Tải bản đầy đủ (.pdf) (234 trang)

Sự tương thích và mâu thuẫn giữa pháp luật tố tụng dân sự với pháp luật dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5 MB, 234 trang )

T
TR ỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ N I

ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤ TR ỜNG

SỰ T ƠNG T ÍC

VÀ MÂU T UẪN GIỮA PHÁP LUẬT

TỐ TỤNG DÂN SỰ VỚI PHÁP LUẬT DÂN SỰ

Chủ nhiệm đề tài : PGS. TS. Bùi Thị Huyền
Thư ký

: ThS. Đặng Quang Huy

MÃ SỐ: LH – 2016 – 21/ Đ L - HN

HÀ N I – 2018


Danh sách tham gia thực hiện đề tài
1

TS. Bùi Thị Huyền

Trường Đại học
Luật Hà Nội

- Chủ nhiệm đề tài;
- Tác giả chuyên đề 1;


- Báo cáo tổng thuật đề tài;
- Đồng tác giả chuyên đề 2, 3

2

Đặng Quang Huy

Trường Đại học
Luật Hà Nội

Thư ký đề tài, đồng tác giả
chuyên đề 3

3

PGS.TS. Trần Anh Tuấn

Trường Đại học
Luật Hà Nội

Đồng tác giả chuyên đề 2

4

TS. Nguyễn Thị Thu Hà

Trường Đại học
Luật Hà Nội

Đồng tác giả chuyên đề 2


5

TS. Trần Phương Thảo

Trường Đại học
Luật Hà Nội

Đồng tác giả chuyên đề 2

6

ThS. Vũ Hoàng Anh

Trường Đại học
Luật Hà Nội

Đồng tác giả chuyên đề 2, 3

7

NCS. Bùi Thị Hà

Học viện tư pháp Đồng tác giả chuyên đề 2

8

NCS. Nguyễn Thị Hương

9


Phan Thanh Dương

TAND tỉnh
Hưng Yên
Trường Đại học
Luật Hà Nội

Tác giả chuyên đề 4
Đồng tác giả chuyên đề 3


Bảng từ viết tắt
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

BLTTDS năm 2015

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004,
sửa đổi bổ sung năm 2011

BLTTDS năm 2004
(sửa đổi bổ, sung năm 2011)

Bộ luật dân sự năm 2015

BLDS năm 2015

Tòa án nhân dân

TAND


Viện kiểm sát

VKS

Vụ án dân sự

VADS

Việc dân sự

VDS

Tố tụng dân sự

TTDS


MỤC LỤC
Trang
Phần thứ nhất: Báo cáo tổng thuật kết quả thực hiện đề tài

1

Phần thứ hai: Các chuyên đề nghiên cứu

59

Chuyên đề 1: Lý luận về sự tương thích và mâu thuẫn giữa pháp luật tố
tụng dân sự với pháp luật dân sự

Chuyên đề 2: Sự tương thích và bất cập giữa một số quy định của phần
chung của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và pháp luật dân sự

60

Chuyên đề 3: Sự tương thích và bất cập giữa một số quy định của phần
chung thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 và pháp luật dân sự

147

Chuyên đề 4: Những vướng mắc, bất cập khi áp dụng pháp luật tố tụng
dân sự và pháp luật dân sự qua thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự tại
Tòa án

188

78


PHẦN THỨ NHẤT
BÁO CÁO TỔNG THUẬT
KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

1


MỤC LỤC

I. Khái quát chung về đề tài ............................................................................... 3

1.1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ................................................... 3
1.2. Mục tiêu, đối tượng và phương pháp nghiên cứu ....................................... 5
1.3. Kết quả nghiên cứu ..................................................................................... 5
II. Lý luận về sự tương thích và mâu thuẫn giữa pháp luật tố tụng dân sự
và pháp luật dân sự ............................................................................................. 6
2.1. Mối quan hệ giữa pháp luật tố tụng dân sự với pháp luật dân sự ............... 6
2.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự trong mối liên hệ với
pháp luật dân sự ............................................................................................... 10
III. Sự tương thích và mâu thuẫn giữa pháp luật tố tụng dân sự và pháp
luật dân sự - Thực trạng, nguyên nhân và giải quyết .................................... 12
3.1. Sự tương thích giữa pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật dân sự ........... 12
3.1.1. Sự tương thích giữa pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật dân sự về
các quy định phần chung của Bộ luật Tố tụng dân sự.................................. 12
3.1.2. Sự tương thích giữa pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật dân sự về
các quy định phần thủ tục giải quyết vụ án dân sự của Bộ luật Tố tụng dân
sự ................................................................................................................... 26
3.2. Thực trạng pháp luật về những vấn đề mâu thuẫn, chưa tương thích giữa
pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật dân sự và giải pháp hoàn thiện pháp luật
.......................................................................................................................... 35
3.2.1. Thực trạng pháp luật về những vấn đề mâu thuẫn, chưa tương thích
giữa các quy định về phần chung của BLTTDS năm 2015 và pháp luật dân
sự - giải pháp hoàn thiện pháp luật .............................................................. 35
3.2.2. Thực trạng pháp luật về những vấn đề mâu thuẫn, chưa tương thích
giữa các quy định về phần thủ tục giải quyết vụ án dân sự của BLTTDS năm
2015 và pháp luật dân sự - giải pháp hoàn thiện pháp luật ......................... 51

2


I. Khái quát chung về đề tài

1.1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Tính thống nhất trong hệ thống pháp luật là một yêu cầu khách quan 1. Đối
với pháp luật tố tụng dân sự, tính thống nhất của hệ thống pháp luật được thể
hiện ở các nội dung sau:
- Thứ nhất, thống nhất giữa BLTTDS với Hiến pháp
- Thứ hai, thống nhất giữa BLTTDS và pháp luật dân sự theo nghĩa rộng (bao
gồm BLDS, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Đất đai, Luật Thương mại, Bộ
luật Lao động…) – Tính thống nhất giữa hình thức và nội dung
- Thứ ba, thống nhất giữa BLTTDS với các luật khác có liên quan như Luật
Thi hành án dân sự, Luật Trọng tài thương mại….
- Thứ tư, thống nhất trong nội tại BLTTDS.
Trong đó, khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án cần áp dụng cả các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật nội dung. Các quy định của pháp luật
tố tụng quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự, quyền
và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng. Còn pháp luật nội dung sẽ quy định về nội dung giải
quyết các vụ việc dân sự. Trong cuốn “Thủ tục tố tụng”, giáo sư về tố tụng nổi
tiếng của Mỹ đã viết trong luật, tất cả những vấn đề về thủ tục là những vấn đề
nền tảng cho nội dung và người lại2. Chính vì vậy, sự tương thích của pháp luật
TTDS và pháp luật nội dung sẽ đảm bảo thuận lợi cho Tòa án trong việc giải
quyết vụ án cũng như thuận lợi cho các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự. Và ngược lại, sự mâu thuẫn, không đồng bộ giữa pháp luật TTDS và pháp
luật nội dung sẽ dẫn đến cách hiểu và áp dụng khác nhau giữa các Tòa án, sự
không thống nhất trong đường lối giải quyết vụ án của Tòa án, khó khăn cho
đương sự, luật sư khi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02/10/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp đã đánh giá: “Pháp luật trong lĩnh vực tư pháp chưa
hoàn thiện, thiếu đồng bộ và còn nhiều sơ hở. Công tác xây dựng, giải thích,
hướng dẫn và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó có pháp luật

1

GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa “Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp bộ: Nghiên cứu tính thống nhất
giữa Bộ luật Hình sự trong việc quy định các tội phạm với các luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam”, Hà
Nội 2016; tr 2
2
John Henry Merryman: Truyền thống luật dân sự: Giới thiệu về hệ thống luật Tây Âu và Mỹ - La tinh, kỷ yếu
về Hội thảo về Tố tụng dân sự, Hà Nôi, 1998, tr.1.

3


về lĩnh vực tư pháp còn nhiều mâu thuẫn, hạn chế”.
Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật BLDS và pháp luật dân sự (theo
nghĩa rộng ) cho thấy, một số các quy định của pháp luật tố tụng dân sự và pháp
luật dân sự chưa thực sự tương thích với nhau dẫn đến cách hiểu và áp dụng
khác nhau trên thực tế như: Quy định về nơi cư trú của cá nhân, về địa điểm mở
thừa kế không tương thích với quy định của BLTTDS về nguyên tắc xác định
thẩm quyền theo lãnh thổ; Quy định về quyền yêu cầu giải quyết một số loại
việc dân sự chưa cụ thể dẫn đến khó khăn trong việc xác định quyền khởi kiện,
quyền yêu cầu của đương sự trong TTDS; Quy định về người đại diện trong
pháp luật TTDS và pháp luật dân sự, pháp luật Hôn nhân và gia đình năm, pháp
luật về sở hữu trí tuệ, pháp luật thương mại nhiều điểm chưa rõ ràng; Quy định
về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu chưa rõ ràng; Quyền của của chủ sở
hữu chưa được bảo vệ triệt để dẫn đến khó khăn khi giải quyết tranh chấp và thi
hành án dân sự….
Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua tính thống nhất giữa pháp luật nội dung
và pháp luật tố tụng dân sự chưa thực sự được chú ý trong thực tiễn lập pháp
cũng như trong khảo sát, nghiên cứu. Đến nay chưa có nội dung nghiên cứu trực
tiếp và tổng thể về sự tương thích và mâu thuẫn giữa pháp luật tố tụng dân sự và

pháp luật dân sự trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Do vậy, việc nghiên cứu đề
tài “Sự tương thích và mâu thuẫn giữa pháp luật tố tụng dân sự với pháp
luật dân sự” là vấn đề cấp thiết. Nghiên cứu nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật TTDS là hướng nghiên cứu chung của nhiều công trình dưới các dạng
khác nhau. Các công trình này có thể đưa ra các đề xuất nhằm hoàn thiện pháp
luật TTDS dựa trên cơ sở:
- Đánh giá các quy định của pháp luật TTDS qua so sánh với lý luận;
- Đánh giá thực trạng pháp luật TTDS qua phân tích luật thực định và thực
tiễn áp dụng;
- Đánh giá các quy định của pháp luật TTDS qua so sánh với thực tiễn lập
pháp của một số các quốc gia cũng như các nguyên tắc tố tụng của chuẩn mực
quốc tế…
Đề tài của nhóm tác giả tuy hướng tới việc hoàn thiện pháp luật TTDS nhưng
không dựa trên các hướng nghiên cứu nêu trên. Đề tài đề xuất việc hoàn thiện
pháp luật TTDS theo hướng nghiên cứu mới. Đó là, đánh giá sự tương thích và
mâu thuẫn giữa pháp luật tố tụng dân sự với pháp luật dân sự và dựa trên cơ sở
4


đó để đề xuất hoàn thiện pháp luật TTDS.
1.2. Mục tiêu, đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài trước hết có mục tiêu làm rõ mối quan hệ biện chứng
giữa pháp luật dân sự với pháp luật dân sự, định hướng hoàn thiện pháp luật
TTDS trong mối quan hệ với pháp luật dân sự nhằm đảm bảo sự tương thích
giữa pháp luật TTDS với pháp luật dân sự.
Trên cơ sở đối chiếu với lý luận về tính thống nhất của pháp luật dân sự với
pháp luật dân sự, đánh giá thực tiễn áp dụng tại các Tòa án và tham khảo kinh
nghiệm lập pháp của một số nước, đề tài đề xuất các kiến nghị nhằm đảm bảo
tính thống nhất giữa pháp luật TTDS với pháp luật dân sự. Theo đó, đề tài làm
rõ mối quan hệ giữa pháp luật TTDS và pháp luật dân sự, khái quát đặc trưng

của pháp luật TTDS và pháp luật dân sự. Từ đó, rút ra cơ sở lý luận, định hướng
cho việc hoàn thiện pháp luật TTDS trong những trường hợp pháp luật TTDS
không thống nhất với pháp luật dân sự.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, đề tài tập trung nghiên cứu các quy định
của phần chung BLTTDS, phần thủ tục giải quyết vụ án dân sự, Bộ luật Dân sự
năm 2015, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật Thương mại năm 2005,
Luật Đất đai năm 2012, Bộ luật Lao động năm 2012 và một số văn bản luật khác
có liên quan. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này chúng tôi, chỉ tập trung vào
những vấn đề của pháp luật TTDS mà có mối quan hệ mật thiết với pháp luật
dân sự. Đối với các quy định chung của luật TTDS, đề tài tập trung nghiên cứu
về: Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự, nguyên tắc Tòa án không được
từ chối thụ lý vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật áp dụng, vấn đề xác định
thẩm quyền của Tòa án, xác định tư cách của đương sự và người đại diện của
đương sự, về biện pháp khẩn cấp tạm thời. Đối với các quy định về thủ tục giải
quyết vụ án dân sự, đề tài tập trung nghiên cứu về khởi kiện vụ án dân sự, hòa
giải vụ án dân sự, một số căn cứ tạm đình chỉ và đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự. Bên cạnh đó, đề tài cũng đi sâu nghiên cứu thực tiễn áp dụng BLTTDS về
các nội dung nêu trên từ 1/7/2016 đến nay và thực tiễn lập pháp có liên quan của
các quốc gia như Cộng hòa Pháp, Nhật Bản, Liên bang Nga.
Với mục đích và đối tượng nghiên cứu nêu trên, đề tài chủ yếu sử dụng
phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, khảo sát thực tiễn.
1.3. Kết quả nghiên cứu
Đề tài đã đạt được các kết quả nghiên cứu sau:
5


- Thứ nhất, đề tài làm rõ được mối quan hệ giữa mối quan hệ biện chứng giữa
pháp luật dân sự với pháp luật dân sự, đặc trưng cơ bản của pháp luật định
hướng hoàn thiện pháp luật TTDS trong mối quan hệ với pháp luật dân sự trong
trường hợp có mâu thuẫn.

- Thứ hai, đánh giá mức độ tương thích giữa pháp luật TTDS và pháp luật dân
sự
- Thứ ba, đề tài chỉ ra những điểm mâu thuẫn giữa pháp luật TTDS và pháp
luật dân sự, luận giải nguyên nhân và đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật TTDS đối với các vấn đề có mâu thuẫn với pháp luật dân sự.
Kết quả tổng hợp nghiên cứu đề tài, bao gồm:
- Những vấn đề lý luận về sự tương thích và mâu thuẫn giữa pháp luật TTDS
và pháp luật dân sự
- Sự tương thích giữa pháp luật TTDS và pháp luật dân sự.
- Đánh giá về thực trạng pháp luật về sự mâu thuẫn giữa pháp luật TTDS và
pháp luật dân sự, nguyên nhân của thực trạng và các giải pháp hoàn thiện pháp
luật.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ mở ra một hướng nghiên cứu mới cho việc
nghiên cứu, giảng dạy môn Luật Tố tụng dân sự ở bậc cử nhân và đào tạo sau
đại học. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của đề tài còn đề xuất những giải pháp để
các cơ quan có thẩm quyền (Quốc hội, TANDTC) có thể tham khảo cho việc
xây dựng và hoàn thiện các quy định về thủ tục tố tụng dân sự nhằm bảo vệ một
cách nhanh chóng, có hiệu quả các quyền lợi hợp pháp của nhân dân, đáp ứng
những đòi hỏi mà công cuộc cải cách và hội nhập quốc tế đặt ra.
II. Lý luận về sự tương thích và mâu thuẫn giữa pháp luật tố tụng dân sự
và pháp luật dân sự
2.1. Mối quan hệ giữa pháp luật tố tụng dân sự với pháp luật dân sự
Khi bàn về hệ thống pháp luật trong khoa học pháp lý, các nhà nghiên cứu
thường phân chia pháp luật ra thành pháp luật nội dung (substantive law) và
pháp luật thủ tục (procedural law). Việc phân chia này trên thực tế có ý nghĩa rất
lớn trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn. Theo quan niệm phổ biến, pháp
luật nội dung được hiểu là hệ thống các quy phạm pháp luật chứa đựng những
quy định mà nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để điều chỉnh, bảo vệ các quan

6



hệ xã hội3. Pháp luật nội dung quy định, xác định hoặc điều chỉnh quyền, nghĩa
vụ và trách nhiệm trong tất cả các lĩnh vực và tương phản với pháp luật tố tụng4.
Trong lĩnh vực dân sự, luật nội dung được hiểu là hệ thống các quy phạm
pháp luật chứa đựng những quy định mà nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để
điều chỉnh, bảo vệ các quan hệ xã hội nhằm xác định quyền và nghĩa vụ của cá
nhân và pháp nhân, điều chỉnh quan hệ pháp luật giữa cá nhân với cá nhân hoặc
giữa cá nhân với pháp nhân hoặc pháp nhân với pháp nhân, trong đó quy định rõ
quyền, nghĩa vụ của mỗi bên. Các quy phạm pháp luật nội dung luôn được coi là
nền tảng cơ sở của hệ thống pháp luật bởi nó xác định quy chế pháp lý, quyền,
nghĩa vụ chủ thể, các tiền đề vật chất cũng như điều kiện cần thiết để thực hiện
được mục đích của pháp luật trong các trường hợp cụ thể của thực tiễn cuộc
sống5. Các quy phạm pháp luật nội dung (thuộc lĩnh vực dân sự) hiện nay được
biết đến phổ biến là các quy phạm thuộc các ngành luật dân sự, ngành luật hôn
nhân gia đình, ngành luật thương mại, ngành luật lao động, ngành luật đất đai,
môi trường…
Trong hệ thống pháp luật của các nước theo truyền thống luật dân sự, các
nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng: “luật dân sự là trung tâm của luật nội dung” 6 do
đó có thể khẳng định vai trò tối quan trọng của Bộ luật Dân sự (viết tắt là
BLDS) trong đời sống kinh tế, xã hội. Các quy định của BLDS không chỉ quy
định các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, bao quát các quan hệ dân sự
thuộc tất cả các lĩnh vực mà còn liên quan đến các quy định của pháp luật
TTDS. Chẳng hạn, nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự
có cội nguồn từ nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, đó là “cá nhân, pháp
nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở
tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận”7. Chính vì vậy, quy phạm pháp luật nội
dung thường được coi là cái thứ nhất, cái có trước trong mối tương quan với
pháp luật thủ tục. Xét trong mối quan hệ với pháp luật dân sự thì pháp luật
TTDS (pháp luật hình thức) bao gồm tổng hợp các quy định của pháp luật quy

định, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể trình để đi đến
TS.Mai Văn Thắng, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, “Pháp luật nội dung và pháp luật thủ tục”,
truy cập ngày 15/9/2017.
4
Professional English in Use, Law, GillianD Brown Sally Rice, Cambridge University Press, page 8.
5
TS.Mai Văn Thắng , Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, “Pháp luật nội dung và pháp luật thủ tục”,
truy cập ngày 15/9/2017.
6
John Henry Merryman: Truyền thống luật dân sự: Giới thiệu về hệ thống luật Tây Âu và Mỹ - La tinh, kỷ yếu
về Hội thảo về TTDS, Hà Nôi, 1998, tr.1.
7
Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3

7


xác định hoặc lập lại trật tự đúng về quyền của các bên trong quan hệ pháp luật
dân sự. Những quy định này đưa ra nhằm đảm bảo sự công bằng trong xét xử và
tính nghiêm minh của luật pháp trong cả quá trình tố tụng. Hay nói cách khác,
pháp luật tố tụng được hiểu là các quy phạm pháp luật xác định cơ chế, quy
trình, thủ tục và hình thức pháp lý nhằm đưa các quy định trong các quy phạm
pháp luật nội dung vào cuộc sống.
Trong lĩnh vực dân sự, khi giải quyết một vụ việc dân sự, Tòa án cần phải
áp dụng cả các quy định của pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng. Pháp luật
thủ tục và pháp luật nội dung là hai mặt của vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các cá nhân, pháp nhân khi xác lập, thực hiện và giải quyết tranh chấp
phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự. Khi có tranh chấp, yêu cầu dân sự xảy ra,
pháp luật dân sự sẽ là những quy định trên giấy nếu chỉ có những quy định về

quyền và nghĩa vụ dân sự của chủ thể mà không có quy trình, cơ chế để thực thi
các quyền, nghĩa vụ ấy. Ngược lại, sẽ chẳng có một hình thức, thủ tục pháp lý
nào có thể được triển khai nếu không có những quy định về nội dung của vấn đề
cần thực hiện (thực hiện cái gì, ai thực hiện, thực hiện cho ai...). Cần phải nói
thêm rằng, những quy định của pháp luật nội dung có thể sẽ rất lý tưởng nhưng
nếu không có quy trình, cơ chế pháp lý chặt chẽ của pháp luật thủ tục thì sẽ dẫn
đến việc áp dụng tùy tiện, lạm quyền, thiếu nhất quán… và đương nhiên, hệ quả
tất yếu là sẽ dẫn đến nguy cơ làm mất đi giá trị, ý nghĩa đích thực của pháp luật
trong bảo đảm, bảo vệ sự công bằng và lẽ phải. Vì vậy, trong mối tương quan
này, sự hoàn thiện của pháp luật thủ tục luôn có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt
trong xã hội hiện đại khi xây dựng một xã hội dân chủ, pháp quyền đang được
xác định là nhiệm vụ trọng tâm của mỗi Nhà nước. Trong cuốn “Thủ tục tố
tụng”, giáo sư về tố tụng nổi tiếng của Mỹ đã viết: “trong luật, tất cả những vấn
đề về thủ tục là những vấn đề nền tảng cho nội dung và người lại”8. Chính vì
vậy, sự tương thích của pháp luật TTDS và pháp luật nội dung sẽ góp phần đảm
bảo thuận lợi cho Tòa án trong việc giải quyết vụ án cũng như thuận lợi cho các
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Và ngược lại, sự mâu thuẫn, không
tương thích giữa pháp luật TTDS và pháp luật dân sự sẽ dẫn đến cách hiểu và áp
dụng khác nhau giữa các Tòa án, sự không thống nhất trong đường lối giải quyết
8

John Henry Merryman: Truyền thống luật dân sự: Giới thiệu về hệ thống luật Tây Âu và Mỹ - La tinh, kỷ yếu
về Hội thảo về TTDS, Hà Nôi, 1998, tr.1.

8


vụ án của Tòa án, gây khó khăn cho đương sự, luật sư khi bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho đương sự. Tuy nhiên, trong những năm qua ở Việt Nam “pháp

luật trong lĩnh vực tư pháp chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ và còn nhiều sơ hở.
Công tác xây dựng, giải thích, hướng dẫn và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật, trong đó có pháp luật về lĩnh vực tư pháp còn nhiều mâu thuẫn, hạn
chế”9.
Mối quan hệ giữa pháp luật dân sự và pháp luật TTDS là mối quan hệ
thống nhất, hữu cơ giữa nội dung và hình thức, trong đó nội dung quyết định
hình thức, bất cứ sự thay đổi nào của pháp luật dân sự đều dẫn đến sự thay đổi
tương ứng của pháp luật TTDS. Do đó, đối với những vấn đề được quy định
khác nhau giữa pháp luật TTDS và pháp luật dân sự, việc hoàn thiện pháp luật
phải xuất phát từ tính chất, đặc điểm của quan hệ pháp luật dân sự và các
nguyên tắc của luật dân sự là tôn trọng và bảo vệ quyền tự do, tự nguyện, thỏa
thuận của các chủ thể. Tuy nhiên, hình thức cũng có tính độc lập tương đối, tác
động trở lại nội dung, bởi lẽ nếu không có pháp luật TTDS, thì những quy phạm
pháp luật dân sự không thể áp dụng trên thực tế. Trong tác phẩm “Những cuộc
tranh luận về luật cấm trộm củi rừng”, C. Mác viết: “Luật vật chất lại có những
hình thức xét xử cần thiết, vốn có của nó… Việc xét xử và luật pháp liên hệ mật
thiết với nhau, cũng như hình dáng cây cối gắn liền với cây cối, hình dáng động
vật gắn với thịt và máu của động vật. Cũng một tinh thần ấy phải cổ vũ cho việc
xét xử và pháp luật, bởi vì việc xét xử chỉ là hình thức của cuộc sống của luật
pháp và do đó, cũng là biểu hiện của cuộc sống bên trong của nó”10. Từ luận
điểm trên của C. Mác, có thể rút ra nhận xét: Việc áp dụng những quy phạm
pháp luật dân sự phải được tiến hành theo những trình tự, thủ tục do pháp luật
TTDS quy định. Pháp luật dân sự và pháp luật TTDS đều phải thực hiện trên
những nguyên tắc nhất định; những quy phạm pháp luật dân sự và quy phạm
pháp luật TTDS phải phù hợp với nhau, không được mâu thuẫn với nhau. Bởi
trong khoa học pháp lý, pháp luật TTDS được coi là pháp luật hình thức của
pháp luật dân sự. Như vậy, khi tranh chấp, yêu cầu dân sự xảy ra thì cần phải có
một cơ chế thích hợp với pháp luật dân sự để giải quyết chúng. "Pháp luật về
nội dung sẽ mãi mãi chỉ là lý luận nếu chúng ta không xây dựng một cơ chế tố
tụng thích hợp để đưa pháp luật nội dung vào thực tiễn"11.

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/10/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp.
C.Mác và Ph.ăng-Ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.227.
11
Phan Hữu Thư (2004), Tiến tới xây dựng Bộ luật TTDS của thời kỳ đổi mới, Nxb Tư pháp, Hà Nội; tr 41.
9

10

9


Khi nghiên cứu về mối liên hệ giữa luật nội dung và luật tố tụng, giáo sư
N. FRICERO cho rằng “Mối liên hệ giữa tố quyền và quyền lợi (quyền chủ
quan) là không thể phủ nhận : Quyền lợi (quyền chủ quan) là đối tượng của tố
quyền, và học lý phân loại các tố quyền căn cứ vào đối tượng này : tố quyền
động sản có đối tượng là một quyền lợi động sản, tố quyền bất động sản là một
quyền lợi bất động sản ; tố quyền đối nhân dùng cho một quyền lợi đối nhân, tố
quyền đối vật dùng cho một quyền lợi đối vật, tố quyền hỗn hợp liên quan tới
một quyền lợi đối nhân và một quyền lợi đối vật được sinh ra từ cùng một hành
vi pháp lý » . Như vậy, quyền lợi gắn với quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia
đình, thương mại, lao động chính là đối tượng của quyền khởi kiện và việc xác
định tư cách đương sự trong tố tụng dân sự phải dựa trên tính chất của các quan
hệ pháp luật nội dung. Dựa trên tính chất của vụ kiện hay quan hệ pháp luật
có tranh chấp để xác định người có quyền khởi kiện và người có thể bị kiện. Đây
là mối liên hệ căn bản giữa pháp luật nội dung (pháp luật dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động) với pháp luật tố tụng dân sự, trong
đó pháp luật nội dung được coi là nền tảng căn bản và pháp luật tố tụng dân sự
là sự thể hiện của nền tảng căn bản ấy trong thực tế12.
2.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự trong mối liên hệ với
pháp luật dân sự

Trong những năm qua, bên cạnh hệ thống pháp luật nội dung thì hệ thống
pháp luật tố tụng đã được Nhà nước ta quan tâm và không ngừng hoàn thiện.
Tuy nhiên, đánh giá về hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật TTDS hiện
hành qua hơn hai năm thực hiện BLTTDS năm 2004, TANDTC cho rằng: Hệ
thống pháp luật của chúng ta đang trong giai đoạn hoàn thiện, các văn bản
hướng dẫn áp dụng pháp luật ban hành còn chậm, thậm chí một số văn bản còn
mâu thuẫn, chồng chéo. Nhiều quy định của pháp luật nội dung và pháp luật
TTDS mâu thuẫn nhau dẫn đến có những nhận thức và cách giải quyết khác
nhau giữa các Tòa án và các Thẩm phán trong cùng một Tòa án13 … Khắc phục
các hạn chế nêu trên, BLTTDS năm 2015 được ban hành là sự tổng kết có kế
thừa các quy định của BLTTDS năm 2004, BLTTDS năm 2011. Ngoài ra,
HĐTPTANDTC đã ban hành các Nghị quyết hướng dẫn thi hành BLTTDS. Các
quy định của BLTTDS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo
12

Trần Anh Tuấn
Tòa án nhân dân tối cao (2006), Báo cáo tổng kết công tác năm 2006 và phương hướng nhiệm vụ năm 2007
của ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội, tr 77.
13

10


hành lang pháp lý cho hoạt động xét xử của Tòa án, là phương tiện không thể
thiếu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức
trong lĩnh vực dân sự. Về cơ bản, BLTTDS năm 2015 có nhiều quy định mới,
tiến bộ, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với BLDS năm 2015 và các văn bản
pháp luật dân sự khác, góp phần giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh
chóng, chính xác, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN, phù hợp với chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới

của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng “một số quy định của
pháp luật chưa đầy đủ, chưa thật sự phù hợp, thậm chí có xung đột nhưng chậm
được sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn kịp thời”14 , trong đó có sự chưa tương
thích giữa pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung dẫn đến cách hiểu và áp dụng
khác nhau.
Như đã phân tích ở trên, khi đề cập đến mối liên hệ giữa pháp luật TTDS
và pháp luật dân sự, cần phải xác định pháp luật nội dung quyết định pháp luật
tố tụng nhưng pháp luật tố tụng cũng sẽ có những tác động trở lại đối với pháp
luật nội dung. Xác định chính xác mối quan hệ này sẽ là cơ sở để định hướng
hoàn thiện pháp luật trong trường hợp giữa pháp luật nội dung và pháp luật tố
tụng có sự mâu thuẫn với nhau. Để xác định cơ sở hoàn thiện pháp luật tố tụng
trong mối liên hệ với pháp luật nội dung, theo chúng tôi cần phải xuất phát từ
đặc điểm của pháp luật TTDS. Trong mối liên hệ với pháp luật nội dung, pháp
luật TTDS có hai đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, pháp luật TTDS là ngành luật hình thức để giải quyết các tranh
chấp, yêu cầu phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự - với đặc trưng cơ bản là tự
do tự nguyện, cam kết, thỏa thuận. Với đặc trưng này sự thay đổi của pháp luật
nội dung sẽ dẫn đến sự thay đổi của pháp luật TTDS bởi pháp luật nội dung
quyết định pháp luật tố tụng. Các thay đổi của pháp luật TTDS phải xuất phát từ
sự thay đổi của pháp luật TTDS. Những vấn đề liên quan đến việc giải quyết
quyền và nghĩa vụ dân sự của chủ thể như xác định nội dung nguyên tắc quyền
tự định đoạt của đương sự, công nhận nội dung sự thỏa thuận của các đương sự,
thẩm quyền dân sự của tòa án, thành phần và tư cách của các đương sự, xác định
quyền khởi kiện của cá nhân, pháp nhân, quyền khởi kiện, yêu cầu của đương sự
và một số căn cứ trả lại đơn khởi kiện, một số căn cứ tạm đình chỉ, đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự… liên quan đến giải quyết nội dung vụ việc thì tiêu chí để
Tòa án nhân dân tối cao (2017), Báo cáo tổng kết công tác năm 2016 và nhiệm vụ trọng tâm năm 2017 của các
Tòa án nhân dân, Hà Nội, tr27.
14


11


hoàn thiện pháp luật trong trường hợp có sự thay đổi hay mâu thuẫn giữa pháp
luật tố tụng và pháp luật nội dung phải xuất phát từ đặc trưng, nguyên tắc và nội
dung các quy phạm pháp luật dân sự.
Thứ hai, pháp luật TTDS là ngành luật quy định nguyên tắc, trình tự, thủ
tục, giải quyết các vụ việc dân sự. Với đặc trưng này, “luật dân sự tố tụng được
xuất hiện như một môn luật khoa chế tài. Có sự cưỡng bách của luật tố tụng,
các định lệ về nội dung của dân luật, luật thương mại và luật lao động mới trở
nên hữu hiệu, mới có giá trị về thực tế”15. Như vậy, mặc dù pháp luật dân sự đã
quy định quyền và nghĩa vụ dân sự của các chủ thể, song các nguyên tắc pháp lý
cũng như các quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể dù có mạnh mẽ đến
mức nào cũng chỉ là lý thuyết, nếu không có luật tố tụng đưa các chủ thể quyền
lợi đến kết quả thiết thực là được an hưởng16. Với đặc tính là ngành luật quy
định về cách thức, trình tự thủ tục giải quyết các tranh chấp, yêu cầu dân sự
(theo nghĩa rộng) nên đối với những quy định về các vấn đề liên quan đến xác
định thẩm quyền theo lãnh thổ, một số căn cứ trả lại đơn khởi kiện, trình tự, thủ
tục giải quyết vụ việc (thủ tục khởi kiện, thụ lý, chuẩn bị xét xử, hòa giải, phiên
tòa) thì tiêu chí để hoàn thiện pháp luật trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa
pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung phải xuất phát từ đặc trưng và nguyên
tắc của pháp luật TTDS chứ không phải là pháp luật dân sự.
III. Sự tương thích và mâu thuẫn giữa pháp luật tố tụng dân sự và pháp
luật dân sự - Thực trạng, nguyên nhân và giải quyết
3.1. Sự tương thích giữa pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật dân sự
3.1.1. Sự tương thích giữa pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật dân sự về
các quy định phần chung của Bộ luật Tố tụng dân sự
3.1.1.1. Đối với các nguyên tắc cơ bản của luật Tố tụng dân sự17
- Đối với việc xác định phạm vi giải quyết vụ việc dân sự của tòa án theo
nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự

Điều 5 BLTTDS năm 2015 quy định: “Đương sự có quyền quyết định
việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án
chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương
Nguyễn Huy Đẩu, Luật Dân sự tố tụng Việt Nam, xuất bản dưới sự bảo trợ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, 1969.,
tr10.
16
Nguyễn Huy Đẩu, Luật Dân sự tố tụng Việt Nam, xuất bản dưới sự bảo trợ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, 1969.,
tr10.
15

17

Bùi Thị Huyền

12


sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”. Quy định này
của BLTTDS được dựa trên nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, đó là: “Cá
nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình
trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không
vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối
với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”18. Như vậy, khi cá nhân, pháp
nhân có quyền tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận xác lập, thực hiện, chấm
dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của mình thì chủ thể đó cũng có quyền tự do, tự
nguyện lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp và do đó họ cũng có quyền
tự định đoạt các vấn đề liên quan đến quyền lợi của mình khi lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp bằng con đường Tòa án. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền
và lợi ích của Nhà nước và người thứ ba nên việc xác lập, thực hiện, chấm dứt
quyền nghĩa vụ của chủ thể không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo

đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn
trọng. Do đó, khi thực hiện quyền tự định đoạt của mình trong TTDS, đương sự
có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một
cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.
Có thể thấy quy định của BLTTDS năm 2015 đã đảm bảo được sự tương thích
với quy định của BLDS năm 2015 và khác phục được sự không thống nhất giữa
BLTTDS năm 2004 và BLDS năm 2005 về vấn đề này19.
- Đối với nguyên tắc Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự
vì lý do chưa có điều luật để áp dụng.
Trên nguyên tắc được quy định tại Điều 14 Hiến pháp năm 2013 với nội
dung: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận,
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người,
quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Trên cơ sở đó, Tòa án nhân dân có nhiệm vụ
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
18

Khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2015.
Điều 5 BTTDS năm 2004 quy định “Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm
dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo
đức xã hội”. Song Điều 4 BLDS năm 2005 quy định: “Quyền tự do cam kết, thoả thuận trong việc xác lập
quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội.” Rõ ràng quy định của BLTTDS năm 2004 là không thống nhất với Điều 4 và
117 BDS năm 2005.
19

13



chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân. Thể chế quy định của Hiến pháp Điều 14 BLDS năm 2015 quy định:
“Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ quyền
dân sự của cá nhân, pháp nhân. Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc
dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng”. Để bảo đảm sự tương thích với
quy định của BLDS, Điều 4 BLTTDS năm 2015 quy định: “Tòa án không được
từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Việc giải
quyết vụ việc dân sự quy định tại khoản này được thực hiện theo các nguyên tắc
do Bộ luật dân sự và Bộ luật này quy định”. Có thể thấy các quy định của
BLTTDS và BLDS về vấn đề này là nhất quán với nhau, tạo điều kiện thuận lợi
cho Tòa án trong quá trình áp dụng pháp luật.
3.1.1.2. Đối với quy định về thẩm quyền dân sự của Tòa án20
i) Đối với vấn đề xác định thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án
Có thể thấy, đối tượng mà pháp luật dân sự hướng đến điều chỉnh là cơ sở
để pháp luật tố tụng dân sự xây dựng các quy định về thẩm quyền dân sự của
Tòa án theo loại việc. Dựa vào tính chất của các quan hệ pháp luật dân sự, thẩm
quyền của Tòa án được xác định rõ với tranh chấp và yêu cầu về bốn nhóm lĩnh
vực, bao gồm: dân sự (theo nghĩa hẹp), hôn nhân gia đình, kinh doanh thương
mại và lao động.
Thứ nhất, về lĩnh vực dân sự, Điều 26 BLTTDS 2015 đã bổ sung thêm
nhiều quan hệ mới nhằm bảo đảm sự tương thích với quy định của BLDS năm
2015 và pháp luật chuyên ngành như:
- Tranh chấp về các quyền khác đối với tài sản nhằm tương thích với quy
định của Bộ luật dân sự 2005 về quyền hưởng dụng và quyền bề mặt.
- Tranh chấp về giao dịch dân sự. Trước đây, BLTTDS 2011 quy định Tòa
án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự nên đã bỏ sót các
giao dịch dân sự khác như hành vi pháp lý đơn phương, hứa thưởng và thi có
giải.
- Tranh chấp về khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả thải vào nguồn

nước theo quy định của Luật Tài nguyên nước.
- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do áp dụng biện pháp ngăn chặn hành
chính không đúng theo quy định của pháp luật về cạnh tranh, trừ trường hợp yêu
cầu bồi thường thiệt hại được giải quyết trong vụ án hành chính. Việc bổ sung
20

Nguyễn Thị Thu Hà và Vũ Hoàng Anh, Trường Đại học Luật Hà Nội

14


quy định này nhằm phù hợp với Luật Cạnh tranh năm 2004 và Điều 119 Luật
Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.21
- Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật đất đai; tranh chấp về
quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng theo quy định của Luật Bảo vệ và phát triển
rừng năm 2004.
Ngoài ra, Điều 27 BLTTDS 2015 đã bổ sung thêm một số yêu cầu dân sự
nhằm bảo đảm sự tương thích với BLDS năm 2015 như: yêu cầu tuyên bố hoặc
hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi (đây là một chủ thể mới được ghi nhận tại Điều 23 BLDS năm 2015)
hoặc yêu cầu công nhận tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam là vô chủ, công nhận
quyền sở hữu của người đang quản lý đối với tài sản vô chủ trên lãnh thổ Việt
Nam.
Thứ hai, về lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
Để phù hợp với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Điều 29 BLTTDS
2015 đã bổ sung thêm một số tranh chấp, yêu cầu hôn nhân và gia đình mới, đó
là:
- Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo.
- Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau

như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật.
- Yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo quy định của pháp luật
hôn nhân và gia đình.
- Yêu cầu công nhận thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân đã được thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa
án.
- Yêu cầu tuyên bố vô hiệu thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.
- Yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ.
Thứ ba, về lĩnh vực kinh doanh, thương mại.
Nhằm bảo đảm sự tương thích với Luật thương mại năm 2005, Điều 30
BLTTDS năm 2015 đã bổ sung một số tranh chấp mới thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án như: Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty
nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên
Phan Thanh Dương, Điểm mới của BLTTDS năm 2015 về thẩm quyền dân sự của Tòa an, Kỷ yếu Hội thảo
“Những điểm mới của BLTTDS năm 2015”, Trường Đại học Luật Hà Nội.
21

15


công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm
hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công
ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành
lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công
ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. Đồng thời, Điều 31 quy định về
các yêu cầu về kinh doanh thương mại cũng bổ sung thêm yêu cầu: Yêu cầu hủy
bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, nghị quyết của Hội đồng thành viên
theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án.

Thứ tư, về lĩnh vực lao động.
Quy định tại Điều 32 BLTTDS 2015 về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
lao động và những tranh chấp bắt buộc phải hòa giải trước khi khởi kiện đến
Tòa án là hoàn toàn tương thích với Điều 201 Bộ luật Lao động năm 2012.bBên
cạnh đó, Điều 32 và Điều 33 BLTTDS 2015 cũng bổ sung thêm một số tranh
chấp, yêu cầu thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án như: Tranh chấp về bảo hiểm
xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo
quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế, về bảo hiểm thất nghiệp theo quy định
của pháp luật về việc làm, về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo
quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động; Tranh chấp về học nghề,
tập nghề, cho thuê lại lao động, quyền công đoàn, chi phí công đoàn, an toàn lao
động, vệ sinh lao động, bồi thường thiệt hại do đình công bất hợp pháp; Yêu cầu
tuyên bố hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu. Yêu cầu xét tính
hợp pháp của cuộc đình công.
Bên cạnh đó, như đã đề cập đến ở trên, để cụ thể nguyên tắc Tòa án không
được từ chối thụ lý vụ việc dân sự vì lý do không có điều luật áp dụng ở các
khoản quét, BLTTDS năm 2015 quy định Tòa án có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ
quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Quy định này được hiểu là bản
chất của tranh chấp, yêu cầu là tranh chấp, yêu cầu phát sinh từ quan hệ dân sự
(theo nghĩa rộng), nếu pháp luật không quy định thuộc thẩm quyền giải quyết
của các cơ quan, tổ chức khác thì Tòa án phải thụ lý giải quyết, kể cả trong
trường hợp BLTTDS chưa liệt kê loại việc đó thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án hay chưa có điều luật áp dụng để giải quyết. Việc liệt kê cụ thể các loại

16


việc thuộc thẩm quyền giải quyết vụ án giúp cho Tòa án thuận lợi hơn trong việc
thụ lý giải quyết.

ii) Đối với vấn đề xác định thẩm quyền theo cấp và lãnh thổ.
Căn cứ vào tính chất phức tạp của quan hệ tranh chấp, yêu cầu, Điều 35
đến 38 của BLTTDS đã xây dựng các quy định về thẩm quyền theo cấp. Hơn
nữa, khoản 4 Điều 35 đã bổ sung loại việc thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp
huyện nhằm đảm bảo sự tương thích với Điều 123 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014. Song chúng tôi cho rằng, vấn đề xác định thẩm quyền là vấn đề của
luật TTDS nên Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên bỏ Điều 123.
Việc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ được thực hiện theo quy định tại
Điều 39, 40 BLTTDS năm 2015. Theo đó, đối với đối tượng tranh chấp là bất
động sản thì Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết. Đối với vụ án
mà đối tượng tranh chấp không phải bất động sản thì việc xác định Tòa án có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp được xác định theo thứ tự sau: (i) Các đương
sự có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm
việc, có trụ sở của nguyên đơn; (ii) Nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án theo
khoản 1 Điều 40 BLTTDS; (iii) Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở.
Quy định này một mặt vừa bảo đảm cho Tòa án có điều kiện tốt nhất giải quyết
tranh chấp phù hợp với đặc điểm của từng loại tài sản, tạo điều kiện thuận lợi
cho bị đơn tham gia tố tụng, mặt khác tôn trọng quyền tự do, cam kết, thỏa thuận
của đương sự.
3.1.1.3. Đối với việc xác định tư cách của đương sự trong TTDS22.
Đương sự trong TTDS là cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia tố tụng để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của
Nhà nước. Thông thường, đương sự trong vụ án dân sự chính là chủ thể của
quan hệ pháp luật nội dung có tranh chấp, là người tham gia tố tụng, có quyền,
lợi ích dân sự trong vụ việc. Theo Điều 68 BLTTDS năm 2015, chủ thể có
quyền, lợi ích dân sự cần được tòa án bảo vệ là “cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
Quy định này về cơ bản là tương thích với BLDS năm 2015 và dựa trên nguyên
tắc chủ thể có lợi ích bị ảnh hưởng khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự
nhất định có quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, yêu cầu của
mình. Do đó, thông thường đương sự trong TTDS chính là chủ thể của quan hệ

của quan hệ pháp luật dân sự có tranh chấp hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết.
22

Trần Anh Tuấn, Trường Đại học Luật Hà Nội

17


i) Đối với việc xác định tư cách của nguyên đơn
Về cơ bản, Điều 68 BLTTDS năm 2015 đã dựa trên nguyên tắc lợi ích để
xác định tư cách nguyên đơn trong trường hợp nguyên đơn chính là chủ thể của
quan hệ pháp luật tranh chấp và
trong trường hợp họ là người có quyền lợi
nhưng không phải là chủ thể của quan hệ pháp luật có tranh chấp. Việc xác định
người có quyền khởi kiện và xác định tư cách của nguyên đơn, bị đơn cần căn
cứ vào các quy định trên của BLDS năm 2015. Quy định này là phù hợp với
quy định của pháp luật dân sự về kiện vật quyền và trái quyền.
Đối với các tố quyền đối nhân, do tính cách đối nhân của nghĩa vụ,
người có quyền chỉ có thể yêu cầu người có nghĩa vụ thi hành nghĩa vụ, và về
nguyên tắc thì ngoài trái chủ ra không một người nào khác có thể có yêu cầu đó
đối với người có nghĩa vụ. Cơ sở của tố quyền đối nhân chính là quan hệ về
nghĩa vụ, mà trong đó bên có nghĩa vụ đã không thực hiện nghĩa vụ của mình
dẫn tới bên chủ thể có quyền phải cầu viện tới sự can thiệp của công lý để buộc
bên có nghĩa vụ phải thi hành nghĩa vụ của họ. Các nghĩa vụ này có thể có
nguồn gốc từ hợp đồng, hoặc do pháp luật quy định như hành vi pháp lý đơn
phương, gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật, thực hiện công việc không có uỷ
quyền ; chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật. Do vậy, khi chủ thể mang quyền trong các quan hệ về hợp đồng, bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc các quan hệ khác về nghĩa vụ thực hiện
việc khởi kiện thì họ sẽ trở thành nguyên đơn dân sự trong vụ kiện. Nguyên tắc

xác định nguyên đơn trong TTDS là phù hợp với các quy định tại Điều 125 đến
128 BLDS năm 2015 về tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu,
Đối với các tố quyền đối vật, việc kiện của chủ thể có quyền nhằm chống
lại người đang chiếm giữ bất hợp pháp vật để thực thi quyền của mình đối với
vật và có thể được thực hiện bởi chủ sở hữu hay người có quyền chiếm hữu hợp
pháp vật trong quan hệ sở hữu, chiếm hữu tài sản hoặc chủ thể có quyền sử dụng
đất trong quan hệ sử dụng đất. Chủ sở hữu, người có quyền chiếm hữu hợp pháp
tài sản, người có quyền sử dụng đất thực hiện quyền khởi kiện người đang
chiếm hữu bất hợp pháp để đòi lại tài sản hoặc thực hiện quyền chiếm hữu của
mình với tư cách là nguyên đơn dân sự. Ngoài ra, chủ sở hữu, người có quyền
chiếm hữu hợp pháp tài sản cũng được coi là nguyên đơn, trong trường hợp họ
khởi kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc

18


thực thi quyền của mình đối với tài sản23. Đối với động sản phải đăng ký quyền
sở hữu hoặc bất động sản thì chủ sở hữu được đòi lại tài sản từ người chiếm hữu
ngay tình, trừ trường hợp tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ
ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao
dịch hoặc trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua
bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau
đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ,
sửa24.
Đối với việc xác định tư cách của nguyên đơn các quan hệ nhân thân:
Thông thường chủ thể mang quyền trong quan hệ nhân thân mới có thể
trở thành đương sự với tư cách là nguyên đơn dân sự trong vụ kiện dân sự hay
người có yêu cầu trong các việc dân sự thuộc loại này (thuật ngữ nguyên đơn,

người có yêu cầu ở đây được sử dụng theo tinh thần của luật thực định). Theo
đó, nguyên đơn trong vụ kiện yêu cầu ly hôn là vợ hoặc người chồng ; người yêu
cầu trong việc huỷ hôn nhân trái pháp luật, không công nhận quan hệ vợ chồng
chỉ thuộc về các bên có quan hệ hôn nhân; người yêu cầu thực thụ với tư cách là
đương sự trong việc chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi là người con nuôi đã thành
niên hoặc cha, mẹ nuôi; nguyên đơn trong vụ kiện, người yêu cầu trong việc dân
sự về xác định cha, mẹ cho con là người con và ngược lại, nguyên đơn, người
yêu cầu là người cha, người mẹ trong vụ kiện, việc dân sự về xác định con cho
cha, mẹ; người con chưa thành niên là đương sự với tư cách người yêu cầu trong
việc yêu cầu hạn chế quyền của mẹ, cha đối với con chưa thành niên.
Về nguyên tắc chủ thể có quyền lợi trong vụ kiện đã thực hiện việc khởi
kiện hay được người khác khởi kiện để bảo vệ quyền lợi cho họ được coi là
nguyên đơn. Người khởi kiện để bảo vệ quyền lợi ích của người khác, tuỳ
trường hợp sẽ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo pháp luật hay
đại diện theo uỷ quyền.
Như đã phân tích ở trên, trong các quan hệ nhân thân chủ thể mang quyền
có thể khởi kiện với tư cách là nguyên đơn trong vụ kiện, hoặc người yêu cầu
trong việc dân sự không có tranh chấp, trong khi đó các chủ thể khác không phải
23

Phó giáo sư. Tiến sĩ. Đinh Văn Thanh, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Nxb CAND, 2006, tập 1, tr. 282 tới tr.
288.
24
Xem Điều 133 và Điều 168 BLDS năm 2015.

19


là chủ thể của quan hệ nhân thân thì mặc dù được nhà lập pháp thừa nhận có
quyền khởi kiện hay quyền yêu cầu cũng chỉ có thể tham gia tố tụng với tư cách

là người đại diện theo pháp luật của đương sự mà thôi. Như vậy, những cá nhân
sau đây sẽ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo pháp luật của
đương sự : Cha, mẹ, người giám hộ của người kết hôn trái pháp luật có yêu cầu
huỷ việc kết hôn trái pháp luật (Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014);
cha, mẹ của người con nuôi chưa thành niên có yêu cầu chấm dứt việc nuôi con
nuôi (Điều 26 Luật Nuôi con nuôi năm 2010); mẹ, cha hoặc người giám hộ có
yêu cầu xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên hoặc mất năng lực hành
vi...(Điều 102 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014); cha, mẹ, người thân thích
của con chưa thành niên có yêu cầu hạn chế quyền của mẹ, cha đối với con chưa
thành niên (Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Đối với việc ly hôn,
đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng.
Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn
theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật hôn nhân và gia đình thì họ là người
đại diện”.
ii) Đối với việc xác định tư cách của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Bản chất của tố quyền sẽ là cơ sở xác định bị đơn trong vụ kiện. Thông
thường trong một vụ án dân sự, ai là người bị kiện sẽ là nguyên đơn. Đối với
kiện trái quyền, người có nghĩa vụ trong các quan hệ về hợp đồng, bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc các quan hệ khác về nghĩa vụ và người bị kiện sẽ
tham gia tố tụng với tư cách bị đơn. Trái lại, đối với kiện vật quyền thì người
đang chiếm hữu bất hợp pháp để đòi lại tài sản hoặc khởi kiện người có hành vi
cản trở trái pháp luật việc thực thi quyền của mình đối với tài sản và bị kiện sẽ
được xác định tư cách bị đơn trong vụ kiện.Ngoài ra, người không khởi kiện,
không bị kiện nhưng có quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ việc
đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn là người có quyền và nghĩa vụ liên quan
trong TTDS.
3.1.1.4. Đối với quy định về người đại diện của đương sự trong TTDS25.
Người đại diện của đương sự trong TTDS là người nhân danh và bảo vệ
quyền lợi cho đương sự tham gia tố tụng tại tòa án có thẩm quyền để thực hiện
thay đương sự các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp cho đương sự mà mình nhân danh. Người đại diện trong TTDS bao gồm
25

Bùi Thị Hà, Học viện tư pháp

20


người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền26. Người đại diện
có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của BLDS. Người đại diện theo
pháp luật theo quy định của BLDS là người đại diện theo pháp luật trong TTDS,
trừ trường hợp bị hạn chế quyền đại diện theo quy định của pháp luật. Để tránh
việc quy định lặp lại BLDS, BLTTDS không quy định cụ thể về các trường hợp
được xác định là người đại diện theo pháp luật trong TTDS, hình thức ủy quyền,
các trường hợp hạn chế đại diện mà dẫn chiếu đến các quy định của BLDS. Xét
về phương diện kỹ thuật lập pháp, cách quy này là hợp lý, khoa học và đảm bảo
sự tương thích giữa hai bộ luật. Cụ thể:
- Thứ nhất, BLTTDS bổ sung người đại diện là pháp nhân là phù hợp với
quy định của BLDS năm 2015.
Có thể thấy, các quy định về đại diện của BLDS năm 2005 cơ bản đã đáp
ứng được những yêu cầu trong xác lập, thực hiện các quan hệ dân sự. Trước đây,
một số nội dung quan trọng về đại diện vẫn chưa được BLDS năm 2005 quy
định cụ thể, rõ ràng như: Đại diện trong trường hợp một cá nhân, pháp nhân có
nhiều người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền; đại diện trong trường
hợp một cá nhân, pháp nhân làm đại diện cho nhiều chủ thể khác nhau. Khắc
phục các hạn chế của BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã có một số sửa đổi,
bổ sung quy định về đại diện nhằm tạo điều kiện pháp lý tốt hơn trong việc trợ
giúp cá nhân, pháp nhân thực hiện, bảo vệ các quyền dân sự của mình và hạn
chế rủi ro pháp lý trong các quan hệ dân sự, là cơ chế pháp lý thuận lợi, minh
bạch cho các cá nhân, pháp nhân thực hiện, bảo vệ tốt hơn các quyền dân sự,

hạn chế được các rủi ro pháp lý. Khái niệm “đại diện” trong BLDS năm 2015
đã xác định rõ hơn về chủ thể đại diện. Nếu như Điều 139 Bộ luật dân sự năm
2005 hướng đến người đại diện là “một người” dẫn đến cách hiểu chỉ có cá nhân
mới được là người đại diện theo ủy quyền. Điều 134 Bộ luật dân sự năm 2015
xác định rõ chủ thể đó là “cá nhân, pháp nhân” và không giới hạn về số lượng.
Điều này là phù hợp với thực tiễn, góp phần tạo điều kiện cho các chủ thể tham
gia vào quan hệ đại diện dễ dàng hơn, không bị bó buộc chỉ có một chủ thể là
người đại diện như trước kia, điều quan trọng là các chủ thể đại diện này xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện.
Việc chính thức khẳng định một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo
pháp luật xuất phát từ thực tiễn hoạt động của pháp nhân (chủ yếu là doanh
26

Khoản 1 Điều 85 BLTTDS năm 2015.

21


×