Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội và thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN VĂN LĨNH

PHÁP LUẬT VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN VĂN LĨNH

PHÁP LUẬT VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thị Dung



HÀ NỘI - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận
văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN VĂN LĨNH


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo - Tiến sĩ Đỗ Thị Dung
đã hướng dẫn tận tình, chu đáo, động viên tôi trong suốt quá trình viết luận văn.
Đồng thời gửi lời cảm ơn đến các thầy cô Khoa Pháp luật kinh tế - Trường Đại học
Luật Hà Nội đã trang bị cho tôi những kiến thức nền tảng cũng như ý tưởng thực
hiện đề tài luận văn của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể lãnh đạo và cán bộ Bảo hiểm xã hội Thành
phố Hà Nội, các nhà quản lý và các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực bảo
hiểm xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi và cung cấp thông tin, số liệu cũng như kinh
nghiệm quý báu cho tôi trong quá trình tôi nghiên cứu luận văn này./.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


NGUYỄN VĂN LĨNH


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Tên viết tắt

Tên đầy đủ

1

BHXH

Bảo hiểm xã hội

2

BHYT

Bảo hiểm y tế

3

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp


4

NSNN

Ngân sách nhà nước

5

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

6

NLĐ

Người lao động

7

UBND

Ủy ban nhân dân

8

HĐND

Hội đồng nhân dân


9

HĐLĐ

Hợp đồng lao động

10

ATM

Thẻ tín dụng


DANH MỤC HÌNH, BẢNG SỐ LIỆU

STT
1

2

3
4
5
6

Tên hình/bảng
Hình 2.1: Sơ đồ bộ máy tổ chức Bảo hiểm xã hội thành phố Hà
Nội
Bảng 2.1: Kết quả thực hiện pháp luật thu quỹ BHXH ở
BHXH TP. Hà Nội

Bảng 2.2: Tổng hợp số đối tượng hưởng các chế độ tại BHXH
thành phố Hà Nội
Bảng 2.3: Tổng hợp chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH
Bảng 2.4: Tổng hợp số lượt người hưởng trợ cấp ốm đau, thai
sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe
Bảng 2.5: Nợ Bảo hiểm xã hội

Trang
45

50

52
53
54
60


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU......................................................................................................................1

Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI ...6

1.1. Một số vấn đề lý luận về quỹ bảo hiểm xã hội ................................................6
1.1.1. Quỹ bảo hiểm xã hội .................................................................................6
1.1.2. Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội ..........................................................12
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quỹ bảo hiểm xã hội ..........17
1.2.1. Quy định về các quỹ thành phần ............................................................18

1.2.2. Quy định về nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội ..............................20
1.2.3. Quy định về sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội..............................................30
1.2.4. Quy định về quản lý quỹ bảo hiểm xã hội ..............................................36
1.2.5. Quy định về xử lý vi phạm pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội ................39
1.2.6. Quy định về giải quyết tranh chấp về quỹ bảo hiểm xã hội ...................41
Chƣơng 2. THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI ......................................................................................43

2.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội và tổ chức bảo hiểm xã hội thành phố
Hà Nội ...................................................................................................................43
2.1.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội...............43
2.1.2. Khái quát về cơ quan bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội .....................44
2.1.2. Hoạt động triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về quỹ bảo
hiểm xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội .....................................................45
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội tại thành phố Hà Nội –
những kết quả đạt được .........................................................................................47
2.2.1. Về thực hiện các quỹ thành phần của quỹ bảo hiểm xã hội ...................47
2.2.2. Về thực hiện thu quỹ bảo hiểm xã hội tại thành phố Hà Nội .................48
2.2.3. Về thực hiện sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội .............................................52


2.2.4. Về thực hiện quản lý quỹ bảo hiểm xã hội..............................................56
2.2.5. Về thực hiện xử lý vi phạm pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội ...............56
2.2.6. Về thực hiện giải quyết tranh chấp về quỹ bảo hiểm xã hội ..................59
2.3. Một số vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại .......................59
Kết luận chương 2 .................................................................................................64
Chƣơng 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI THÀNH
PHỐ HÀ NỘI ............................................................................................................65


3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quỹ
bảo hiểm xã hội tại thành phố Hà Nội ..................................................................65
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội phù hợp với chính sách và
định hướng phát triển bảo hiểm xã hội của Đảng và Nhà nước ......................65
3.1.2. Khắc phục những bất cập trong quy định của pháp luật về quỹ bảo hiểm
xã hội ................................................................................................................66
3.1.3. Bảo đảm ổn định nguồn quỹ thực hiện chi trả các chế độ bảo hiểm xã
hội .....................................................................................................................66
3.1.4. Bảo đảm mục đích an sinh xã hội và phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước ..........................................................................................67
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội ....................67
3.3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quỹ bảo hiểm xã
hội tại thành phố Hà Nội .......................................................................................72
Kết luận chương 3 .................................................................................................75
KẾT LUẬN ................................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................77


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của mỗi quốc gia, thể hiện trình độ văn
minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của quốc gia đó. Ở
nước ta, có thể nói BHXH là một trong những chính sách lớn của Đảng và nhà nước
đối với người lao động được ban hành từ những ngày đầu thành lập nước và không
ngừng được sửa đổi, bổ sung phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước nhằm
đảm bảo quyền lợi đối với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Thông qua
việc thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội sẽ là động lực to lớn nhằm phát huy
tiềm năng của người lao động trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Quỹ bảo hiểm xã hội đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống bảo hiểm xã

hội, là nguồn lực vật chất không thể thiếu đảm bảo cho việc tổ chức và thực hiện tốt
chính sách bảo hiểm xã hội từ những đóng góp của các bên tham gia quan hệ bảo
hiểm xã hội. Cho đến nay, có thể khẳng định nhờ việc tạo lập và sử dụng quỹ bảo
hiểm xã hội mà rất nhiều người lao động và gia đình của họ đã vượt qua được hoàn
cảnh khó khăn khi phải đối mặt với những sự kiện như ốm đau, tai nạn lao động,
thai sản, hết tuổi lao động.
Thực tế hiện nay đang đặt ra một vấn đề hết sức cấp thiết, đó là sự mất cân
đối nghiêm trọng giữa thu và chi bảo hiểm xã hội, điều này dẫn đến nguy cơ “vỡ
quỹ” bảo hiểm xã hội trong tương lai. Theo dự báo của Tổ chức lao động quốc tế
(ILO), với các chính sách hiện hành, đến năm 2021, quỹ bảo hiểm xã hội của Việt
Nam sẽ mất cân đối thu chi, buộc phải lấy từ nguồn kết dư để chi trả. Đến năm
2034, phần kết dư này cũng không còn dẫn đến khả năng vỡ quỹ và khi đó người
lao động sẽ không được nhận lương hưu. Nguy cơ vỡ quỹ BHXH đang là vấn đề
nóng được dư luận hết sức quan tâm đặc biệt là tầng lớp người lao động bởi quỹ
BHXH là tiền đóng góp của người lao động để đảm bảo an sinh khi họ lâm vào
hoàn cảnh khó khăn, sự an toàn của quỹ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi chính
đáng của họ.
Pháp luật nước ta đã có những quy định về quỹ bảo hiểm xã hội nhằm bảo
toàn và phát triển quỹ cũng như chi trả quỹ đúng mục đích. Gần đây nhất Luật Bảo
hiểm xã hội năm 2014 được ban hành thay thế Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 đã
có nhiều điểm mới trong chính sách BHXH nói chung cũng như các quy định mới


2

về quỹ BHXH nói riêng. Cùng với đó, nhiều chính sách bảo hiểm xã hội mới được
ban hành nhằm giải quyết các vấn đề về nguy cơ “vỡ quỹ”.
Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua việc thực hiện quỹ BHXH trên địa bàn
thành phố Hà Nội còn bộc lộ những hạn chế như tăng trưởng nguồn thu thấp, tình
hình nợ đọng BHXH còn cao, nguy cơ bội chi quỹ bảo hiểm xã hội …. Những tồn

tại trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm nguyên nhân từ phía các quy định
của pháp luật, từ sự vi phạm của người tham gia BHXH và xuất phát từ cả phía đơn
vị thực hiện BHXH, gây ra những ảnh hưởng tiêu cực về quyền lợi đối với NLĐ.
Để khắc phục những hạn chế, mở rộng và tăng trưởng nguồn thu BHXH, phát
triển bền vững quỹ BHXH trên địa bàn thành phố Hà Nội, rất cần có những giải
pháp cụ thể. Trước tình hình đó, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật về quỹ bảo hiểm
xã hội và thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội”, làm nội dung nghiên cứu
trong luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quỹ BHXH đang là vấn đề mang tính thời sự cao, trở thành tâm điểm của
truyền thông, không chỉ nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các nhà hoạch
định chính sách mà còn được phần lớn các tầng lớp trong xã hội quan tâm. Bộ lao
động Thương binh - Xã hội phối hợp với Văn phòng Tổ chức lao động quốc tế
(ILO) tại Việt Nam đã tổ chức Hội thảo “Mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội –
Kinh nghiệm quốc tế và giải pháp cho Việt Nam”, qua đó đưa ra các khuyến nghị
nhằm tránh nguy cơ mất cân đối dài hạn nguồn quỹ an sinh xã hội này. Bên cạnh
đó, Chính phủ đã tổ chức những buổi tọa đàm với chủ đề: Giải pháp để quản lý hiệu
quả quỹ BHYT, quỹ BHXH, đồng thời đề nghị ILO tiến hành báo cáo đánh giá và
dự báo tài chính quỹ hưu trí. Thông qua báo cáo và những số liệu thống kê, vấn đề
cải cách các chế độ BHXH ảnh hưởng đến quỹ BHXH là vấn đề hết sức cần thiết.
Đến nay, đã có không ít các công trình nghiên cứu về quỹ BHXH dưới góc độ
pháp lý, phải kể đến một số công trình nghiên cứu như: luận văn thạc sĩ luật học
“Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội và thực tiễn thực hiện trên địa bàn thành phố Hà
Nội” năm 2014 của tác giả Phạm Thành Công; Luận văn thạc sĩ Luật Kinh tế “Pháp
luật về Quỹ Bảo hiểm xã hội từ thực tiễn thực hiện tại thành phố Hà Nội” năm 2016
của tác giả Cao Gia Duy; luận văn thạc sĩ luật học “Giải pháp bảo đảm an toàn quỹ
bảo hiểm xã hội theo pháp luật Việt Nam” năm 2017 của tác giả Mai Thị Hậu; luận
văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt



3

Nam” năm 2017 của tác giả Trần Thị Hằng; luận văn thạc sĩ Luật học “Hoàn thiện
quản lý quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2015 – 2020” của tác giả Điều
Bá Được; hay kể đến những bài viết, bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí như bài
viết “Những vấn đề cần quan tâm qua thanh tra quỹ bảo hiểm xã hội” của tác giả
Trần Xuân Lâm trên tạp chí Thanh tra Chính phủ số 12/2010; bài viết “Nghiên cứu
cân đối các quỹ bảo hiểm xã hội” năm 2016 của tác giả Phạm Đình Thành trên tạp
chí Bảo hiểm xã hội Việt Nam số 12B,...
Các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên đã đề cập ở mức độ khác nhau
pháp luật về quỹ BHXH nói chung, hoặc một vài khía cạnh của pháp luật về quỹ
BHXH, hoặc pháp luật về quỹ BHXH ở những thời điểm trước khi Luật BHXH
năm 2014 có hiệu lực thi hành. Pháp luật BHXH nói chung và quỹ BHXH nói riêng
liên tục có nhiều thay đổi trong những năm gần đây, chưa có công trình nghiên cứu
nào nghiên cứu một cách toàn diện về thực tiễn thi hành pháp luật về quỹ BHXH
trên địa bàn thành phố Hà Nội từ sau khi Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực. Vì vậy,
có thể nói, vấn đề mà đề tài luận văn nghiên cứu mang tính mới, cần phải được quan
tâm, tiếp tục giải quyết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các vấn đề lý luận về quỹ
BHXH, pháp luật điều chỉnh về quỹ BHXH, tình hình tổ chức và hoạt động của quỹ
BHXH ở một địa phương nhất định mà cụ thể là trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Qua đó tìm ra giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam điều chỉnh về quỹ BHXH từ
đó hướng tới giải quyết vấn đề mất cân đối thu chi của quỹ BHXH Việt Nam nói
chung và quỹ BHXH Hà Nội nói riêng.
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể sau:
- Nghiên cứu được những vấn đề lý luận của quỹ bảo hiểm xã hội và pháp luật
về quỹ bảo hiểm xã hội;
- Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật về quỹ BHXH và thực

tiễn áp dụng quy định pháp luật tại các cơ quan bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội,
chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế, những nguyên nhân cụ thể ảnh hưởng đến sự
mất cân đối thu chi của quỹ bảo hiểm xã hội.


4

- Đề xuất các định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật hiện hành về quỹ
BHXH hướng đến thu chi quỹ BHXH để giải quyết tình hình mất cân đối thu chi quỹ
BHXH hiện nay, đảm bảo sự phát triển bên vững của BHXH trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là:
1/ Những vấn đề lý luận về quỹ bảo hiểm xã hội và quy định của pháp luật
hiện hành về quỹ bảo hiểm xã hội.
2/ Thực tiễn thi hành pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội trên địa bàn thành phố
Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là lý luận và các quy định hiện hành của
pháp luật Việt Nam về quỹ BHXH. Đồng thời thực tiễn thi hành pháp luật về quỹ
BHXH trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng là trọng tâm nghiên cứu của luận văn.
Từ đó, tác giả rút ra được những ưu điểm và hạn chế còn tồn tại nhằm đưa ra giải
pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quỹ BHXH ở
thành phố Hà Nội trong phạm vi có thể.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận Triết học Mác- Lê Nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt
Nam về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội
nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương

pháp nghiên cứu như: phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp
lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp,
phương pháp thống kê… để đưa ra những kết luận, nhận định để làm sáng tỏ nội
dung luận văn của mình.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa khoa học:
Kết quả luận văn góp phần hệ thống hóa và phân tích những vấn đề lý luận và
pháp luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quỹ BHXH; từ đó rút ra được những


5

giá trị tiến bộ và một số hạn chế của pháp luật về quỹ BHXH ở Việt Nam, nguyên
nhân của những hạn chế.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Về mặt thực tiễn, kết quả Luận văn góp một phần nhỏ bé nhằm nâng cao hiệu
quả trong thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật Việt Nam về quỹ BHXH đối
với từng trường hợp cụ thể. Bên cạnh đó, Luận văn cũng đề xuất một số giải pháp
nâng cao hoạt động thực hiện pháp luật quỹ BHXH ở Việt Nam nói chung và thành
phố Hà Nội nói riêng.
Luận văn góp phần làm nguồn tài liệu tham khảo nghiên cứu, giảng dạy và
học tập đối với những người làm công tác pháp luật, đặc biệt là đối với đội ngũ
giảng viên, học viên, sinh viên và các cán bộ trong ngành BHXH.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm có 3 chương sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về quỹ bảo hiểm xã hội và quy định của pháp
luật hiện hành về quỹ bảo hiểm xã hội.
Chương 2. Thực tiễn thi hành pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội trên địa bàn
thành phố Hà Nội.

Chương 3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội.


6

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. Một số vấn đề lý luận về quỹ bảo hiểm xã hội
1.1.1. Quỹ bảo hiểm xã hội
1.1.1.1. Khái niệm quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH ra đời là một quá trình hình thành lâu dài, là kết quả của việc tổ
chức một quỹ tài chính tập trung đảm bảo tài chính cho những trường hợp rủi ro
trên cơ sở tương trợ cộng đồng. Có thể nói, sự hình thành quỹ bảo hiểm xã hội xuất
phát từ nhu cầu thực tế của cả NLĐ và NSDLĐ. Con người luôn ý thức được rằng,
trong cuộc sống những rủi ro luôn có thể xảy ra đối với họ bất cứ khi nào, do vậy
trích một phần trong số thu nhập có được để tích góp sử dụng mỗi khi cần thiết là
nhu cầu tất yếu. Đối với NSDLĐ, vấn đề chịu trách nhiệm một phần trước những
rủi ro của NLĐ được xem là yếu tố đảm bảo sự tin tưởng, yên tâm cho người lao
động trong quá trình làm việc. Do đó, nhu cầu thành lập một quỹ chung từ việc trích
ra một khoản tiền từ thu nhập hàng tháng người lao động đã hình thành. Để đảm
bảo cho việc trợ cấp được thực hiện một cách thống nhất, mối quan hệ tương trợ
này đã có sự can thiệp của Nhà nước, theo đó số tiền mà các bên đóng góp hình
thành một quỹ tài chính tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này được quản lý chặt
chẽ bởi nhà nước, thậm chí có thể được hỗ trợ từ ngân sách nhà nước khi cần thiết
nhằm đảm bảo khả năng chi trả của quỹ cho người lao động khi gặp những biến cố.
Có quan điểm cho rằng quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung được tập hợp
từ những đóng góp bằng tiền của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp
pháp khác, được sử dụng để chi trả cho những người được BHXH và gia đình họ

khi họ bị giảm hoặc mất khả năng thu nhập do các rủi ro trong quá trình lao động1.
Có quan điểm lại cho rằng, quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền
của người tham gia BHXH hình thành một quỹ tài chính tập trung để chi trả cho
người được BHXH và gia đình họ khi bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất
khả năng lao động hoặc mất việc làm2.

1

Đỗ Đình Thu, Nguyễn Thùy Linh (chủ nhiệm đề tài, 2015), Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ bảo
hiểm xã hội ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện, Học viện Tài chính Hà Nội, tr.3.
2
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật an sinh xã hội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.
120.


7

Quan điểm khác định nghĩa quỹ BHXH là khoản tài chính dự trữ được lập
dùng để chi trả cho các đối tượng được hưởng BHXH theo quy định của pháp luật3.
Mới đây, Luật BHXH năm 2014 đã quy định cụ thể khái niệm quỹ bảo hiểm
xã hội tại Khoản 4 Điều 3 như sau: Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tài chính độc lập với
ngân sách nhà nước, được hình thành từ đóng góp của người lao động, người sử
dụng lao động và có sự hỗ trợ của Nhà nước4.
Từ các khái niệm trên đều cho thấy dù là quan điểm nào thì khái niệm “quỹ
bảo hiểm xã hội” đều bao gồm các nội dung sau: (1) Quỹ BHXH là một quỹ tiền
tệ/tài chính tập trung; (2) nội dung về nguồn hình thành quỹ BHXH; (3) nội dung về
việc sử dụng quỹ BHXH. Tuy nhiên, các khái niệm quỹ BHXH nêu trên còn có sự
khác biệt trong việc xác định các nguồn hình thành và các khoản chi từ quỹ BHXH,
chưa có khái niệm nào thể hiện đầy đủ các nguồn hình thành quỹ và các khoản sử
dụng của quỹ BHXH. Riêng khái niệm được quy định tại Luật BHXH năm 2014 lại

thiếu đi phần nội dung về việc sử dụng quỹ BHXH, nhưng đây lại là khái niệm thể
hiện rõ trách nhiệm của nhà nước theo cơ chế ba bên đối với BHXH - trụ cột cơ bản
của hệ thống an sinh xã hội này. Cụ thể:
Về nguồn hình thành quỹ: Quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn khác
nhau. Trong đó, nguồn cơ bản là đóng góp của các bên tham gia BHXH gồm người
lao động và người sử dụng lao động. Ngoài ra, quỹ BHXH còn được hình thành từ
những nguồn khác như: từ sự hỗ trợ của nhà nước; thu lợi từ hoạt động đầu tư của
quỹ; tiền do cơ quan, tổ chức hỗ trợ; tiền phạt do cơ quan, đơn vị vi phạm pháp luật
về BHXH theo quy định.
Về việc sử dụng quỹ BHXH: Quỹ BHXH chủ yếu được chi trả cho các chế độ
BHXH, ngoài ra quỹ BHXH còn được sử dụng để chi trả các chi phí cho bộ máy
quản lý, chi cho hoạt động đầu tư từ quỹ,...
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa quỹ BHXH như sau:
Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách
Nhà nước được hình thành từ nguồn đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã
hội và các khoản thu hợp pháp khác, chủ yếu được sử dụng để chi trả các chế độ
bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.
Theo đó, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó
3

Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách Khoa, Nxb. Tư pháp, Hà
Nội, tr. 645.
4
Khoản 4 Điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.


8

vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện, cơ sở vật chất
quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Quỹ

BHXH có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, quỹ BHXH đảm bảo sự an toàn về tài chính.
Quỹ bảo hiểm xã hội ra đời, tồn tại và phát triển gắn với mục đích đảm bảo ổn
định cuộc sống, chia sẻ hậu quả của những rủi ro xã hội cho người lao động và gia
đình họ. Do đó cần có một sự cân đối thống nhất giữa nguồn vào và nguồn ra của
quỹ BHXH, nghĩa là quỹ BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về
tài chính, không chỉ phải bảo đảm về mặt số lượng mà còn phải bảo toàn về mặt giá
trị. Về nguyên tắc tổng số tiền hình thành nên quỹ phải bằng tổng số tiền chi ra từ
quỹ. Tuy nhiên, không phải cứ đồng tiền nào vào quỹ là được dùng để chi trả ngay
mà phải sau một khoảng thời gian nhất định, đôi khi tương đối dài số tiền ấy mới
được chi ra, cùng thời gian ấy đồng tiền luôn biến động và có thể bị giảm giá trị do
lạm phát.
Nhận thấy tầm quan trọng của quỹ bảo hiểm xã hội, để đối phó với những rủi
ro mang tính ngẫu nhiên làm giảm hoặc mất khả năng lao động của người lao động
cần có một lượng tiền dự trữ đủ lớn được hình thành và sử dụng trong một thời gian
nhất định trên cơ sở tính toán những xác suất nảy sinh và mức độ nhu cầu bảo hiểm
xã hội trong phạm vi quỹ phục vụ. Do đó, quỹ BHXH phải là quỹ an toàn về tài
chính, nghĩa là quỹ bảo hiểm xã hội phải được bảo toàn về giá trị và không có rủi ro
về tài chính. Nếu quỹ mất cân đối, mất khả năng chi trả thì mục đích đảm bảo đời
sống, san sẻ rủi ro xã hội của quỹ sẽ khó đạt được. Do đặc thù về đối tượng đảm
bảo, bản chất, ý nghĩa của hoạt động BHXH mà nhà nước phải có trách nhiệm đảm
bảo an toàn về tài chính cho quỹ5.
Thứ hai, quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tiêu dùng.
Bản chất của BHXH là bảo hiểm thu nhập nên những nhu cầu bảo hiểm xã hội
sẽ chỉ được thỏa mãn thông qua tiêu dùng của cá nhân những người được bảo hiểm
xã hội. Bên cạnh tính chất tích lũy tập hợp những đóng góp bằng tiền của người
tham gia bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm xã hội còn mang đặc trưng là quỹ tiêu dùng
làm nhiệm vụ chi trả cho người được bảo hiểm xã hội khi gặp những rủi ro xã hội,
phân phối lại thu nhập cho người lao động. Do đó, quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tích


5

Nguyễn Hữu Chí (2006), Quỹ bảo hiểm xã hội và một số vấn đề bảo toàn, phát triển quỹ bảo hiểm xã hội,
Nhà nước và pháp luật (06), tr. 63-64.


9

lũy đồng thời là quỹ tiêu dùng trên cơ sở tuân theo quy luật công bằng, ở mức độ
nhất định theo nguyên tắc tương đương và có sự điều chỉnh cần thiết giữa các nhu
cầu và lợi ích.
Thứ ba, quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ nguồn tài chính đóng góp
của người tham gia bảo hiểm xã hội và có sự bảo trợ của Nhà nước.
Quỹ BHXH là quỹ ân toàn về tài chính, với mục đích tạo lập quỹ tài chính để
phân phối sử dụng nó bảo đảm bù đắp một phần thu nhập nhất định cho NLĐ khi có
sự cố xuất hiện như tai nạn, ốm đau, hưu trí làm giảm hoặc mất hẳn các khoản thu
nhập thường xuyên từ lao động nhằm duy trì và ổn định cuộc sống của họ, chính vì
lẽ đó sự an toàn của quỹ BHXH được đặt ra. Bởi nếu quỹ bị mất cân đối, mất khả
năng chi trả thì hiệu quả cũng như ý nghĩa của chính sách BHXH chắc chắn sẽ
không đạt được. Quỹ BHXH vì vậy không thể bị đưa vào diện phá sản như các loại
doanh nghiệp bảo hiểm thương mại.
Vì vậy một yêu cầu được đặt ra là quỹ BHXH phải được bảo toàn về giá trị và
không có rủi ro về tài chính. Do đặc thù về đối tượng đảm bảo mà nhà nước phải có
trách nhiệm bảo đảm sự an toàn về tài chính cho quỹ.
Thứ tư, quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính không hoàn trả.
Tính hoàn trả thể hiện ở chỗ, mục đích của việc thiết lập quỹ BHXH là để chi
trả trợ cấp cho người lao động khi họ không may gặp các rủi ro dẫn đến mất hay
giảm thu nhập. Do đó, người lao động là đối tượng đóng góp đồng thời cũng là đối
tượng nhận trợ cấp. Tuy nhiên, thời gian, chế độ và mức trợ cấp của mỗi người sẽ
khác nhau, điều đó phụ thuộc vào những rủi ro mà họ gặp phải cũng như mức độ

đóng góp và thời gian tham gia. Mặc dù nguyên tắc của BHXH là có đóng - có
hưởng, đóng ít - hưởng ít, đóng nhiều - hưởng nhiều nhưng không có nghĩa là
những người có mức đóng góp như nhau sẽ chắc chắn được hưởng một khoản trợ
cấp như nhau. Trong thực tế, cùng tham gia BHXH nhưng có người được hưởng
nhiều lần, có người được hưởng ít lần (với chế độ ốm đau), thậm trí không được
hưởng (chế độ thai sản).
1.1.1.2. Vai trò của quỹ bảo hiểm xã hội
* Đối với người lao động
Quỹ bảo hiểm xã hội bảo đảm thay thế hoặc bù đắp sự thiếu hụt thu nhập của
NLĐ và gia đình họ. Khi người lao động đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ thì họ
có quyền được nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội khi phát sinh những rủi ro ốm đau, tai


10

nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, già yếu… đã làm thu nhập của họ bị giảm sút
hoặc mất hẳn. Quỹ BHXH lúc này sẽ bù đắp, trợ giúp cho người lao động và gia
đình những thiếu hụt về thu nhập. Chỉ khi thực hiện tốt chức năng này, BHXH mới
thực sự cuốn hút đối với NLĐ để họ tham gia đóng góp vào quỹ.
Bên cạnh đó, quỹ bảo hiểm xã hội góp phần kích thích NLĐ hăng hái lao động
sản xuất để nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Có
thể nói quỹ bảo hiểm xã hội đã làm triệt tiêu đi nỗi lo ngại của người lao động về
bệnh tật, tai nạn lao động hay tuổi già... tạo nên tâm lý yên tâm cho họ, đặc biệt là
với những người làm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm... Chức năng này
như là một đòn bẩy kinh tế kích thích NLĐ trong hoạt động lao động sản xuất.
* Đối với người sử dụng lao động
Quỹ bảo hiểm xã hội giúp NSDLĐ ổn định sản xuất kinh doanh, tránh được
những thiệt hại lớn khi phải chi ra những khoản tiền lớn khi không may NLĐ mà
mình thuê mướn gặp rủi ro, đặc biệt lợi ích của người sử dụng lao động với người
lao động được giải quyết hài hoà tránh những căng thẳng không cần thiết. Đồng

thời, quỹ BHXH tạo điều kiện cho NSDLĐ phải có trách nhiệm với NLĐ, không
chỉ trực tiếp sử dụng lao động mà trong suốt cuộc đời đến khi già yếu. Việc đóng
góp vào quỹ bảo hiểm xã hội giúp cho quan hệ lao động có tính nhân văn sâu sắc,
nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
* Đối với nhà nước và xã hội
Trước hết, quỹ bảo hiểm xã hội giúp phân phối lại thu nhập. Khi NLĐ tham
gia bảo hiểm đã thực hiện san sẻ rủi ro của chính mình theo thời gian, nghĩa là họ
đóng phí bảo hiểm xã hội kèm với tỷ lệ nào đó của thu nhập từ nghề nghiệp và
trong thời gian dài, để đến khi họ ốm đau, nghỉ hưu thì số tiền đó được tích tại quỹ
BHXH có thể bảo đảm một phần nhu cầu chi tiêu của họ. Ngoài ra, NSDLĐ cũng
tham gia đóng phí bảo hiểm xã hội để bảo hiểm cho người lao động mà họ thuê
mướn theo thời gian của hợp đồng lao động. Sự phân phối lại trong BHXH còn thể
hiện ở chỗ NLĐ khỏe đóng góp cho NLĐ ốm đau, NLĐ trẻ đóng góp để cho NLĐ
đã hết tuổi lao động được hưởng. Quỹ BHXH là dòng chảy liên tục của sự đóng vào
và sự chi ra của tiền bảo hiểm.
Ngoài ra, quỹ bảo hiểm xã hội góp phần tạo ra sự san sẻ, tương trợ giữa các
nhóm lao động. Người lao động hàng tháng chỉ phải trích tỷ lệ nhỏ từ thu nhập đóng
cho quỹ BHXH nhưng với số đông người tham gia sẽ có một nguồn tiền lớn đủ để


11

trang trải cho những người không may gặp rủi ro. Nhờ vậy tạo ra sự đoàn kết, tương
trợ và sự gắn kết lợi ích của các bên tham gia BHXH. Người sử dụng lao động tuy
không trực tiếp được hưởng các trợ cấp bảo hiểm xã hội nhưng khi đóng vào quỹ
BHXH, họ không còn lo lắng phải chi trả những khoản tiền đền bù cho người lao
động nếu không may xảy ra các rủi ro từ nghề nghiệp. Cả người lao động lẫn người
sử dụng lao động đều yên tâm, tạo điều kiện cho sự ổn định của quan hệ lao động và
sự phát triển doanh nghiệp
1.1.1.3. Nguyên tắc của quỹ bảo hiểm xã hội

Thứ nhất, quỹ bảo hiểm xã hội phải được quản lý thống nhất, dân chủ, công
khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ
thành phần của bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã
hội, chứa đựng cả nội dung kinh tế, nội dung xã hội và nội dung pháp lý. Để đảm
bảo thực hiện hài hòa các nội dung nói trên và đạt được mục tiêu mà bảo hiểm xã
hội đặt ra thì một trong những vấn đề cần được chú ý là việc quản lý, sử dụng quỹ
bảo hiểm xã hội. Do vậy, việc quản lý, sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội phải bảo đảm
tính dân chủ, công khai, minh bạch và trên cơ sở của cơ chế ba bên.
Ở nước ta việc tổ chức thực hiện các chính sách BHXH, tổ chức thu, chi, quản
lý quỹ được giao cho cơ quan Bảo hiểm xã hội thực hiện một cách thống nhất trong
phạm vi cả nước trên cơ sở pháp luật, dưới sự chỉ đạo, giám sát chặt chẽ của Nhà
nước mà cụ thể là Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội. Trong đó, Hội đồng quản lý
bảo hiểm xã hội là cơ quan bao gồm đại diện Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội,
Bộ Tài chính, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam, Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam…
Thứ hai, quỹ BHXH là một quỹ tồn tại và hoạt động độc lập, cơ chế thu, chi
của quỹ phải luôn bảo đảm cân đối, phải bảo toàn và phát triển quỹ để bảo đảm
quyền lợi cho người tham gia BHXH.
Tổ chức quản lý điều hành quỹ BHXH phải được tổ chức độc lập thống nhất
trong phạm vi cả nước trên cơ sở quy định của pháp luật và chịu sự kiểm tra, giám
sát, quản lý của Nhà nước về chấp hành pháp luật BHXH. Tổ chức BHXH Việt
Nam có hoạt động độc lập thì mới có điều kiện theo dõi, kiểm tra, giám sát công
việc thu, chi của quỹ, tăng cường công tác quản lý quỹ, quản lý sử dụng vốn nhàn
rỗi trong cơ chế thị trường có lợi nhất, giảm chi phí quản lý hành chính, nghiệp vụ


12

hoạt động BHXH. Để bảo vệ quyền lợi cho NLĐ, Nhà nước cần phải luật pháp hoá

việc đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH, tạo điều kiện tự chủ và tự chịu trách
nhiệm của tổ chức BHXH về kết quả đầu tư bảo toàn và phát triển vốn nhàn rỗi của
quỹ BHXH, phù hợp với cơ chế thị trường. Việc quản lý điều hành tăng trưởng quỹ
phải đảm bảo nguyên tắc bảo toàn được vốn, không làm vốn bị tổn thất, còn phải
làm cho vốn phát sinh thêm lợi nhuận.Thực hiện tốt việc đầu tư vốn nhàn rỗi, quỹ
BHXH không chỉ có tác dụng bảo toàn và phát triển vốn mà còn bảo đảm quyền lợi
cho NLĐ trên thực tế.
Thứ ba, hoạt động của quỹ BHXH mang tính chất tương trợ cộng đồng.
Quỹ BHXH hoạt động trước hết nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động
khi gặp rủi ro BHXH, sau nữa là bảo đảm an toàn cho xã hội và nền kinh tế. Hoạt
động BHXH chủ yếu dựa trên nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” mang tính chất
cộng đồng, tính chất xã hội giữa những người lao động. Các khoản đóng góp vào
quỹ BHXH phụ thuộc vào mức độ sử dụng chi trả của các chế độ BHXH, nếu quỹ
không đủ bù đắp thì phải nâng mức đóng góp hoặc hạ thấp mức chi trợ cấp BHXH
để bảo đảm quỹ luôn luôn cân đối giữa thu và chi. Nguyên tắc cơ bản quản lý quỹ
BHXH là phải cân đối thu với chi, chính vì vậy đòi hỏi cơ quan quản lý quỹ BHXH
phải tổ chức công tác kế toán, kiểm tra sử dụng một cách chặt chẽ, đúng pháp luật,
sử dụng tiền nhàn rỗi đầu tư sinh lợi có hiệu quả, quỹ được bảo toàn và phát triển để
có điều kiện bảo đảm quyền lợi cho người lao động hoặc giảm được sự tài trợ của
Nhà nước.
1.1.2. Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội
1.1.2.1. Khái niệm pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính mang tính cộng đồng xã hội lớn, sự hoạt động
của quỹ có ảnh hưởng sâu rộng đến cuộc sống của những người tham gia bảo hiểm xã
hội. Do vậy, cần có cơ chế thu chi, quản lý quỹ BHXH một cách chặt chẽ hợp lý để
đảm bảo quyền lợi của người lao động. Cùng với đó, để bảo vệ tốt nhất sự an toàn
của quỹ, Nhà nước cần phải luật pháp hoá việc đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH,
tạo điều kiện tự chủ và tự chịu trách nhiệm của tổ chức BHXH về kết quả đầu tư bảo
toàn và phát triển vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH, phù hợp với cơ chế thị trường.
Từ những ngày đầu của Chính quyền dân chủ nhân dân và những năm đầu của

cuộc kháng chiến chống Pháp, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, nhưng Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà đã quan tâm đến các chính sách xã hội nói chung và


13

chính sách bảo hiểm xã hội nói riêng đối với người lao động. Hiện nay, vấn đề pháp
luật BHXH nói chung và pháp luật về quỹ BHXH nói riêng là một bộ phận quan
trọng trong hệ thống pháp luật an sinh xã hội của nước ta. Việc ban hành những quy
định về bảo hiểm xã hội là rất cần thiết nhằm pháp điển hoá các quy định hiện hành
và bổ sung các chính sách bảo hiểm xã hội cho phù hợp với quá trình xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo
người lao động, bảo đảm an sinh xã hội và hội nhập quốc tế.
Quan hệ thu - chi BHXH vào giữa người tham gia BHXH và các đơn vị
BHXH cũng như quan hệ quản lý quỹ BHXH, xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHXH
phải được thực hiện dựa trên những căn cứ pháp lý nhất định, những căn cứ này tạo
nên hệ thống những quy tắc xử sự chung trong lĩnh vực BHXH, gọi là pháp luật
BHXH nói chung hay pháp luật về quỹ BHXH nói riêng.
Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội là tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các vấn đề về tổ chức và
hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội như: nguồn hình thành của quỹ, chi trả trợ cấp
của quỹ và tổ chức, quản lý quỹ.
Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động và nội dung hoạt động của các chủ thể, phạm
vi điều chỉnh của pháp luật về quỹ BHXH bao gồm: quyền và trách nhiệm của
người lao động, người sử dụng lao động; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến
quỹ bảo hiểm xã hội, tổ chức đại diện tập thể lao động, tổ chức đại diện người sử
dụng lao động; cơ quan bảo hiểm xã hội; thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội và quản
lý nhà nước về bảo hiểm xã hội.
Nguồn của pháp luật về quỹ BHXH là các văn bản pháp luật do cơ quan có
thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu –

chi BHXH và quản lý quỹ BHXH. Pháp luật về quỹ BHXH phải được xây dựng dựa
vào những tiêu chuẩn nhất định và điều chỉnh tổng thể các quan hệ BHXH khác
nhau nhưng có mối liên hệ với nhau. Có thể nói, yêu cầu đặt ra đối với pháp luật
BHXH là phải đảm bảo nguyên tắc trung lập của quỹ BHXH, đảm bảo nguồn thu,
cân đối nguồn chi của quỹ và ngân sách nhà nước.
1.1.2.2. Nội dung pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội
- Các quỹ bảo hiểm xã hội thành phần
Trên thế giới, BHXH được ra đời từ cuối thế kỷ XIX gắn liền với nó là việc
hình thành và sử dụng quỹ tài chính - quỹ BHXH. Tùy theo điều kiện lịch sử, kinh


14

tế, chính trị, xã hội ở mỗi nước, trong mỗi thời kỳ khác nhau mà quỹ BHXH cũng
được phân chia các quỹ thành phần theo những cách khác nhau cho phù hợp với
điều kiện kinh tế xã hội, trình độ quản lý nhà nước,… Thông thường khi mới thực
hiện BHXH, các nước thành lập một quỹ chung nhất cho mọi người lao động khi
mà đối tượng tham gia BHXH còn hạn hẹp và còn ít các chế độ BHXH. Khi nền
kinh tế phát triển đến một mức độ nhất định, trình độ quản lý được nâng cao, đối
tượng tham gia ngày càng lớn thì xuất hiện những bất cập mà đòi hỏi phải thành lập
ra các quỹ BHXH thành phần.
Về việc phân chia quỹ BHXH, hiện nay nhiều nước quy định cơ cấu quỹ
BHXH gồm nhiều quỹ khác nhau để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực
hiện và hạch toán quỹ. Nhiệm vụ của các nhà làm công tác quỹ BHXH là phải thành
lập nên quỹ BHXH theo cách thức phù hợp với trình độ tổ chức và thực hiện. Thế
nhưng đó lại là vấn đề hết sức khó khăn bởi có nhiều cách tiếp cận khác nhau.Theo
tính chất sử dụng quỹ, quỹ BHXH bao gồm quỹ dài hạn (được thành lập để chi trả
cho các chế độ dài hạn như trợ cấp hưu trí) và quỹ ngắn hạn (dùng chi trả cho các
chế độ trợ cấp ngắn hạn như ốm đau, thai sản,…). Hoặc có thể thành lập quỹ theo
từng chế độ và mỗi quỹ sẽ được chi trả cho từng chế độ tương ứng như quỹ ốm đau,

thai sản, quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, quỹ hưu trí, tử tuất,… Cũng có thể
thành lập quỹ theo đối tượng quản lý: quỹ cho công chức nhà nước, lực lượng vũ
trang, người lao động,…
Ở Việt Nam, việc thành lập các quỹ thành phần đã được nghiên cứu rất kỹ
trước khi đi vào thực hiện. Trong điều kiện kinh tế hiện nay, việc thành lập quỹ
BHXH tương ứng với các chế độ BHXH (ốm đau, thai sản; tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp; hưu trí, tử tuất) có lẽ là cách tiếp cận hợp lý nhất.
- Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tài chính độc lập và nằm ngoài ngân sách nhà
nước. Hiện nay, hầu hết các nước quy định nguồn thu quỹ BHXH hình thành từ thu
nhập của NLĐ với nghĩa vụ được quy định cho hai chủ thể là NLĐ và NSDLĐ. Tại
một số quốc gia phát triển nền kinh tế thị trường dân chủ như Đan Mạch, Hà Lan,
Thụy Điển,… thì Nhà nước có sự hỗ trợ một mức đóng góp nhất định vào quỹ
BHXH6. Như vậy, quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ các nguồn chủ yếu là sự

6

Phạm Thành Công (2014), Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội và thực tiễn thực hiện trên địa bàn thành phố
Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr. 15.


15

đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, sự hỗ trợ của Nhà nước và
từ các nguồn thu khác.
Ở Việt Nam, pháp luật quy định về nguồn thu quỹ BHXH được điều chỉnh
thay đổi theo từng thời kỳ lịch sử. Cơ cấu về nguồn thu không phải lúc nào cũng
giống nhau mà tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Từng
có thời kỳ, pháp luật Việt Nam quy định trách nhiệm đóng góp quỹ BHXH thuộc về
Nhà nước, tuy nhiên hiện nay pháp luật chỉ quy định Nhà nước hỗ trợ vào việc tạo

lập quỹ BHXH trong một số trường hợp nhất định, trách nhiệm đóng góp tạo lập
quỹ chủ yếu là người lao động và người sử dụng lao động.
Người lao động đóng góp một phần vào quỹ BHXH biểu hiện sự gánh chịu
trực tiếp rủi ro của chính mình, mặt khác nó có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và
quyền lợi của họ một cách chặt chẽ. Người sử dụng lao động đóng góp một phần
quỹ bảo hiểm xã hội cho người lao động, một mặt sẽ tránh được những thiệt hại to
lớn như đình trệ sản xuất, đào tạo lại lao động khi có rủi ro xảy ra đối với người lao
động, mặt khác giảm bớt sự căng thẳng trong mối quan hệ vốn chứa đựng đầy mâu
thuẫn, tranh chấp giữa chủ và thợ. Nhà nước tham gia đóng góp một phần vào quỹ
BHXH cương vị của người quản lý xã hội về mọi mặt với mục đích phát triển kinh
tế, ổn định xã hội một mặt điều hòa mâu thuẫn giữa quan hệ người lao động và
người sử dụng lao động thông qua các chính sách, pháp luật, mặt khác hỗ trợ thêm
vào quỹ bảo hiểm xã hội giúp cho hoạt động BHXH được ổn định.
- Sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các đối tượng hưởng các chế
độ bảo hiểm xã hội. Các chế độ BHXH được áp dụng đối với NLĐ nhiều hay ít,
mức độ hưởng của từng loại cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách BHXH do mỗi
Nhà nước quy định. ILO ban hành Công ước lao động 102 ngày 04/6/1952 trong đó
quy định các chế độ trợ cấp như: chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất nghiệp,
trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn tật, trợ cấp tử
tuất. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội mà các quốc gia quy định nhiệm
vụ chi cho một phần hoặc toàn bộ các chế độ mà Công ước 102 đã quy định. Ví dụ,
quỹ BHXH của Cộng hòa liên bang Đức được sử dụng để chi trả cho các chế độ:
hưu trí, y tế, thai sản, thất nghiệp, tai nạn lao động và chăm sóc người già.
Ở Việt Nam, ban đầu quỹ BHXH chỉ tập trung cho chế độ hưu trí do chưa có
điều kiện để thực hiện chi trả cho các chế độ khác. Nhưng cho đến nay, cơ cấu chi


16


quỹ BHXH có thể nói khá là đầy đủ và ổn định cho các chế độ BHXH như: trợ cấp
ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động, trợ cấp thai
sản, trợ cấp tàn tật, trợ cấp tử tuất. Ngoài ra, quỹ BHXH còn được chi cho các
nhiệm vụ chi khác như chi cho hoạt động thường xuyên để duy trì bộ máy làm việc
của cơ quan BHXH, chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, chi khen thưởng, đầu tư để
bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH.
- Quản lý quỹ bảo hiểm xã hội
Trách nhiệm quản lý quỹ BHXH hiện nay được hầu hết các nước quy định
thuộc về Nhà nước. Điều này xuất phát từ nguyên nhân hình thành, vai trò cũng như
mục đích sử dụng của quỹ BHXH, từ đó đặt ra yêu cầu quản lý, giám sát, và việc tổ
chức thực hiện các hoạt động này đặt dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
Điển hình thực hiện quản lý theo mô hình này là ở một số nước khu vực Đông Nam
Á, trong đó có Thái Lan, việc quản lý chung về BHXH do Bộ Lao động và phúc lợi
xã hội, hoạt động quản lý sự nghiệp do Văn phòng Bảo hiểm xã hội thực hiện. Tuy
nhiên, tại nhiều quốc gia khác lại áp dụng quản lý theo mô hình tự quản. Ví dụ ở
Đức, mỗi loại bảo hiểm xã hội có một tổ chức quản lý, do vậy có rất nhiều tổ chức
BHXH ở đất nước này, hầu hết là các tổ chức phi chính phủ.7
Ở Việt Nam, việc quản lý sự nghiệp đối với quỹ BHXH do Bảo hiểm xã hội
Việt Nam trực tiếp quản lý, tổ chức thu, chi, đầu tư quỹ. Hội đồng quản lý BHXH
có vai trò giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, giám sát việc thực hiện
chế độ, chính sách thu, chi quỹ BHXH.
- Xử lý vi phạm pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội
Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH là hành vi xâm hại đến các quan hệ
xã hội trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội được pháp luật bảo vệ do cá nhân hoặc tổ
chức có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện trong điều kiện họ có thể nhận thức
và kiểm soát được hành vi của mình. Vì hoạt động BHXH là quá trình thu, chi và
quản lý quỹ tài chính được hình thành chủ yếu từ nguồn đóng góp của người sử
dụng lao động và người lao động nên khả năng xảy ra vi phạm liên quan đến quỹ
BHXH cũng không nằm ngoài quá trình thu, chi và quản lý hoạt động BHXH đó.
Chế tài nhằm đảm bảo việc thu - đóng BHXH tại nhiều quốc gia có hệ thống

an sinh xã hội phát triển ở châu Âu, Hoa Kỳ chủ yếu vẫn tập trung vào việc xử phạt
7

Ngân hàng thế giới (World Bank) (2012), Việt Nam phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại –
những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai.


17

vi phạm hành chính như cưỡng chế thu hồi khoản BHXH mà doanh nghiệp chưa
đóng hoặc chậm đóng. Ở Pháp mức phạt là 4 lần mức trần đóng hàng tháng. Ở Đức
mức phạt là 1% mỗi tháng chậm đóng và ở Mỹ là từ 2-10% số tiền vi phạm. Tại
một số quốc gia châu Á như Malaysia, Singapore và Hàn Quốc, cơ quan bảo hiểm
chủ động gửi yêu cầu thông báo trước khi tiến hành xử lý vi phạm hành chính với
mức phạt tiền tương ứng.8
Cá nhân, tổ chức, cơ quan nếu có hành vi vi phạm quỹ bảo hiểm xã hội tuỳ
theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý dưới nhiều hình thức với các mức phạt
khác nhau: Phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự, nếu gây thiệt hại sẽ phải bồi thường. Một trong những nguyên tắc cơ bản
trong xử lý các hành vi vi phạm là chỉ có những chức danh được pháp luật quy định
có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm pháp luật mới được tiến hành xử lý đối với cá
nhân, tổ chức có hành vi vi phạm. Trong lĩnh vực BHXH cũng vậy, thẩm quyền xử
lý vi phạm pháp luật về BHXH được quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội năm
2014. Đồng thời, tùy theo từng mức độ vi phạm và từng chế tài vi phạm mà thủ tục
xử lý vi phạm là khác nhau.
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quỹ bảo hiểm xã hội
Pháp luật về quỹ BHXH quy định những vấn đề cơ bản, quan trọng nhất về
quỹ BHXH. Ngay sau khi Luật BHXH năm 2014 được thông qua, Chính phủ đã
ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết của Luật BHXH, cụ thể: Nghị định
115/2015/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2015 quy định chi tiết một cố điều của

Luật BHXH về BHXH bắt buộc; Nghị định 30/2016/NĐ-CP ngày 28/4/2016 quy
định chi tiết hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH, BHYT, BHTN; Thông tư liên tịch số
105/2016/TTLT-BQP-BCA-BLĐTBXH quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện
một số điều của Luật BHXH; Nghị định số 134/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một
số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về BHXH tự nguyện... Đặc biệt, mới đây Quyết
định 595/QĐ-BHXH ngày 14 tháng 04 năm 2017 quy định về quy trình thu BHXH,
BHYT, BHTN, bảo hiểm TNLĐ, BNN, quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT của Tổng
Giám đốc BHXH Việt Nam đã được ban hành và có hiệu lực (sau đây gọi là Quyết
định 595/QĐ-BHXH). Các văn bản pháp luật này có nhiều quy định mới về thu, chi

8

Châu Huy Quang - Trần Thúy Hằng (2014), “Có cần thêm chế tài hình sự khi doanh nghiệp nợ BHXH?”,
Bảo hiểm xã hội Thành phố Đà Nẵng, ngày cập nhật 13/8/2018.


×