Tải bản đầy đủ (.docx) (110 trang)

ĐÁNH GIÁ kết QUẢ PHẪU THUẬT MILLIGAN MORGAN điều TRỊ BỆNH TRĨ tại BỆNH VIỆN đa KHOA TỈNH THÁI BÌNH (2016 – 2018)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.83 MB, 110 trang )

1

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH

NGUYỄN VĂN CHUNG

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT
MILLIGAN-MORGAN ĐIỀU TRỊ BỆNH TRĨ
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH
THÁI BÌNH (2016 – 2018)

LUẬN VĂN BÁC SỸ NỘI TRÚ

Thái Bình - 2018
1


2

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH

NGUYỄN VĂN CHUNG

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT
MILLIGAN-MORGAN ĐIỀU TRỊ BỆNH TRĨ
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH
THÁI BÌNH (2016 – 2018)
Chuyên ngành : Ngoại khoa
Mã số



: NT 62.72.07.50

LUẬN VĂN BÁC SỸ NỘI TRÚ

Người hướng dẫn khoa học:
1.PGS.TS: Nguyễn Xuân Hùng
2.TS: Lương Công Chánh

Thái Bình - 2018
2


3

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin trân trọng cảm ơn:
Đảng ủy, Ban Giám hiệu, phòng quản lý đào tạo Sau đại học, bộ môn
Ngoại trường Đại học Y Dược Thái Bình.
Đảng uỷ, Ban giám đốc, các khoa phòng Bệnh viện đa khoa Tỉnh Thái
Bình, Bệnh viện trường Đại học Y Thái Bình đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn tới
PGS.TS. Nguyễn Xuân Hùng; TS. Lương Công Chánh, những người thầy
luôn tận tình dìu dắt và dành nhiều thời gian hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biêt ơn tới các thầy trong hội đồng chấm luận văn đã chỉ
bảo, đóng góp cho tôi những ý kiến quý báu để hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới tập thể cán bộ y, Bác sỹ của khoa Ngoại I
Bệnh viện ĐK tỉnh Thái Bình, khoa Ngoại Bệnh Viện Đại học Y Thái Bình đã

tạo mọi điều kiện, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới các anh, các bạn và các em trong tập thể
bác sĩ nội trú Trường Đại Học Y Dược Thái Bình đã động viên giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng tôi xin được tỏ lòng biết ơn tới cha mẹ, vợ con và các anh chị
em trong gia đình, những người luôn luôn dành cho tôi những điều kiện tốt
nhất giúp tôi yên tâm học hành và hoàn thành luận văn này.
Thái Bình, ngày 22 tháng 12 năm 2018

3


4

LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Nguyễn Văn Chung, học viên lớp bác sĩ nội trú, chuyên ngành
Ngoại khoa, trường Đại học Y Thái Bình, xin cam đoan:
1 Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS Nguyễn Xuân Hùng và TS. Lương Công Chánh.
2 Công trình này không trùng lặp với bất kì nghiên cứu nào khác đã được
công bố tại Việt Nam.
3 Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung
thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.

Thái Bình, ngày 22 tháng 12 năm 2018
Tác giả

Nguyễn Văn Chung


4


5

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BN

:

Bệnh nhân

SL

:

Số lượng

PT

:

Phẫu thuật

HC

:

Hồng cầu


HST

:

Huyết sắc tố

Hema

:

Hematocrit

DD – TT

:

Dạ dày – tá tràng

COPD

:

Chronic obstructive pulmonary disease
(Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính)

THD

:


Transanal Hemorrhoidal Dearterialization
(Phẫu thuật triệt mạch trĩ có sử dụng

Doppler)

5


6

MỤC LỤC

6


7

DANH MỤC BẢNG

7


8

DANH MỤC HÌNH

8


9


ĐẶT VẤN ĐỀ
Trĩ là những cấu trúc giải phẫu bình thường và có chức năng sinh lý nhất
định ở vùng hậu môn - trực tràng. Gọi là bệnh trĩ khi những cấu trúc này
chuyển sang trạng thái bệnh lý, với các triệu chứng như: đau rát hậu môn, đại
tiện máu, sa búi trĩ… [14], [19], [21], [22], [83], [86].
Bệnh trĩ khá thường gặp. Ở các nước Âu Mỹ tỷ lệ khoảng 50% dân số
mắc bệnh này, như Denis.J (1994) công bố tỷ lệ mắc trĩ từ 25 – 42%. Theo
Goligher.J.E (1984) cho biết >50% số người có độ tuổi trên tuổi 50 có bệnh trĩ
[64], [67]. Tỷ lệ gặp từ 35 - 50% dân số. Theo thống kê tại phòng khám khoa
phẫu thuật tiêu hóa Bệnh viện Việt Đức bệnh trĩ chiếm 45% trong tổng số
bệnh nhân đến khám. Theo nghiên cứu của Nguyễn Xuân Hùng (2010) cho
thấy bệnh trĩ chiếm tỷ lệ 21,7% trong tổng số các bệnh lý vùng sàn chậu khảo
sát tại tỉnh Thái Bình [22]. Theo Trịnh Hồng Sơn bệnh trĩ chiếm 85% các
bệnh lý ngoại khoa vùng hậu môn trực tràng [26]. Bệnh trĩ là một bệnh lý
lành tính, tuy nhiên nếu không được điều trị có thể gây thiếu máu mạn tính, sa
trĩ, loét nhiễm trùng, khó chịu, đau, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng
cuộc sống của người bệnh [45].
Có nhiều phương pháp điều trị: điều chỉnh chế độ vệ sinh, ăn uống, chế độ
làm việc, dùng thuốc đông, tây y toàn thân, tại chỗ, các thủ thuật điều trị trĩ
(tiêm xơ, thắt vòng cao su...) hoặc phẫu thuật. Một số phẫu thuật thường được
sử dụng: Milligan- Morgan, Ferguson, phẫu thuật Longo, triệt mạch trĩ dưới
siêu âm Doppler... Các phương pháp trên đều có ưu điểm và nhược điểm nhất
định, tuy nhiên nếu được chỉ định đúng, được thực hiện bởi những phẫu thuật
viên nhiều kinh nghiệm và đúng kỹ thuật thì sẽ cho kết quả tốt. Phương pháp
cắt trĩ Milligan – Morgan được 2 tác giả là Milligan và Morgan thực hiện vào
năm 1937 trên báo Lancet. Với nguyên tắc cắt riêng biệt từng búi trĩ, để lại cầu


10

da và niêm mạc chỉ định cho trĩ nội độ 3, độ 4, trĩ ngoại tắc mạch hoặc trĩ nghẹt
gây đau đớn phải mổ cấp cứu. Phương pháp Milligan – Morgan có chỉ định
rộng, giá thành rẻ, bệnh nhân ít đau, chăm sóc sau mổ đơn giản, kiểm soát chảy
máu tốt hơn, bệnh nhân sớm trở về sinh hoạt, làm việc bình thường. Ở Việt
Nam phương pháp Milligan – Morgan hiện được coi là phẫu thuật cơ bản được
áp dụng rộng rãi ở các tuyến y tế và cho kết quả tốt [23]. Tại Bệnh viện đa
khoa tỉnh Thái Bình đã triển khai nhiều phương pháp phẫu thuật điều trị bệnh
trĩ, trong đó có phẫu thuật Milligan-Morgan. Vì vậy, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Đánh giá kết quả phẫu thuật Milligan-Morgan điều trị
bệnh trĩ tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình (2016-2018) với 02 mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của các bệnh nhân bị bệnh trĩ
được điều trị bằng phẫu thuật Milligan-Morgan tại Bệnh viện đa khoa tỉnh
thái bình (2016-2018).
2. Đánh giá kết quả của phẫu thuật Milligan-Morgan điều trị bệnh trĩ tại
Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình (2016-2018).


11

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Giải phẫu và sinh lý ống hậu môn
1.1.1 Giải phẫu ống hậu môn
Ống hậu môn là phần trực tràng đi ngang qua phần sau của tầng sinh môn.
Được giới hạn ở trên bởi giải mu - trực tràng của cơ nâng hậu môn, phía dưới là
bó dưới da của cơ thắt ngoài. Ống hậu môn hợp với phần thấp của trực tràng
(bóng trực tràng) một góc 900-1000 chạy xuống dưới ra sau và đổ ra da qua lỗ
hậu môn ở tam giác đáy chậu sau. Ống hậu môn dài 3-4cm, đường kính khoảng
3cm, đóng mở chủ động [15], [18], [29], [35], [42], [44]. Từ ngoài vào trong
ống hậu môn được cấu tạo bởi các lớp cơ, lớp niêm mạc và hệ thống mạch máu

thần kinh [15], [18], [45], [65].
1.1.1.1. Cơ vùng hậu môn
Vùng hậu môn có nhiều cơ tạo thành hình thể ống hậu môn và góp phần
quan trọng trong hoạt động chức năng của hậu môn.
* Cơ thắt ngoài:
Thuộc hệ cơ vân, hình ống và bao quanh bên ngoài cơ thắt trong, vượt
quá bờ dưới cơ thắt trong khi đi sâu xuống phía dưới tiến sát tới da rìa hậu
môn, cơ thắt ngoài là cơ riêng của vùng này gồm có 3 phần: phần dưới da,
phần nông và phần sâu [15], [18], [35], [41], [45].
+ Phần dưới da: nông nhất, ngay ở lỗ hậu môn, xuyên qua phần này có
các sợi xơ - cơ của cơ dọc trực tràng chạy từ ngoài vào, từ trên xuống, bám
vào da tạo nên cơ nhăn da, làm cho da có các nếp nhăn, các nếp nhăn này xếp
theo hình nan quạt mà tâm điểm là lỗ hậu môn [15], [18], [44].


12
+ Phần nông: phần nông ở sâu hơn và ở phía ngoài hơn so với phần dưới
da, là phần to nhất của cơ thắt ngoài. Phần này xuất phát từ sau chạy ra trước,
vòng quanh hai bên hậu môn, có một số sợi bám vào trung tâm cân đáy chậu
[15], [18].
+ Phần sâu: nằm trên phần nông: các thớ cơ của phần này hoà lẫn với
các thớ cơ của cơ nâng hậu môn [15], [18], hai bó này duy trì góc hậu môn
trực tràng và có chức năng đặc biệt trong tự chủ hậu môn.
* Cơ thắt trong: thuộc hệ cơ trơn, là phần dày lên của lớp cơ vòng hậu
môn. Cấu trúc hình ống dẹt, cao 4-5cm, dày 3-6mm, màu trắng ngà, co bóp tự
động [15], [18].
* Cơ nâng hậu môn, gồm hai phần: phần thắt và phần nâng.
+ Phần thắt xòe giống hình cái quạt gồm 3 bó (bó mu bám ở mặt sau
xương mu, bó ngồi bám ở gai hông, bó chậu bám vào cân cơ bịt trong), cả 3
bó đều tụm lại chạy ở hai bên trực tràng, tới sau hậu môn đính với nhau, đính

vào xương cụt hình thành phên đan hậu môn - xương cụt [15], [18].
+ Phần nâng, chỉ bám vào xương mu, ở phía trên phần thắt, bám tận
bằng hai bó ở phía trước và phía bên hậu môn. Hai bó ở hai bên đan vào nhau
ở phía trước của hậu môn. Bó bên của hai bên đan vào lớp cơ của thành trực
tràng và bám vào bó sâu của cơ thắt ngoài [45].
* Phức hợp cơ dọc dài:
Tạo bởi các thớ cơ dọc của lớp cơ thành trực tràng, các sợi từ cân chậu
trên, một số nhánh sợi cơ trên xuất phát từ cơ nâng hậu môn và bó sâu của cơ
thắt ngoài. Dải cơ dọc này chạy giữa cơ thắt trong và cơ thắt ngoài, xuống
phía dưới toả thành hình nan quạt và tận cùng ở phần thấp của cơ thắt trong
tạo nên các dây chằng Parks cố định niêm mạc hậu môn vào mặt trong cơ thắt
trong [15], [18], [29], [35], [45].


13
* Các khoang tế bào (lớp dưới niêm mạc)
Giữa lớp niêm mạc hậu môn ở bên trong và lớp cơ thắt hậu môn ở bên
ngoài hình thành một khoang và ngăn cách bởi dây chằng Parks tạo nên hai
khoang tế bào: khoang dưới niêm mạc và khoang dưới da.
+ Khoang dưới niêm mạc: được giới hạn phía trong là lớp niêm mạc hậu
môn, phía ngoài là mặt trong cơ thắt trong, phía dưới là dây chằng Parks,
trong khoang này có chứa đám rối tĩnh mạch trĩ nội.
+ Khoang dưới da: nằm phía dưới khoang dưới niêm mạc, giới hạn trên
lá vách liên cơ và đáy dây chằng Parks, phía dưới da là da hậu môn, trong
khoang này có chứa đám rối tĩnh mạch trĩ ngoại [19] [39] [88] [90].
* Lớp cơ niêm: lớp này phát triển một phần từ cơ thắt trong và một phần
từ những sợi đi qua cơ thắt trong và một phần từ những sợi cơ đi qua cơ thắt
trong của lớp cơ dọc dài, cơ niêm còn gọi là cơ Treitz, có chức năng bảo vệ
lớp lót hậu môn, ngăn chặn sự sa lồi của tổ chức lớp lót ống hậu môn khi đại
tiện [2] [11] [45] [71] [89].

1.1.1.2. Lớp niêm mạc hậu môn
Lòng ống hậu môn được phủ bởi lớp biểu mô với cấu trúc thay đổi dần
từ trong ra ngoài. Thực chất đây là sự chuyển tiếp giữa niêm mạc trực tràng
và da quanh lỗ hậu môn, bắt đầu bằng lớp tế bào trụ đơn giống biểu mô tuyến
của trực tràng chuyển dần qua biểu mô vuông tầng, lát tầng và kết thúc là biểu
mô giả da ở đoạn cuối cùng của ống hậu môn. Bên cạnh sự chuyển tiếp cấu
trúc là sự thay đổi về chức năng sinh lý quan trọng trong lòng ống hậu môn.
* Đường lược: là mốc quan trọng trong phẫu thuật hậu môn - trực tràng,
cách rìa hậu môn da khoảng 1,5 - 2 cm, đường lược được tạo nên bởi sự tiếp
nối các van hậu môn, xen giữa là các cột trực tràng vì vậy nhìn đường lược có
hình rằng cưa [11] [27] [45].


14
Các van hậu môn là những nếp niêm mạc nối liền hai chân cột trực tràng
liền nhau, góp phần thực hiện chức năng đóng kín hậu môn, phía dưới mỗi
van này là các hốc hậu môn, nơi các tuyến hậu môn giải phóng chất tiết.
Đường lược chia ống hậu môn làm hai phần trên van và dưới van mà sự
khác biệt mô học là rõ rệt.
+ Phần trên van là biểu mô trụ đơn, giống biểu mô của trực tràng, niêm
mạc lỏng lẻo có màu đỏ thẫm. Lớp dưới niêm mạc có đám rối tĩnh mạch trĩ
trong, gồm ba bó ở vị trí 3h, 8h và 11h khi đám rối này bị giãn sẽ tạo ra trĩ nội.
+ Phần dưới van là biểu mô không sừng hoá, không có tuyến bã và nang
lông gọi là niêm mạc Herman, ở dưới có đám rối tĩnh mạch trĩ ngoại, phần
dưới van lại chia làm hai vùng: vùng lược và vùng da. Niêm mạc Herman có
cấu trúc 3-6 lớp tế bào, rất giàu các đầu mút thần kinh là các thụ thể cảm giác
tự do (Meissner, Golgi, Paccini, Krauss) để nhận cảm với các tác nhân đau,
nóng, lạnh, áp lực và nhận biết tính chất phân (rắn, lỏng, khí). Do vậy vùng
niêm mạc này rất quan trọng trong việc duy trì chức năng sinh lý của ống hậu
môn, ứng dụng trong lâm sàng việc thực hiện các thủ thuật, phẫu thuật trĩ để

không gây đau đớn cho người bệnh, tất cả nên được thực hiện ở phần trên của
ống hậu môn nghĩa là trên đường lược 1,5cm [45].
* Đường hậu môn da: là ranh giới giữa da quanh lỗ hậu môn và lớp niêm
mạc của ống hậu môn [5] [16] [28] [45].
* Đường liên cơ thắt: là rãnh nằm giữa bó dưới da cơ thắt ngoài và cơ
thắt trong, đường này nằm ngay phía trên đường hậu môn da và dưới đường
lược khoảng 1cm [6] [28] [31] [45].
* Đường hậu môn trực tràng: là ranh giới giữa ống hậu môn và bóng
trực tràng [45].


15

Hình 1.1. Cấu trúc giải phẫu ống hậu môn
1.1.1.3. Mạch máu của hậu môn - trực tràng
* Động mạch: có ba động mạch cấp máu cho vùng này.
+ Động mạch trực tràng trên (động mạch trĩ trên): là nhánh tận của động
mạch mạc treo tràng dưới. Động mạch này chia 3 nhánh: nhánh phải trước,
nhánh phải sau và nhánh trái bên (trùng với vị trí ba bó trĩ chính thường gặp
trên lâm sàng), tương ứng với mô tả của Miles (1919) 11h, 8h, 3h [12], [15],
[54], [65], [80], [96]. Các nhánh này nối thông với nhau và nối thông với các
tĩnh mạch qua shunt [45].
+ Động mạch trực tràng giữa (động mạch trĩ giữa): động mạch trực tràng
giữa bên phải và bên trái, xuất phát từ động mạch hạ vị, cấp máu cho phần
dưới bóng trực tràng và phần trên của ống hậu môn [12], [15], [54], [65].


16
+ Động mạch trực tràng dưới (động mạch trĩ dưới): động mạch trực
tràng dưới bên phải và bên trái xuất phát từ động mạch thẹn trong cấp máu

cho hệ thống cơ thắt, các nhánh tận cấp máu cho 1/3 dưới hậu môn và vùng
da hậu môn [6] [28] [40] [45] [51].
* Tĩnh mạch: gồm đám rối tĩnh mạch trĩ trong và đám rối tĩnh mạch
trĩ ngoài.
+ Đám rối tĩnh mạch trĩ trong: máu từ đám rối tĩnh mạch trĩ trong được
đổ về tĩnh mạch trực tràng trên, đổ về tĩnh mạch mạc treo tràng dưới (hệ cửa),
khi đám rối tĩnh mạch trĩ trong giãn tạo nên trĩ nội.
+ Đám rối tĩnh mạch trĩ ngoài: máu từ đám rối tĩnh mạch trĩ ngoài đổ
vào tĩnh mạch trực tràng giữa và dưới rồi đổ vào tĩnh mạch hạ vị (hệ chủ) qua
tĩnh mạch thẹn. Đám rối tĩnh mạch trĩ ngoài giãn tạo ra trĩ ngoại.
Hai đám rối này được phân cách nhau bởi dây chằng Parks, khi dây
chằng này thoái hoá mất độ bền chắc sẽ chùng ra, hai đám rối sát liền nhau, trĩ
nội sẽ liên kết với trĩ ngoại tạo nên trĩ hỗn hợp. Khi trĩ hỗn hợp to ra, không
nằm riêng rẽ nữa mà liên kết nhau tạo nên trĩ vòng [15], [19], [29].
Theo Treitz và Stelzner cấu trúc mạch máu trong các mô dưới niêm mạc
và dưới da của ống hậu môn mà ông gọi là thể hang của trực tràng, tổ chức
này ngoài khả năng co giãn còn có thể chun lại góp phần trong sự tự chủ của
hậu môn. Giả thuyết này có cơ sở ở một số bệnh nhân sau phẫu thuật cắt trĩ
rối loạn tự chủ của hậu môn, có thể do bị cắt mất thể hang này.
* Các nối thông động - tĩnh mạch:
Durett cho thấy có sự thông thương giữa động - tĩnh mạch ở lớp dưới
niêm mạc của ống hậu môn và máu ở trĩ là máu động mạch nên tác giả đưa ra
lý thuyết thông động tĩnh mạch góp phần gây bệnh.


17
Theo Thomson có sự liên thông giữa động mạch và tĩnh mạch ở mạng
mạch trĩ. Toàn bộ hệ thống động tĩnh mạch này nằm ở lớp dưới niêm mạc
trong một hệ thống tổ chức thể hang và chịu sự điều khiển của thần kinh thực
vật [15], [38], [96].

Soullard (1975) cho rằng hiện tượng chảy máu trong bệnh trĩ là do các
rối loạn tuần hoàn tại chỗ của chính các mạch máu nối thông này chứ không
phải là do hiện tượng giãn tĩnh mạch.

Hình 1.2. Phân bố mạch máu của hậu môn - trực tràng


18
1.1.1.4. Thần kinh

Hậu môn trực tràng được chi phối bởi thần kinh sống và thần kinh thực
vật [15], [41], [54]. Hoạt động bài tiết phân thực hiện được tự chủ thông qua
sự chi phối của hai hệ thần kinh này.
* Thần kinh sống: hệ thần kinh sống có dây thần kinh hậu môn, tách từ
dây cùng III và dây cùng IV. Dây này vận động cơ thắt hậu môn và cảm giác
vùng quanh lỗ hậu môn, phẫu thuật làm tổn thương dây này sẽ gây nên mất tự
chủ khi đại tiện [45].
* Thần kinh thực vật: hệ thần kinh thực vật có các sợi thần kinh tách từ
đám rối hạ vị.
+ Các dây giao cảm từ các hạch giao cảm thắt lưng.
+ Các sợi phó giao cảm xuất phát từ hai nguồn
+ Các sợi tận cùng của dây thần kinh X đi qua đám rối mạc treo tràng
dưới, qua dây cùng trước và dây hạ vị đi xuống. Các nhánh này vận động và
chỉ huy việc tiết dịch trực tràng [45].
Các dây cương tách ra từ đoạn cùng của tuỷ sống và mượn đường đi của
rễ trước thần kinh cùng II, III, IV tới đám rối hạ vị chi phối cho các tạng niệu
dục, điều này giải thích cho việc rối loạn tiểu tiện ở các bệnh nhân có phẫu
thuật ở vùng hậu môn trực tràng do sự chi phối của thần kinh thực vật [28],
[41], [42], [45].
1.1.2. Sinh lý

1.1.2.1. Sự tự chủ hậu môn
Khả năng tự chủ của hậu môn tuỳ thuộc vào một chuỗi quá trình phức
tạp có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hiện nay với những hiểu biết về sinh bệnh học bệnh trĩ, các nhà hậu môn
học công nhận đám rối tĩnh mạch trĩ là trạng thái sinh lý bình thường, tạo nên
lớp đệm ở ống hậu môn, giúp kiểm soát sự tự chủ của đại tiện [15], [17].


19
Kerremans cho rằng chức năng của hậu môn trực tràng trong việc chủ
động đại tiện và chủ động nhịn đại tiện là sự kết hợp của cả hai hoạt động
sinh lý, vừa động vừa tĩnh [14]. Theo Nguyễn Đình Hối và Nguyễn Mạnh
Nhâm khả năng tự chủ của hậu môn là do vùng áp suất cao trong ống hậu
môn lúc nghỉ (25-120 mmHg) tạo ra rào cản chống lại áp suất trong trực tràng
(5 - 20 mmHg) [15], [37].
Theo Phillips và Edwards (l965) cơ chế van trực tràng có vai trò trong sự
tự chủ đối với phân lỏng.
Theo Parks (1954) trực tràng và hậu môn thẳng góc với nhau nên khi
mặt trước trực tràng đè lên ống hậu môn sẽ làm bít lòng hậu môn lại [84].
Khi phân xuống trực tràng làm tăng áp lực trong bóng trực tràng và kích
thích các bộ phận nhận cảm áp lực để từ đó gây ra các phản xạ giúp tự chủ
hậu môn (phản xạ ức chế và phản xạ bảo vệ).
* Phản xạ ức chế: bắt đầu bằng việc cơ thắt trong giãn ra để phân tiếp
xúc với các tế bào nhạy cảm ở phần trên ống hậu môn, từ đó có thể nhận cảm
được khối lượng và tính chất phân, sự nhận biết này là vô thức.
* Phản xạ bảo vệ: trong khi cơ trơn trong giãn ra thì cơ trơn ngoài vẫn co
thắt không cho phân ra ngoài, khi cơ thể nhận biết được khối lượng, tính chất
phân thì cơ thắt ngoài co thắt mạnh hơn không cho phân ra ngoài, đồng thời
trực tràng giãn ra để thích nghi với khối lượng phân lớn hơn, khi đó áp lực
trong bóng trực tràng đã giảm xuống và cảm giác buồn đi ngoài triệt tiêu do

các bộ phận nhận cảm không còn bị kích thích. Phản xạ đó là vô thức, có sự
chỉ huy của trung tâm phía dưới tuỷ sống và vỏ não [45].
1.1.2.2. Cơ chế đại tiện
Ống hậu môn với chức năng sinh lý chính là đào thải phân bằng động tác
đại tiện, hoạt động sinh lý bình thường của ống hậu môn hoàn toàn tự chủ
[15], [25], [29], [37], [95].


20
Khi muốn đi đại tiện thì cơ thể phải huỷ bỏ cơ chế giữ phân như đã nêu,
phân xuống đến trực tràng áp lực trong bóng trực tràng đến ngưỡng
(45mmHg) thì có cảm giác buồn đại tiện: phản xạ ức chế cơ thắt ngoài và bó
mu trực tràng xuất hiện làm cho hai cơ này giãn ra, kết hợp với tư thế ngồi
gấp đùi 900 sẽ làm mất góc hậu môn - trực tràng, động tác rặn làm tăng áp lực
trong ổ bụng để đẩy phân xuống, lúc này hiệu ứng van không còn nữa, áp lực
trực tràng tăng cao vượt quá sức cản của ống hậu môn, phân được tống ra
ngoài [37], [84].
1.2. Nguyên nhân - cơ chế bệnh sinh
1.2.1. Nguyên nhân hay yếu tố thuận lợi
Nguyên nhân của bệnh trĩ chưa được xác định một cách rõ ràng, nhiều
yếu tố được coi như là yếu tố thuận lợi phát sinh bệnh [14], [15], [26], [29],
[54], [65].
* Tư thế đứng: trĩ gặp nhiều ở nhũng người phải đứng lâu, phải ngồi
nhiều. Taylor và Egbert chứng minh được áp lực tĩnh mạch trĩ ở tư thế nằm là
25cm nước, khi đứng áp lực tăng lên là 75cm nước.
* Táo bón: bệnh nhân bị táo bón khi đại tiện phải rặn nhiều, khi rặn áp
lực trong lòng ống hậu môn tăng gấp 10 lần. Parks cho rằng đây là một
nguyên nhân quan trọng gây ra trĩ [84].
* Tăng áp lực trong khoang bụng: ở người lao động tay chân nặng nhọc,
suy tim, xơ gan... áp lực trong ổ bụng tăng và bệnh trĩ dễ xuất hiện.

* U hậu môn trực tràng và tiểu khung làm cản trở máu hậu môn trực
tràng trở về cũng là nguyên nhân của trĩ.
* Thai kỳ: trĩ thường gặp lúc phụ nữ đang mang thai, sau mỗi lần mang
thai, trĩ đều nặng hơn. Theo Parks ở phụ nữ trẻ thì thai kỳ là nguyên nhân gây
trĩ nhiều nhất [84].
1.2.2. Cơ chế bệnh sinh
Đã có nhiều công trình nghiên cứu khác nhau về nguyên nhân và cơ
chế bệnh sinh của bệnh trĩ [15], [37], [54], [65], [96]. Những công trình


21
này đã dựa trên cơ sở nhận xét lâm sàng hoặc trên cơ sở tổ chức học để xây
dựng nên các lý thuyết cắt nghĩa cơ chế bệnh sinh. Trong các thuyết nêu ra
có hai thuyết được nhiều người chấp nhận.
* Thuyết mạch máu: sự rối loạn điều hoà thần kinh vận mạch gây phản
ứng quá mức điều chỉnh bình thường của mạng mạch trĩ và vai trò của các
shunt động - tĩnh mạch. Khi các yếu tố khởi bệnh tác động làm các shunt
mở rộng, máu động mạch chảy vào ồ ạt làm các đám rối bị đầy, giãn quá
mức, nhất là nếu lúc đó lại có một nguyên nhân cản trở đường máu trở về
(rặn mạnh vì táo bón, co thắt cơ tròn...). Các mạch máu phải tiếp nhận một
lượng máu quá khả năng chứa đựng nên phải giãn ra (sung huyết), nếu tiếp
tục tái diễn sẽ đi đến chảy máu, máu đỏ tươi vì đi trực tiếp từ động mạch
sang tĩnh mạch.
* Thuyết cơ học: do áp lực rặn trong lúc đại tiện khó khăn (táo bón) các
bộ phận nâng đỡ các tổ chức trĩ bị giãn dần trở nên lỏng lẻo, các búi trĩ (vốn
là bình thường) bị đẩy xuống dưới và dần dần lồi hẳn ra ngoài lỗ hậu môn,
lượng máu tĩnh mạch trở về bị cản trở, trong khi lượng máu từ động mạch vẫn
đưa máu đến vì áp lực cao. Quá trình đó tạo thành vòng luẩn quẩn, lâu dài làm
mức độ sa trĩ càng nặng lên.
1.3. Đặc điểm lâm sàng và hình thái tổn thương

1.3.1. Các đặc điểm chung
Bệnh trĩ rất thường gặp, nhất là ở những người trưởng thành và lớn tuổi.
Tại phòng khám khoa phẫu thuật tiêu hóa bệnh viện Việt Đức từ tháng 3 1993 đến tháng 6 - 1996 trong số 1378 bệnh nhân đến khám bệnh về hậu môn
trực tràng có 624 trường hợp bị trĩ. Ở các nước Âu Mỹ khoảng 50% dân số
mắc bệnh này [54]. Trong một nghiên cứu đánh giá kết quả điều trị bệnh trĩ
bằng phẫu thuật Longo cho 140 bệnh nhân, Arnaud và cộng sự (2001) thấy
tuổi trung bình là 43,8 (từ 19 đến 83 tuổi) [58]. Nghiên cứu của I.Kanellos
(2006) và cộng sự tại trường đại học Aristotle Thessaloniki Hi Lạp thực hiện


22
trong 4 năm từ 1998 - 2002 với 126 bệnh nhân trĩ độ 4: tuổi trung bình là 43,9
(từ 22- 49) [75]. Nghiên cứu của Mertens .C [78] trong 179 trường hợp thăm
khám hậu môn ở trẻ nhỏ thấy có 4 trường hợp là trĩ. Còn Gant thấy trong 236
bệnh nhân nhi có 17 trường hợp trĩ. Có thể thấy rằng đến nay chưa có một
thống kê đầy đủ về phân bố của bệnh vào các lứa tuổi khác nhau, song phần
lớn các tác giả thấy gặp ở tuổi trưởng thành là chủ yếu.
Bệnh gặp ở cả nam và nữ, tỷ lệ nam và nữ được tìm ra ở các nghiên cứu
khác nhau cũng chưa có sự thống nhất. Theo Beastie và cộng sự [60] thấy
bệnh gặp ở nam và ở nữ với tỷ lệ nam/nữ là 1,41. Nghiên cứu Sergio Carlos
Nahas và cộng sự (2003) tại viện trường đại học Sao Paulo Braxin cho thấy
nam chiếm là 53% và nữ là 47%. Tại Việt Nam các thông báo về bệnh trĩ
cũng có sự khác nhau tương đối về tỷ lệ nam và nữ, trong khi Dương Phước
Hưng và cộng sự (2004) thấy tỷ lệ nữ cao hơn nam (nữ 59,6%; nam 40,4%)
thì Nguyễn Mạnh Nhâm lại thấy bệnh hay gặp ở nam cao hơn nữ với tỷ lệ
nam/nữ là 681/408 [20], [36].
1.3.2. Biểu hiện lâm sàng
Ba triệu chứng thường gặp nhất: chảy máu, khối sa hậu môn và đau [14],
[15], [25], [29], [30], [80], [96].
Chảy máu khi đại tiện ở các mức độ khác nhau, chảy máu là triệu chứng

báo động, tần suất xuất hiện chảy máu trong bệnh trĩ từ 50% đến 75% đôi khi
máu chảy nhiều buộc bệnh nhân đi khám cấp cứu. Thường máu chảy không
nhiều, màu đỏ tươi, chảy rỉ ra theo phân [35], [54], [65].
* Khối trĩ sa hậu môn, sa từng bó hay cả vòng trĩ khi đi ngoài hoặc gắng
sức. Bó trĩ sa có thể tự co lên, phải dùng tay đẩy lên hay sa thường xuyên kèm
chảy dịch hậu môn, ngứa... gây khó chịu.
* Đau vùng hậu môn, tuy không thường có nhưng vẫn chiếm khoáng
15% mà nguyên nhân do sa trĩ tắc mạch.


23
+ Trĩ ngoại tắc mạch: là những khối nhỏ, đơn độc, màu xanh tím, nằm
dưới da rìa hậu môn, phần lớn sẽ tự tiêu để lại miếng da thừa ở rìa hậu môn.
+ Trĩ nội tắc mạch: hiếm gặp hơn, biểu hiện là những cơn đau dữ đội
trong ống hậu môn, soi hậu môn thấy khối màu xanh tím, niêm mạc nề nhẹ.
+ Sa trĩ tắc mạch: đau dữ đội vùng hậu môn, khó có thể đẩy trĩ vào lòng
hậu môn, đi kèm là hiện tượng viêm, phù nề niêm mạc vùng hậu môn trực
tràng, tiến triển theo hai hướng, triệu chứng đau giảm đi búi trĩ nhỏ lại tạo
thành di tích là mảnh da thừa hay u nhú phì đại hoặc tiếp tục tiến triển thành
hoại tử [45].
Trong nghiên cứu củạ tác giả Beastie. G. C (2000) thấy 51% ỉa máu,
19% sa trĩ và 30% ngứa và chảy dịch ở hậu môn [60]. Nhóm tác giả của bệnh
viện Virgen del Camino Tây Ban Nha nghiên cứu 55 bệnh nhân thấy triệu
chứng ỉa lòi khối chiếm 100% [90]. Trịnh Hồng Sơn thấy 58% bệnh nhân trĩ
có đại tiện từng đợt ra máu tươi và ỉa lòi khối ở hậu môn [48].
Thăm trực tràng là động tác bắt buộc đối với bệnh nhân trĩ ngoài xác
định mức độ tổn thương của búi trĩ, các bệnh đi kèm với bệnh trĩ như ápxe,
rò, nứt kẽ còn phát hiện các thương tổn nguyên nhân mà trĩ chỉ là triệu chứng
như ung thư hậu môn trực tràng.
Soi trực tràng - đại tràng: theo Nguyễn Đình Hối không phải là để phát

hiện thương tổn của trĩ mà chính là để phát hiện các thương tổn của bóng trực
tràng và đại tràng chậu hông đi kèm [14].
1.3.3. Phân độ và phân loại trĩ
Phân độ trĩ có ý nghĩa trong việc đánh giá tổn thương và nghiên cứu chỉ
định điều trị, phân độ trĩ được chia theo mức độ tổn thương về lâm sàng và
giải phẫu. Tổn thương về lâm sàng và giải phẫu bệnh trĩ được nhiều tác giả
phân độ theo tiêu chuẩn của bệnh viện S't Marks London. Tùy theo quá trình
phát triển trĩ nội chia làm 4 độ: [12], [15], [19], [29], [30], [37], [65].


24
- Độ 1: trĩ cương tụ, có thể có hiện tượng chảy máu (chỉ to lên trong lòng
ống hậu môn).
- Độ 2: sa trĩ khi rặn, tự co lên sau khi đại tiện.
- Độ 3: sa trĩ khi rặn, phải dùng tay đẩy lên.
- Độ 4: trĩ sa thường xuyên, kể cả trường hợp sa trĩ tắc mạch.

Hình 1.3. Phân độ trĩ


25
* Theo giải phẫu lấy đường lược làm mốc chia trĩ thành trĩ nội và trĩ
ngoại [8], [15], [65], [96].
- Trĩ nội: phát sinh ở khoang dưới niêm mạc trên đường lược, có nguồn
gốc từ đám rối trĩ nội.
- Trĩ ngoại: nằm ở khoang cạnh hậu môn, dưới da, dưới đường lược, từ
đám rối trĩ ngoại (mạch trực tràng dưới).
- Trĩ hỗn hợp: trĩ nội và trĩ ngoại lúc đầu còn phân cách với nhau bởi vùng
lược, ở vùng này niêm mạc dính chặt với mặt trong cơ thắt trong bởi dây chằng
Parks, khi dây chằng Parks bị thoái hoá, nhẽo ra không đủ sức phân cách trĩ nội

và trĩ ngoại, những búi trĩ này hợp lại với nhau tạo thành trĩ hỗn hợp.
1.4. Tình hình điều trị bệnh trĩ trên thế giới và Việt Nam
Bệnh trĩ có thể điều trị đơn giản bằng chế độ vệ sinh, ăn uống (chống táo
bón, hạn chế bia rượu và chất kích thích), điều chỉnh chế độ làm việc, sinh
hoạt cho đến các biện pháp can thiệp vào búi trĩ từ đơn sơ đến phức tạp. Các
phương pháp như: nong hậu môn, tiêm xơ, dùng tia hồng ngoại, thắt trĩ bằng
vòng cao su, hay bằng các loại hình phẫu thuật cắt bỏ búi trĩ. Các phương
pháp đã được áp dụng: phương pháp Whitehead năm 1882, phương pháp
Toupet năm 1969, phương pháp Milligan – Morgan năm 1937, phương pháp
Longo 8/1998, triệt mạch trĩ dưới siêu âm Doppler năm 1995 (THD), phương
pháp Ligasure năm 2010, phương pháp đông điện dưới niêm mạc 2010,
phương pháp Ferguson năm 1959.
Nghiên cứu về dịch tễ học của bệnh trĩ:
Cổ nhân có câu “thập nhân củu trĩ” (mười người chín trĩ) điều đó nói lên
bệnh trĩ thường gặp và đã được biết đến từ rất sớm. Đời nhà Trần có danh y
Tuệ Tĩnh đã mô tả bệnh trĩ và các bài thuốc nam để chữa bệnh. Gần đây có rất
nhiều tác giả đã quan tâm và nghiên cứu về bệnh trĩ như: Phạm Khuê (1980)


×