VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM VĂN TÍCH
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI PHẠM
VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM VĂN TÍCH
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI PHẠM
VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành : Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số
: 8 38 01 05
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRẦN VĂN ĐỘ
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả đề cập trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn
rõ ràng và chính xác.
Tác giả luận văn
PHẠM VĂN TÍCH
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH
HÌNH CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY .............................................................. 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma
túy ........................................................................................................................... 7
1.2. Các nguyên tắc phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy ....................12
1.3. Các chủ thể phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy ..........................15
1.4. Nội dung phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy ..............................18
1.5. Mối liên hệ giữa nghiên cứu phòng ngừa tội phạm về ma túy với nghiên cứu
tình hình và nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội phạm về ma túy ........20
CHƯƠNG 2. 23THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI
PHẠM VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ...............23
2.1. Thực trạng nhận thức về phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng ..................................................................................23
2.2. Khái quát tình hình các tội phạm và nguyên nhân, điều kiện của tình hình
các tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ....................................35
2.3. Thực trạng phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng.........................................................................................................38
CHƯƠNG 3. DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG
NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ..................................................................................58
3.1. Dự báo các yếu tố liên quan đến phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma
túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới ......................................58
3.2. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới ....................................................65
KẾT LUẬN .........................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANTT
An ninh trật tự
BCA
Bộ Công an
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
CSKV
Cảnh sát khu vực
CSQLHC
Cảnh sát quản lý hành chính
CSND
Cảnh sát nhân dân
CAND
Công an nhân dân
CBCS
Cán bộ chiến sỹ
CQĐT
Cơ quan điều tra
CSĐTTP
Cảnh sát điều tra tội phạm
CSGT
Cảnh sát giao thông
CSKV
Cảnh sát khu vực
CSQLHC
Cảnh sát quản lý hành chính
TAND
Tòa án nhân dân
TTHS
Tố tụng hình sự
TTXH
Trật tự xã hội
UBND
Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Đà Nẵng là một trong năm thành phố trực thuộc trung ương
của nước ta, có diện tích 1.225,53 km2, trong đó có 6 quận nội thành, 2 huyện
ngoại thành chiếm 1042,48km2, phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế, phía
Đông giáp biển, phía Tây và Nam giáp tỉnh Quảng Nam. Thành phố Đà Nẵng
nằm gần trung độ của trục giao thông Bắc – Nam về đường bộ, đường sắt,
đường thuỷ và đường hàng không, là cửa ngõ quan trọng ra biển của hành
lang kinh tế Đông – Tây, với điểm kết thúc là Cảng Tiên Sa. Thành phố Đà
Nẵng có sân bay quốc tế, cảng biển, nhà ga và các trung tâm thương mại
lớn…
Dân số Đà Nẵng có 1.429.000 dân, với 1.078.312 nhân khẩu, cùng với
hơn 23.111 hộ với 174.722 nhân khẩu tạm trú (tính đến năm 2017). Thành
phố Đà Nẵng là trung tâm kinh tế - xã hội của khu vực miền Trung – Tây
nguyên với nhiều khu công nghiệp, địa điểm du lịch nổi tiếng, thu hút được
các nhà đầu tư, khách du lịch trong và ngoài nước, có hàng nghìn cơ sở sản
xuất, kinh doanh, cơ sở dịch vụ vui chơi giải trí và các điểm giao dịch lớn.
Chính sự phát triển năng động của thành phố làm cho hoạt động quản lý
về mọi mặt không theo kịp, trong đó có vấn đề quản lý nhà nước về ANTT
còn nhiều sơ hở. Thời gian qua, tội phạm nói chung, tội phạm về ma túy nói
riêng lợi dụng sơ hở này để hoạt động làm cho tình hình các tội phạm tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy gia tăng, tình hình người
nghiện cũng khó kiểm soát. Theo thống kê của Phòng CSĐTP về ma túy
Công an TP. Đà Nẵng từ năm 2013 đến năm 2018, lực lượng CSĐTTP về ma
túy Công an TP. Đà Nẵng đã khám phá 859 vụ án về ma túy với 1218 đối
tượng bị bắt giữ.
1
Trước tình hình đó, Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
thành phố Đà Nẵng đã phối hợp đồng bộ với các ngành đơn vị, địa phương
đẩy mạnh công tác phòng, chống ma túy và thực hiện nghiêm túc Luật phòng
chống ma túy, Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy của
Chính phủ và đặc biệt là Chỉ thị số 21 – CT/TW, ngày 26/3/2008 của Bộ
chính trị “Về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác, phòng, chống và
kiểm soát ma túy trong tình hình mới”… Các cơ quan, các Sở ban ngành chức
năng đã phối hợp và đề ra nhiều phương hướng, kế hoạch cụ thể để triển khai
và thực hiện Chỉ thị, cũng như Chương trình mục tiêu quốc gia thông qua
công tác phòng, chống ma túy cụ thể hàng năm. Hiệu quả hoạt động điều tra
khám phá các tội phạm về ma túy ngày càng cao, hạn chế bỏ lọt tội phạm.
Tuy vậy trên thực tế, tình hình các tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng vẫn diễn biến phức tạp và chưa có chiều hướng giảm, gây bức xúc
tronh xã hội và đặc biệt là loại tội phạm này còn là mầm mống phát sinh các
loại tội phạm khác.
Trước yêu cầu đó đặt ra vấn đề bức thiết là phải nghiên cứu làm rõ các
nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội phạm về ma túy, từ đó đưa ra
những dự báo khoa học và đề ra hệ thống các giải pháp hữu hiệu để phòng
ngừa, ngăn chặn, hạn chế đến mức tối đa tình hình các tội phạm về ma túy
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Đó là lý do tác giả lựa chọn Đề tài: “Phòng
ngừa tình hình các tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” làm
luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Các công trình lý luận tội phạm học
Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài Luận văn, các công trình
khoa học sau đây đã được nghiên cứu:
- “Tội phạm học Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” Viện
2
Nhà nước và Pháp luật, Nxb CAND, năm 2000;
- Giáo trình “Tội phạm học” GS.TS Võ Khánh Vinh, Nxb CAND, tái
bản năm 2011, 2013;
- Giáo trình “Tội phạm học” trường ĐH Luật Hà Nội, Nxb CAND năm
2004, 2012;
- Giáo trình “Tội phạm học” Học viện Cảnh Sát nhân dân, Nxb CAND
năm 2002, 2013;
- “Những vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu của tội phạm học ở
Việt Nam hiện nay” GS.TS Võ Khánh Vinh
- “Tội phạm học Việt Nam” Trần Đại Quang, Nguyễn Xuân Yêm, Nxb
CAND năm 2013;
- Bộ Công an, Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam, Học viện CSND,
năm 2013;
- “Một số vấn đề lý luận về tình hình các tội phạm ở Việt Nam” TS
Phạm Văn Tỉnh, Nxb Tư pháp năm 2007
- “Đấu tranh với tình hình các tội phạm chống người thi hành công vụ ở
nước ta hiện nay, một mô hình nghiên cứu tội phạm học chuyên ngành”,
Phạm Văn Tỉnh, Đào Bá Sơn, Nxb CAND năm 2010;
- Các bài viết về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, về nhân thân
người phạm tội, về phòng ngừa tội phạm được đăng tải trên tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, tạp chí Cảnh sát nhân dân, tạp
chí Kiểm sát nhân dân, tạp chí Tòa án nhân dân, Công an nhân dân trong
những năm gần đây.
Các công trình đã nêu không thể thiếu được trong việc thực hiện đề tài
luận văn. Bởi vì trong đó không những chứa đựng lý luận tội phạm học về các
vấn đề cơ bản mà đề tài luận văn phải giải quyết mà nó còn có những chỉ dẫn
cho việc xác định phương pháp nghiên cứu đề tài, từ tổng quan cho đến chi tiết.
3
2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến vấn đề phòng,
chống tội phạm về ma túy
Trong những năm gần đây đã có nhiều công trình được công bố về đề tài
tệ nạn ma túy và tội phạm về ma túy. Cụ thể, những công trình đó như sau:
- Trần Văn Luyện (2000), “Phát hiện và điều tra tội phạm tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy của lực lượng cảnh sát nhân dân”
Luận án tiến sỹ luật học.
- Vũ Quang Vinh (2005), “Tội phạm về ma túy, thực trạng, nguyên nhân
và giải pháp” Luận án tiến sỹ luật học.
- Nguyễn Tuyết Mai (2006), “Đấu tranh phòng, chống ma túy ở Việt
Nam” Luận án tiến sỹ luật học.
- Thân Công Thanh (2008), “Phòng ngừa các tội phạm về ma túy trên
địa bàn tỉnh Lào Cai” Luận văn thạc sỹ luật học.
- Đỗ Tiến Dũng (2009), “Phòng ngừa các tội phạm về ma túy trên địa
bàn tỉnh Lai Châu” (2009) Luận văn thạc sỹ luật học.
- Đặng Thị Huệ (2013), “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh tình hình, nguyên nhân và
các giải pháp phòng, chống” Luận văn thạc sỹ luật học.
Có thể thấy, thời gian qua đã có khá nhiều công trình nghiên cứu có liên
quan đến tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình các tội phạm ma túy
nói riêng. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu trên hoặc chỉ mới nghiên cứu
phòng ngừa tình hình một loại tội phạm nhất định ở một địa phương nào đó.
Cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống
chuyên về phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng. Đây cũng chính là hướng tiếp cận nghiên cứu của luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ lý luận và thực tiễn phòng ngừa tình hình
4
các tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, từ đó Luận văn
hướng đến mục đích đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình
các tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải quyết
những nhiệm vụ cụ thể sau:
+ Nghiên cứu lý luận và cơ sở pháp lí cho việc phòng ngừa tình hình các
tội phạm nói chung.
+ Nghiên cứu thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình các tội phạm
về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở đó tìm ra nguyên nhân,
điều kiện của tội phạm này và đề xuất các giải pháp phòng ngừa tình hình các
tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
+ Dự báo tình hình các tội phạm về ma túy và đề xuất các giải pháp tăng
cường hoạt động phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về phòng ngừa tình hình các tội phạm nói chung
trong Tội phạm học.
Phạm vi không gian: Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng.
Về thời gian: Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong thời gian từ năm
2013 đến năm 2018.
5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm cơ
bản của Đảng, Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
- Phương pháp nghiên cứu: sử dụng hợp lý và linh hoạt các phương pháp
sau: Tổng kết thực tiễn, quan sát, thống kê hình sự, điều tra điển hình, nghiên
cứu hồ sơ vụ án, phân tích, so sánh, hệ thống, kế thừa…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa về mặt lý luận: Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu
phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy một cách toàn diện, hệ thống và
nhất quán dưới góc độ tội phạm học Việt Nam trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong giảng dạy và học tập tại các trường Luật, các trường Công an, Học
viện khoa học xã hội.
- Ý nghĩa về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần
nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình các tội phạm nói chung và phòng ngừa
tình hình các tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận văn được cấu trúc thành 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về phòng ngừa tình hình các tội
phạm
Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Tăng cường phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình các tội
phạm về ma túy
1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy
Phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm về ma túy nói riêng chính là
một trong những nội dung quan trọng và chiếm một vị trí đặc biệt của lý luận
về tội phạm học. Nghiên cứu về phòng ngừa tội phạm chính là nghiên cứu
những cơ sở, nền tảng, nguyên nhân và điều kiện hình thành tội phạm. Do
vậy, công tác phòng ngừa tội phạm về ma túy chính là đi nghiên cứu những
nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, hình thành tội phạm về ma túy để từ đó
đề ra những giải pháp triệt tiêu những nguyên nhân, điều kiện đó góp phần
làm giảm tội phạm về ma túy.
Ở nước ta từ khi lập nước cho đến nay đã có nhiều văn bản pháp lý trong
công tác phòng ngừa tội phạm về ma túy, cụ thể:
Ngày 15/9/1955 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 580-TTg quy
định cụ thể trường hợp phải đưa ra truy tố trước Tòa án như buôn lậu thuốc
phiện có nhiều người tham gia, có thủ đoạn gian dối, môi giới có tính chất
thường xuyên...
Ngày 25/3/1977, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định 76-CP về
chống buôn lậu thuốc phiện; Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ Nội vụ cũng đã ban hành các thông tư hướng dẫn áp dụng pháp
luật khi điều tra, truy tố, xét xử tội phạm nói chung và tội phạm buôn lậu
thuốc phiện nói riêng.
Năm 1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội Khóa VII đã thông qua Bộ luật
7
hình sự đầu tiên của nước ta quy định về tội phạm và hình phạt, trong đó có
tội phạm về ma túy được quy định tại điều 203 về tội tổ chức sử dụng chất ma
túy và hai điều có liên quan đến ma túy là điều 97 - Tội buôn lậu hoặc vận
chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới và điều 166 - Tội Buôn bán
hàng cấm.
Ngày 10/5/1997 một lần nữa Quốc hội sửa đổi, bổ sung BLHS quy định
hẳn một chương (Chương VIIA) gồm 14 điều quy định tương đối đầy đủ các
hành vi phạm tội mà thực tiễn đấu tranh đặt ra.
Ngày 21/12/1999 BLHS mới được Quốc hội thông qua, trong đó chương
XVIII quy định các tội phạm về ma túy gồm 10 điều luật được quy định và bổ
sung một số tội danh mới. Đến ngày 19/6/2009 tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội
Khóa XII đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều BLHS năm 1999.
Trong lần sửa đổi này đã “phi hình sự hóa” đối với hành vi sử dụng trái phép
chất ma túy và bỏ hình phạt tử hình đối với một số tội như: Tội tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy.
Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XII đã thông qua
BLHS năm 2015 và đến ngày 20/6/2017, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi bổ
sung một số điều BLHS năm 2015, đã bỏ hình phạt tử hình đối với tội tàng
trữ trái phép chất ma túy và tội chiếm đoạt chất ma túy. Tách điều 194 BLHS
năm 1999 thành 4 tội danh độc lập cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh
phòng, chống tội phạm về ma túy.
Trong công tác phòng ngừa tội phạm về ma túy lực lượng Công an là
nòng cốt, các ban, ngành khác có trách nhiệm hỗ trợ, phối hợp với lực lượng
công an để công tác phòng ngừa đạt hiệu quả cao hơn. Như vậy, phòng ngừa
tình hình các tội phạm nói chung, tội phạm ma túy nói riêng không chỉ là
nhiệm vụ của một cá nhân hay cơ quan nào mà phải đồng bộ của cả hệ thống
chính trị, của toàn xã hội. Điều này là hoàn toàn phù hợp với các văn kiện
8
Nghị Quyết của Đảng, pháp luật Nhà nước và lợi ích chung của xã hội.
Tình hình các tội phạm nói chung, tình hình các tội phạm về ma túy nói
riêng chính là một phạm trù cơ bản của tội phạm học. Tình hình các tội phạm
về ma túy gồm tất cả các dấu hiệu của tình hình các tội phạm này với tính
cách là một hiện tượng xã hội có sự thống nhất biện chứng. Tình hình các tội
phạm, trước hết là một hiện tượng xã hội - dấu hiệu này nói lên bản chất xã
hội của tình hình các tội phạm
Nghiên cứu tình hình các tội phạm về ma túy thể hiện dấu hiệu về không
gian và thời gian của tình hình các tội phạm, xác định rõ quy mô của hiện
tượng trên địa bàn một đơn vị hành chính cấp tỉnh và khoảng thời gian nhất
định, thể hiện một giai đoạn phát triển nhất định của nó. Nói cách khác, ngoài
những dấu hiệu, đặc điểm chung của tình hình các tội phạm, sự thống nhất
biện chứng của tất cả các yếu tố cấu thành tình hình các tội phạm về ma túy
còn biểu hiện ở các thông số về lượng, về chất và cơ cấu, tính chất của nó.
Tình hình các tội phạm về ma túy là một hình thức biểu hiện cụ thể, riêng, đặc
trưng của một nhóm tội phạm quy định trong BLHS. Chỉ có thể đánh giá
đúng hiện thực của tình hình các tội phạm về ma túy trên cơ sở nắm vững các
thông số phản ánh về tình trạng, cơ cấu và tính chất của tình hình các tội
phạm về ma túy trong sự vận động theo thời gian ở một địa bàn hành chính lãnh thổ nhất định. Và như vậy, trước hết, cần xác định việc nghiên cứu theo
hướng tình hình các tội phạm về ma túy là nghiên cứu tình hình nhóm tội
phạm về ma túy. Tình hình các tội phạm về ma túy là một hiện tượng xã hội,
pháp lý - hình sự, bị tác động và thay đổi về mặt lịch sử, mang tính giai cấp,
bao gồm tổng thể các tội phạm về ma túy thực hiện trên một địa bàn nhất
định nói riêng và các địa bàn khác (có liên quan) nói chung trong khoảng
thời gian được xác định. Khái niệm này cần được nhận thức trước hết nó phản
ánh hiện thực của đời sống xã hội đặc thù của một khu vực, địa bàn, đồng thời
9
chỉ ra những mâu thuẫn tồn tại trong hiện thực của hiện tượng xã hội, pháp lý
tiêu cực,...gắn kết với tình hình các tội phạm. Trên cơ sở tổng hợp các quan
điểm khoa học, các văn bản pháp lý cũng như những phân tích, đánh giá của
tác giả về tình hình các tội phạm ma túy, tác giả có thể rút ra được khái niệm
phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy như sau: Phòng ngừa tình hình
các tội phạm về ma túy là hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân bằng
việc sử dụng đồng bộ các biện pháp khác nhau nhằm loại bỏ những nguyên
nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm về ma túy, đồng thời cải tạo, giáo
dục họ thành người có ích cho xã hội góp phần giữ vững an ninh quốc gia,
trật tự an toàn xã hội.
1.1.2. Đặc điểm phòng ngừa tội phạm về ma túy
- Nghiên cứu đặc điểm phòng ngừa tội phạm về ma túy là quá trình
chúng ta đi nghiên cứu những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm
về ma túy và biện pháp tác động vào nguyên nhân, điều kiện đó nhằm ngăn
ngừa trước không cho tội phạm xảy ra. Các biện pháp để phòng ngừa tội
phạm về ma túy như đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần cho người dân để
con người không thực hiện hành vi phạm tội do thiếu thốn vật chất hay do hạn
chế nhận thức, đó là các biện pháp về kinh tế, văn hóa, xã hội, tâm lý, giáo
dục...thực hiện tốt công tác cai nghiện, xử lý người nghiện và công tác sau sai
nghiện, tạo công ăn việc làm cho họ. Về bản chất các biện pháp này không
mang tính cưỡng chế bắt buộc nên có thể được xây dựng và triển khai bởi
nhiều chủ thể khác nhau, tuy nhiên phải tuân thủ theo các nguyên tắc của
phòng ngừa tội phạm.
- Phòng ngừa tội phạm mang tính cưỡng chế nhà nước nhằm kịp thời
phát hiện, xử lý sau khi tội phạm đã xảy ra nhằm tiếp tục phòng ngừa tội
phạm. Các biện pháp này được thực hiện từ giai đoạn phát hiện, điều tra của
cơ quan công an, đến giai đoạn truy tố, xét xử của VKS và Tòa án.
10
1.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu phòng ngừa tình hình các tội phạm
về ma túy
- Ý nghĩa về lý luận của phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy:
Nghiên cứu về tội phạm học khẳng định, phòng ngừa tình hình các tội phạm
chỉ có thể đạt được trên cơ sở đã hiểu rõ tình hình các tội phạm cũng như xác
định được quy luật vận động của khách thể đó. Quy luật này chính là đối
tượng nghiên cứu của tội phạm học và nó được xác định thông qua việc
nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện tình hình các tội phạm trên cơ sở hành vi
phạm tội. Như vậy, việc nghiên cứu tội phạm về ma túy chính là chúng ta đi
nghiên cứu những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm về ma túy
cũng như đi nghiên cứu những yếu tố tác động đến người có hành vi lệch
chuẩn với xã hội. Chính vì vậy, muốn phòng ngừa tội phạm về ma túy đạt
hiệu quả phải khống chế hoặc loại trừ các nguyên nhân, điều kiện làm phát
sinh tội phạm ma túy và các tệ nạn khác liên quan đến ma túy.
- Ý nghĩa về thực tiễn của phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy:
Việc nghiên cứu phòng ngừa tình hình các tội phạm ma túy có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm về ma túy. Vì
nghiên cứu phòng ngừa tình hình các tội phạm ma túy chính là đi tìm hiểu
nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm ma túy cũng như những yếu tố
tác động đến người thực hiện hành vi phạm tội.
Phòng ngừa tội phạm về ma túy là một phương hướng mang tính chiến
lược lâu dài, không phải một sớm, một chiều mà có thể xóa bỏ hoặc triệt tiêu
ra khỏi xã hội, mà chỉ có thể từng bước kìm hãm và giảm đi tình trạng tội
phạm ma túy. Giúp cho các cơ quan chức năng phát hiện những nguyên nhân,
điều kiện phát sinh tội phạm ma túy. Ngoài ra, việc thực hiện phòng ngừa tình
hình các tội phạm ma túy còn có ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc, làm tốt công
tác phòng ngừa tình hình các tội phạm ma túy sẽ góp phần giữ vững an ninh
11
quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệc tính mạng, tài sản người dân, làm cho
nhân dân tin tưởng vào chế độ, vào Đảng, Nhà nước ta, vào lực lượng Công
an, Tòa Án, Viện kiểm sát.
1.2. Các nguyên tắc phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy
1.2.1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo
Điều 4 Hiến pháp 2013 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” trong đó tất nhiên bao gồm sự lãnh đạo
hoạt động phòng ngừa tội phạm. Nội dung của nguyên tắc Đảng lãnh đạo thể
hiện ở chỗ mọi hoạt động phòng ngừa tình hình các tội phạm cũng như hoạt
động của các chủ thể tiến hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm đều đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng ta đều kịp thời có các chỉ
thị, nghị quyết quan trọng để lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh
quốc gia và trật tự an toàn xã hội: Nghị quyết về nhiệm vụ quốc phòng bảo vệ
an ninh quốc gia chống "diễn biến hoà bình", Chiến lược bảo vệ an ninh quốc
gia, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Nghị quyết về nâng cao hiệu quả, ....
Việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về bảo vệ an ninh quốc gia và
giữ gìn trật tự an toàn xã hội đã tạo được sự chuyển biến rõ nét trong nhận
thức của cán bộ, đảng viên, các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân về
nhiều vấn đề lớn quan hệ đến sự lãnh đạo của Đảng, về chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, về sự nghiệp đổi mới, củng cố lòng tin vào sự lãnh đạo của
Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa; đồng thời cũng nhận thức rõ hơn về khó
khăn và thách thức mà Đảng ta, nhân dân ta phải khắc phục trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế; về âm mưu, hoạt động phá hoại cách mạng của các
thế lực thù địch, hoạt động của các loại tội phạm. Từ đó nâng cao ý thức cảnh
giác cách mạng và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân
đối với nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, phòng chống tội phạm, bài trừ tệ
nạn xã hội.
12
1.2.2. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động phòng ngừa tội
phạm về ma túy được hiểu là hoạt động phòng ngừa các tội phạm này phải
tuân thủ các quy định của pháp luật. Các quy định của pháp luật ở đây được
hiểu là các quy định của Hiến pháp, các văn bản luật và các văn bản quy
phạm pháp luật khác có liên quan đến hoạt động phòng ngừa các tội phạm về
ma túy. Việc tuân thủ các quy định của pháp luật trong phòng ngừa các tội
phạm này không chỉ thể hiện trong việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội
phạm mà còn thể hiện ở các biện pháp chữa trị cho người nghiện ma túy.
Để nguyên tắc pháp chế được tuân thủ trong hoạt động phòng ngừa tội
phạm về ma túy thì yêu cầu các quy định của pháp luật về phòng ngừa tội
phạm được hoàn thiện; bên cạnh đó, ý thức tuân thủ các quy định pháp luật từ
các chủ thể phòng ngừa tội phạm cũng giữ vai trò rất quan trọng.
1.2.3. Nguyên tắc dân chủ
Tại Điều 8, Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước được tổ chức và
hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và
pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Do vậy, nguyên tắc dân chủ trong hoạt động phòng ngừa tội phạm về ma
túy được hiểu là hoạt động phòng ngừa phải có sự tham gia của toàn thể các
tầng lớp, lực lượng trong xã hội, đặc biệt là quần chúng nhân dân. Phòng
ngừa tội phạm thực chất là hoạt động quản lý xã hội, mà hoạt động này muốn
đạt hiệu quả cần phải có sự tham gia của toàn xã hội.
Để quần chúng thực hiện cho đúng đòi hỏi các cơ quan bảo vệ pháp luật
phải hướng dẫn, tạo điều kiện cho quần chúng tham gia phòng ngừa tội phạm
thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau như xây dựng, triển khai các chương
trình phòng chống tội phạm huy động sự tham gia của quần chúng nhân dân,
tiếp nhận và xử lý có hiệu quả các tin tố giác tội phạm từ quần chúng nhân
13
dân, hướng dẫn, huấn luyện cho các tổ chức nhân dân tự quản các biện pháp
cần thiết trong việc phát hiện, xử lý các hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật
về phòng, chống ma túy v.v…
1.2.4. Nguyên tắc nhân đạo
Nguyên tắc nhân đạo trong hoạt động phòng ngừa tội phạm về ma túy
được hiểu là các biện pháp phòng ngừa tội phạm này không nhằm làm tổn
thương con người mà phải hướng con người tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Con
người được đề cập ở đây có thể là bị can, bị cáo, người phạm tội, người
nghiện ma túy, những người khác chịu sự tác động từ các biện pháp phòng
ngừa tội phạm.
Khi triển khai, áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm về ma túy,
chủ thể phòng ngừa tội phạm vì mục đích phòng ngừa tội phạm có thể sẽ áp
dụng các biện pháp vô tình gây tổn thương đến bị can, bị cáo, người phạm tội,
người nghiện ma túy và những người là nạn nhân gián tiếp của tội phạm.
Chính vì vậy, ngoài việc tuân thủ pháp luật, tiêu chí rất quan trọng để các chủ
thể quyết định áp dụng một biện pháp phòng ngừa tội phạm là cân nhắc xem
biện pháp đó có nguy cơ gây tổn thương đến đối tượng nào trong xã hội hay
không.
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc nhân đạo trong hoạt động phòng ngừa
tội phạm có ý nghĩa bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của những người có liên
quan, bảo đảm tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa của nhà nước ta trong hoạt
động phòng ngừa tội phạm và nhằm hướng đến mục đích chung nhất là nâng
cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội phạm, bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp
pháp của con người.
1.2.5. Nguyên tắc khoa học
Cùng với sự phát triển của xã hội, tội phạm hoạt động ngày càng tinh vi
và hiện đại, đặc biệt trong các lĩnh vực như bảo hiểm, tài chính, ngân hàng, cờ
14
bạc... Chính vì vậy trong phòng ngừa tình hình các tội phạm thì việc áp dụng
nguyên tắc khoa học và tiến bộ trong áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình
hình các tội phạm phải được xây dựng đồng bộ trên cơ sở khoa học, các thành
tựu khoa học nhất định, phải ứng dụng các thành tựu của khoa học và công
nghệ trong việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Các biện pháp
phòng ngừa tội phạm luôn phải đảm bảo cho mọi người có cơ hội phát triển
bình đẳng, không được phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới tính, thái độ chính
trị.
1.2.6. Nguyên tắc phối hợp của các chủ thể phòng ngừa
Trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm đòi hỏi các chủ thể tiến
hành phải phối hợp với nhau để phát huy hiệu quả cao nhất. Việc phối hợp
phải đặt trong một cơ chế chặt chẽ, nhịp nhàng, có sự điều hành thống nhất
giữa các cơ quan chuyên trách và không chuyên trách, giữa các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế và mọi công dân, giữa trung
ương với địa phương.
Để thực hiện nguyên tắc này, trước hết phải đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt
đối của Đảng. Các chương trình, kế hoạch đấu tranh phòng chống tội phạm
phải được xây dựng một cách khoa học, quá trình áp dụng phải đồng bộ, có sự
chỉ đạo thống nhất, tập trung.
1.3. Các chủ thể phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy
- Đối với đảng bộ các cấp: Đây là chủ thể quan trọng trong phòng ngừa
tội phạm ma túy. Vai trò của Đảng bộ địa phương, chi bộ các cấp đưa ra
những chủ trương, đường lối để hoạt động phòng ngừa đạt hiệu quả cao hay
không, đảng lãnh đạo toàn diện về mọi mặt đối với các cơ quan, ban ngành
trong trực tiếp đấu tranh với tội phạm về ma túy, giám sát các cơ quan Công
an, Tòa án, Viện kiểm sát... cùng cấp kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót
trong công tác phòng ngừa tình hình các tội phạm ma túy theo chức năng của
15
từng cơ quan, từ đó có những biện pháp uốn nắn, khắc phục những sai sót,
khuyết điểm đó.
- Hội đồng nhân dân các cấp: Đây là chủ thể quan trong trong phòng
ngừa tội phạm về ma túy. Trong phạm vi thẩm quyền của mình Hội đồng
nhân dân các cấp sẽ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về những vấn
đề phòng ngừa tội phạm nói chung và tình hình các tội phạm ma túy nói
riêng, kiểm tra thực hiện chúng, xem tình hình phòng ngừa tội phạm nói
chung, tội phạm ma túy nói riêng có đạt hiệu quả hay không.
- Các cơ quan bảo vệ pháp luật địa phương là chủ thể nòng cốt trong
việc phòng ngừa tội phạm về ma túy
+ Cơ quan công an: Công an các địa phương theo chức năng, nhiệm vụ
của mình, quá trình đấu tranh với tội phạm ma túy sẽ nghiên cứu tình hình các
tội phạm ma túy nói chung, các khuynh hướng của tình hình các tội phạm về
ma túy và tham mưu cho chính quyền các cấp giải quyết những vấn đề không
thuộc phạm vi xử lý của mình. Cơ quan công an là một trong những cơ quan
tham gia chính vào việc phối hợp và xây dựng kế hoạch tổng thể trong phòng
ngừa tình hình các tội phạm ma túy mà cụ thể ở đây là lực lượng CSĐTTP về
ma túy ở các cấp.
Lực lượng CAND các cấp cần nghiên cứu tình trạng tội phạm ma túy
xảy ra trên địa phương mình quản lý để xác định chính xác những nguyên
nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm nói chung, tội phạm về ma túy nói
riêng để có biện pháp phòng ngừa thích hợp theo đúng chức năng, nhiệm vụ
mà Nhà nước giao phó.
Lực lượng Công an tiến hành phòng ngừa theo hai hướng đó là phòng
ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp vụ.
+ Viện kiểm sát nhân dân các cấp: VKSND thực hiện chức năng công tố,
kiểm sát việc thực hiện theo đúng pháp luật quy định trong hoạt động điều tra,
16
xét xử, thi hành án...Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, VKS sử
dụng tổng thể các quyền năng pháp lý được Nhà nước giao để truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với những người có hành vi vi phạm pháp luật về ma túy
sao cho đúng người, đúng tội, không bỏ sót lọt, làm oan người vô tội. Bên
cạnh đó, VKS còn giám sát việc tuân thủ chấp hành pháp luật của các chủ thể
khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, bất cứ chủ thể nào có hành vi
vi phạm điều có chế tài xử lý phù hợp tương xứng với hành vi đã gây ra, tránh
việc lạm quyền để vi phạm pháp luật, đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng
của pháp luật đối với mọi người dân trong xã hội.
VKS còn có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan hữu quan khác trong
việc làm sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện của tình trạng tội phạm ma túy, phát
hiện nhanh chóng, chính xác tội phạm; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; thống kê,
nghiên cứu tội phạm và các vi phạm pháp luật khác để đề ra các giải pháp
phòng ngừa tình hình các tội phạm ma túy với các cơ quan có thẩm quyền đạt
hiệu quả cao.
+ Tòa án nhân dân các cấp: Vai trò của TAND là xét xử, do đó để thực
hiện tốt công tác phòng ngừa tình hình các tội phạm ma túy là phải xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Qua xét xử sẽ làm rõ được bản chất của
vụ án, động cơ, nguyên nhân, điều kiện của chủ thể thực hiện hành vi phạm
tội để đưa ra hình phạt tương xứng với hành vi mà người đó đã thực hiện.
Cũng qua xét xử, tòa án các cấp sẽ đề xuất, tham mưu các cấp, ban ngành có
liên quan trong việc loại bỏ những nguyên nhân, điều kiện tác động hình
thành hành vi phạm tội của đối tượng.
- Ủy ban MTTQVN, các ban, ngành, các hội, đoàn, tổ chức xã hội, tập
thể quần chúng lao động và cá nhân là những chủ thể của việc phòng ngừa
tình hình các tội phạm.
Vai trò của UBMTTQVN là tuyên truyền, vận động nhân dân, thành
17
viên của tổ chức mình tham gia phòng ngừa, phát hiện tội phạm nói chung, tội
phạm ma túy nói riêng. Kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
trong việc xử lý tội phạm ma túy và các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy.
Thực hiện quyền giám sát và phản biện xã hội những hành vi phạm tội về ma
túy, những cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật về ma túy.
Các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội tùy theo chức năng, nhiệm vụ
của mình mà mỗi cơ quan, đơn vị có những hình thức, nội dung, biện pháp
tham gia vào hoạt động phòng ngừa tình hình các tội phạm một cách phù hợp
nhất
Các cá nhân cần phải thực hiện tốt các quyền, nghĩa vụ của công dân
theo đúng Hiến pháp và pháp luật Nhà nước quy định, thực hiện tốt các quy
định của địa phương, nội quy, quy định của đơn vị, cơ quan công tác. Mỗi cá
nhân cần hưởng ứng và tham gia nhiệt tình các phong trào đấu tranh phòng
chống tội phạm về ma túy do chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị mình
tổ chức.
1.4. Nội dung phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy
1.4.1. Tiến hành các hoạt động phòng ngừa tình hình các tội phạm về
ma túy
Tiến hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm (phòng ngừa xã hội) là
khắc phục các nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Có rất nhiều nguyên nhân
và điều kiện phạm tội về ma túy như: tác động của nền kinh tế thị trường, tư
tưởng lạc hậu, nhận thức hạn chế, pháp luật còn nhiều lỗ hổng hoặc chưa có
tính răn đe,… Khi nhìn một cách tổng quan, có thể thấy được việc khắc phục
nguyên nhân và điều kiện phạm tội về ma túy có thể thực hiện hai phương
diện sau:
Thứ nhất, cải thiện quan hệ xã hội gồm các quan hệ giáo dục, việc làm,
quản lý… nâng cao nhận thức, trình độ văn hóa của con người là vô cùng
18
quan trọng. Người phạm tội có trình độ học vấn thấp, nhận thức pháp luật hạn
chế; lười lao động, không có việc làm hoặc người phạm tội có những nét tâm
lý tiêu cực trong nhân cách thì rất dễ bị bọn xâu rủ rê, lôi kéo, mua chuộc đi
vào con đường phạm tội, con đường nghiện ma túy so với những người có
nhận thức đúng đắn, có tinh thần đấu tranh chống cái xấu, bảo vệ cái tốt.
Vì vậy, việc đề cao giáo dục, hình thành nhân cách con người là một
trong những yêu cầu thiết yếu góp phần quan trọng vào hoạt động phòng ngừa
tội phạm về ma túy.
Thứ hai, cần cải thiện hệ thống pháp luật, tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật. Phòng ngừa tội phạm ở khía cạnh này mang tính tích
cực, chủ động và đem lại hiệu quả cao, có khả năng xóa bỏ tận gốc tội phạm,
do đó cần được ưu tiên nghiên cứu và áp dụng trong thực tiễn.
1.4.2. Phát hiện xử lý tội phạm
Trọng tâm của hoạt động này là hoạt động điều tra, xét xử, cải tạo người
phạm tội (phòng ngừa bằng sự cưỡng chế). Tác dụng phòng ngừa tội phạm
phát huy khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, tiến hành đúng các thủ tục tố
tụng và đặc biệt là hiệu quả răn đe phòng ngừa riêng, phòng ngừa chung từ
việc áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự. Sự tổn thất mà người phạm
tội phải chịu đựng từ một hình phạt nghiêm khắc hơn so với những gì có được
từ việc phạm tội có thể đạt được sự kiểm soát tội phạm. Hình phạt ở mức hợp
lý có vai trò quan trọng nhất đối với phòng ngừa tội phạm. Hình phạt không
phải là biện pháp xử lý duy nhất đối với tội phạm, hơn nữa hiệu quả của nó
còn phụ thuộc vào quá trình cải tạo người phạm tội. Thông qua công tác khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng quy định
của pháp luật, tạo lòng tin trong nhân dân; biện pháp quản lý các đối tượng
hình sự, đối tượng có tiền án, tiền sự, những đối tượng có nguy cơ sẽ thực
hiện hành vi phạm tội nhằm làm vô hiệu hóa hoặc loại bỏ nguyên nhân, điều
19
kiện của tình hình các tội phạm nói chung.
1.5. Mối liên hệ giữa nghiên cứu phòng ngừa tội phạm về ma túy với
nghiên cứu tình hình và nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội
phạm về ma túy
Phòng ngừa tội phạm là hoạt động của tất cả các cơ quan bảo vệ pháp
luật, các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội và của mọi công dân trong xã
hội áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp khác nhau hướng vào thủ tiêu
những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, cũng như loại bỏ các yếu tố tiêu
cực ảnh hưởng đến quá trình hình thành phẩm chất cá nhân tiêu cực, đồng
thời từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống
xã hội.
Các nhân tố xã hội mang tính quy luật khách quan đóng vai trò căn bản,
gốc rễ phát sinh hoặc những hoàn cảnh, điều kiện thuận lợi cho phát triển
những hiện tượng, quá trình tiêu cực xã hội nói trên được gọi là nguyên nhân
và điều kiện của tình hình các tội phạm. Các nhân tố xã hội này gắn liền móc
xích với nhau chịu sự tác động, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau theo những quy
luật nhất định. Chính nhu cầu nhận thức chân lý khách quan diễn ra gắn liền
với những biến động, thay đổi mang tính quy luật đó đã làm phát sinh, phát
triển tội phạm học - như một hệ thống trí thức về tình hình các tội phạm, về
nguyên nhân điều kiện của tình hình các tội phạm, cũng như những giải pháp
phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các nhân tố tiêu cực. Như vậy,
việc nghiên cứu phòng ngừa tình hình các tội phạm với nghiên cứu tình hình
các tội phạm và nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội phạm có mối
quan hệ khăng khít với nhau, cả hai cùng là đối tượng nghiên cứu của tội
phạm học vì tội phạm học được sinh ra nhằm nghiên cứu những quy luật
khách quan gắn liền với tình hình các tội phạm, nguyên nhân điều kiện của
tình hình các tội phạm và các giải pháp phòng ngừa ngăn chặn vô hiệu hóa
20