Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Pháp luật về dịch vụ thanh toán của các ngân hàng thương mại và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.76 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ NGA

PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ THANH TOÁN CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ NGA

PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ THANH TOÁN CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Định hướng ứng dụng

Chuyên ngành



: Luật Kinh tế

Mã số

: 24UD

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Thị Giang Thu

Hà Nội – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng
theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Nga


LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu công tác thực tiễn, được sự
hướng dẫn, giảng dạy tận tình của các Thầy, Cô, cùng sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình từ
bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế.
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu cùng Quý Thầy, Cô trường Đại học Luật Hà Nội, các Giáo sự, Phó
Giáo sư, Tiến sĩ đã tận tâm giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý báu

trong suốt thời gian học tập tại trường.
Chân thành cảm ơn Khoa Sau đại học Trường Đại học Luật Hà Nội, thực hiện quản
lý đào tạo, cung cấp thông tin cần thiết về quy chế đào tạo cũng như chương trình đào tạo
một cách kịp thời, tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận văn này đúng tiến độ.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Phạm Thị Giang Thu, người đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Và lời cuối, xin được cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ
tôi trong suốt thời gian học tập.
Tác giả luận văn


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Ngân hàng

NH

Ngân hàng Nhà nước

NHNN

Ngân hàng thương mại

NHTM

Ngân hàng thương mại cổ phần

NHTMCP

Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán


TCCUDVTT

Tổ chức tín dụng

TCTD


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DỊCH VỤ THANH TOÁN CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ THANH
TOÁN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. .......................................................... 5
1.1. Những vấn đề lý luận chung về dịch vụ thanh toán của ngân hàng
thương mại................................................................................................................ 5
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại và chủ thể cung ứng dịch vụ thanh toán 5
1.1.2. Những hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại .................................. 9
1.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về dịch vụ thanh toán do ngân hàng
thương mại thực hiện .............................................................................................. 12
1.2.1. Khái niệm dịch vụ thanh toán ...................................................................... 12
1.2.2. Đặc điểm, vai trò của việc cung ứng dịch vụ thanh toán do ngân hàng
thương mại thực hiện .............................................................................................. 14
1.2.3. Các bộ phận cấu thành của pháp luật về dịch vụ thanh toán của ngân
hàng thương mại..................................................................................................... 18
1.2.4. Đặc điểm áp dụng pháp luật của ngân hàng thương mại ............................ 28
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật về đối với việc thực
hiện dịch vụ thanh toán của ngân hàng thương mại. ........................................... 29
1.3.1. Yếu tố kinh tế - chính trị - xã hội .................................................................. 29
1.3.2. Các yếu tố thuộc về chính sách và nguồn lực của ngân hàng thương mại .. 30
1.3.3. Pháp luật điều chỉnh..................................................................................... 31
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ THANH TOÁN

CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI, MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ GIẢI PHÁP ..... 40


2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về dịch vụ thanh toán của các ngân hàng
thương mại................................................................................................................ 40
2.1.1. Đa dạng hóa các dịch vụ, phương tiện thanh toán và việc sử dụng một số
phương tiện thanh toán ở nước ta .......................................................................... 40
2.1.2. Cơ sở hạ tầng và công nghệ phục vụ thanh toán không dùng tiền mặt đã
được thiết lập .......................................................................................................... 44
2.1.3. Về hoạt động thanh toán qua ngân hàng trong khu vực công, doanh
nghiệp và dân cư .................................................................................................... 48
2.1.4. Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh toán đang từng bước hoàn thiện . 52
2.2. Hạn chế, bất cập của áp dụng pháp luật trong hoạt động thanh toán và
một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về thanh toán không dùng tiền
mặt qua ngân hàng .................................................................................................. 54
2.2.1. Về khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực thanh toán không dùng tiền mặt ....... 54
2.2.2. Về một số phương tiện trong thanh toán ...................................................... 55
2.3.3. Về hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt còn nhiều bất cập ............... 61
2.3.4. Cơ sở hạ tầng và công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu về thanh toán
không dùng tiền mặt ............................................................................................... 68
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 73


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển ở mỗi quốc gia, tính tất yếu
của sự hội nhập trên phạm vi toàn cầu, thương mại điện tử phát triển không biên

giới; hoạt động thanh toán cũng ngày càng phát triển đa dạng, phong phú và phức
tạp về phương tiện, hình thức, phương thức và hệ thống thanh toán. Sự phát triển
đan xen giữa các công cụ, phương thức truyền thống với phương tiện, phương thức,
hệ thống thanh toán hiện đại đòi hỏi một nền công nghệ kỹ thuật cao đối với người
sử dụng và quản lý.
Thanh toán trong nền kinh tế - xã hội nói chung, qua hệ thống các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán nói riêng đã và đang minh chứng vai trò quan trọng
không thể thiếu được của nó trong hoạt động kinh tế - xã hội. Qua hệ thống thanh
toán hiện đại của nền kinh tế phản ánh một cách nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời nhất
các hoạt động kinh tế - xã hội mà được thể hiện bằng các dòng tiền luân chuyển từ
các nghiệp vụ phát sinh đến khi kết thúc quyết toán mỗi giao dịch. Sự ách tắc ở bất
cứ khâu nào trong quá trình thanh toán sẽ dẫn đến sự trì trệ, ảnh hưởng bất lợi cho
hoạt động, thậm chí có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán toàn hệ thống gây nguy
cơ mất ổn định nền kinh tế - xã hội. Hơn nữa, sự mất mát, tổn thất trong thanh toán
là rất lớn. Do đó, hoạt động quản lý thanh toán càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao
giờ hết khi mà nền kinh tế - xã hội phát triển không biên giới. Tính đồng bộ, tương
thích giữa việc phát triển các phương tiện, hình thức, phương thức thanh toán hệ
thống thanh toán với quản lý nó phải đảm bảo trong từng mắt khâu, từng nghiệp vụ
cụ thể, ở từng hệ thống thanh toán của cả quá trình vận hành. Tuy nhiên, hoạt động
thanh toán thời gian qua cũng đang bộc lộ những bất cập, yếu kém và lúng túng
trước sự phát triển của các công cụ, phương thức và hệ thống thanh toán của nền
kinh tế thị trường làm cho nền kinh tế gặp những khó khăn, trở ngại trong thanh
toán.


2

Trong bối cảnh đó, luận án được đề cập nghiên cứu với tên đề tài: “Pháp luật
về dịch vụ thanh toán của các ngân hàng thương mại và thực tiễn áp dụng tại
Việt Nam”, góp phần giải quyết những tồn tại trên, tăng cường hoạt động thanh

toán trong nền kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiệu quả hơn, góp phần lưu thông tiền tệ
ổn định.
2. Tình hình nghiên cứu
Áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng
nói riêng là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học pháp lý. Đặc biệt là
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân và hội nhập quốc tế hiện nay. Có thể kể đến một số công trình như sau:
PGS. TS Mai Văn Bạn, chủ nhiệm đề tài “Thanh toán ngân hàng trong thương
mại điện tử đến năm 2020”
TS Tạ Quang Tiến “Thanh toán điện tử liên ngân hàng ở Việt Nam”
Th.S Lưu Thúy Mai “Biện pháp mở rộng và phát triển thanh toán không dùng
tiền mặt”
Qua nghiên cứu, phân tích nội dung các đề án, bài viết trên đây cho thấy:
- Tính thực tiễn, ứng dụng rất cao góp phần cải tiến đổi mới kịp thời những
nghiệp vụ cụ thể trong hoạt động thanh toán.
- Phát hiện được những nhược điểm, khó khăn ở một số khâu trong hoạt động
thanh toán. Tuy nhiên, hạn chế của các đề án, bài viết trên đây chỉ là đi sâu vào một
hoặc một số thậm chí chỉ một nội dung riêng lẻ trong hoạt động thanh toán như
thanh toán điện tử liên ngân hàng, thanh toán thẻ, thanh toán không dùng tiền mặt
qua phân tích lý luận vào một số chi nhánh ngân hàng nhỏ lẻ,... vì vậy tác dụng
không cao và hạn hẹp. Mặt khác, các công trình trên chủ yếu đề cập đến những vấn
đề lý luận và thực tiễn chung nhất về áp dụng pháp luật và hoạt động áp dụng pháp
luật trong một số lĩnh vực như dân sự, hôn nhân, gia đình, tư pháp quốc tế…; hoặc
tiếp cận hoạt động áp dụng pháp luật ở một hoạt động ngân hàng nhất định như bảo


3

hiểm, bảo lãnh hoặc thanh toán. Vì thế chưa có công trình nghiên cứ trực tiếp hoạt
động áp dụng pháp luật về dịch vụ thanh toán của NHTM như công trình này.

Vì vậy, trong luận văn, tác giả đã nghiên cứu tổng thể về dịch vụ thanh toán
qua các các NHTM cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý hoạt động
thanh toán. Trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật về dịch vụ thanh toán, tác giả
đã đề xuất những những giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật đối với
dịch vụ này. Đây là một đề tài nghiên cứu về pháp luật đối với dịch vụ thanh toán
tại Việt Nam, trên cơ sở pháp luật hiện hành và sự phát triển của nền kinh tế xã hội
tương ứng nên tác giả luận văn cho rằng đề tài nghiên cứu không trùng lặp với các
công trình đã được nghiên cứu và công bố trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Nhằm xem xét, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong việc thanh toán tại
các NHTM thời gian qua để trên cơ sở đó tìm ra các giải pháp có tính khả thi để
thúc đẩy sự phát triển của hệ thông ngân hàng.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các lý luận cơ bản về phát triển thị trường dịch vụ thanh
toán của NHTM; đánh giá thực trạng phát triển thị trường dịch vụ thanh toán từ đó
đề xuất một số giải pháp góp phần phát triển thị trường dịch vụ thanh toán tại các
NHTM.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm hệ thống các quy định của pháp
luật điều chỉnh hoạt động tín dụng của các NHTM, bao gồm: Luật các tổ chức tín
dụng 2010, các văn bản hướng dẫn thi hành và các quy định của pháp luật liên quan
bao gồm Luật Doanh nghiệp, Luật Ngân hàng Nhà nước, Bộ luật dân sự, Luật
thương mại,…
Phạm vi nghiên cứu của đề tài này chủ yếu là cơ sở lý luận về cách thức áp


4

dụng pháp luật thanh toán của NHTM và thực trạng áp dụng tại Việt Nam lĩnh vực

dịch vụ thanh toán.
5. Các phương pháp nghiên cứu sử dụng để thực hiện luận văn
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm: Thu thập và tổng hợp thông tin,
chú trọng việc thu thập các số liệu từ các báo cáo thực tế và hoạt động thanh toán
của NHTM; so sánh, phân tích, đối chiếu các số liệu, tài liệu thu thập được phân
tích và nêu lên nhận xét, đánh giá.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận và áp dụng pháp luật
trong hoạt động thanh toán của NHTM.
- Xác định được những thành tựu và hạn chế của hoạt động áp dụng pháp luật
trong lĩnh vực thanh toán của ngân hàng.
- Đề xuất được một số giải pháp có tính khả thi để thúc đẩy hoạt động áp
dụng pháp luật trong các hoạt động dịch vụ và hoàn thiện cơ cấu tổ chức, điều hành,
nhân sự của ngân hàng trong hoạt động thanh toán.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận
văn gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về dịch vụ thanh toán của các ngân hàng
thương mại và pháp luật về dịch vụ thanh toán của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về dịch vụ thanh toán của ngân hàng thương
mại, một số đề xuất và giải pháp.


5

Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DỊCH VỤ THANH TOÁN
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ
DỊCH VỤ THANH TOÁN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI.

1.1. Những vấn đề lý luận chung về dịch vụ thanh toán của ngân hàng
thương mại
1.1.1.

Khái niệm ngân hàng thương mại và chủ thể cung ứng dịch vụ thanh

toán
NHTM đã hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát triển của kinh
tế hàng hóa. Sự phát triển của hệ thống NHTM đã có tác động rất lớn và quan trọng
đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa, ngược lại, kinh tế hàng hóa phát
triển mạnh mẽ đến giai đoạn của nó – kinh tế thị trường – thì NHTM cũng ngày
càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính có vị trí quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân và hoạt động theo định chế trung gian mang tính chất
tổng hợp. Các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng, NHTM hình thành trên cơ sở của sự
phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa. Khi sản xuất phát triển thì nhu cầu trao đổi
mở rộng sản xuất giữa các vùng lãnh thổ, giữa các quốc gia tăng lên, để khắc phục
sự khác biệt về tiền tệ giữa các khu vực thì xuất hiện các thương gia làm nghề đổi
tiền. Khi trao đổi hàng hóa quay trở lại kích thích sản xuất hàng hóa. Cùng với sự
phát triển đó, các nghiệp vụ được phá triển dần như giữ tiền hộ, chi trả hộ… trên cơ
sở đó thực hiện hoạt động tín dụng.
Từ lịch sử hình thành hệ thống ngân hàng cho thấy, các NHTM chỉ xuất hiện
trong điều kiện nền kinh tế đã phát triển đến một trình độ nhất định, dẫn đến tính tất
yếu khách quan của việc hình thành hệ thống ngân hàng gắn bó chặt chẽ với sự phát
triển kinh tế.
Để đưa ra được một khái niệm chính xác và tổng quan nhất về NHTM, ta


6

thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài

chính, và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động. Ví dụ:
Luật ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: “Ngân hàng là những xí nghiệp hay
cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới ký thác hay hình
thức khác số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng
hay dịch vụ tài chính”. Luật ngân hàng của Ấn Độ đã nêu: “Ngân hàng là cơ sở
nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”. Luật Ngân hàng Đan
Mạch năm 1930 cũng ghi nhận căn cứ vào sự kết hợp với đối tượng hoạt động:
“Ngân hàng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc,
hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu,
thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, bảo hiểm…”1
Theo Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 37-LCT/HĐNN8 ngày
23/05/1990 quy định NHTM là: “Tổ chức hành nghề kinh doanh tiền tệ mà hoạt
động chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng
số tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh
toán”. Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 định nghĩa NHTM tại Khoản 3 Điều 4
như sau: “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này
nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Trước hết cần hiểu NHTM là một doanh nghiệp thực
hiện hoạt động kinh doanh ngân hàng và các hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ
luật định, mục đích cuối cùng là mục đích “sinh lợi” chính là yếu tố làm nên tính
“thương mại” của loại chủ thể này. Đây cũng là một dấu hiệu để phân biệt với một
số loại hình tổ chức tín dụng khác. Vậy hoạt động ngân hàng của NHTM là gì?
Theo Khoản 1 Điều 6 Luật Ngân hàng nhà nước năm 2010: “Hoạt động ngân hàng
là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là
nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán”.
Nguyễn Thị Thúy (2012), “Hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội
1



7

Như vậy, NHTM là định chế tài chính trung gian quan trọng vào loại bậc nhất trong
nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế này mà các nguồn tiền vốn nhàn rỗi
sẽ được huy động, tạo lập nguồn vốn tín dụng to lớn để có thể cho vay kinh tế.
NHTM có một số đặc trưng sau:
 Về cấu trúc tài chính và tài sản: là doanh nghiệp có quy mô lớn, hệ số nợ
rất cao và cấu trúc tài sản đặc biệt
NHTM là doanh nghiệp có quy mô lớn trên cả giác độ vốn của chủ sở hữu và
tổng tài sản. Ở Việt Nam, vốn chủ sở hữu của các NHTM là hàng tỷ đồng. đối với
các NHTM trên thế giới, vốn chủ sở hữu lên tới hàng tỷ đô la Mỹ. Mạng lưới các
chi nhánh ngân hàng thường rất lớn và phân tán rộng về địa lý. Trong khi quy mô
về vốn chủ sổ hữu đã rất lớn, nguồn vốn của NHTM lại chủ yếu là nự được huy
động từ bên ngoài ngân hàng. Phần lớn tài sản của NHTM là tài sản chính, mang
đặc trưng trừu tượng, hình thái vật chất giản đơn chỉ là giấy tờ hoặc thậm chí chỉ là
dữ liệu điện tử được lưu giữ trong một thiết bị nhất định. Bên cạnh đó, NHTM
thường có xu hướng liên tục phát triển các sản phẩm, công cụ tài chính mới.
 Nguồn vốn phục vụ hoạt động kinh doanh phần lớn là tiền gửi của các tổ
chức kinh tế.
Đặc điểm nổi bật của NHTM là không sử dụng nguồn vốn sở hữu vào trong
các hoạt động kinh doanh của mình như vay, mua bán chứng khoán. Hơn nữa
nguồn vốn sở hữu của NHTM chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng nguồn vốn
của NHTM. Trong khi đó các loại hình kinh tế khác lại sử dụng chủ yếu nguồn
vốn sở hữu vào các hoạt động kinh doanh. Sự khác biệt của NHTM với các định
chế tài chính khác là NHTM có quyền huy động tiền gửi trong nền kinh tế mối
khi cân đối để tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Không có một định
chế tài chính nào ngoài NHTM có thể nhận tiền gửi từ các cá nhân và các tổ
chức trong nền kinh tế.



8

 Hoạt động của ngân hàng thương mại luôn chứa đựng nhiều rủi ro và chịu
sự kiểm soát, giám sát chặt chẽ của hệ thống luật pháp
Trên giác độ tài chính doanh nghiệp, doanh nghiệp có hệ số nợ cao sẽ dẫn đến
rủi ro trong hoạt động cũng cao. Bên cạnh đóm nguồn vốn nợ chủ yếu của các
NHTM là tiền gửi với các đặc trưng có thể bị rút ra trước hạn với khối lượng khó
xác định. Sản phẩm, dịch vụ ngân hàng không được hưởng quy chế bảo hộ đặc
quyền và mang tính phức tạp, trực tiếp. Hơn nữa, NHTM tham gia vào nhiều cam
kết trong khi chưa chuyển giao vốn thực sự, tức là hoạt động ngoại bảng phong phú,
đa dạng. Điểm này là một đặc trưng khác biệt với các loại hình doanh nghiệp khác.
Vì những lý do này, hoạt động của NHTM chứa đựng nhiều rủi ro hơn các ngành
kinh doanh khác. Rủi ro trong hoạt động của NHTM bao gồm các loại rủi ro đặc thù
như: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh toán, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro vốn khả
dụng, rủi ro đạo đức,…
Là doanh nghiệp có quy mô lớn, mạng lưới rộng khắp, hoạt động chịu nhiều
rủi ro, ảnh hưởng đáng kể đến nhiều hoạt động kinh tế xã hội, NHTM chịu nhiều sự
kiểm soát, giám sát chặt chẽ của hệ thống pháp luật. Các quy định pháp lý đối với
NHTM được phổ biến rộng trên nhiều mặt của hoạt động kinh doanh như: Điều
kiện kinh doanh, tiêu chuẩn củ người lãnh đạo ngân hàng, dự trữ bắt buộc, bảo hiểm
tiền gửi, an toàn trong hoạt động, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, sử dụng
vốn tự có đầu tư cho tài sản cố định,...
 Tính liên kết và ổn định của hệ thống ngân hàng
Hệ thống ngân hàng có tính phụ thuộc lẫn nhau rất lớn. Hơn bất cứ ngành kinh
doanh nào trong nền kinh tế, rủi ro trong hoạt động ngân hàng có tính lan tỏa rất
nhanh. Hoạt động như một hệ thống các mắt xích liên kết chặt chẽ, chỉ cần một
NHTM, dù yếu và nhỏ nhất, gặp khó khăn trong hoạt động, đặc biệt là khó khăn về
thanh toán, là có thể dẫn đến nguy cơ sập phá hệ thống. Thực tiễn đã cho thấy,
thanh toán được ví như hơi thở của sự sống trong hoạt động NHTM. Mọi rủi ro, tổn



9

thất trong hoạt động ngắn hạn của thương mại đều có thể dẫn đến hậu quả cuối cùng
là ngân hàng mất khả năng thanh toán rồi phá sản.
Hệ thống ngân hàng – tài chính trong nền kinh tế rất nhạy cảm với mọi biến
động về kinh tế, kỹ thuật, chính trị và xã hội. Những biến động này thường có tác
động gần như tức thời đến hoạt động của thị trường tài chính, điển hình là thị
trường chứng khoán; theo đó nó gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của hệ
thống ngân hàng. Đối với công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế, việc nắm bắt được cơ
chế hoạt động, ảnh hưởng lẫn nhau của các phần tử trong hệ thống tài chính là một
trong những vấn đề cốt yếu, quyết định thành bại.
1.1.2.

Những hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại

a. Hoạt động huy động vốn
Đây là hoạt động nhằm tạo lập nguồn vốn kinh doanh cho NHTM. Là một tổ
chức kinh doanh tiền tệ, nên tạo nguồn vốn của NHTM là một yếu tố quyết định tới
quy mô hoạt động và uy tín của NHTM trên thị trường. Đây là hoạt động cơ bản của
NHTM, nó làm ảnh hưởng rất nhiều tới tình hình hoạt động của NHTM.
Hoạt động này chủ yếu bao gồm các hoạt động sau:
-

Huy động tiền gửi không kỳ hạn

-

Huy động tiền tiết kiệm của dân cư


-

Đi vay Ngân hàng Nhà nước (NHNN), NHTM khác

-

Phát hành trái phiếu, kỳ phiếu

-

Các hoạt động huy động khác: Uỷ thác đầu tư…

b. Hoạt động sử dụng vốn
- Hoạt động ngân quỹ: Đây là hoạt động mang tính chất dự trữ:
+ Dự trữ bắt buộc: Đây là khoản dự trữ mà các NHTM phải nộp vào tài khoản


10

tại NHNN nhằm thực hiện một số mục tiêu đề ra:
Thứ nhất, khoản này đóng vai trò như như một khoản đảm bảo an toàn cho
hoạt động kinh doanh của NHTM.
Thứ hai, nó giúp NHNN có thể vận hành chính sách tiền tệ quốc gia. Theo như
đã trình bày ở trên, nếu tỷ lệ dự trữ càng thấp, lượng cung tiền ra thị trường càng
lớn và ngược lại. Tuỳ từng điều kiện khác nhau mà NHNN sẽ đua ra các biện pháp
phù hợp với hoàn cảnh.
Thứ ba, nó giúp NHNN quản lý được hoạt động của NHTM.
+ Dự trữ vượt quá: khoản tiền này tồn tại dưới 3 hình thức: Tiền mặt tại quỹ,
tài khoản tiền gửi NHNN và tiền mặt trong quá trình thu. Khoản mục này tồn tại có
thể do hoạt động kinh doanh của ngân hàng không tốt, không cho vay hết vốn mà

mình huy động được (sau khi đã trừ đi dự trữ bắt buộc) hay cũng có thể do chính
sách hoạt động của mình, ngân hàng muốn giữ lại một khoản dự trữ nữa ngoài dự
trữ bắt buộc để đảm bảo hơn nữa khả năng thanh toán của mình.
- Hoạt động cho vay: Đây là hoạt động cơ bản của NHTM. Ngân hàng huy
động vốn sau đó cho vay, sau một thời gian ngân hàng sẽ thu được cả gốc và lãi.
+ Cho vay thương mại: Ngay thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương
phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản
phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó bước chuyển tiếp từ chiết khấu
thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua), giúp họ
có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
+ Cho vay tiêu dùng: Trong giai đoạn đầu, các ngân hàng không tích cực cho
vay đối với cá nhân và hộ gia đình do tính rủi ro cao. Sự gia tăng thu nhập của
người tiêu dùng và sự cạnh tranh đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu
dùng như một khách hàng tiềm năng. Hiện nay, tín dụng tiêu dùng đã trở thành loại
hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất tại các nước có nền kinh tế phát triển.


11

+ Tài trợ cho dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các
ngân hàng cũng ngày càng quan tâm vào việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc
biệt là tài trợ trong các ngành công nghệ cao. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu
tư vào bất động sản. Tất nhiên, loại hình tín dụng này rủi ro tương đối cao.
Các khoản cho vay, nơi tiềm ẩn những rủi ro hơn cả, luôn chiếm phần lớn
trong tổng tài sản của ngân hàng. Nếu không được kiểm soát chặt chẽ các khoản
vay rất dễ bị thất bại, trực tiếp ảnh hưởng tới lợi nhuận, thậm chí đe doạ sự tồn tại
của ngân hàng khi những nhu cầu rút tiền gửi của khách hàng không được đáp ứng.
Vậy thì, cho ai vay như thế nào, quản lý việc sử dụng tiền vay, tiến hành thu nợ gốc
và lãi ra sao... là những vấn đề mà ngân hàng phải giải quyết trước và trong quá
trình cho vay, nhằm có được những khoản cho vay an toàn và hiệu quả. Chính vì

thế, giai đoạn xem xét trước khi cho vay, xem xét người vay tiền và việc sử dụng
tiền vay mà người ta gọi là thẩm định tín dụng luôn chiếm vị trí quyết định.
- Các hoạt động đầu tư: Hoạt động đầu tư chủ yếu của ngân hàng trên thị
trường tài chính thông qua việc mua bán các chứng khoán: công trái và tín phiếu.
Thu nhập của ngân hàng từ hoạt động này là khoản chênh lệch giữa giá bán và giá
mua. Ngoài ra ngân hàng còn hùn vốn liên doanh với các doanh nghiệp, trong quá
trình đó gân hàng sẽ được chia lợi nhuận từ hoạt động này.
-

Hoạt động sử dụng vốn khác: Ngân hàng sẽ đầu tư vào các hoạt động

quảng cáo, quảng bá, tài trợ…để quảng bá cho thương hiệu của mình.
Nghiệp vụ trung gian
- Nghiệp vụ chuyển tiền: Là một nghiệp vụ mà ngân hàng phải chuyển tiền
cho một người khác khi có lệnh của khách hàng.
- Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt: Loại hình dịch vụ này bao gồm:
thanh toán bù trừ, thanh toán séc, L/C, thanh toán bằng uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi,
thanh toán bằng hối phiếu…


12

- Cung cấp các dịch vụ tài chính: Bao gồm các dịch vụ môi giới, tư vấn tài
chính, uỷ thác đầu tư, bảo lãnh và các loại hình dịch vụ khác.
1.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về dịch vụ thanh toán do ngân hàng
thương mại thực hiện
1.2.1.

Khái niệm dịch vụ thanh toán


Bất kỳ nền kinh tế nào, dù ở mức độ phát triển nào cũng có tính đa dạng nhất
định của nó. Và vì thế, sự tồn tại nhiều loại tiền để thỏa mãn tất cả những nhu cầu
đa dạng của xã hội, của các cá nhân là điều tất nhiên. Nhưng bên cạnh đó, nhu cầu
cần sự gọn nhẹ, đảm bảo có lãi cho tài sản, và dễ dàng trong thanh toán ở mọi lúc,
mọi nơi vẫn tạo ra các hình thức tiền khác nhau. Nhiều nhà kinh tế tiên đoán rằng,
trong tương lai với sự phát triển của sản xuất, chi phí lắp đặt các hệ thống điện tử sẽ
ngày càng thấp hơn, hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu đời sống của mọi tầng lớp người
dân. Và thế giới sẽ tiến dần đến thế giới của nền kinh tế không có tiền mà chỉ có các
thanh toán kín bằng điện tử qua ngân hàng.
Không có thanh toán, sản xuất và lưu thông không thể tiến hành được. Thanh
toán được coi là điều kiện quan trọng để bảo đảm mọi quá trình sản xuất kinh doanh
tiến hành đều đặn và liên tục. Nếu trong khâu thanh toán bị gián đoạn thì quá trình
sản xuất bị ngừng trệ, các mối quan hệ kinh tế bị phá vỡ. Trong cuộc sống thường
ngày có rất nhiều cái chúng ta phải thanh toán như: thanh toán hóa đơn tiền điện,
tiền nước mà bản chất của việc thanh toán này là chi trả cho những sản phẩm dịch
vụ chúng ta đã sử dụng. Đây là hình thức thanh toán hữu hình, chúng ta phải trả tiền
để có được những sản phẩm, dịch vụ mà chúng ta sử dụng hay còn gọi là hình thức
thanh toán phi ngân hàng. Tuy nhiên, thanh toán qua ngân hàng lại không thể đánh
đồng với thanh toán hàng hóa, dịch vụ mà chúng ta đã mua ở trên, dịch vụ thanh
toán qua ngân hàng đóng vai trò trung gian thực hiện thanh toán hộ cho các khoản
giao dịch cho cả hai bên mua và bán. Tức là thay vì chúng ta trả tiền trực tiếp cho
các nhà sản xuất điện hay nhà máy nước… thì chúng ta yêu cầu ngân hàng trích từ


13

tài khoản của mình một số tiền tương ứng để thanh toán cho các bên sản xuất. Nhờ
có các ngân hàng đã giúp cho nền kinh tế tăng khả năng lưu thông hàng hóa và thu
hẹp khoảng cách về không gian và thời gian thanh toán, biến ngân hàng thành trung
gian thanh toán của nền kinh tế.

Hoạt động thanh toán là việc mở tài khoản, thực hiện dịch vụ thanh toán, tổ
chức và tham gia các hệ thống thanh toán của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán và việc mở tài khoản, sử dụng dịch vụ thanh toán của người sử dụng dịch vụ
thanh toán (Mục 2, điều 3 nghị định 64/2001/NĐ-CP ngày 20/09/2001 của Chính
Phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán). Tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ngân hàng, tổ chức
khác được làm dịch vụ thanh toán. Người sử dụng dịch vụ thanh toán là tổ chức, cá
nhân thực hiện giao dịch thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Giao dịch thanh toán là việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền hoặc chuyển tiền giữa tổ
chức, cá nhân. “Dịch vụ thanh toán là việc cung ứng phương tiện thanh toán, thực
hiện giao dịch thanh toán trong nước và quốc tế, thực hiện thu hộ, chi hộ và các loại
dịch vụ khác do Ngân hàng Nhà nước quy định của các tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán theo yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán”. (Mục 5, điều 3,
Nghị định 64/2001/NĐ-CP ngày 20/09/2001 của Chính Phủ về hoạt động thanh
toán và các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán)
Tóm lại chúng ta có thể hiểu “Thanh toán qua ngân hàng là cách thức thanh
toán mà trong đó ngân hàng đóng vai trò trung gian thanh toán giữa người chi trả
và người được chi trả, nó được tiến hành bằng cách trích tiền từ tài khoản của
người chi trả (người mua trong trường hợp người chi trả có tài khoản tại ngân
hàng phục vụ mình) hoặc người chi trả nộp tiền mặt trực tiếp chuyển vào tài
khoản của người thụ hưởng (người bán) hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông
qua vai trò trung gian của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán”


14

1.2.2.

Đặc điểm, vai trò của việc cung ứng dịch vụ thanh toán do ngân hàng


thương mại thực hiện
a. Đặc điểm
Dịch vụ thanh toán trong ngân hàng phát sinh khi có lệnh yêu cầu từ phía
khách hàng là cá nhân hoặc tổ chức, yêu cầu ngân hàng trích nợ từ tài khoản của
chính mình hoặc nộp tiền mặt trực tiếp vào ngân hàng để thanh toán cho đối tác dựa
trên những chứng từ hợp pháp, hợp lệ theo quy định của pháp luật hoặc các dịch vụ
thanh toán mà ngân hàng cung ứng. Dịch vụ thanh toán trong ngân hàng có những
đặc điểm sau:
Thứ nhất: Dịch vụ thanh toán trong ngân hàng mang đặc điểm trừu tượng vì
nó được thực hiện thông qua các kênh thanh toán giữa các ngân hàng với nhau mà
khách hàng không thể nhìn thấy được như các dịch vụ khác, khách hàng chỉ có thể
nhìn thấy được kết quả của việc sử dụng dịch vụ đó là việc thanh toán của khách
hàng đã được thực hiện mà thôi.
Thứ hai: Dịch vụ thanh toán trong ngân hàng được thực hiện không đi liền với
việc trao đổi hàng hóa, tức là sự vận động của tiền tệ trong ngân hàng tách biệt với
sự vận động của hàng hóa. Dịch vụ thanh toán trong ngân hàng được thực hiện có
thể trước hoặc sau khi việc trao đổi hàng hóa giữa các chủ thể được thực hiện, điều
này phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa các khách hàng với nhau. Đây là đặc điểm dễ
nhận thấy và khác biệt nhất so với các dịch vụ khác trong nền kinh tế.

Thứ

ba:

Dịch vụ thanh toán qua ngân hàng không bị bó hẹp bởi không gian (khoảng cách địa
lý) và thời gian. Một khách hàng có thể ở nhà mà vẫn có thể mua được hàng hóa
trong nước cũng như ở nước ngoài.
Thứ tư: Trong dịch vụ thanh toán qua ngân hàng không xuất hiện các loại
đồng tiền thật của các loại tiền tệ mà chỉ là những đồng tiền ghi sổ, tức là những
đồng tiền được hạch toán trên sổ sách chứng từ kế toán.

Thứ năm: Chứng từ sử dụng trong thanh toán có thể là chứng từ giấy hoặc


15

chứng từ điện tử. Trong đó chứng từ giấy là chứng từ thanh toán được thể hiện bằng
giấy như giấy nộp tiền, ủy nhiệm chi. ủy nhiệm thu, Séc... chứng từ điện tử là những
chứng từ thanh toán được thể hiện bằng dữ liệu thông tin trên vật mang tin (như các
loại thẻ thanh toán, băng từ, đĩa từ, dữ liệu qua các chương trình thanh toán điện tử...)
Thứ sáu: Chủ thể tham gia trong quan hệ thanh toán trong ngân hàng ngoài
người thụ hưởng, người chi trả còn có ngân hàng, các tổ chức tài chính trung gian
khác đóng vai trò làm trung gian thanh toán.
b. Vai trò
Ngày nay có thể nói dịch vụ thanh toán chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt
động của NHTM, nó tạo điều kiện cho nhiều dịch vụ ngân hàng phát triển trong nền
kinh tế. Việc thực hiện tốt dịch vụ thanh toán trong ngân hàng sẽ đưa lại lợi ích rất
lớn cho nền kinh tế, nó có thể được coi như một hệ thống “mạch máu” để chuyển tải
luồng vốn từ khu vực này sang khu vực khác.
 Đối với ngân hàng
Một ngân hàng có dịch vụ thanh toán tốt sẽ thu hút được nhiều khách hàng mở
tài khoản tiền gửi thanh toán, trên mỗi tài khoản đó phải có số dư nhất định để đáp
ứng nhu cầu thanh toán. Nhờ đó ngân hàng huy động được lượng lớn vốn nhàn rỗi
trong nền kinh tế của cá nhân và tổ chức, đây là nguồn vốn có chi phí huy động rất
thấp. Ngân hàng có thể tính toán để sử dụng lượng vốn nhàn rỗi nhất định từ các tài
khoản này phục vụ vào hoạt động cho vay hoặc đầu tư tiền gửi để thu lợi nhuận cao.
Hoạt động kinh doanh dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong kết quả
kinh doanh của NHTM, trong đó dịch vụ thanh toán đem lại nguồn thu lớn trong
tổng thu phí dịch vụ của ngân hàng, đóng góp quan trọng vào kết quả hoạt động
kinh doanh của ngân hàng.
NHTM và các tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán thực hiện kinh doanh dịch

vụ thanh toán trong nền kinh tế. Nhưng với tiềm lực tài chính lớn, đồng thời do tính
cạnh tranh cao ở khu vực ngân hàng, trong cơ chế thị trường, các chủ thể sử dụng


16

dịch vụ thanh toán đều có quyền lựa chọn cách thức thanh toán, ngân hàng phục vụ
thanh toán cho mình, do đó đòi hỏi các NHTM không ngừng hoàn thiện dịch vụ
thanh toán của mình để cung cấp dịch vụ thanh toán tốt nhất đến cho khách hàng,
qua đó cũng khẳng định uy tín, đẳng cấp của ngân hàng đối với bạn hàng.
Thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện mở rộng và tăng cường cho
ngân hàng kiểm soát được một phần lượng tiền trong nền kinh tế khi khách hàng
mở tài khoản tại ngân hàng. Qua việc kiểm tra giám sát các khách hàng chấp hành
tốt kỷ luật thanh toán và các nguyên tắc quản lý tài chính của Nhà nước, từ đó đề ra
các chính sách thanh toán thích hợp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả, tăng
sức mua của đồng tiền.
Đối với các nhà quản lý vĩ mô của Nhà nước, ngân hàng là công cụ kinh tế
quan trọng thông qua đó các chính sách của Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và thanh
toán được thực hiện. Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước qua Ngân hàng chỉ thực
sự phát huy đầy đủ tác dụng khi phần lớn khối lượng thanh toán được tập trung qua
các ngân hàng. Nếu thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng tăng lên, lượng
tiền ngoài lưu thông giảm, tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý, ổn định các
mục tiêu kinh tế vĩ mô như: Lạm phát, tỷ giá, công ăn việc làm... giúp Ngân hàng
Trung ương, các nhà hoạch định có biện pháp, chính sách kịp thời nhằm thực hiện
tốt chức năng kiểm soát tiền tệ.
 Đối với khách hàng
Thực hiện thanh toán qua ngân hàng giảm thiểu các rủi ro trong thanh toán cho
khách hàng. Các rủi ro trong thanh toán, bảo quản và vận chuyển tiền mặt của các tổ
chức, cá nhân luôn tiềm ẩn, nguy cơ bị trộm cướp tài sản lớn, bên cạnh đó là rủi ro
về kiểm đếm tiền thật, giả.

Các hình thức thanh toán qua ngân hàng đa dạng, phong phú đáp ứng một
cách nhanh chóng, thuận tiện và cho phép khách hàng có nhiều sự lựa chọn phù hợp
với nhu cầu của mình.


17

Dịch vụ thanh toán qua ngân hàng không dùng tiền mặt góp phần thúc đẩy sự
phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thanh toán vừa là khâu mở đầu và
cũng vừa là khâu kết thúc của một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Do đó nếu tổ chức
tốt trong khâu thanh toán thì sẽ tăng tốc độ chu chuyển vốn của doanh nghiệp, đáp
ứng nhu cầu tái sản xuất của doanh nghiệp, từ đó góp phần tăng lợi nhuận cho
doanh nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung.
Việc mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng tạo cho doanh nghiệp có
thêm nguồn thu nhập do được hưởng lãi suất tiền gửi trên tài khoản thanh toán.
 Đối với nền kinh tế
Trước khi ngân hàng xuất hiện, mọi quan hệ thanh toán đều được thực hiện
trực tiếp giữa người mua và người bán bằng tiền mặt hoặc hiện vật. Quan hệ thanh
toán trực tiếp này có rất nhiều hạn chế như chi phí vận chuyển lớn, việc quản lý tiền
mặt và hiện vật không an toàn, thời gian thanh toán chậm.
Ngân hàng ra đời, cung cấp dịch vụ quản lý vốn cho khách hàng, làm trung
gian thực hiện thanh toán hộ các giao dịch cho cả hai bên mua và bán một cách
nhanh chóng, chính xác và an toàn, nhờ đó quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá, dịch
vụ được tiến hành thuận tiện. Nền kinh tế càng phát triển thì quy mô thanh toán
càng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy, ngân hàng trở thành trung tâm
thanh toán của nền kinh tế.
Việc tăng tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt sẽ làm giảm khối lượng
tiền lưu thông, góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông, chi phí in ấn, phát hành. Việc
thực hiện giao dịch thanh toán qua ngân hàng giúp các cơ quan quản lý tăng cường
giám sát các hành vi gian lận, tham nhũng, trốn thuế, nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng

hoặc các chủ nợ khác. Bên cạnh đó, khi tiền mặt được sử dụng phổ biến trong thanh
toán sẽ là môi trường thuận lợi cho tội phạm lưu hành tiền giả - một loại tội phạm
hết sức phức tạp hoạt động, đe dọa trực tiếp đến lợi ích của các tổ chức, cá nhân và
tình hình an ninh quốc gia. Từ giác độ chi tiêu ngân sách nhà nước, việc sử dụng


18

các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt còn có ý nghĩa rất lớn. Tỷ lệ chi
tiêu ngân sách nhà nước chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng thu nhập quốc dân. Việc
quản lý chi tiêu ngân sách thông qua việc sử dụng các phương tiện thanh toán qua
ngân hàng không chỉ giúp quản lý chi tiêu một cách hữu hiệu mà còn tạo ra một
nguồn lợi lớn cho nền kinh tế.
Ngoài ra, thanh toán không dùng tiền mặt góp phần thực thi hiệu quả chính
sách tiền tệ quốc gia. Để điều hành chính sách tiền tệ gián tiếp có hiệu quả, NHNN
phải có khả năng kiểm soát được vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng, dự báo
được sự biến động của vốn khả dụng, có khả năng can thiệp thị trường tiền tệ một
cách nhanh chóng hữu hiệu. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi có một hệ thống
thanh toán tin cậy, an toàn và hiệu quả.
1.2.3.

Các bộ phận cấu thành của pháp luật về dịch vụ thanh toán của ngân

hàng thương mại
1.2.3.1. Thanh toán tiền mặt
Thanh toán bằng tiền mặt là việc tổ chức, cá nhân sử dụng tiền mặt để trực
tiếp chi trả hoặc thực hiện các nghĩa cụ trả tiền khác trong các giao dịch thanh
toán2
Trong đời sống kinh tế, xã hội của bất kỳ quốc gia nào, kể cả các nước
phát triển, tiền mặt vẫn là phương tiện thanh toán không thể thiếu. Tuy nhiên,

tùy theo mức độ phát triển về công nghệ, thị trường, đặc biệt là thị trường tài
chính mà nhu cầu và mức độ sử dụng tiền mặt trong thanh toán ở các nước có sự
khác nhau.
Hiện tại, thanh toán tiền mặt được sử dụng khá phổ biến bởi nó không yêu cầu
người chi trả phải có tài khoản trong ngân hàng. Tuy nhiên, trong thanh toán các
khoản có giá trị lớn sẽ có những bất lợi và rủi ro sau:
+ Chi phí của xã hội để tổ chức hoạt động thanh toán, như chi phí của chính

2

Khoản 2 Điều 3 Nghị định 222/2013/NĐ-CP


×