trường hợp gãy do loãng xương.
Nghiên cứu chỉ ra một trong các nguy cơ của gãy đốt sống lân cận sau can

thiệp là rò xi măng vào đĩa đệm [56].
Nghiên cứu của Xing và cộng sự năm 2015 trên 1863 bệnh nhân được
THĐSQD hoặc tạo hình đốt sống bằng bóng tại Bắc Kinh, có 283 trường hợp
(15,2%) còn đau sau can thiệp. Có nhiều nguyên nhân gây đau sau can thiệp,


×