Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Thực trạng pháp luật về phương thức hòa giải các tranh chấp thương mại ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.78 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN QUỲNH HOA

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHƯƠNG THỨC HOÀ
GIẢI CÁC TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Viết Tý

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn
này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Nguyễn Quỳnh Hoa


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn này, bên cạnh nỗ lực của bản thân,
tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ từ Thầy Cô, gia đình và bạn bè
cũng như các đồng nghiệp. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến
các Thầy Cô trường Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là các Thầy Cô Khoa Pháp
luật Kinh tế, Bộ môn Luật Thương mại, đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc Thầy giáo Nguyễn Viết Tý,
thầy giáo đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo tôi hoàn thành luận văn thạc sỹ này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô trong Hội đồng đánh
giá luận văn đã cho tôi các đóng góp quý giá để Luận văn này được hoàn thiện
hơn.

Nguyễn Quỳnh Hoa


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ..................................................................... 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 3
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu......................................... 4
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .................................................. 5
7. Bố cục luận văn ...................................................................................... 5
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOÀ GIẢI TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOÀ GIẢI TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI ........................................................................................ 6
1.1. Khái quát về tranh chấp thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại 6
1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại....................................................... 6
1.1.2. Khái niệm và yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp thương mại ......... 9
1.1.3. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại ............................. 11
1.2. Hoà giải tranh chấp thương mại – phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại ............................................................................................................. 17
1.2.1. Khái niệm hoà giải tranh chấp thương mại .......................................... 17
1.2.2. Vai trò của việc hoà giải tranh chấp thương mại .................................. 18
1.3. Kinh nghiệm giải quyết tranh chấp thương mại của một số nước trên thế giới
.................................................................................................................. 20
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................... 22
Chương 2. PHÁP LUẬT VỀ HOÀ GIẢI CÁC TRANH CHẤP THƯƠNG
MẠI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI VIỆT NAM .............................. 23


2.1. Pháp luật về hoà giải tranh chấp thương mại .......................................... 23
2.1.1. Chính sách của Nhà nước đối với hoà giải tranh chấp thương mại ........ 25
2.1.2. Nguyên tắc hoà giải tranh chấp thương mại......................................... 28
2.1.3. Phạm vi, điều kiện giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại...... 31
2.1.4. Địa vị pháp lý của chủ thể hoà giải thương mại ................................... 32
2.1.5. Trình tự, thủ tục hoà giải thương mại làm cơ sở để các bên tranh chấp, hoà
giải viên thương mại tiến hành giải quyết tranh chấp .................................... 41

2.1.6. Kết quả hoà giải thành ....................................................................... 43
2.1.7. Ưu điểm và hạn chế của pháp luật về phương thức hoà giải tranh chấp
thương mại ................................................................................................. 47
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về phương thức hoà giải tranh chấp thương mại
.................................................................................................................. 49
2.2.1. Kết quả đạt được ............................................................................... 49
2.2.2. Một số khó khăn, vướng mắc trong thực thi pháp luật về hoà giải tranh
chấp thương mại và nguyên nhân ................................................................. 54
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................... 55
Chương 3. GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ PHƯƠNG THỨC HÒA
GIẢI TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM............................. 57
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về phương thức hòa giải tranh chấp thương
mại ở Việt Nam .......................................................................................... 57
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về phương thức hòa giải tranh
chấp thương mại ở Việt Nam....................................................................... 61
Tiểu kết chương 3 ....................................................................................... 64
KẾT LUẬN ............................................................................................... 65


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hòa vào sự phát triển kinh tế chung trên toàn thế giới, kinh tế Việt Nam
chúng ta cũng từng bước phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ. Với việc hội
nhập, tham gia vào các tổ chức kinh tế trong khu vực và trên thế giới, cơ hội
hợp tác giai thương giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài diễn ra
sôi nổi. Với sự gia tăng các hoạt động hợp tác kinh tế như vậy điều tất yếu đi
kèm là việc xảy ra các xung đột, tranh chấp thương mại giữa các doanh

nghiệp sẽ diễn ra nhiều hơn và diễn biến phức tạp hơn. Thông thường khi có
tranh chấp thương mại xảy ra các bên sẽ tiến hành đàm phán, thương lượng,
hòa giải với nhau trước khi buộc phải mang ra Trọng tài, Tòa án để giải quyết
tranh chấp. Mỗi phương thức đều có những đặc điểm phù hợp riêng với từng
vụ việc cần giải quyết. Trong các phương thức trên thì phương thức hòa giải
rất được ưa chuộng đối với những nền kinh tế phát triển trên thế giới vì những
lợi ích, ưu điểm mà nó đem lại như tiết kiệm thời gian, chi phí, giảm sự căng
thẳng, đối đầu nhau giữa các bên… Tuy nhiên phương thức này còn khá mới
mẻ, chưa phổ biến ở nước ta do chưa được pháp luật thừa nhận và hỗ trợ.
Nhận thức thực trạng này cũng như nhằm khuyến khích phương thức giải
quyết tranh chấp thay thế để phù hợp với thông lệ quốc tế và thu hút đầu tư
nước ngoài trong bối cảnh các tranh chấp thương mại, kinh tế ngày càng gia
tăng, gần đây nhất, ngày 24/2/2017 Chính phủ đã ban hành Nghị định
22/2017/NĐ-CP về hoạt động hòa giải thương mại. Việc nghiên cứu cách
thức hoạt động, tính khả thi và đóng góp của phương thức giải quyết tranh
chấp tuy không mới này vào thực tiễn sẽ có ý nghĩa to lớn trong việc giải
quyết tranh chấp giữa các bên, hạn chế tối đa việc giải quyết tại Trọng tài hay
Toà án. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện pháp luật để tạo cơ sở pháp lý cho việc


2

lựa chọn phương thức hoà giải được linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế
và thực tiễn tại Việt Nam cũng rất quan trọng. Với lý do như vậy, tôi chọn đề
tài: “Thực trạng pháp luật về phương thức hoà giải các tranh chấp thương
mại ở Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề hoà giải tranh
chấp thương mại ở Việt Nam như:
Hòa giải – Một phương thức giải quyết tranh chấp thay thế/Ths. Dương

Quỳnh Hoa/Viện Nhà nước và Pháp luật (Tạp chí nghiên cứu lập pháp tháng
12/2011). “Hòa giải thương mại và xu hướng phát triển tại Việt Nam”, TS.
Nguyễn Thị Minh, Phó vụ trưởng Vụ Bổ trợ Tư pháp, Bộ Tư pháp, năm 2011;
“Hoàn thiện cơ chế hòa giải ở Việt Nam – Bài học từ kinh nghiệm các nước”,
ThS. Lê Thị Hoàng Thanh, năm 2012;
Luận văn “Giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức
thương lượng, hoà giải - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” năm 2004 của
tác giả Nguyễn Hoài Sơn, trường Đại học Luật Hà Nội; Luận văn
“Hoà giải - Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại ngoài tố tụng
tư pháp” năm 2010 của tác giả Nguyễn Thị An Na, trường Đại học Luật
Hà Nội; Luận văn “Xây dựng pháp luật về phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại bằng hoà giải ở Việt Nam” năm 2014 của tác giả Ngô Thị
Thanh Tuyền – Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận văn “Pháp luật
hoà giải tranh chấp kinh doanh thương mại ở Việt Nam” năm 2014 của tác
giả Phạm Lê Mai Ly – Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Luận văn
“Hoàn thiện chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”
năm 2014 của tác giả Nguyễn Thị Thúy – Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Luận văn “Xây dựng chế định pháp luật về hòa giải thương mại ở Việt


3

Nam trong bối cảnh hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN” của tác giả
Nguyễn Thế Anh – Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2016, Luận
văn “Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” của tác
giả Bùi Anh Tuấn – Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014.
Tuy nhiên, kể từ khi BLTTDS 2015 và Nghị định 22/2017/NĐ-CP về
hòa giải thương mại có hiệu lực đến nay thì có rất ít công trình nghiên cứu
một cách tổng thể về phương thức hoà giải các tranh chấp thương mại ở Việt
Nam trên cơ sở hoà giải thương mại đã được pháp luật điều chỉnh và đã có thủ

tục công nhận kết quả hoà giải thành ngoài Toà án.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống các vấn đề lý luận và
pháp luật thực định về hoà giải với tư cách là một biện pháp giải quyết tranh
chấp nhằm mục đích đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả thi hành pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại ở Việt Nam.
Luận văn có nhiệm vụ:


Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về hoà giải tranh chấp thương mại
với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp thay thế



Phân tích, nghiên cứu pháp luật về phương thức hoà giải tranh chấp
thương mại và thực trạng thi hành tại Việt Nam



Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
bằng hoà giải.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:


4

Những vấn đề lý luận cơ bản về hoà giải các tranh chấp thương mại;

Pháp luật về hoà giải các tranh chấp thương mại và thực tiễn thi hành
tại Việt Nam;
Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về phương thức hòa giải tranh chấp thương mại ở Việt Nam .
Phạm vi nội dung là nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt Nam, mặc dù đề tài này
không phải mới và cũng đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh
vực này. Tuy nhiên, tại thời điểm hiện tại, pháp luật Việt Nam đã có những
thay đổi trong lĩnh vực này, gần đây nhất là Nghị định 22/2017/NĐ-CP về
hoạt động hòa giải thương mại có hiệu lực từ 15/04/2017. Hoạt động hoà giải
thương mại lần đầu tiên được luật hoá theo Nghị định 22/2017/NĐ-CP. Luận
văn tập trung nghiên cứu các quy định của Nghị định 22/2017/NĐ-CP và các
văn bản hướng dẫn thi hành.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: luận văn khảo sát đánh giá thực tiễn
thi hành pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt
Nam trong thời gian từ năm 2013 đến nay.
Phạm vi nghiên cứu về không gian: luận văn khảo sát đánh giá thực
tiễn thi hành pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp thương mại trong
phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở thực tiễn, đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp
lý luận biện chứng của Chủ Nghĩa Mác – Lê nin, cũng như đường lối, chính
sách, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà Nước về phát triển kinh tế đất
nước khi tham gia hội nhập với nền kinh tế chung trên thế giới. Ngoài ra đề


5

tài cũng sử dụng các phương pháp như so sánh, thống kê, phân tích những dữ
liệu sẵn có để có cái nhìn khách quan, qua đó góp phần đánh giá phần nào làm

sáng tỏ những vấn đề cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Với sự ra đời của các quy định mới lần đầu tiên được đưa vào hệ thống
pháp luật Việt Nam, luận văn có ý nghĩa nghiên cứu cách tiếp cận mới so với
các công trình nghiên cứu trước đây khi chưa có sự thay đổi của pháp luật.
Luận văn đã đi sâu nghiên cứu những quy định tổng thể của pháp luật Việt
Nam về hoạt động hòa giải các tranh chấp thương mại, làm sáng tỏ nguyên
tắc, bản chất, phạm vi, trình tự, thủ tục hòa giải trong và ngoài tố tụng. Trên
cơ sở quy định của pháp luật, luận văn đã tìm hiểu việc áp dụng trên thực tế,
hiệu quả cũng như những tồn tại của các quy định này, đặc biệt là sự ra đời
của việc công nhận kết quả hoà giải thành ngoài Toà án và luật hoá hoạt động
hoà giải thương mại.
Từ những nghiên cứu này, Luận văn đã chỉ ra những bất cập trong các
quy định pháp luật và đề xuất định hướng cũng như giải pháp hoàn thiện.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm có ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hoà giải tranh chấp thương
mại và pháp luật về hoà giải tranh chấp thương mại;
Chương 2: Pháp luật về hoà giải tranh chấp thương mại và thực tiễn thi
hành tại Việt Nam;
Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về phương thức hòa giải tranh chấp thương mại ở Việt
Nam.


6

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOÀ GIẢI
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOÀ GIẢI

TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về tranh chấp thương mại và giải quyết tranh chấp
thương mại
1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại
Kết quả tất yếu của việc Việt Nam quyết định mở cửa nền kinh tế, hội
nhập với thế giới từ thời kì đổi mới là nền kinh tế được tăng trưởng rõ rệt,
thúc đẩy, nâng cao đời sống người dân. Cùng sự phát triển của nền kinh tế thị
trường, tranh chấp thương mại hay còn gọi là tranh chấp trong kinh doanh
cũng theo đó mà ngày càng phổ biến. Sự phát triển cũng như các tranh chấp
này cần được điều chỉnh và giải quyết bởi hệ thống pháp luật.
Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được quy định trong
Luật Thương mại năm 1997. Tại Điều 238 Luật Thương mại quy định: Tranh
chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại. Phạm vi của hoạt
động thương mại bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương
mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc
nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.1 Như vậy, tranh chấp thương
mại theo quy định tại Luật Thương mại 1997 có phạm vi rất hẹp, chỉ bao gồm
các tranh chấp liên quan đến các hoạt động đã được liệt kê. Hay nói cách
khác, các hoạt động khác dù nhằm mục đích sinh lợi cũng không được coi là
hoạt động thương mại và do đó sẽ phải áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp
khác.
1

Luật Thương mại 1997, Điều 5.2


7

Đến năm 2003, Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 dù không định

nghĩa về tranh chấp thương mại nhưng phạm vi hoạt động thương mại lại
được quy định mở rộng hơn so với Luật Thương mại 1997. Theo khoản 3
Điều 2 của Pháp lệnh này, hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay
nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán
hàng hoá, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi;
thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài
chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành
khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành
vi thương mại khác theo quy định của pháp luật. Phạm vi được mở rộng này
phù hợp với định nghĩa của quốc tế về hoạt động thương mại, tranh chấp
thương mại. Do vậy mà tạo điều kiện để các phán quyết của trọng tài nước
ngoài được công nhận và thi hành tại Việt Nam.
Đến Luật Thương mại 2005, khái niệm tranh chấp thương mại không
còn được định nghĩa. Tuy nhiên, phạm vi của hoạt động thương mại đã được
mở rộng ra, theo khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005, bên cạnh các hoạt
động mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại, hoạt
động thương mại còn bao gồm các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Việc mở rộng này đã tạo nên sự nhất quán về khái niệm giữa Luật Thương
mại với Luật Doanh nghiệp 2005 và mới đây nhất là Luật Doanh nghiệp
2014.
Theo khoản 6 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014, kinh doanh là việc
thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư,
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích sinh lợi.


8

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng liệt kê các tranh chấp về kinh
doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án tại Điều 30, bao

gồm (i) tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;
(ii) tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; (iii) tranh chấp giữa người
chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần
vốn góp với công ty, thành viên công ty; (iv) tranh chấp giữa công ty với các
thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công
ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng
giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên
quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách,
bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty; (v)
các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Luật Trọng tài thương mại 2010 cũng xác định rõ các tranh chấp thuộc
thẩm quyền giải quyết của Trọng tài tại Điều 2, bao gồm (i) tranh chấp giữa
các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (ii) tranh chấp phát sinh giữa các
bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (iii) tranh chấp khác
giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
Có thể thấy, đến Luật Thương mại 2005, Luật Trọng tài thương mại
2010, Luật Doanh nghiệp và các luật khác có liên quan, khái niệm tranh
chấp thương mại đã được định nghĩa thống nhất giữa các luật với nhau và
phù hợp với quy định quốc tế. Mặc dù từ ngữ sử dụng không nhất thiết
giống nhau, nhưng bản chất của các tranh chấp này là tương tự, tương đồng
nhau và do vậy có sự đồng nhất giữa các luật. Điều này có ý nghĩa trong
việc phân định rõ thẩm quyền giải quyết, sự khác biệt giữa pháp luật Việt


9

Nam và pháp luật quốc tế được thu hẹp lại, tăng khả năng công nhận và

được công nhận của phán quyết nước ngoài tại Việt Nam cũng như phán
quyết của Việt Nam tại nước ngoài.
Dưới giác độ học thuật, có thể hiểu: Tranh chấp thương mại là những
mâu thuẫn, xung đột về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực
hiện các hoạt động thương mại.
Về cơ bản, có thể thấy đặc thù của tranh chấp thương mại so với các
loại tranh chấp khác như tranh chấp về dân sự, tranh chấp lao động là các bên
tranh chấp đều có mục đích lợi nhuận, dù mục đích đó đã được thể hiện rõ
ràng hay xét về bản chất có tồn tại mục đích lợi nhuận trong đó. Cách phân
loại dựa trên bản chất như vậy là phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như giúp
công tác giải quyết các tranh chấp đạt hiệu quả cao hơn.
1.1.2. Khái niệm và yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp thương
mại
Giải quyết tranh chấp là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét
và ra quyết định xử lý các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động, trên cơ sở xem xét các tài liệu, chứng cứ có
trong vụ việc tranh chấp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức.
Như vậy, giải quyết tranh chấp thương mại là hoạt động của cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thương mại.
Việc giải quyết tranh chấp thương mại cần tuân thủ các yêu cầu sau:
Thứ nhất, tranh chấp thương mại cần phải được giải quyết nhanh
chóng, dứt khoát, tránh tình trạng kéo dài thời gian làm ảnh hưởng đến hoạt


10

động kinh doanh của các bên cũng như cơ quan giải quyết tranh chấp. Chi
phí bỏ ra cho việc giải quyết tranh chấp phải thấp nhất, bởi bên cạnh những

tổn thất phát sinh là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp thì chi phí cho việc giải
quyết là không nhỏ.
Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp thương mại phải bảo vệ được uy tín
của các bên. Trong kinh doanh, uy tín là yếu tố rất quan trọng và cũng là mục
tiêu mà các doanh nghiệp luôn hướng tới, uy tín quyết định chỗ đứng và sự tồn
vong của doanh nghiệp, chính vì lẽ đó, trong quá trình giải quyết tranh chấp
thương mại, các bên phải đảm bảo tối đa uy tín của mình cũng như không được
phép tiết lộ bất kỳ một thông tin nào nhằm hạ thấp uy tín, gây ảnh hưởng tiêu
cực đến hình ảnh của đối phương trên thị trường, trước công luận cũng như tổ
chức giải quyết tranh chấp thương mại đó. Bên cạnh uy tín thì bí mật kinh
doanh cũng là yếu tố không kém quan trọng. Bí mật kinh doanh là yếu tố làm
nên thương hiệu của doanh nghiệp, nó là tài sản trí tuệ, là sự sáng tạo có công
sức nghiên cứu rất lớn, do vậy mà phải được giữ bí mật tuyệt đối. Pháp luật
cũng có những quy định nhằm bảo vệ tối đa loại tài sản vô hình nhưng vô cùng
giá trị này.
Thứ ba, các bên có thể tự thỏa thuận với nhau về phương thức giải
quyết tranh chấp mà mình thấy phù hợp nhất cho cả hai, thương lượng, hoà
giải, hay tố tụng tại Trọng tài, Toà án. Được uỷ quyền cho một bên thứ ba
khác đại diện cho mình tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp hay thuê
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình tại cơ quan tố tụng. Kể cả
trong quá trình giải quyết tranh chấp tại cơ quan tố tụng, tại bất kỳ thời điểm
nào các bên vẫn có quyền tự hoà giải với nhau và chấm dứt quan hệ tố tụng.
Thứ tư, giải quyết tranh chấp thương mại phải công bằng, bình đẳng
với mọi chủ thể, không được phân biệt thành phần kinh tế, số vốn hay tài sản.


11

Đây là yêu cầu cơ bản nhất không chỉ đối với giải quyết tranh chấp thương
mại mà còn áp dụng với mọi tranh chấp khác.

Thứ năm, đề cao phương thức hoà giải trong giải quyết tranh chấp
thương mại, cụ thể pháp luật luôn ưu tiên các bên có thể hoà giải với nhau,
hoà giải là một thủ tục bắt buộc tại Toà án, chỉ khi hoà giải không thành hay
không được hoà giải hay không hoà giải được mới được đưa vụ án ra xét xử
sơ thẩm, đến phiên toà phúc thẩm các bên vẫn có quyền hoà giải với nhau
hay nguyên tắc chung là cả khi tranh tụng tại Trọng tài hay Toà án các bên
đều có quyền thoả thuận với nhau vào bất kỳ lúc nào và có quyền chấm dứt
tố tụng nếu hoà giải thành.
1.1.3. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
Hiện nay các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại phổ biến
bao gồm: thương lượng, hoà giải, trọng tài thương mại và toà án. Thương
lượng, hoà giải và trọng tài thương mại cùng mang đặc điểm chung đó là
không mang tính quyền lực nhà nước hay nói cách khác không nhân danh nhà
nước như phán quyết của Toà án mà chủ yếu dựa trên sự thoả thuận của các
bên. Do vậy mà thủ tục cũng đơn giản, linh hoạt hơn so với Toà án phải tuân
thủ chặt chẽ trình tự, thủ tục luật định. Việc thực thi thoả thuận cũng không
mang tính ràng buộc mà phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên, phán quyết
trọng tài dù có cơ chế thực thi nhưng vẫn cần đến sự trợ giúp của Toà án và
gây tốn kém. Trái lại, quyết định của Toà án có hiệu lực bắt buộc các bên phải
thực hiện.
Mỗi phương thức giải quyết có đặc điểm riêng, tuỳ vào nhu cầu cụ thể,
mong muốn cá nhân mà các bên quyết định chọn cho mình phương thức giải
quyết phù hợp.
• Thương lượng


12

Thương lượng có thể nói là phương thức giải quyết tranh chấp có
nguồn gốc xuất hiện sớm nhất. Điều này là do từ thuở sơ khai, trong quá trình

mua bán, trao đổi hàng hoá giữa con người với nhau, không thể tránh được
các mâu thuẫn do sự bất đồng về giá cả, chất lượng, cách thức giao nhận, v.v,
để có thể đạt được mục đích, các bên cần thương lượng với nhau về mong
muốn của mình cũng như có thể nhượng bộ về lợi ích để cả hai cùng đạt được
sự thống nhất chung. Khi pháp luật chưa ra đời để điều chỉnh hành vi của con
người và để quản lý trật tự xã hội, cũng như việc nhờ một bên trung gian
đứng ra hoà giải chưa được nghĩ đến thì thương lượng là phương thức cơ bản
và mang tính chất “tự nhiên” nhất để dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng.
Đặc điểm của thương lượng là mâu thuẫn phát sinh được giải quyết bởi
các bên có tranh chấp mà không có sự tham gia của bất kỳ bên thứ ba nào.
Các bên tự thoả thuận, tự đàm phán với nhau để tìm ra cách giải quyết tốt
nhất, hài hoà nhất lợi ích của cả hai bên. Phương thức này cũng xuất phát từ
sự tự nguyện của các bên và không chịu sự ràng buộc pháp lý nào. Các bên có
quyền tự do đưa ra ý kiến của mình, tự do phản bác, thoả thuận với nhau và
thống nhất nếu cùng đi đến được thoả thuận cuối cùng. Các bên là những
người hiểu rõ nhất mối quan hệ, quyền và lợi ích của mình, nguyên nhân phát
sinh tranh chấp nên sẽ dễ dàng hiểu được mong muốn của bên kia và phạm vi
thiệt hại lợi ích cho phép của mình. Do vậy, đây cũng là phương thức mà mọi
tranh chấp khi phát sinh đều ưu tiên sử dụng trước tiên vì mọi việc sẽ được
giải quyết nội bộ, ít tốn kém chi phí, thủ tục đơn giản, uy tín và bí mật kinh
doanh được giữ kín. Tuy nhiên, việc thương lượng thành công hay không phụ
thuộc hoàn toàn vào thiện chí cũng như sự hiểu biết của các bên ví dụ như ít
nhất một trong hai bên không nhận thức được thế yếu của mình, nếu đưa tranh
chấp ra Toà án, trọng tài thương mại khó có thể thắng nhưng vẫn không chấp
nhận nhượng bộ khi thương lượng. Cũng bởi không có ràng buộc về mặt pháp


13

lý nào nên trong trường hợp các bên đạt được thoả thuận, việc thực thi thoả

thuận đó cũng không được đảm bảo hoàn toàn, không có cơ chế pháp lý nào
buộc các bên phải thực thi kết quả thương lượng đó và như vậy toàn bộ nỗ lực
thương lượng trở nên vô nghĩa.
• Trọng tài
Khi các biện pháp giải quyết tranh chấp “trong hoà bình” không đạt
được hiệu quả, điều tất yếu cần xuất hiện một bên trung gian mà các bên tín
nhiệm để phân xử “đúng, sai”. Khác với các biện pháp hoà giải và thương
lượng, kết quả của việc phân xử là một quyết định mang tính ràng buộc thực
hiện giữa các bên, đó cũng là đặc điểm để các bên quyết định chọn Trọng tài
làm phương thức giải quyết tranh chấp. Bởi hoà giải và thương lượng sẽ trở
nên vô nghĩa nếu, dù có đạt được một thoả thuận hoàn hảo nhất cho cả hai
bên nhưng ít nhất một trong các bên không thực hiện.
Ưu điểm khi tìm đến một cơ quan tài phán để giải quyết tranh chấp đó
là các bên có thể yên tâm về mặt thực thi kết quả. Tranh chấp sẽ được giải
quyết và các bên có trách nhiệm thực hiện quyết định giải quyết tranh chấp
đó. Cụ thể, phán quyết của Trọng tài nếu các bên không tự nguyện thực hiện,
một trong các bên có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành phán
quyết. Tuy nhiên, so với thương lượng, hoà giải, bên trung gian hoà giải chỉ
giúp các bên hiểu rõ hơn quan điểm của nhau và đề xuất phương án có lợi
nhất cho đôi bên mà không có quyền tham gia vào thảo luận, không có quyền
áp đặt, không quyết định bên nào đúng, bên nào sai và không đưa ra quyết
định cuối cùng cho các bên, các bên chính là người tạo ra kết quả giải quyết
tranh chấp của mình. Khi lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng tố tụng, các bên
phải chấp nhận việc không được thoả thuận, kết quả tranh chấp không còn
phụ thuộc vào các bên mà được đưa ra dựa trên xem xét, đối chiếu “đúng, sai”


14

với quy định pháp luật. Do việc xét xử không dựa trên sự thoả thuận, nhượng

bộ của các bên mà dựa trên quy định pháp luật nên các bên phải chấp nhận
việc lợi ích kinh tế của mình đạt được có thể không được thuận lợi như trường
hợp tự thoả thuận giữa các bên. Ngoài ra, bên trung gian hoà giải sẽ chỉ căn
cứ vào các tài liệu, lời khai do các bên chủ động cung cấp, do vậy các bên có
thể giữ bí mật những vấn đề nhạy cảm mà mình không muốn tiết lộ, ngược
lại, Trọng tài, Toà án có quyền xác minh sự thật, yêu cầu cung cấp thông tin
từ bên thứ ba, bao gồm cả các thông tin kinh doanh nhạy cảm của các bên để
xác định sự thật, giải quyết đúng theo pháp luật.
So với Toà án, thủ tục Trọng tài mềm dẻo hơn, các bên tranh chấp có
nhiều quyền lựa chọn hơn, ví dụ như các bên được lựa chọn Trọng tài viên,
người sẽ giải quyết tranh chấp cho mình, đây cũng là ưu điểm vượt trội của
phương thức trọng tài bởi các bên có thể “gây ảnh hưởng” đến phán quyết
cuối cùng thông qua lựa chọn trọng tài viên cho mình. Thời gian giải quyết tại
Trọng tài cũng ít hơn đáng kể so với Toà án và cũng là tiêu chí quyết định mà
các bên quan tâm hàng đầu khi lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp bởi
thời gian là nhân tố vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp, đặc biệt
trong lĩnh vực kinh doanh thương mại khi yếu tố thời gian nhiều trường hợp
là yếu tố quyết định sự thắng bại của doanh nghiệp. Phiên họp giải quyết
tranh chấp cũng được tổ chức không công khai, do vậy, uy tín và bí mật kinh
doanh của các bên được giữ kín. Tuy nhiên phán quyết của Trọng tài là chung
thẩm, nói cách khác, các bên phải chấp nhận phán quyết này là kết quả giải
quyết cuối cùng, kể cả trong trường hợp các bên không đồng ý hay chưa thoả
mãn với kết quả này, các bên vẫn có nghĩa vụ phải thực hiện và không được
tiếp tục kháng cáo như giải quyết tranh chấp tại Toà án. Đồng thời, pháp luật
cũng quy định, tranh chấp đã được giải quyết tại Trọng tài sẽ không được giải
quyết tại Toà án cho cùng một vụ tranh chấp. Như vậy, khi lựa chọn Trọng tài


15


là cơ quan giải quyết tranh chấp, bên cạnh các ưu điểm như nhanh chóng, thủ
tục linh hoạt, tiết kiệm thời gian, các bên đồng thời phải chấp nhận rủi ro khi
kết quả không được như mong muốn và không có phương pháp nào để thay
đổi, cứu vãn kết quả đó.
• Tòa án
Khác với Trọng tài xét xử không nhân danh quyền lực nhà nước, Toà
án là cơ quan quyền lực nhà nước và mang tính quyền lực nhà nước, quá trình
giải quyết tranh chấp được tiến hành chặt chẽ và đầy đủ các trình tự thủ tục
luật định và mọi chủ thể phải thực hiện nghiêm túc, tuân thủ đầy đủ, chính
xác quy trình đó. Bản án Toà án nếu các bên không tự thực hiện sẽ bị cưỡng
chế thi hành bằng sức mạnh nhà nước.
So với hình thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài,
Toà án có ưu điểm hơn đó là các bên nếu không đồng ý với kết quả giải
quyết tranh chấp có quyền kháng cáo và tranh chấp sẽ được tổ chức giải
quyết lại bằng phiên toà khác. Ngược lại, do phán quyết của Trọng tài là
chung thẩm, hơn nữa, cũng có giá trị ràng buộc các bên phải thực hiện theo
nên kể cả các bên không đồng ý với nội dung phán quyết, các bên vẫn phải
thực hiện theo mà không có bất kỳ quyền nào khác, vụ việc cũng không
được giải quyết lại bởi Trọng tài hay Toà án. Tuy nhiên, nhược điểm đó là
các vụ tranh chấp tại Toà án thường mất rất nhiều thời gian để giải quyết,
kéo dài nhiều năm, gây tốn nhiều tiền bạc, công sức.
• Hòa giải
Hoà giải có thể nói là một bước tiến cao hơn của thương lượng, bởi
theo quá trình phát triển tự nhiên, khi bản thân hai bên tranh chấp mặc dù đã
đưa ra lựa chọn tốt nhất có thể của mình nhằm giải quyết bất đồng nhưng vẫn


16

không thể làm hài hoà mối quan hệ, việc tìm đến một bên thứ ba để có cái

nhìn khách quan hơn là một điều tất yếu xảy ra.
Như vậy, hoà giải vẫn là phương thức giải quyết tranh chấp giữa các
bên bằng thiện chí, tinh thần cầu thị nhất nhưng khác biệt với thương lượng ở
chỗ đã có sự tham gia của một bên thứ ba nhằm giúp các bên thoả thuận với
nhau để tìm ra phương án giải quyết tối ưu nhất. Bên thứ ba này có thể đưa ra
ý kiến khách quan để các bên nhìn nhận, xem xét lại vấn đề, có thể dẫn dắt
các bên theo hướng giải quyết của mình. Dù vậy, bên thứ ba đóng vai trò
trung gian hoà giải chỉ nhằm hỗ trợ các bên tranh chấp, vẫn chỉ có vai trò
tham khảo và không có quyền trực tiếp tham gia vào đàm phán với tư cách
của bất kỳ bên nào cũng như không có quyền quyết định hay áp đặt bất kỳ
vấn đề nào, quyền quyết định vẫn thuộc về các bên có tranh chấp. Điều này
khác với trọng tài thương mại và toà án ở chỗ trọng tài thương mại và toà án
có quyền ra phán quyết có tính ràng buộc các bên. Cũng giống thương lượng,
việc hoà giải cũng không phải tuân theo bất kỳ nguyên tắc pháp lý nào mà do
các bên hoàn toàn quyết định.
Hoà giải có thể khắc phục được hạn chế về nhận thức của các bên so
với thương lượng bằng việc lựa chọn bên thứ ba làm trung gian hoà giải có
trình độ, chuyên môn cao, nhiều kĩ năng, kinh nghiệm, từ đó có thể phân
tích, chỉ rõ cho các bên ưu thế, hạn chế của mình, giúp các bên đạt được
đồng thuận dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn. Bên thứ ba khi tham gia vào giải
quyết tranh chấp với tư cách trung gian hoà giải phải có nghĩa vụ giữ kín và
không được tiết lộ các bí mật của các bên, mặc dù vậy, bí mật cũng không
thể được đảm bảo hoàn toàn và tuyệt đối như trường hợp giải quyết tranh
chấp bằng thương lượng. Chi phí mặc dù không tốn kém, thủ tục linh hoạt
nhưng so với thương lượng, các bên vẫn phải trả phí dịch vụ cho bên thứ ba
trung gian. Mặt khác, cũng giống như thương lượng, kết quả của việc giải


17


quyết tranh chấp trong trường hợp thành công, là một bản thống nhất chung
giữa các bên và không có tính ràng buộc về mặt pháp lý, do vậy, việc thực
hiện thoả thuận hoàn toàn xuất phát từ sự tự nguyện của các bên.
1.2. Hoà giải tranh chấp thương mại – phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại
1.2.1. Khái niệm hoà giải tranh chấp thương mại
Khái niệm hoà giải được định nghĩa tại nhiều tài liệu khác nhau. Theo
Từ điển tiếng Việt thì “Hoà giải là thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung
đột hoặc xích mích một cách ổn thoả”.2
Theo Từ điển Luật học của Black (Black’s Law Dictionary) thì “Hoà
giải là một quá trình giải quyết tranh chấp riêng tư, không chính thức, trong
đó một bên trung lập thứ ba, được gọi là hoà giải viên, giúp các bên có tranh
chấp đạt được một thoả thuận chung”.
Theo Khoản 1 Điều 3 của Luật mẫu của Ủy ban Liên Hiệp Quốc về
Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL) về Hoà giải thương mại quốc tế năm
2002 thì “Hoà giải là quá trình, gọi là hoà giải, trung gian hoà giải hay cách
thức tương tự khác mà các bên đề nghị (các) bên thứ ba (“hoà giải viên”) hỗ
trợ họ trong quá trình đạt được một dàn xếp hoà bình đối với tranh chấp phát
sinh trong hợp đồng hay quan hệ pháp lý khác. Hoà giải viên không có thẩm
quyền áp đặt các bên giải pháp giải quyết tranh chấp.
Theo Khoản 1 Điều 3 Nghị định 22/2017/NĐ-CP về hoà giải thương
mại thì “Hòa giải thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại do các bên thỏa thuận và được hòa giải viên thương mại làm trung gian
hòa giải hỗ trợ giải quyết tranh chấp theo quy định của Nghị định này”.

2

Hoàng Phê (1997), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng



18

Từ khái niệm tranh chấp thương mại như đã nêu tại Mục 1.1.1 và khái
niệm về hoà giải, có thể định nghĩa về hoà giải tranh chấp thương mại như
sau: Hoà giải tranh chấp thương mại là một trong các phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại do một bên làm trung gian hoà giải hỗ trợ giải quyết
tranh chấp giữa các bên.
1.2.2. Vai trò của việc hoà giải tranh chấp thương mại
Thứ nhất, hòa giải đề cao và đảm bảo yếu tố tự quyết. Trong hòa giải,
các bên tranh chấp có thể nói chuyện, trao đổi, đàm phán và thảo luận về các
giải pháp trong toàn bộ quá trình. Các bên có quyền tự do bày tỏ, thể hiện và
bảo vệ cho quan điểm của mình. Đây là một vai trò rất quan trọng trong việc
giải quyết các tranh chấp của hòa giải. Hòa giải đem lại cơ hội cho các bên
trình bày, giải thích và đưa ra lời xin lỗi với nhau. Các bên trực tiếp tham gia
vào giải quyết chính tranh chấp của mình, có quyền quyết định với toàn bộ
nội dung, kết quả hoà giải, điều này cũng khiến tinh thần trách nhiệm của các
bên đối với các lựa chọn của mình được nâng cao so với việc kết quả được
hoàn toàn quyết định bởi một bên thứ ba như thẩm phán hay trọng tài viên,
như vậy, các bên sẽ có được những quyết định có lợi hơn cho mình so với
việc một bên thứ ba ra quyết định.
Thứ hai, giải quyết tranh chấp bằng hòa giải có thể duy trì hoặc cải
thiện mối quan hệ giữa các bên nhờ việc xem xét đến lợi ích và quan tâm
thực tế của các bên. Hoà giải ít phụ thuộc vào các quy tắc, nguyên tắc, mà
chủ yếu dựa vào con người. Trong khi giải quyết tranh chấp tại tố tụng
được căn cứ trên hành vi, sự kiện và các quy định pháp luật, thì trong hòa
giải, trọng tâm là con người chứ không phải tình tiết vụ việc. Hòa giải viên
phải xét đến nhu cầu hiện tại cũng như mối quan tâm của các bên. Hòa giải
cho phép giải quyết vụ việc dựa trên lợi ích mong muốn của các bên. Hòa



19

giải viên thường không yêu cầu các bên phải thuyết phục hay làm cho họ
tin về những tình tiết thực tế, hơn nữa, họ cũng thiếu những cơ chế hỗ trợ
điều tra hoặc kiểm nghiệm sự thật. Mặt khác, các bên cũng không có điều
kiện để chất vấn hay kiểm chứng những lời nói hay tuyên bố của nhau theo
những cách thức giống như tại cơ quan tố tụng. Hoà giải có thủ tục linh
hoạt và dựa trên nguyên tắc các bên cùng tham gia, xây dựng, đàm phán
phương hướng giải quyết vấn đề khiến cho hòa giải trở thành một phương
thức giải quyết tranh chấp mềm dẻo chứ không cứng nhắc như tố tụng.
Hoạt động tố tụng có thể dẫn đến sự thiệt hại không thể sửa chữa được
trong các mối quan hệ vì tính tài phán và cứng nhắc của nó.
Thứ ba, hòa giải ngoài tố tụng là phương thức hữu dụng khi các bên
không lựa chọn hoà giải tại Trọng tài hay Tòa án, bởi thủ tục linh hoạt, không
cứng nhắc, có thể được thỏa thuận và điều chỉnh cho thích nghi.
Thứ tư, hòa giải có ý nghĩa lớn, nó giúp giải quyết ổn thoả hay giảm
thiểu những tranh chấp, bất đồng, mâu thuẫn, xích mích theo một cách tối ưu
nhất bởi những ưu điểm của nó. Mặt khác, còn giúp các bên hiểu, thông cảm
nhau hơn, giữ gìn, duy trì và tiếp tục phát triển mối quan hệ, môi trường làm
ăn kinh doanh. Với thủ tục đơn giản, linh hoạt, nhanh gọn, tiết kiệm được thời
gian, chi phí, hòa giải thương mại mang lại lợi thế cho các bên khi có cơ hội
lựa chọn một trình tự, thủ tục phù hợp nhất với mình, tránh những thủ tục
pháp lý phức tạp. Các bên là người quyết định kết quả và phương án hòa giải
mà không phụ thuộc vào bên nào khác, đây cũng là điểm khác biệt quan trọng
giữa hoà giải với tố tụng.
Thứ năm, hòa giải được biết đến là một biện pháp giải quyết tranh chấp
thay thế, trong bối cảnh Toà án đang bị quá tải với các vụ tranh chấp cần được
giải quyết, hoà giải còn có ý nghĩa giảm tải khối lượng công việc lên Tòa án,



×