Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Thực trạng pháp luật về giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

NGUYỄN TRÚC QUỲNH

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA
NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hướng ứng dụng

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

NGUYỄN TRÚC QUỲNH

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA
NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM


Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hướng ứng dụng
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: Tiến sĩ. Nguyễn Minh Hằng

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn
này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Trúc Quỳnh


DANH MỤC VIẾT TẮT

NHNN:

Ngân hàng nhà nước

NHTM:


Ngân hàng thương mại

NHTW:

Ngân hàng trung ương

QTDND:

Quỹ tín dụng nhân dân

TCTD:

Tổ chức tín dụng

TTGSNH:

Thanh tra giám sát ngân hàng


MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................. 2
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu ......... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 3
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ............................................. 3
6. Bố cục (các chương) của luận văn ....................................................... 4
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VÀ PHÁP LUẬT VỀ
GIÁM SÁT NGÂN HÀNG

1.1. Khái quát về hoạt động giám sát ngân hàng ........................................... 5
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động giám sát ngân hàng ............... 5
1.1.1.1 Khái niệm giám sát ngân hàng ..................................................... 5
1.1.1.2 Đặc điểm của hoạt động giám sát ngân hàng .............................. 6
1.1.2. Vai trò của hoạt động giám sát ngân hàng ...................................... 13
1.2. Pháp luật điều chỉnh hoạt động giám sát ngân hàng .......................... 16
1.2.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát ngân
hàng ............................................................................................................ 16
1.2.1.1 Môi trường hoạt động của hệ thống ngân hàng hiện nay tiềm ẩn
nhiều rủi ro .............................................................................................. 17
1.2.1.2 Sự phát triển của khu vực tài chính ngân hàng và thị trường tài
chính là thách thức đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải đổi mới .... 19
1.2.2 Nội dung pháp luật về hoạt động giám sát ngân hàng .......................... 21
1.3 Kinh nghiệm quốc tế về nâng cao hiệu quả giám sát ngân hàng ......... 24
1.3.1. Các mô hình giám sát đang được áp dụng trên thế giới .................. 24
1.3.2. Kinh nghiệm của EU về giám sát an toàn vĩ mô ............................... 27
1.3.3. Kinh nghiệm và khuyến nghị của Basel 3 ......................................... 28
TIỂU KẾT CHƢƠNG .................................................................................... 28
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
VỀ GIÁM SÁT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng pháp luật về giám sát ngân hàng tại Việt Nam ................. 29
2.1.1. Chủ thể thực hiện giám sát ngân hàng ............................................ 30
2.1.2. Nguyên tắc tiến hành giám sát ngân hàng ....................................... 31


2.1.3. Nội dung của hoạt động giám sát ngân hàng ................................... 33
2.1.4. Phương thức hoạt động giám sát ngân hàng .................................... 35
2.1.5 Các biện pháp xử lý trong giám sát ngân hàng ................................. 38

2.1.6 Quy trình, thủ tục giám sát ngân hàng .............................................. 40
2.2. Thực tiễn hoạt động giám sát ngân hàng ............................................. 44
CHƢƠNG 3
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT
ĐỘNG CỦA GIÁM SÁT NGÂN HÀNG
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về hoạt động của Cơ quan thanh tra,
giám sát ngân hàng ........................................................................................ 54
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của Ngân hàng
Nhà Nƣớc đối với các Ngân hàng thƣơng mại ............................................. 58
Thứ nhất, hoàn thiện bộ máy tổ chức giám sát .......................................... 58
Thứ hai, hoàn thiện cơ sở hạ tầng thông tin hỗ trợ hoạt động giám sát của
Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng đối với các NHTM. ..................... 61
Thứ ba, bổ sung các quy định về đảm bảo tính công khai, minh bạch trong
hoạt động tiền tệ, ngân hàng. ...................................................................... 61
Thứ tư, tăng cường sự phối hợp hoạt động của Cơ quan thanh tra, giám sát
ngân hàng với các bộ phận có liên quan khác và với bộ phận kiểm soát nội
bộ của các NHTM ....................................................................................... 62
Thứ năm, tổ chức tốt việc thực hiện các kiến nghị sau tăng cường các chế
tài xử lý ........................................................................................................ 63
Thứ sáu, vận dụng tốt hơn nữa chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng
vào Việt Nam ............................................................................................... 64
Thứ bảy, tăng cường công tác tổ chức cán bộ ............................................ 65
Thứ tám, các giải pháp khác ....................................................................... 66
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Giám sát ngân hàng là hoạt động thiết yếu của Ngân hàng Nhà nước
Trung ương ở bất kỳ quốc gia, vùng lãnh thổ nào trên thế giới; nơi nào có
hoạt động ngân hàng, nơi đó cần phải có hoạt động giám sát của cơ quan quản
lý ngân hàng. Giám sát ngân hàng còn là công cụ hữu hiệu của Nhà nước,
nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động quản lý của Nhà nước, hướng tới mục
tiêu ổn định sức mua của đồng tiền và đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân
hàng. Hoạt động giám sát ngân hàng nói chung góp phần bảo đảm và tăng
cường pháp chế, kỷ luật nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân
hàng; đảm bảo an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng. Hoạt động giám
sát của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng (trực thuộc Nhà nước Việt
Nam) nói riêng cũng đóng vai trò quan trọng không kém trong công tác quản
lý của Ngân hàng Nhà nước, nhất là trong công cuộc đổi mới hoạt động ngân
hàng ở nước ta hiện nay. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan Thanh
tra, giám sát Ngân hàng, đòi hỏi phải có một hệ thống các quy phạm pháp luật
về hoạt động của giám sát ngân hàng với đầy đủ tính khoa học và thực tiễn;
đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ và khả thi; phù hợp với quy định chung của
Nhà nước về hoạt động giám sát đồng thời phù hợp với những đặc điểm về tổ
chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, một bộ
phận cơ chế chính sách pháp luật liên quan đến hoạt động của giám sát ngân
hàng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế, thậm chí còn bộc lộ không ít
những điểm chưa phù hợp. Những bất cập nêu trên phần nào làm hạn chế kết
quả hoạt động của giám sát ngân hàng trong thời gian qua. Do đó, nghiên cứu
pháp luật về hoạt động của giám sát ngân hàng đã trở thành yêu cầu cấp thiết.
Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài "Thực trạng pháp luật về giám sát của
ngân hàng nhà nƣớc đối với ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam" nhằm nêu
lên thực trạng pháp luật, đồng thời kiến nghị những giải pháp hoàn thiện
những quy định pháp luật có liên quan.


2

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Về hoạt động của Giám sát Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với

Ngân hàng thương mại, đến nay đã có một số tác giả nghiên cứu, thể hiện chủ
yếu trong các công trình sau đây:
- Thạc sĩ Phạm Thị Túy: Giải pháp phát triển hệ thống giám sát tài
chính- ngân hàng hữu hiệu, Tạp chí Ngân hàng, số 12/2006;
- Quang Anh: Giám sát Ngân hàng: Kinh nghiệm của một số nền kinh
tế chuyển đổi và hàm ý với Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 17/2006;
- Nguyễn Phi Lân (2015): Công tác giám sát ngân hàng trong đảm bảo
an ninh tiền tệ và an toàn hệ thống ngân hàng, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học
Quốc gia, KX.01.15/11-15, Bộ Khoa học và Công nghệ.
- Nguyễn Thị Minh Huệ (2011): Hoạt động giám sát của NHNN Việt
Nam đối với NHTM, Viện Đào tạo Sau Đại học, Hà Nội, Đại học Kinh tế
Quốc dân. Luận án Tiến sỹ.
-Trần Đăng Phi (2017): Hoàn thiện quy trình, thủ tục giám sát ngân
hàng nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát ngân hàng, Tạp chí
Ngân hàng, số 22/2017.
Tuy nhiên, các công trình trên chủ yếu đi sâu phân tích hoạt động của
Giám sát Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dưới khía cạnh nghiệp vụ, khía cạnh
pháp lý chưa được đi sâu phân tích. Do vậy, học viên tiến hành nghiên cứu đề
tài " Thực trạng pháp luật về giám sát của ngân hàng nhà nƣớc đối với
ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam " để làm rõ thực trạng pháp luật về hoạt
động giám sát của ngân hàng nhà nước đối với ngân hàng thương mại, từ đó
đưa ra những bất cập và những giải pháp hoàn thiện.
3.

Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu


Mục đích: Đề tài nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với


3
pháp luật về hoạt động giám sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tạo cơ
sở cho việc xác lập và thực hiện những quyền và nghĩa vụ cơ bản của Cơ
quan Thanh tra, giám sát Ngân hàng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm
soát theo chức năng của Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng thương
mại. Ngoài ra, đề tài hướng tới việc đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật điều chỉnh hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát Ngân hàng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm khoa học, các quy định của
pháp luật Việt Nam về giám sát của ngân hàng nhà nước đối với ngân hàng
thương mại và thực trạng hoạt động giám sát và đề xuất một số giải pháp để
hoàn thiện pháp luật giám sát NHNN.
Để đảm bảo các yêu cầu cơ bản của một luận văn thạc sỹ luật học, đặc biệt là
yêu cầu về tính mới và tính ứng dụng thực tiễn, phạm vi nghiên cứu của luận
văn tập trung làm rõ:
- Tổng quan về hoạt động giám sát ngân hàng và pháp luật về giám sát ngân
hàng.
- Thực trạng pháp luật về giám sát ngân hàng và thực tiễn hoạt động giám sát
ngân hàng và định hướng và giải pháp hoàn thiện cơ sở pháp luật cho hoạt
động giám sát ngân hàng ở Việt Nam.
4.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu là phương pháp luận,

phương pháp tổng hợp, phân tích để nghiên cứu các quy định của pháp luật
hiện hành trong lĩnh vực giám sát NHNN, phương pháp so sánh luật học và

phương pháp thống kê để vừa đối chiếu các quy định của pháp luật vừa thu
thập dữ liệu nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần trình bày trong khóa luận.
5.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài


4
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động giám sát của
NHNN đối với các NHTM để hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật, tạo
hành lang pháp lý chặt chẽ.
- Tìm ra được những giải pháp góp phần đổi mới và nâng cao hiệu quả
hoạt động giám sát của Ngân hàng Nhà nước cho phù hợp với sự phát triển
ngày càng mạnh mẽ của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam, đồng thời đáp ứng
được yêu cầu hội nhập quốc tế của nền kinh tế nói chung và hoạt động ngân
hàng, tài chính nói riêng cũng nhu phù hợp với những chuẩn mực về giám sát
ngân hàng hiệu quả theo thông lệ quốc tế.
Bố cục (các chƣơng) của luận văn

6.

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận bố cục chính của bài khoá luận
bao gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về hoạt động giám sát ngân hàng và pháp luật
về giám sát ngân hàng
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về giám
sát của ngân hàng nhà nước đối với ngân hàng thương mại ở Việt Nam Thực
trạng pháp luật về giám sát ngân hàng và thực tiễn hoạt động giám sát ngân
hàng
Chương 3: Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động của

giám sát ngân hàng


5
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VÀ PHÁP LUẬT VỀ
GIÁM SÁT NGÂN HÀNG
1.1. Khái quát về hoạt động giám sát ngân hàng
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động giám sát ngân hàng
1.1.1.1 Khái niệm giám sát ngân hàng
Hoạt động ngân hàng là một hoạt động có tính đặc thù, phức tạp cao. Hiện
nay, lĩnh vực hoạt động ngân hàng ngày càng trở nên sôi động, tác động trực
tiếp đến nhiều mặt của đời sống kinh tế- xã hội. Đảm bảo sự ổn định và lành
mạnh của hệ thống ngân hàng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các
cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Vì thế, hoạt động giám sát ngân
hàng tồn tại như một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế và nhu cầu quản lý.
Khái niệm giám sát từ xa đối với các NHTM xuất hiện và nghiên cứu tại
Mỹ vào những năm cuối thập kỷ 70, thời kỳ nhiều ngân hàng Mỹ rơi vào tình
trạng khủng hoảng, sau đó tình trạng tương tự xảy ra tại Tây Ba Nha. Qua
nghiên cứu, các nhà quản lý ngân hàng phát hiện những hiện tượng không
bình thường và dẫn đến tình trạng khủng hoảng nói trên phần lớn đều phát
sinh trong thời gian “ khoảng trống” giữa hai kỳ Thanh tra tại chỗ. Tình trạng
này cũng diễn ra khá phổ biến ở các nước trên thế giới đối với ngành ngân
hàng. Để khắc phục hiện tượng này, các nhà quản lý đã đưa ra một phương
pháp nhằm giám sát từ xa, được áp dụng hầu hết phổ biến với hoạt động
Thanh tra của Ngân hàng Trung ương các nước và trở thành biện pháp nghiệp
vụ không thể thiếu trong quá trình Thanh tra, giám sát hoạt động của các
NHTM
Ủy ban Basel cũng đã đưa ra 25 nguyên tắc về Thanh tra, giám sát ngân
hàng bao gồm khung giám sát từ khâu cấp phép thành lập, tổ chức và hoạt

động, quản trị điều hành đến giải thể, phá sản ngân hàng. Bản chất của giám


6
sát hệ thống ngân hàng là thực hiện giám sát những nguy cơ rủi ro đối với hệ
thống ngân hàng và khả năng khống chế rủi ro. Do đó, hoạt động giám sát
ngân hàng phải tập trung giám sát và quản lý thận trọng bằng cách cố gắng
đánh giá hết được những rủi ro nảy sinh từ các hoạt động ngân hàng.
Hoạt động giám sát từ xa được áp dụng vào Việt Nam khoảng năm 1991.
Lúc đầu được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp thủ công nên rất chậm,
không tiến hành theo định kỳ tháng và chất lượng thấp.
Tại Điều 1 Quyết định số 398/1999/QĐ-NHNN3 ngày 09/11/1999 quy
định: Giám sát từ xa là việc gián tiếp kiểm tra thông qua tổng hợp và phân
tích các báo cáo để đánh giá các nội dung sau đây của các NHTM: diễn biến
về cơ cấu tài sản Nợ và tài sản có; chất lượng tài sản có; vốn tự có; tình hình
thu nhập, chi phí và két quả kinh doanh; việc thực hiện qui định về các tỷ lệ
bảo đảm an toàn trong hoạt động của NHTM và các qui định khác của pháp
luật; các vấn đề liên quan khác.
Khoản 12 Điều 6 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 quy định :
“Giám sát ngân hàng là là hoạt động của Ngân hàng Nhà nước trong việc thu
thập, tổng hợp, phân tích thông tin về đối tượng giám sát ngân hàng thông qua
hệ thống thông tin, báo cáo nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý
kịp thời rủi ro gây mất an toàn hoạt động ngân hàng, vi phạm quy định an
toàn hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
1.1.1.2 Đặc điểm của hoạt động giám sát ngân hàng
Hoạt động giám sát có những đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất, tính quyền lực nhà nước:
Là một chức năng quản lý nhà nước, hoạt động giám sát phải là công
cụ đắc lực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng
quản lý. Nói về quyền lực nhà nước trong quá trình giám sát cũng có nghĩa là

xác định về mặt pháp lý tính chất nhà nước của tổ chức thanh tra, giám sát.
Đối với các quốc gia trên thế giới, chủ thể tiến hành giám sát luôn là cơ quan


7
nhà nước, dù mô hình tổ chức thanh tra có khác nhau. Vì vậy, hoạt động giám
sát phải được nhà nước sử dụng như một công cụ hiệu quả trong quá trình
quản lý. Tính quyền lực nhà nước của hoạt động giám sát được thể hiện ở
những mặt sau:
-Ra các quyết định bắt buộc thực hiện đối với các đối tượng bị giám sát
về những vấn đề đã bị phát hiện và xử lý
-Yêu cầu cấp có thẩm quyền giải quyết đề nghị của thanh tra, yêu cầu
truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những người vi phạm pháp luật’
-Trong những trường hợp cần thiết, trực tiếp áp dụng các biện pháp
cưỡng chế nhà nước.
Ngoài ra tính quyền lực nhà nước của hoạt động giám sát còn được cụ
thể hóa ở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng tổ chức thực hiện hoạt
động giám sát; phương thức tiến hành giám sát; xử lý kết quả giám sát; trong
mối quan hệ giữa cơ quan giám sát với đối tượng giám sát cũng như trong sự
phối hợp giữa các tổ chức thanh tra, giám sát nhà nước theo cấp hành chính
và theo ngành, lĩnh vực. Hoạt động giám sát đòi hỏi phải sử dụng đồng bộ
tính quyền lực nhà nước trên tất cá các lĩnh vực, như vậy mới phát huy hiệu
quả của hoạt động giám sát.
Thứ hai, tính khách quan
Bản chất của hoạt động giám sát là xem xét, đánh giá một cách khách
quan việc thực hiện chính sách pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của
các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Kết quả của hoạt động giám sát là đưa ra kết
luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng
ngừa và xử lý vi phạm góp phần bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã hội, các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Kết quả của hoạt động giám sát là

đánh giá tính đúng, sai trong hoạt động của đối tượng giám sát, đưa ra những
khuyến nghị và biện pháp can thiệp, khắc phục kịp thời nhằm hướng hoạt
động của đối tượng đi đúng hướng. Vì thế, hoạt động giám sát phải mang tính


8
khách quan. Tính khách quan thể hiện ở chỗ mọi hoạt động giám sát đều dựa
trên cơ sở pháp luật và tuân theo pháp luật. Bởi nếu hoạt động giám sát không
dựa trên cơ sở pháp luật thì nó sẽ mất đi tính công minh, ảnh hưởng đến hiệu
quả quản lý nhà nước.
Thứ ba, tính độc lập tương đối
Tính độc lập tương đối là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của
giám sát. Khác với hoạt động kiểm tra thường do bản thân các cơ quan quản
lý nhà nước tự tiến hành, hoạt động giám sát thường được tiến hành bởi cơ
quan chuyên trách. Vì vậy, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình,
ngoài việc đảm bảo sự phối kết hợp nhịp nhàng với các cơ quan khác trong bộ
máy nhà nước, hoạt động giám sát còn có tính độc lập tương đối trong quá
trình thực thi nhiệm vụ. Điều này được thể hiện ở chỗ: các tổ chức thanh tra,
giám sát được phép tự mình tổ chức các cuộc giám sát trên các lĩnh vực kinh
tế - xã hội theo thẩm quyền pháp luật quy định. Trên cơ sở kết quả giám sát,
ra các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý theo các quy định của pháp luật về
giám sát, chịu trách nhiệm về kết quả giám sát của mình.
Tính độc lập của hoạt động giám sát chỉ là tương đối, vì ngoài việc căn
cứ vào pháp luật, hoạt động giám sát còn phải xuất phát từ thực tế cuộc sống,
phải đặt sự vật, hiện tượng trong sự phát triển biện chứng với quan điểm khoa
học, khách quan, lịch sử cụ thể.
Thứ tư, hoạt động giám sát luôn gắn với quản lý nhà nước
Ngoại trừ hoạt động giám sát xã hội của nhân dân đối với hoạt động
của cơ quan nhà nước thông qua khiếu nại, tố cáo; hoạt động giám sát luôn
gắn với quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước và thanh tra, giám sát có điểm

chung là nhân danh quyền lực nhà nước, thực hiện sự tác động lên đối tượng
quản lý. Quản lý và giám sát có quan hệ mật thiết với nhau. Thanh tra, giám
sát chỉ xuất hiện khi có nhà nước và ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó có
thanh tra, giám sát. Trong mối quan hệ này, quản lý nhà nước giữ vai trò chủ


9
đạo, chi phối hoạt động giám sát (thể hiện ở việc xác định đường lối, chủ
trương, quy định thẩm quyền của Cơ quan thanh tra, giám sát; sử dụng các kết
quả thông tin từ phía Cơ quan thanh tra, giám sát).
Ngoài ra, với tư cách là một khâu trong chu trình quản lý, thanh tra,
giám sát bị ràng buộc, chế ước bởi quản lý nhưng đồng thời bị tác động trở
lại, góp phần điều chỉnh cách thức, phương pháp quản lý của chủ thể quản lý.
Nhờ có giám sát mà mục đích của quản lý được đảm bảo. Thực tế cho thấy
rằng, một thể chế hành chính và cơ quan quản lý nhà nước sẽ không đầy đủ và
kém hiệu quả nếu thiếu giám sát. Hoạt động có tính hiệu quả của giám sát sẽ
ngăn chặn được nguy cơ biến dạng, tùy tiện và thiếu kỷ cương trong hoạt
động của bộ máy nhà nước.
Bên cạnh đó, hoạt động giám sát ngân hàng có những đặc điểm riêng
như sau:
Thứ nhất, về chủ thể:
Hoạt động giám sát ngân hàng đươc thực hiện bởi cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, mà cụ thể là Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực
thuộc Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Đây là đơn vị tương đương tổng cục
chịu trách nhiệm về công tác giám sát các tổ chức tín dụng (NHTM), chi
nhánh ngân hàng nước ngoài và hoạt động ngân hàng; và giám sát ngân hàng
tại các địa phương trực thuộc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố
về mặt tổ chức và chịu sự chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của Cơ quan giám sát
ngân hàng.
Thứ hai, về đối tượng:

Đối tượng của hoạt động giám sát ngân hàng bao gồm các NHTM, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài. Các đối tượng này trên thực tế được Ngân hàng
Nhà nước phân chia thành các nhóm đối tượng để thực hiện giám sát chuyên
trách, gồm có: Nhóm các ngân hàng thương mại nhà nước; nhóm các ngân
hàng thương mại cổ phần; nhóm các ngân hàng thương mại liên doanh (được


10
thành lập trên cơ sở liên doanh giữa một bên là ngân hàng thương mại trong
nước và một bên là NHTM nước ngoài); nhóm các ngân hàng thương mại
100% vốn nước ngoài; nhóm các chi nhánh ngân hàng nước ngoài; nhóm các
công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính (bao gồm công ty tài chính/cho
thuê tài chính trong nước và công ty tài chính/cho thuê tài chính nước ngoài);
nhóm Ngân hàng Hợp tác xã, các quỹ tín dụng nhân dân và các tổ chức tài
chính vi mô.
Thứ ba, về nội dung:
Căn cứ Khoản 1, Điều 5, Thông tư Số: 08/2017/TT-NHNN quy định
về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng, Hoạt động giám sát ngân hàng bao
gồm các hoạt động như:
- Thu thập, tổng hợp và xử lý tài liệu, thông tin, dữ liệu của đối tượng
giám sát ngân hàng theo yêu cầu giám sát;
-Xem xét, theo dõi tình hình chấp hành quy định về các giới hạn, tỷ lệ
bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật có
liên quan; việc thực hiện kết luận thanh tra và khuyến nghị, cảnh báo về giám
sát ngân hàng của đối tượng giám sát ngân hàng;
- Phân tích, đánh giá thường xuyên tình hình tài chính, hoạt động, quản
trị, điều hành và mức độ rủi ro đối với từng tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài và toàn bộ hệ thống các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài; thực hiện xếp hạng các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;

- Phát hiện, cảnh báo các yếu tố tác động, xu hướng biến động tiêu cực,
rủi ro gây mất an toàn hoạt động, các rủi ro, nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp
luật về tiền tệ và ngân hàng đối với từng tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài và hệ thống các tổ chức tín dụng;


11
- Kiến nghị, đề xuất biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các rủi
ro, vi phạm pháp luật của đối tượng giám sát ngân hàng theo quy định của
pháp luật.
Theo đó, hiện nay, để đáp ứng yêu cầu hoạt động quản lý của NHNN,
hoạt động giám sát có phạm vi rộng hơn đó là quá trình thu thập, phân tích,
đánh giá, xử lý thông tin một cách thường xuyên, liên tục về hoạt động của
từng ngân hàng và hệ thống ngân hàng, trên cơ sở các thông tin, dữ liệu do
các ngân hàng báo cáo về NHNN và thông qua việc gặp gỡ trực tiếp hoặc trao
đổi với ban lãnh đạo, nhân viên ngân hàng, cũng như thông qua các nguồn
thông tin khác như phương tiện thông tin đại chúng, báo cáo kiểm toán độc
lập, báo cáo kiểm toán nội bộ của NHTM…Hoạt động giám sát còn được gọi
là giám sát từ xa, giám sát của cơ quan quản lý thông qua thông tin thu được
về các NHTM để phân tích.
Mục tiêu của hoạt động giám sát từ xa đối với các NHTM là: phát hiện,
cảnh báo sớm những rủi ro tiềm ẩn đối với từng ngân hàng và hệ thống ngân
hàng; cung cấp những thông tin ban đầu cho việc xây dựng kế hoạch Thanh
tra tại chỗ, cũng như thiết kế một cuộc Thanh tra cụ thể; phát hiện những xu
thế phát triển của hệ thống ngân hàng, làm cơ sở cho việc ban hành chính
sách.
Nếu so sánh hoạt động giám sát và hoạt động thanh tra ta thấy:
Về hoạt động thanh tra, Qua thực tiễn có thể khái quát hoạt động Thanh
tra đối với NHTM là việc NHNN định kỳ hoặc đột xuất cử các nhân viên là
các giám sát viên hoặc Thanh tra viên tới làm việc tại NHTM. Trên cơ sở xem

xét trực tiếp các hoạt động thực tế diễn ra tại các NHTM và các tài liệu do
ngân hàng cung cấp, các giám sát viên hoặc Thanh tra viên sẽ đưa ra những
đánh giá, khuyến nghị về từng mặt hoặc toàn bộ hoạt động của ngân hàng.
Hoạt động Thanh tra này còn được gọi là Thanh tra trực tiếp hay là
Thanh tra tại chỗ (tại đơn vị). Theo Luật Thanh tra, Thanh tra trực tiếp chỉ


12
thực hiện theo hai hình thức đó là Thanh tra theo chương trình kế hoạch và
Thanh tra đột xuất.
Thanh tra theo chương trình, kế hoạch được tiến hành theo chương trình,
kế hoạch đã được phê duyệt. Thanh tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện
cơ quan, tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật, theo yêu cầu giải
quyết khiếu nại, tố cáo hoặc do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền giao.
Mục tiêu của hoạt động Thanh tra trực tiếp tại NHTM là:
+ Đánh giá toàn bộ hoạt động và điều kiện tài chính của ngân hàng; đánh
giá môi trường hoạt động chung của ngân hàng, tập trung vào hệ thống quản
lý, hệ thống kiểm soát nội bộ, hệ thống quản lý rủi ro.
+ Đánh giá mức độ đáng tin cậy của những thông tin, dữ liệu mà ngân
hàng cung cấp cho NHNN và cho các yêu cầu công khai thông tin; phát hiện
và xử lý vi phạm; kịp thời đưa ra kiến nghị.
+ Tiếp xúc trực tiếp với ban lãnh đạo và nhân viên ngân hàng để có được
cái nhìn từ bên trong và sự hiểu biết tốt hơn, thực tế hơn về một ngân hàng cụ
thể
Như vậy có thể thấy, so với hoạt động Thanh tra trực tiếp, hoạt động
giám sát từ xa có 3 điểm khác biệt cơ bản: Thứ nhất, là cách thức thu thập,
tiếp cận thông tin; thứ hai là mức độ và phạm vi giám sát, và thứ ba là nội
dung và mục tiêu giám sát cụ thể. Do những điểm khác biệt này, Thanh tra
trực tiếp phù hợp cho những đánh giá toàn diện và cụ thể mang tính định đối

với từng từng ngân hàng. Tuy nhiên, hình thức này lại không phù hợp cho
việc đánh giá một cách thường xuyên và đồng thời một số lớn ngân hàng hay
hệ thống ngân hàng. Trong khi đó, giám sát từ xa phù hợp cho việc đánh giá
về mặt định lượng hoạt động của từng ngân hàng cũng như một số lớn ngân
hàng một cách liên tục, thường xuyên. Chính những đặc điểm có thể bổ trợ


13
cho nhau này mà giám sát từ xa và Thanh tra tại chỗ được NHNN sử dụng
một cách đồng thời để Thanh tra, giám sát hoạt động của các NHTM.
Để Thanh tra, giám sát các NHTM, hầu hết các cơ quan giám sát ngân
hàng trên thế giới đều áp dụng giám sát từ xa và Thanh tra tại chỗ. Điều này
được khẳng định trong các yêu cầu giám sát ngân hàng hiệu quả của Uỷ ban
Basel đó là: một hệ thống giám sát ngân hàng hiệu quả cần bao gồm cả 2 hình
thức Thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa. Tuy nhiên, hoạt động Thanh tra,
giám sát đó là Thanh tra giám sát tuân thủ hay là Thanh tra giám sát trên cơ sở
rủi ro còn phụ thuộc vào mỗi nước.
1.1.2. Vai trò của hoạt động giám sát ngân hàng
Ngân hàng là một ngành kinh doanh đặc thù trong nền kinh tế hàng hoá,
hoạt động của Ngân hàng có tính dây chuyền và ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh
vực hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Ngân hàng là trung gian, là cầu nối
giữa người gửi tiền và người cần vay tiền. Một khi Ngân hàng mất tính ổn
định sẽ ảnh hưởng đến các khâu khác và làm cho toàn bộ hệ thống tài chính bị
ảnh hưởng theo. Hoạt động ngân hàng luôn gắn liền với rủi ro. Rủi ro sụp đổ
ngân hàng có tính dây chuyền, khi một NHTM bị vỡ nợ thì sẽ dễ dàng kéo
theo sự đổ vỡ của các NHTM khác. Bên cạnh đó, có một bộ phận cán bộ ngân
hàng ý thức chấp hành luật pháp còn yếu, hoặc tìm cách vận dụng những kẽ
hở, những điểm còn chưa chặt chẽ của pháp luật và chính sách để mưu lợi cho
cá nhân, làm tăng rủi ro trong hoạt động ngân hàng, gây ảnh hưởng xấu đến
lợi ích và uy tín của nhà nước, của ngành.

Chính vì vậy, để đảm bảo an toàn, đảm bảo việc tuân thủ pháp luật của
các NHTM, hoạt động giám sát đối với các NHTM là hết sức cần thiết. Một
mặt, hoạt động giám sát NHTM kiểm soát việc tuân thủ pháp luật của NHTM,
mặt khác giúp cho NHTM hoạt động có hiệu quả hơn, giảm bớt rủi ro, giúp
NHTM phát triển lành mạnh. hoạt động giám sát NHTM cũng đảm bảo sân
chơi bình đẳng cho các NHTM, giữ ổn định trong hoạt động kinh doanh của


14
hệ thống NHTM.
Thông qua việc giám sát NHTM, NHNN tìm ra những điểm bất hợp lý,
những sai phạm trong hoạt động nghiệp vụ, từ đó đề ra các giải pháp và kiến
nghị kịp thời nhằm phục vụ cho mục tiêu quản lý, góp phần hoàn thiện hệ
thống pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các
NHTM. Vì vậy hoạt động giám sát ngân hàng có những vai trò nổi bật như
sau :
Một là, đảm bảo tính lành mạnh của thị trường ngân hàng, tiền tệ,
phục vụ cho công tác phòng chống tham nhũng:
Cụ thể, với vai trò là cơ quan thường trực Ban chỉ đạo Phòng, chống
tham nhũng và tội phạm ngành Ngân hàng, cơ quan giám sát ngân hàng đã
tham mưu cho các cấp trong việc xây dựng kế hoạch thực hiện chiến lược
quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 của ngành Ngân hàng; kiện
toàn Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng và tội phạm của ngành Ngân
hàng. Cơ quan đã thực hiện tốt vai trò là đầu mối giúp việc cho Ngân hàng
nhà nước thực hiện nhiệm vụ của cơ quan thường trực giúp việc Ban Chỉ đạo
phòng, chống rửa tiền, cũng như thực hiện vai trò đầu mối của Việt Nam
trong nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về phòng, chống rửa tiền, hiện cơ
quan đang tập trung vào việc tham gia dự thảo Luật phòng, chống rửa tiền để
trình Quốc hội phê chuẩn trong năm 2010, đảm bảo thực hiện đúng theo các
cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực này.

Hai là, bảo vệ quyền lợi người gửi tiền:
Ngân hàng thương mại là nơi tích trữ tiền tiết kiệm hàng đầu của công
chúng, đặc biệt là tiết kiệm của cá nhân và hộ gia đình, việc thất thoát các
khoản vốn này trong trường hợp ngân hàng phá sản sẽ trở thành thảm họa cho
nhiều cá nhân và hộ gia đình .Trong khi đó, người gửi tiền lại thiếu kiến thức
chuyên môn về tài chính và thiếu thông tin cần thiết để đánh giá chính xác


15
mức độ rủi ro của ngân hàng, do đó, việc giám sát hoạt động của các NHTM
sẽ giúp cho cơ quan quản lý có được những thông tin cần thiết để xác định
tình trạng tài chính của ngân hàng để từ đó có những giải pháp phù hợp bảo
vệ quyền lợi người gửi tiền.
Thực tế cho thấy, khi ngân hàng đổ vỡ và lây lan đến cả hệ thống ngân
hàng, ảnh hưởng và tác động tiêu cực tới công chúng và toàn xã hội là rất lớn.
Do đó, các Chính phủ thường phải bỏ tiền để ngăn chặn và khắc phục hậu
quả, thống kê của các tổ chức quốc tế như Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) hay
Ngân hàng Thế giới (WB) thì chi phí bỏ ra để ngăn ngừa sự đổ vỡ của hệ
thống ngân hàng và đảm bảo quyền lợi người gửi tiền không dưới 20% GDP.
Ba là, giám sát ngân hàng đóng vai trò là công cụ hữu hiệu giúp
Thống đốc Ngân hàng nhà nước trong việc quản lý hệ thống các NHTM, phát
hiện, cảnh báo sớm các rủi ro gây mất an toàn hệ thống:
Trong năm 2017 và năm 2018, thông qua công tác giám sát ngân hàng
NHNN đã phát hiện được nhiều sai phạm với mức độ nghiêm trọng khác nhau
của các NHTM, có cả các sai phạm mang tính hệ thống và sự vụ, tuy nhiên,
đều tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn cho bản thân ngân hàng và hệ thống.
Chủ yếu các sai phạm được phát hiện tập trung trong khâu cấp tín dụng, sai
phạm về đầu tư, sở hữu cổ phần tại các ngân hàng, cá biệt cũng có những sai
phạm mang tính hình sự và đã được nhanh chóng chuyển sang cơ quan cảnh
sát điều tra. Có thể nói, chức năng cảnh báo sớm trong năm 2017, 2018 đã đạt

được hiệu quả cao hơn một bước, hỗ trợ đắc lực cho chức năng góp phần
quan trọng vào thành công trong việc quản lý hệ thống ngân hàng của NHNN.
Năm là,đảm bảo cạnh tranh bình đẳng:
Các ngân hàng cần chịu sự quản lý và giám sát của các cơ quan chức
năng bởi lẽ chúng cung cấp cho cá nhân và doanh nghiệp những khoản vay,
tài trợ tiêu dùng hoặc tài trợ đầu tư. Xã hội sẽ thu được những lợi ích to lớn


16
nếu như hệ thống ngân hàng cung cấp một lượng tín dụng thích hợp và đúng
địa chỉ. Tuy nhiên, khi có sự phân biệt đối xử trong việc cấp tín dụng, các cá
nhân, doanh nghiệp bị phân biệt đối xử sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn,
điều này có thể ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh và nền kinh tế nói
chung. Do vậy, việc giám sát các NHTM sẽ giúp cơ quản quản lý hạn chế và
từng bước loại bỏ tình trạng phân biệt đối xử trong việc cung cấp các dịch vụ
tài chính. Ngoài ra, việc giám sát cũng giúp cho Chính phủ và NHNN ngăn
chặn việc tập trung tiềm lực tài chính và tay một số ít cá nhân hay tổ chức,
gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế và thị trường cạnh tranh.
Sáu là, thông qua hoạt động giám sát ngân hàng Ngân hàng nhà nước
có căn cứ để xây dựng, hoàn thiện các quy định, hướng dẫn bảo đảm an toàn
trong hoạt động của các NHTM:
Thực vậy, xây dựng hệ thống văn bản là một khâu quan trọng, có tính
chất tiên quyết đảm bảo thành công của công tác giám sát. Các văn bản này
về cơ bản kịp thời đáp ứng yêu cầu công tác quản lý ngân hàng trong thời kỳ
mới, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các nhiệm vụ quan trọng, mang tính
chất chiến lược của ngành như tái cơ cấu và xử lý nợ xấu .
Bảy là, hoạt động giám sát ngân hàng đảm bảo việc cấp phép thành lập
mới, cấp phép mở rộng mạng lưới và nghiệp vụ của các NHTM, đảm bảo đáp
ứng đúng, đủ nhu cầu dịch vụ ngân hàng của xã hội, của từng địa bàn trong
từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế; đảm bảo cạnh tranh lành mạnh giữa

các NHTM để tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn hệ thống.
1.2. Pháp luật điều chỉnh hoạt động giám sát ngân hàng
1.2.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát ngân
hàng
Từ những vấn đề nghiên cứu về thực trạng của pháp luật về hoạt động
giám sát ngân hàng ở Việt Nam, vấn đề quan trọng hiện nay là cần thiết phải


17
xác định và áp dụng những giải pháp hữu hiệu để hoàn thiện pháp luật về hoạt
động của Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng.
1.2.1.1 Môi trường hoạt động của hệ thống ngân hàng hiện nay tiềm ẩn nhiều
rủi ro
Với tính chất phức tạp và thường xuyên biến động của nền kinh tế thị
trường, nhất là trong điều kiện quy mô thị trường không bị bó hẹp, những
biến động bất thường về kinh tế, chính trị của thế giới đều tác động không
nhỏ đến thị trường trong nước. Đó cũng chính là một trong những nguyên
nhân làm tăng nguy cơ rủi ro cho các tổ chức tín dụng. Hiện nay, hệ thống
ngân hàng Việt Nam đang phải đối mặt với 4 loại rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro
thanh khoản, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động. Trong đó rủi ro tín dụng là rủi
ro cần được đặc biệt quan tâm. Với tốc độ tăng trưởng nhanh (trên 25%/năm)
cùng với năng lực quản trị rủi ro còn yếu kém trong môi trường kinh doanh
nhiều rủi ro (năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh,
khả năng sinh lời không tương xứng với mức độ gia tăng rủi ro và quy mô
hoạt động) khiến cho các ngân hàng phải đối mặt với mức độ rủi ro tín dụng
không nhỏ. Chất lượng Tài sản Có thấp, tỷ lệ nợ xấu cao, hệ số an toàn vốn
chưa đạt mức chuẩn 8% theo thông lệ quốc tế. Những điểm yếu này gây ảnh
hưởng tới sự phát triển bền vững của cả hệ thống ngân hàng đồng thời cũng sẽ
làm cho việc áp dụng các chuẩn mực về an toàn, rủi ro theo chuẩn mực quốc
tế gặp nhiều khó khăn. Do vậy, việc nắm bắt được tình hình tài chính thường

xuyên của các ngân hàng thương mại để từ đó đưa ra cảnh báo và can thiệp
kịp thời giúp ngăn chặn, phòng tránh rủi ro là vấn đề thực sự cần thiết. [1]
Một ví dụ cho rủi ro tín dụng là vụ việc của Nhà số 194 - Phố Huế phường Ngô Thì Nhậm - quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. Ngôi nhà này là tài sản
của công ty TNHH Bắc Sơn đã đem thế chấp để đảm bảo cho hợp đồng tín
[1] TS. Nguyễn Văn Bình (2006),” Nguyên tắc và định hướng đổi mới hoạt động thanh tra
đến 2010 và tầm nhìn 2020”, Tạp chí Ngân hàng, số 20/2006


18
dụng giữa công ty Bắc Sơn với ngân hàng công thương Việt Nam. Do công ty
Bắc Sơn không trả được nợ, nên ngân hàng công thương Việt Nam đã khởi
kiện ra tòa để đòi nợ. Sau đó, chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng
đã ủy quyền cho công ty CP bán đấu giá Hà Nội bán đấu giá phần tài sản bị
kê biên là 139,68m2 đất và nhà số 194 - Phố Huế vào ngày 24/8/2009. Cuối
cùng, ông Đặng Văn Thoán (trú tại 59 - Phương Mai - Hà Nội) đã trúng đấu
giá. Tuy nhiên vấn đề nằm ở chỗ, tài sản kê biên trong vụ việc này không đủ
điều kiện để kê biên theo quy định pháp luật. Khi ông Hoàng Đình Mậu –
nguyên Giám đốc công ty Bắc Sơn qua đời thì các đồng thừa kế của ông Mậu
đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với khối di sản mà ông Mậu để lại kể
từ thời điểm mở thừa kế, bao gồm cả nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ hợp
pháp theo quy định pháp luật. Tuy nhiên có một điều đáng chú ý là cho đến
thời điểm bị cưỡng chế thi hành án trái pháp luật, tất cả những người thừa kế
này đều chưa thực hiện thủ tục mở thừa kế tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Khi tiến hành kê biên nhà 194 Phố Huế, Chấp hành viên đã không hỏi
hết ý kiến của toàn bộ những người thừa kế là một hành vi xâm phạm nghiêm
trọng đến quyền – lợi ích hợp pháp của họ. Cụ thể tại buổi kê biên tài sản chỉ
có bà Nguyễn Thị Thu Hồng là một trong sáu người thừa kế của ông Mậu có
mặt còn những người khác vắng mặt và đương nhiên không có chữ ký cũng
như ý kiến trong Biên bản kê biên. Mặt khác, những người thừa kế của ông
Mậu hiện đều đang sinh sống tại nhà 194 Phố Huế nên họ là đối tượng được

ưu tiên mua tài sản đấu giá nếu như ngôi nhà này bị buộc phải phát mại. Thế
nhưng khi tiến hành bán đấu giá tài sản, cơ quan thi hành án cũng như đơn vị
bán đấu giá đã không hề thông báo cho những người thừa kế của ông Mậu
được biết và tham gia phiên đấu giá. Điều này không chỉ vi phạm nguyên tắc
công khai, minh bạch của quá trình bán đấu giá tài sản mà còn xâm phạm
nghiêm trọng đến quyền lợi của những người có quyền – nghĩa vụ liên quan
nói trên. Vụ việc này đã được Tòa án xem xét và giải quyết trong nhiều năm


19
khiến cho việc thanh lý tài sản để thu hồi khoản nợ lớn của ngân hàng bị phức
tạp và chậm trễ.
1.2.1.2 Sự phát triển của khu vực tài chính ngân hàng và thị trường tài chính
là thách thức đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải đổi mới
Sự ra đời của hàng loạt các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại đa
tiện ích như ATM, Internet Banking, Home Banking, PC Banking, Mobile
Banking… là những bước tiến bộ đáng kể của các ngân hàng thương mại Việt
Nam trong việc ứng dụng công nghệ tiên tiến, viễn thông hiện đại. Tuy nhiên,
bên cạnh những tiện ích mà các dịch vụ đó mang lại, điều không thể phủ nhận
được là các rủi ro đi kèm lớn hơn. Bên cạnh những rủi ro về tác nghiệp và
công nghệ theo sau các dịch vụ thương mại điện tử (nạn hacker đối với phần
mềm ngân hàng, dịch vụ ngân hàng, vấn đề về bảo mật thông tin…) còn có
các rủi ro tiềm ẩn hết sức lo ngại với một hệ thống quản trị điều hành, kinh
doanh còn yếu như ở Việt Nam. Nếu chỉ đơn thuần là phương pháp thanh tra
tuân thủ thì khả năng ngăn chặn và đặc biệt là phòng ngừa rủi ro một cách
hữu hiệu khó có thể đáp ứng
Bên cạnh đó, về thực tế pháp luật hiện hành, sau khi Luật NHNN 2010
ra đời, các văn bản pháp luật dưới Luật lần lượt được xây dựng nhằm cụ thể
hóa tinh thần của Luật và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý của
NHNN nói chung và hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng hàng nói riêng.

Cụ thể, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 26/2014/NĐ-CP về tổ chức và
hoạt động của thanh tra, giám sát ngân hàng và Quyết định số 35/2014/QĐTTg về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thay thế Quyết định số 83/2009/QĐTTg; Thông tư Số: 08/2017/TT-NHNN ngày 01/08/2017 của NHNN quy định
về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng và qua đó, đã hoàn chỉnh thêm một
bước về tổ chức và hoạt động của thanh tra, giám sát ngân hàng.


×