Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Phát triển dịch vụ thanh toán của các ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (670.91 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA: TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG
o0o


Đề tài: Phát triển dịch vụ thanh toán của các
Ngân Hàng Thương Mại VN.






























Tp.HCM, Ngày 13 thàng 06 năm 2014
Đề tài: Phát triển dịch vụ thanh toán của các Ngân Hàng
Thương Mại VN.



I Những vấn đề cơ bản của dịch vụ thanh toán qua Ngân Hàng.
1. Khái niệm
2. Đặc điểm và tác dụng của thanh toán qua ngân hàng
3. Ý nghĩa của thanh toán qua ngân hàng.
a) Đối với khách hàng
b) Đối với ngân hàng
c) Đối với nền kinh tế
II Các hình thức của thanh toán qua Ngân Hàng.
1. Thanh toán bằng Séc.
2. Thanh toán bằng ủy nhiệm chi.
3. Thanh toán bằng ủy nhiệm thu.
4. Thư tín dụng.
5. Thẻ ngân hàng
6. Dịch vụ ngân hàng điện tử
III Thanh toán không dùng tiền mặt với sự phát triển của NHTM
IV Thực trạng hoạt động thanh toán tại các NHTM Việt Nam
1. Thành tựu
2. Tồn tại
V Nguyên nhân cản trở sự phát triển dịch vụ thanh toán ở Việt Nam

1. Thói quen sử dụng tiền mặt của người dân.
2. Những bất cập trong hành lang pháp lý.
3. Những hạn chế của các sản phẩm dịch vụ được cung cấp.
4. Những hạn chế về hạ tầng kỹ thuật.
5. Công tác thông tin tuyên truyền chưa được quan tâm, chú trọng và định
hướng đúng đắn.
VI Giải pháp phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
1. Đối với ngân hàng thương mại
2. Đối với NHTW
3. Sản phẩm khác





MỞ ĐẦU

Việt Nam đã và đang chuyển đổi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Do đó, khối lượng hàng hoá lưu
thông trên thị trường là rất lớn. Để đáp ứng nhu cầu lưu thông hàng hoá một
cách nhanh nhất thì hình thức thanh toán qua NH ra đời. Tuy nhiên, thực trạng
thanh toán trong nền kinh tế của nước ta theo nhận xét của các chuyên gia kinh
tế thì Việt Nam vẫn là một quốc gia sử dụng quá nhiều tiền mặt. TTKDTM
chưa phát triển kịp với nhịp phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt
nó chưa được phổ biến trong tầng lớp dân cư.
Thực trạng trên thực sự là một trở ngại lớn đối với nền kinh tế Việt Nam
khi đang trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới nói chung và trong
lĩnh vực tài chính NH nói riêng. Các NH của Việt Nam bao gồm cả NHTM
quốc doanh và NHTM cổ phần phải chịu sự cạnh tran với các NH liên doanh và
NH nước ngoài ở tất cả các sản phẩm dịch vụ NH.

Trên cơ sở đó, ngành NH nói chung và các NHTM Việt Nam nói riêng tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ các hoạt động NH theo xu hướng hội nhập, nâng cao năng
lực cạnh tranh những năm gần đây đã và đang tập trung thực hiện nhiều giải
pháp hiện đại hoá thanh toán và mở rộng dịch vụ thanh toán, đặc biệt là
TTKDTM, một mặt đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, của dân cư; một mặt tăng
thu nhập từ dịch vụ, tăng lợi nhuận cho mỗi NHTM, một nội dung quan trọng
của chương trình cơ cấu lại các hoạt động của mình.













I. Những Vấn Đề Cơ Bản Của Dịch Vụ Thanh Toán Qua
Ngân Hàng.
1. Khái Niệm.
- Thanh toán qua ngân hàng: là hình thức thanh toán tiền hàng
hóa, dịch vụ thông qua vai trò trung gian của ngân hàng trong đó phổ biến là
thanh toán không dùng tiền mặt.
- Thanh toán không dùng tiền mặt: là hình thức thanh toán trong
đó ngân hàng sẽ thực hiện từ việc trích từ tài khoản tiền gởi theo yêu cầu của
người trả tiền để chuyển vào tài khoản cho người thụ hưởng.
2. Đặc Điểm.

- Sử dụng tiền ghi sổ, không dùng tiền mặt.
- Ngân hàng đóng vai trò trung gian.
- Công nghệ thanh toán hiện đại.
- Tuân thủ theo các quy định hiện hành đảm bảo an toàn trong
thanh toán.
3. Điều Kiện Và Nguyên Tắc Thực Hiện Dịch Vụ Thanh Toán
Qua Ngân Hàng.
a. Đối với khách hàng:
- Phải có tài khoản tại ngân hàng.
- Tài khoản phải có số dư để đảm bảo thanh toán.
- Chủ tài khoản phải làm đúng và đủ các thủ tục tại ngân hàng:
giấy tờ thanh toán, phương thức nộp tiền, chữ ký…
- Chủ tài khoản phải tự theo dõi số dư tiền gửi tại ngân hàng.
b. Đối với ngân hàng:
- Phải có hệ thống công nghệ thông tin hiện đại và phù hợp nhằm
đảm bảo bí mật, an toàn, chính xác và thanh toán nhanh chóng cho khách hàng.
- Chỉ thực hiện các yêu cầu thanh toán của chủ tài khoản.
- Không chịu trách nhiệm về những nội dung thanh toán phát sinh
giữa 2 bên của khách hàng.
- Ngân hàng phải kiểm tra, kiểm soát các thủ tục và hoạt động của
khách hàng.
4. Tiện Ích Của Dịch Vụ Thanh Toán Qua Ngân Hàng.
a. Đối với khách hàng:
- Thanh toán nhanh hơn tiền mặt, giảm được nhiều chi phí liên
quan đến quá trình vận chuyển, kiểm, đếm tiền mặt mà họ phải chịu.
- Không bận tâm đến những rủi ro bất ngờ: trộm cắp, thiên tai,
hỏa hoạn…
- Được hưởng lãi suất, được cung cấp dịch vụ ngân hàng với
nhiều ưu đãi.
b. Đối với ngân hàng thương mại:

- Tăng thêm nguồn vốn.
- Trả lãi suất thấp.
- Thu hút khách hàng, phát triển dịch vụ, tăng thu nhập.
- Nâng cao uy tín của ngân hàng.
c. Đối với ngân hàng nhà nước:
- Tiết kiệm được chi phí phát hành, in ấn tiền, chi phí vận chuyển,
bảo quản.
- Giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, kiểm soát lạm phát.
- Kiểm soát các hoạt động của ngân hàng thương mại.
d. Đối với nền kinh tế:
- Giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông.
- Giảm chi phí in ấn, bảo quản, vận chuyển, kiểm đếm…
- Tăng cường hiệu lực quản lý của ngân hàng.
- Chống thất thu thuế có hiệu quả.
- Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, an toàn vốn trong nền kinh
tế.
5. Các thể thức thực hiện dịch vụ thanh toán qua ngân hàng tại
Việt Nam.
- Thanh toán bằng ủy nhiệm chi.
- Thanh toán bằng ủy nhiệm thu.
- Thanh toán bằng séc.
- Thanh toán bằng thẻ ngân hàng.
- Thanh toán bằng thư tín dụng.
II Các hình thức của thanh toán qua Ngân Hàng.
1. Thanh toán bằng Séc.
a. Khái niệm về séc
_ Séc là lệnh trả tiền của chủ khoản, được lập trên mẫu do Ngân
Hàng nhà nước quy định, yêu cầu đơn vị thanh toán trích một số tiền từ tài khoản
tiền gửi của mình để trả cho người thụ hưởng có tên ghi trên séc hoặc trả cho
người cầm séc.

_ Như vậy séc là một chi phiếu, lập trên mẫu in sẵn do chủ tài khoản
phát hành giao trực tiếp cho người bán để thanh toán tiền vật tư, hàng hóa chi phí,
dịch vụ.
b. Những quy tắc chung khi thanh toán bằng séc
_ Tất cả các tờ séc đều do Ngân Hàng Nhà Nước thiết kế mẫu thống
nhất, được in và ghi tiếng Việt Nam (séc phục vụ khách nước ngoài có thể in thêm
tiếng Anh dưới tiếng Việt Nam với cỡ chữ nhỏ hơn). Các tổ chức tín dụng, kho
bạc nhà nước đăng ký với NHNN và chỉ được in séc tại nhà in ngân hàng.
Ngân hàng, kho bạc nhà nước…bán séc trắng cho khách hàng sử
dụng, theo đúng mẫu séc đã duyệt và chỉ bán séc cho khách hàng nào có mở tài
khoản tại đơn vị mình.
_ Người phát hành séc là chủ tài khoản hoặc người được chủ tài
khoản ủy quyền chỉ được phát hành séc trong số dư tài khoản tiền gửi hoặc bảo
chi, hoặc không vượt quá hạn mức khấu chi, nếu vi phạm sẽ bị phạt tiền, bị đình
chỉ sử dụng séc hoặc bị truy tố theo phấp luật
_ Séc phải được viết bằng một thứ mực khó tẩy xóa, không dùng bút
chì, không dùng mực đỏ. Các yếu tố trong séc phải ghi đầy đủ rõ ràng, cấm sửa
chữa tẩy xóa trên tờ séc, các tờ séc viết hỏng cần gạch chéo, để nguyên không xé
rời khỏi cuốn séc.
_ Khi phát hành séc cần ghi số tiền bằng chữ và bằng số phải khớp
nhau, nếu không khớp số tiền nhỏ hơn sẽ được thanh toán, địa điểm và ngày kí
phát hành séc phải ghi bằng chữ - Năm phát hành ghi bằng số, chữ cái đầu tiên của
số tiền phải được viết hoa và sát đầu dòng của dòng đầu tiên, không viết cách
dòng, cách quãng…
Một tờ séc hợp lệ là một tờ séc ghi đầy đủ các yếu tố và nội dung
quy định, có đầy đủ chữ kí và con dấu (nếu có):
Tờ séc đủ điều kiện thanh toán phải:
+ Tờ séc hợp lệ
+ Được nộp trong thời gian hiệu lực thanh toán.
+ Không có lệnh đình chỉ lệnh thanh toán

+ Chữ ký và con dấu phải khớp đúng với mẫu đã đăng kí
+ Số dư tài khoản của chủ tài khoản đủ tiền để thanh toán.
+ Các chữ kí chuyển nhượng (nếu có) đối với séc kí danh lá phải liên
tục
* Thời hạn xuất trình của tờ séc là 30 ngày kể từ ngày phát hành cho
đến khi tờ séc được nộp vào đon vị thanh toán hoặc đơn vị thu hộ. thời gian này
gồm cả ngày lễ và ngày chủ nhật. nếu ngày kết thúc kỳ hạn rơi vào ngày lễ, ngày
chủ nhật thì ngày thanh toán sẽ được lùi vào ngày làm việc sau đó.
* Thời hạn hiệu lực của tờ séc là 6 tháng kể từ ngày ký phát.
Người phát hành séc và người thụ hưởng phải thông báo ngay cho
các bên có liên quan khi bị mất séc, việc thông báo phải thực hiện bằng văn bản
mới có giá trị pháp lý. Căn cứ vào thông báo mất séc, các đơn vị thanh toán cần ra
lệnh đình chỉ thanh toán đối với tờ séc được thông báo và chịu bồi thường nếu để
séc bị lợi dụng lấy tiền sau khi đã nhận thông báo. Trường hợp người phát hành,
hoặc người thụ hưởng thông báo không kịp thời, hoặc thông báo sau khi tờ séc bị
lợi dụng thì họ phải chịu trách nhiệm về các thiệt hại do mất séc.
Nếu thông báo mất séc không đảm bảo tính trung thực thì người
thông báo sẽ bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu.
Trường hợp có nhiều tờ séc được phát hành bởi một chủ khoản được
nộp vào cùng một thời điểm thì dơn vị thanh toán xác định thứ tự thanh toán theo
số séc phát hành từ nhỏ tới lớn.
c. Những người liên quan đến séc:
Những người liên quan đến việc phát hành và sử dụng séc thường
bao gồm ngưới ký phát séc, người hưởng lợi séc và ngân hàng thanh toán séc.
Người phát ra séc để trả nợ gọi là người phát hành séc. Ngân hàng thanh toán là
người trả tiền cho người hưởng lợi tờ séc. Người nhận tiền là người hưởng lợi tờ
séc.
Sau khi séc được phát hành, người có quyền hưởng lợi tờ séc gọi là người cầm
séc. Séc có thể chuyển nhượng cho nhiều người liên tiếp bằng phương pháp ký
hậu trong thời hạn hiệu lực của séc.

Ký hậu có 2 ý nghĩa. Thứ nhất, ký hậu chứng nhận việc chuyển giao
quyền hưởng séc cho một người khác. Thứ hai, ký hậu xác nhận trách nhiệm của
người chuyển nhượng đối với tất cả những người cầm giữ tờ séc sau đó về việc trả
tiền đối với tờ séc. Tuy nhiên người chuyển nhượng séc có thể thoái thác trách
nhiệm này bằng cách ghi thêm một điều kiện về bảo lưu cùng với chữ ký hậu
“không được truy đòi”. Việc ký hậu séc chỉ được thực hiện đối với loại séc theo
lệnh.
d. Phân loại séc
Có thể phân loại séc theo nhiều tiêu chí khác nhau. Thông thường
séc được phân loại dựa trên tính chất chuyển nhượng của nó, căn cứ vào cách
thanh toán séc và căn cứ vào người phát hành séc.
Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng séc được chia làm 4 loại sau đây:
Séc ghi tên là loại séc ghi rõ họ tên người hưởng lợi. Loại séc này không thể
chuyển nhượng bằng thủ tục ký hậu, chỉ có người hưởng lợi được ghi trên séc mới
được lĩnh tiền ở ngân hàng.
Séc vô danh là loại séc không ghi tên người hưởng lợi, chỉ ghi câu
“trả cho người cầm séc”. Bất cứ ai cầm séc này cũng có htể lĩnh tiền ở ngân hàng,
vì vậy không cần qua thủ tục ký hậu séc vẫn có thể chuyển nhượng bằng hình thức
trao tay. Nếu để mất séc coi như mất tiền. Loại này dùng để nhận tiền mặt.
Séc theo lệnh là loại séc ghi trả theo lệnh của người hưởng lợi ghi trên tờ séc đó.
Trên tờ séc ghi “yêu cầu trả theo lệnh của ông X”. Loại này có thể chuyển nhượng
được bằng thủ tục ký hậu như cách ký hậu của hối phiếu.
Séc theo lệnh nhưng không được chuyển nhượng bằng cách ký hậu là loại séc có
ghi tên người hưởng lợi nhưng ghi thêm điều kiện là không theo lệnh của người
hưởng lợi này. đối với loại séc này, việc chuyển giao cho người khác phải thông
qua xác nhận chuyển nhượng bằng một văn bản kèm theo.
Căn cứ vào cách thanh toán séc có thể chia làm 2 loại:
Séc chuyển khoản là loại séc mà người ký phát séc ra lệnh cho ngân hàng trích
tiền từ tài khoản của mình để chuyển trả sang một tài khoản khác của một người
khác trong hoặc khác ngân hàng. Séc chuyển khoản không thể chuyển nhượng

được và không thể lĩnh tiền mặt được.
Séc tiền mặt: là loại séc mà ngân hàng thanh toán sẽ trả tiền mặt và
người phát hành séc phải chịu rủi ro khi bị mất séc hoặc bị đánh cắp. Người cầm
séc không cần sự ủy quyền cũng lĩnh được tiền.
Căn cứ vào người phát hành séc được chia làm hai loại:
Séc cá nhân: được sử dụng để nhận tiền tại ngân hàng của nhà nhập khẩu. Thuận
lợi cơ bản đối với người nhập khẩu là họ được hưởng lợi cho đến khi séc xuất
trình tại ngân hàng của nhà nhập khẩu. Tuy nhiên, trong trường hợp này nhà nhập
khẩu cũng phải chịu rủi ro khi tỷ giá ngoại tệ tăng. Tuy nhiên séc loại này không
được an toàn khi sử dụng trong thanh toán quốc tế.
Séc bảo chi của ngân hàng hay séc xác nhận: Loại séc này bảo đảm
an toàn hơn trong thanh toán quốc tế và sử dụng thuận lợi hơn.
Ngoài ba cách phân loại séc nêu trên, còn có các loại séc đặc biệt như séc du lịch,
séc gạch chéo, séc tài khoản của người hưởng lợi.
Séc du lịch là loại séc do ngân hàng phát hành và được trả tiền tại bất cứ một chi
nhánh hay đại lý của ngân hàng đó. Ngân hàng phát séc đồng thời cũng là ngân
hàng trả tiền. Người hưởng lợi là khách du lịch có tiền tại ngân hàng phát séc.
Trên séc du lịch phải có chữ ký của người hưởng lợi. Khi lĩnh tiền tại ngân hàng
được chỉ định, người hưởng lợi phải ký tại chỗ để ngân hàng kiểm tra, nếu đúng,
ngân hàng mới trả tiền. Thời gian của séc du lịch có hiệu lực do ngân hàng phát
séc và người hưởng lợi thỏa thuận, có thể có hạn và có thể vô hạn. Trên séc du lịch
có ghi rõ khu vực các ngân hàng trả tiền, ngoài khu vực đó, séc không có giá trị
lĩnh tiền.
Có 2 đặc điểm phân biệt séc du lịch với séc thông thường, đó là séc
có mệnh giá được in trên mặt séc và séc du lịch phải được trả bằng tiền mặt khi
phát hành.
Séc gạch chéo là loại séc trên mặt trước của nó có hai gạch chéo
song song với nhau. Séc gạch chéo không thể dùng để rút tiền mặt, thường được
dùng để chuyển khoản qua ngân hàng. Séc loại này do người hưởng lợi séc gạch
chéo bằng hai cách: (1) Séc gạch chéo thường tức là gạch chéo không tên tức là

giữa hai gạch song song không ghi tên ngân hàng lĩnh hộ tiền và (2) séc gạch chéo
đặc biệt, gạch chéo có ghi tên tức là giữa hai gạch song song có ghi tên một ngân
hàng nào đó. Trong cách ghi này chỉ có ngân hàng đó mới có quyền lĩnh hộ tiền
mà thôi. Gạch chéo không tên có thể trở thành gạch chéo có tên. Ngược lại, gạch
chéo có tên không thể chuyển thành gạch chéo không tên. Mục đích của séc gạch
chéo là tránh dùng séc rút tiền mặt và nếu séc gạch chéo có tên ngân hàng thì có
nghĩa là người hưởng lợi séc chính thức nhờ ngân hàng đó lĩnh hộ tiền cho mình
và chỉ có ngân hàng ấy mà thôi.
Séc tài khoản của người hưởng lợi: Là loại séc mà người hưởng lợi
không muốn ngân hàng trả tiền mặt mà muốn trả bằng chuyển khoản ghi vào tài
khoản của người hưởng lợi với một câu ghi ngang qua tờ séc "Trả vào tài khoản"
hoặc "chỉ ghi vào tài khoản của người hưởng lợi"
2. Thanh toán bằng ủy nhiệm chi hoặc lệnh chi.
Ủy nhiệm chi là lệnh chi do chủ tài khoản lập trên mẫu in sẵn để yêu
cầu ngân hàng hoặc kho bạc nơi mình mở tài khoản, trích một số tiền nhất định từ
tài khoản của mình để trả cho ngưởi thụ hưởng về tiền hàng hóa dịch vụ hoặc
chuyển vào tài khoản khác của chính mình
Với cách sử dụng thuận tiện đơn giản, ủy nhiệm chi được dùng trong
thanh toán các khoản hàng hóa, dịch vụ hoặc chuyển tiền một cách rộng rãi và phổ
biến trong cả nước không phân biệt trong cùng hệ thống hay khác hệ thống ngân
hàng.
Ủy nhiệm chi phải do Khách hàng lập, ký và ngân hàng chỉ căn cứ
vào lệnh đó để trích tiền từ tài khoản khách hàng chuyển trả cho đơn vị thụ hưởng.
Việc Ngân hàng tự động trích tài khoản của khách hàng là không được phép trừ
trường hợp đã có thỏa thuận trước bằng văn bản.
3. Thanh toán bằng ủy nhiệm thu
Ủy nhiệm thu là một thể thức thanh toán được tiến hành trên cơ sở
giấy ủy nhiệm thu và các chứng từ hóa đơn do người bán lập và chuyên đến ngân
hang để yêu cầu thu hộ tiền từ người mua và hang hóa đã giao, dịch vụ cung ứng
ph hợp với những điều kiện thanh toán đã ghi tong hợp đồng kinh tế.

Ủy nhiệm thu được áp dụng phổ biến trong mọi trường hợp với điều
kiện hai bên mua hoặc bán phải thống nhất với nhau và phải thông báo bằng văn
bản cho ngân hang về việc áp dụng thể thức ủy nhiệm thu để ngân hang căn cứ tổ
chức thực hiện thanh toán
4.Thanh toán bằng thư tín dụng
Là hình thức phổ biến hiện nay, đây là hình thức mà Ngân hàng thay
mặt Người nhập khẩu cam kết với Người xuất khẩu/Người cung cấp hàng hoá sẽ
trả tiền trong thời gian qui định khi Người xuất khẩu/Người cung cấp hàng hoá
xuất trình những chứng từ phù hợp với qui định trong L/C đã được NH mở theo
yêu cầu của người nhập khẩu (Mẫu mở L/C được in sẵn do NHNT cấp)
Thông qua hình thức này, người nhập khẩu được tiếp cận với những
chuẩn mực thanh toán quốc tế (hiện hành là: UCP 600 - Các qui tắc và thực hành
thống nhất về Tín dụng chứng từ do Phòng thương mại quốc tế phát hành).
Trong hình thức này, thực chất NH đã đứng ra bảo lãnh thanh toán
cho người nhập khẩu. Vì vậy, NH sẽ đưa ra một số yêu cầu đối với khách hàng
như: Đề nghị ký quỹ, vay vốn Căn cứ vào khả năng thanh toán, uy tín của khách
hàng, NH có thể áp dụng mức miễn, giảm ký quỹ khác nhau do Giám đốc từng địa
bàn NH công bố trong từng thời kỳ cụ thể.
- Ngoài thanh toán bằng L/C, NH còn thực hiện các phương thức
thanh toán khác:
· Nhờ thu D/A (Nhờ thu theo hình thức chấp nhận thanh toán giao
chứng từ)
· Nhờ thu D/P (Nhờ thu theo hình thức thanh toán giao chứng từ)
· Nhờ thu D/OT (Nhờ thu giao chứng từ theo điều kiện khác)
· Hoặc chuyển tiền đi.
5. Thanh toán bằng thẻ ngân hàng
a. Khái niệm
Thẻ ngân hàng là một công cụ thanh toán hiện đại do ngân hàng phát
hành và bán cho các đơn vị, cá nhân để họ sử dụng thanh toán tiền mua hàng hóa
dịch vụ… hoặc rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý hay tại các quầy trả tiền tự

động (ATM).
Ở các nước có nền kinh tế phát triển với công nghệ ngân hàng hiện
đại, thì thẻ thanh toán được sử dụng rất rộng rãi và phổ biến. Ở Việt Nam, yêu cầu
đẩy nhanh công tác thanh toán, mở rộng phạm vi thanh toán cho phù hợp với sự
phát triển nền kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay, mặt khác do sự phát triển
mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng Việt Nam với từng bước trang bị hệ thống thông
tin hiện đại tiên tiến, đã cho phép áp dụng những công cụ thanh toán mới hiện đại
để bổ sung cho những công cụ thanh toán trong nền kinh tế
b. Các loại thẻ ngân hàng
Về hình thức, thẻ thanh toán có thể có nhiều loại khác nhau, trước
mắt ở Việt Nam phát hành và sử dụng hai loại như sau:
+ Thẻ thanh toán (payment card)- còn gọi la thẻ ATM: thẻ thanh
toán dược áp dụng rộng rãi cho mọi khách hàng trong nước và nước ngoài với
điều kiện là khách hàng phải lưu kí tiền vào một tài khoản riêng tại ngân hàng- tức
là phải kí quỹ trước tại ngân hang một số tiền (nhưng được hưởng lãi) và được sử
dụng thẻ có giá trị bằng số tiền kí quỹ đó để thanh toán.
Những khách hàng chủ thẻ đặc biệt, được ngân hàng tin tưởng, được
phép chi vượt số tài khoản của mình trong hạn mức cho phép (thấu chi) – trường
họp này gọi là thẻ ghi nợ (Debt Card). Thẻ ghi nợ chỉ áp dụng cho các doanh nhân,
những người có vị trí và nổi tiếng trong xã hội.
+ Thẻ tín dụng (Credit Card)
Thẻ tín dụng là loại thẻ áp dụng cho những khách hàng có đủ điều
kiện được ngân hàng phát hành thẻ cho vay vốn để thanh toán tiền hàng hóa dịch
vụ. đối với những khách hàng này sẽ được ngân hàng cấp một thẻ tín dụng với một
“hạn mức tín dụng” được ghi vào bộ nhớ của thẻ để thanh toán với người bán -
chủ khoản không nhất thiểt phải có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng phát hành thẻ.
Sau khi sử dụng thẻ khách hàng phải trả nợ góc cho ngân hàng phát hành thẻ trong
thòi gian quy định. Nếu trễ hạn phải trả lãi cho ngân hàng.
6. D ịch vụ ngân hàng điện tử
a. Thương mại điện tử

Thương mại điện tử là khái niệm dùng để chỉ quá trình mua bán một
sản phẩm (hữu hình) hoặc dịch vụ (vô hình) thông qua một mạng điện tử, phương
tiện trung gian phổ biến nhất của thương mại điện tử là internet. Qua môi trường
mạng người ta có thể thiết lập giao dịch thanh toán, mua bán bất cứ sản phẩm gì từ
hàng hóa cho đến dịch vụ, kể cả dịch vụ ngân hàng.
b. Dịch vụ ngân hàng điện tử
Ngân hàng điện tử được hiểu là các nghiệp vụ, các sản phẩm ngân
hàng truyền thống trước đây được phân phối trên các kênh mới như internet, điện
thoại mạng không dây…hiện nay ngân hàng điện tử tồn tại dưới hai hình thức
ngân hàng trực tuyến và mô hình kết hợp giữa ngân hàng thương mại truyền thống
và điện tử hóa các dịch vụ truyền thống.
c. Giới thiệu một số dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
* Dịch vụ ngân hàng tại nhà (Home-banking)
Home-banking là kênh phân phối của ngân hàng điện tử, cho phép
khách hàng thực hiện hầu hểt các giao dịch chuyển khoản với ngân hàng tại nhà,
tại văn phòng công ty mà không cần đến ngân hàng
dịch vụ ngân hàng tại nhà được xây dựng dựa trên hai nền tảng: hệ
thống phần mềm ứng dụng và nền tảng công nghệ web thông qua hệ thống máy
chủ, mạnh internet và máy tính con của khách hàng, thông tin tài chính sẽ được
thiết lập, má hóa trao đổi và xác nhận giữa ngân hàng và khách hàng. mặc dù có
một số điểm khác biệt, nhưng nhìn chung, chu trình sử dụng ngân hàng tại nhà bao
gồm các bước cơ bản sau:
+ Thiết lập kết nối
+ Thực hiện yêu cầu dịch vụ
+ Xác nhận giao dịc, kiểm tra thông tin và thoát khỏi mạng (thông
qua chữ kí điện tử, xác nhận điện tử, chứng từ điện tử…)
Khi giao dịch hoàn tất, khách hàng kiểm tra lại giao dịch và thoát
khỏi mạng, những thong tin chứng từ cần thiểt sẽ được quản lý, lưu trữ và gủi tới
khách hàng khi có yêu cầu.
 Dịch vụ ngân hàng tự động qua điện thoại (phone-banking)

Phone-banking là hệ thống tự động trả lời hoạt động 24/24, khách
hàng nhấn vào các bàn phím trên điện thoại theo mã do ngân hàng quy định trước,
để yêu cầu hệ thống trả lời những yêu cầu thông tin cần thiết.
Khi đăng kí sử dụng dich vụ phone-banking khách hàng sẽ được
cung cấp một mã khách hàng, hoặc mã tài khoản và tùy theo dịch vụ đăng ký,
khách hàng có thể sử dụng nhiều loại dịch vụ khác nhau. Nhìn chung quy trình sử
dụng phone-banking như sau:
- Đăng kí sử dụng dịch vụ: khách hàng phải cung cấp các thông tin
và ký vào hợp đồng đồng ý sử dụng dịch vụ. Sau đó khách hàng được cung cấp hai
số định doanh duy nhất là mã khách hàng và mã khóa truy nhập hệ thống, ngoài ra
khách hàng được cung cấp một mã tài khoản nhằm tạo sự thuận tiện trong giao
dịch cũng như đảm bảo an toàn bảo mật
- Xử lý giao dịch: khi khách hàng quay tới số tổng đài, nhập mã
khách hàng và khóa truy cập dịch vụ, theo lời nhắc trên điện thoại, khách hàng
chọn phím chức năng tương ứng với dịch vụ mình cần thực hiên giao dịch. Khách
hàng có thể thay đổi chỉnh sửa trước khi xác nhận dịch vụ với ngân hàng, chứng từ
giao dịch sẽ được in ra và gửi tới khách hàng khi giao dịch được xử lý xong
Qua phone-baking khách hàng được sử dụng nhiều dịch vụ ngân
hàng như: hướng dẫn sử dụng dịch vụ, giới thiệu thông tin về dịch vụ ngân hàng,
cung cấp thông tin ngân hàng như lãi suất tỷ giá hối đoái, chuyển tiền, thanh toán
hóa đơn và dịc vụ hỗ trợ khách hàng… thực hiện mọi lúc mọi nơi kể cả ngoài giờ
hành chính.
 Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại di động:
Là kênh phân phối sản phẩm dịch vụ ngân hàng qua hệ thống
mạng điện thoại di động. Về qui tắc đây chính là qui trình thông tin được mã
hóa, bảo mật và trao đổi giữa thông tin trung tâm xử lý của ngân hàng và thiết
bị di động của khách hàng
 Internet banking
Cũng là một trong những kênh phân phối các dịch vụ của ngân
hàng, mạng ngân hàng đến nhà, văn phòng, trường học, đến bất kỳ nơi đâu và

đến bất kì lúc nào. với máy tính kết nối internet, bạn sẽ được cung cấp và được
hướng dẫn các sản phẩm, các dich vụ ngân hàng những thắc mắc, góp ý với
ngân hàng và được trả lời sau trong thời gian nhất định. Tuy nhiên với tính chất
bảo mật không cao bằng dich vụ ngân hàng tại nhà, dịch vụ internet banking
còn được cung cấp hạn chế và quá trình xác nhận giao dịch phức tạp hơn.
 Klosk ngân hàng:
Là sự phát triển của dịch vụ ngân hàng hướng tới việc phục vụ
khách hàng với chất lượng cao nhất và thuận tiện nhất trên đường phố sẽ đặt
các trạm làm việc với đường kết nối internet tốc độ cao. Khi khách hàng cần
thực hiện giao dịch hoặc yêu cầu dich vụ, họ chỉ cần truy cập, cung cấp số
chứng nhận cá nhân và mật khẩu để sử dụng dich vụ của hệ thống ngân hàng
phục vụ mình. Đây cũng là hướng phát triển đáng lưu tâm cho các nhà lãnh đạo
ngân hàng thương mại Việt Nam.
III. Thanh toán không dùng tiền mặt đối với sự phát triển của các
ngân hàng thương mại:
Thói quen dùng tiền mặt trong thanh toán chi trả hàng hóa, dịch
vụ của dân cư đã tồn tại từ lâu, mỗi năm phải tốn một khoản chi phí lơn cho
việc vận chuyển, bảo quản, kiểm điếm,… chưa kể thời gian thanh toán rất
chậm. Đây là một lãng phí lớn, trong khi hiện nay ta đang cần vốn để đầu tư và
phát triển. Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng đã khắc phục
được tình trạng đó. Nó không chỉ tiết kiệm cho nền kinh tế, xã hội mà còn là
công cụ thiết thực để điều tiết và thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa và tăng
vòng quay của vốn. Bên cạnh đó thanh toán không dùng tiền mặt còn có ý
nghĩa rất lớn trong sự phát triển của các ngân hàng thương mại:
- Thanh toán không dùng tiền mặt là một trong những dịch vụ
của các ngân hàng thương mại, góp phần đa dạng hóa các loại hình dịch vụ,
giúp thu hút khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh hiệu quả.
- Thanh toán không dùng tiền mặt giúp ngân hàng tập trung
được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Từ đó, ngân hàng có thể sử dụng một
phần nguồn vốn từ tài khoản tiền gửi thanh toán để cho vay, mở rộng việc cấp

tín dụng cho nền kinh tế.
- Đối với các tài khoản tiền gửi thanh toán, lãi suất ngân hàng
phải trả cho số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán là rất thấp, thậm chí một số
nước trên thế giới người gửi tiền không được hưởng lãi trên số dư tài khoản tiền
gửi thanh toán. Vì vậy, ngân hàng có thể lợi dụng việc mở rộng thanh toán
không dùng tiền mặt như một giải pháp hữu hiệu để thay đổi cơ cấu nguồn vốn
theo xu hướng tăng tỷ trọng nguồn vốn có chi phí thấp, giảm tỷ trọng nguồn
vốn có chi phí cao theo những biến động thực tế.
- Thêm vào đó, thông qua việc quản lý biến động về số dư trên
tài khoản tiền gửi ngân hàng thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát hoạt
động, khả năng tài chính của các doanh nghiệp. Đây là cơ sở rất quan trọng để
ngân hàng thực hiện nghiệp vụ tư vấn, đầu tư có hiệu quả và quản lý tốt mức độ
rủi ro tín dụng đối với các cá nhân, tổ chức này.
IV Thực trạng hoạt động thanh toán tại các NHTM Việt Nam
1. Thành tựu
Thập kỷ đầu tiên trong thế kỷ 21, thị trường Việt nam đã chứng kiến sự
chuyển biến mạnh mẽ trong thanh toán không dùng tiền mặt với sự ra đời của
nhiều phương tiện và dịch vụ thanh toán mới, hiện đại, tiện ích đáp ứng được
các nhu cầu của người sử dụng với phạm vi tiếp cận mở rộng tới các đối tượng
cá nhân và dân cư. Từ nền tảng thanh toán hoàn toàn thủ công (mọi giao dịch
thanh toán đều dựa trên cơ sở chứng từ giấy) chuyển dần sang phương thức xử
lý bán tự động sử dụng chứng từ điện tử, đến nay các giao dịch thanh toán được
xử lý điện tử chiếm tỷ trọng khá lớn. Thời gian xử lý hoàn tất một giao dịch
được rút ngắn từ hàng tuần như trước đây xuống chỉ còn vài phút (đối với các
khoản thanh toán khác hệ thống, khác địa bàn) và thậm chí chỉ trong vòng vài
giây hoặc tức thời (đối với các khoản thanh toán trong cùng hệ thống, hoặc
cùng địa bàn).
Từ chỗ chỉ có khoảng 135.000 tài khoản vào năm 2000, đến cuối năm 2004
đã tăng gần 10 lần lên 1.297.000 tài khoản và năm 2007 là trên 7 triệu tài
khoản. Tốc độ tăng trung bình mỗi năm từ 130%-150% về số tài khoản và

120% về số dư. Theo Vụ Thanh toán - NHNN, hiện nay, hệ thống thanh toán
điện tử liên ngân hàng đã được thiết lập, kết nối 63 chi nhánh tại các tỉnh, thành
phố. Từ chỗ chỉ có hơn 300 máy ATM (Automatic Teller Machine) và khoảng
7000 POS (Point of Sale) năm 2003, đến cuối tháng 5/2010, cả nước có gần
11.000 máy ATM, hơn 37.000 các điểm chấp nhận thẻ POS được lắp đặt và
trên 24 triệu thẻ với 48 tổ chức phát hành thẻ và hơn 190 thương hiệu thẻ. Hệ
thống ATM, POS đã được kết nối thành một hệ thống trong đó 3 liên minh thẻ
Banknet, Smartlink, VNBC đã kết nối liên thông 10 thành viên là những
NHTM có số lượng thẻ phát hành chiếm 87% tổng số thẻ phát hành của các tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán và 75% số lượng ATM trên toàn quốc.


Nguồn: Báo cáo hàng năm của NHNN và Hiệp hội thẻ ngân hàng

Chiếc thẻ ngân hàng giờ đã mang lại khá nhiều tiện ích khác như chuyển khoản,
thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ tại POS, trả phí định kỳ với các khoản thanh
toán thường xuyên (tiền điện, tiền nước, điện thoại, internet), mua hàng trực
tuyến tại các siêu thị online, Ngoài dịch vụ thẻ, các ngân hàng cũng chú trọng
tới các loại sản phẩm, dịch vụ hiện đại, tiện lợi hơn như ngân hàng điện tử,
ngân hàng tại nhà, DVNH qua điện thoại di động, ví điện tử Các tổ chức
không phải là đơn vị tín dụng chuyên cung cấp các giải pháp trung gian, hỗ trợ
dịch vụ thanh toán như MobiVi, VietUnion, M_Service… đã được hình thành
và ngày càng có sự liên kết chặt chẽ với ngân hàng, công ty viễn thông.

Tỷ trọng thanh toán trong nền kinh tế


Nguồn: Báo cáo hàng năm của NHNN



2. Tồn tại
Tuy nhiên, việc mở rộng và sử dụng tài khoản thanh toán qua ngân hàng
trong khu vực dân cư vẫn còn ở mức khiêm tốn. Tỷ trọng tiền mặt so với tổng
phương tiện thanh toán có xu hướng giảm dần từ mức 23,7% năm 2001 xuống
còn 16.4% năm 2008 nhưng vẫn còn ở cao so với thế giới. Tỷ trọng này ở các
nước phát triển như Thụy Điển là 0,7%; Nauy là 1%, còn ở các nước đang phát
triển như Trung quốc cũng chỉ ở mức 9,7%, còn Thái Lan là 6,3%.
Với số dân khoảng 85 triệu người, 65% dân số có độ tuổi trẻ (dưới 30) và
số người dân Việt nam sử dụng internet là 24,3 triệu người, nhưng tiền mặt vẫn
là phương tiện thanh toán chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực doanh nghiệp và
chiếm đại đa số trong các giao dịch thanh toán của khu vực dân cư. Đánh giá
này thể hiện qua khảo sát thực trạng thanh toán năm 2003, kết quả cho thấy: tại
750 doanh nghiệp Việt Nam ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam thì việc sử dụng tiền
mặt trong thanh toán diễn ra như sau:
• Các doanh nghiệp tư nhân có trên 500 công nhân có khoảng 63% số giao
dịch của họ được tiến hành qua hệ thống ngân hàng.
• Những doanh nghiệp có ít hơn 25 công nhân thì tỷ lệ này là 47%.
• Hầu hết các DNNN mới chỉ hơn 80% giao dịch được thực hiện qua ngân
hàng;
• Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân đều sử
dụng 100% tiền mặt để trả lương;
• 82% số hộ kinh doanh vẫn chi trả hàng hoá bằng tiền mặt;
• 72% số hộ kinh doanh tư nhân nộp thuế bằng tiền mặt;
Những con số này cho thấy, những biến chuyển trong hoạt động thanh toán
ở Việt nam dường như vẫn chưa bắt kịp với những biến động nhanh chóng của
toàn bộ nền kinh tế nói chung và của hệ thống ngân hàng nói riêng. Vậy đâu là
những rào cản đối với sự phát triển thanh toán KDTM ở Việt nam.
Một trong các phương tiện thanh toán khá phổ biến hiện nay là
thẻ thanh toán qua giao dịch qua máy ATM, máy POS; tuy số lượng thẻ và máy
do các ngân hàng thương mại phát hành và lắp đặt ngày càng nhiều nhưng tác

dụng giảm tiền mặt vào lưu thông còn rất khiêm tốn. Trong buổi giao lưu với
tiến sĩ Dương Hồng Phương- phó vụ trưởng vụ thanh toán thuộc ngân hàng Nhà
nước cho biết, theo thống kê, khoảng 80% giao dịch qua ATM là để rút tiền
mặt. Theo người dân phản ánh, việc thanh toán tiền mua hang, trả phí dịch vụ
qua máy POS còn rất hạn chế vì không có đủ máy quét cho nhiều loại thẻ của
nhiều ngân hàng khác.
Vậy đâu là những rào cản đối với sự phát triển thanh toán KDTM ở Việt nam.
V Nguyên nhân cản trở sự phát triển dịch vụ thanh toán ở Việt Nam
1) Thứ nhất, thói quen sử dụng tiền mặt của người dân.
Sau đổi mới ngành ngân hàng, toàn bộ những yêu cầu quản lý tiền mặt áp
dụng trước đó được loại bỏ. Tiền mặt trở thành một công cụ thanh toán không
hạn chế về đối tượng và phạm vi sử dụng. Hầu hết chi phí liên quan đến tiền
mặt trong lưu thông như in ấn, phát hành, thu huỷ, vận chuyển, bảo quản, an
ninh là chi phí xã hội và do Nhà nước phải chịu. Cá nhân người thanh toán chỉ
phải chịu phần chi phí nhỏ trong đó (kiểm đếm, vận chuyển), trong khi đó tiền
mặt có điểm ưu việt rất lớn là thanh toán tức thời và vô danh, thủ tục đơn giản.
Vì vậy, tiền mặt đã trở thành một công cụ rất được ưa chuộng trong thanh toán
và từ lâu đã trở thành thói quen khó thay đổi của người tiêu dùng và nhiều
doanh nghiệp Việt nam. Đây là lực cản lớn trong việc phát triển thanh toán
không dùng tiền mặt.
Đến nay, tỷ lệ đơn vị hưởng lương từ NSNN thực hiện trả lương qua tài
khoản là 45,5% nhưng thực tế là có không ít tài khoản mà thời gian số dư tồn
tại trên tài khoản chỉ tính bằng giờ không chỉ bởi họ cần rút tiền để tiêu xài mà
vẫn còn tâm lý “để tiền trong tài khoản ngân hàng thì không yên tâm”. Còn
không ít người dân cho rằng, cứ phải tiền trong tay mới là tiền của mình, còn để
trong tài khoản thì không biết thế nào. Trong mua sắm cũng vậy, phần đông
người mua và người bán vẫn quen thực hiện theo phương thức “tiền trao cháo
múc”, vì người tiêu dùng lo ngại khi mua hàng qua mạng có thể sẽ mua phải
sản phẩm không dùng được hoặc chất lượng không đạt như mong muốn hoặc
thậm chí là không nhận được hàng hoá mặc dù tiền đã được chuyển khoản,

trong khi pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng của Việt nam vẫn chưa thực sự
hiệu quả. Thói quen này cộng với tâm lý ngại công khai hoá thu nhập, doanh
thu đang cản trở, hạn chế phát triển thanh toán KDTM ở Việt nam.
Ngoài ra, niềm tin của người dân vào chiếc máy ATM cũng còn thấp sau không
ít những vụ việc mất an ninh, giao dịch lừa đảo nên người dân cũng ngại thực
hiện các giao dịch trên máy ATM mà khoảng 80% giao dịch qua ATM là để rút
tiền mặt và cũng vì thế chiếc máy ATM ở Việt nam được gọi là máy rút tiền tự
động trong khi bản chất của ATM là máy giao dịch tự động.
2) Thứ hai, những bất cập trong hành lang pháp lý
Như trên đã phân tích, sau khi thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế nói
chung, đổi mới hoạt động ngân hàng nói riêng thì tất cả những quy định về
quản lý tiền mặt đã từng được sử dụng trước đó đều bị loại bỏ hoặc các văn bản
quy phạm pháp luật mới ban hành nhưng không đi vào cuộc sống. Tiền mặt
nghiễm nhiên trở thành một công cụ thanh toán không hạn chế về đối tượng và
phạm vi sử dụng. Do vậy, tình trạng nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam đã kéo dài
trong nhiều năm là do không có một hành lang pháp lý ngay từ đầu; Nhà nước
không quản lý và cũng không kiểm soát việc thanh toán giữa các doanh nghiệp,
tổ chức kinh tế và giữa các tầng lớp dân cư với nhau, vô hình chung đã tạo cho
kinh tế “ngầm” phát triển.
Thời gian qua, mặc dù hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán đã cải
thiện khá nhiều song vẫn chưa đầy đủ và đồng bộ, đặc biệt là những vấn đề liên
quan đến thanh toán điện tử và thương mại điện tử. Luật Giao dịch điện tử đã
được Quốc hội thông qua ngày 19/11/2005 nhưng vẫn chưa đủ cơ sở để các
ngân hàng tổ chức triển khai các kênh giao dịch điện tử vì chưa tạo được một
cơ chế tổng hợp điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử trong ngành ngân
hàng, chưa có sự chấp nhận đồng bộ giao dịch điện tử, chứng từ điện tử giữa
các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan (như Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải
quan,…). Hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến lĩnh vực thanh toán vẫn còn
những điểm cần phải tiếp tục được chỉnh sửa, thay thế để có thể phù hợp với
thông lệ quốc tế và nhu cầu của người sử dụng, để cả các loại hình tổ chức cung

ứng dịch vụ thanh toán không phải là ngân hàng, các tổ chức công nghệ thông
tin cung ứng những sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ cho các ngân hàng, các tổ chức
làm dịch vụ thanh toán, chẳng hạn như những công ty cung cấp giải pháp công
nghệ qua mạng Internet, các công ty kinh doanh dịch vụ thẻ, các tổ chức chuyên
làm dịch vụ thanh toán bù trừ.
Gần đây, để đẩy mạnh hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, Chính
phủ đã có văn bản chỉ đạo các cơ quan chức năng xem xét xây dựng phương án
miễn giảm thuế và phí cho những trường hợp thanh toán qua thẻ tín dụng. Song,
vấn đề đặt ra là nên miễn giảm những loại thuế nào và giảm bao nhiêu để cả
người tiêu dùng và doanh nghiệp được hưởng lợi khi giao dịch qua thẻ ATM.
Hệ thống pháp lý bảo vệ thông tin cá nhân vẫn còn thiếu những quy định, chế
tài cụ thể về bảo vệ đối tượng sử dụng thương mại điện tử (TMĐT). Nhìn
chung, việc phát triển TMĐT ở Việt Nam hiện còn mang tính tự phát, đầu tư
cho TMĐT ở mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào tầm nhìn, quan điểm của lãnh
đạo doanh nghiệp, có nhiều cá nhân, doanh nghiệp thành lập những website
TMĐT để giành vị thế tiên phong, tuy nhiên, tình hình chung là các website này
chưa thực sự được marketing tốt và phát triển tốt để mang lại lợi nhuận kinh tế
đáng kể. Hơn nữa, thực tế hiện nay, có những website bán hàng trực tuyến khá
uy tín và hoạt động mua bán trên mạng cũng khá phát triển nhưng vẫn chỉ mang
tính tự phát, manh mún do chưa có những chế tài để xử lý đối với các hành vi
gian lận khi tham gia TMĐT, khi mua bán hàng hóa qua mạng, nên khi xảy ra
tranh chấp, gian lận, người mua là người phải chịu thiệt.
3) Thứ ba, những hạn chế của các sản phẩm dịch vụ được cung cấp
Bên cạnh những bất cập về hệ thống pháp lý và thói quen sử dụng tiền mặt
của người dân, kinh phí để thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt cũng là
vấn đề không nhỏ đối với các ngân hàng. Thực tế cho thấy, đầu tư một máy
ATM hiện quá tốn kém mà phí bù đắp lại quá ít. Đơn cử, với mỗi chiếc máy
ATM, ngoài chi phí lắp đặt, duy trì thiết bị, thuê địa điểm thuận lợi, chi phí an
ninh… và số tiền nạp trong máy, ngân hàng phải dự trự một lượng vốn tiếp với
tổng số tiền lên tới 500 triệu đồng/máy. Số tiền này sau khi nhân với tổng số

máy ATM sẽ là không nhỏ và đây lại là số vốn không sinh lời cho ngân hàng, vì
thế, có thể gây khó khăn cho vốn lưu động của ngân hàng, đặc biệt trong những
thời điểm ngân hàng đang “khát vốn”. Chính vì lý do này, nhiều chi nhánh hiện
không dám nhận triển khai Auto-bank mà lại trả về trung tâm thẻ của ngân
hàng.
Chất lượng, tiện ích và tính đa dạng về dịch vụ thanh toán KDTM cũng chưa
phong phú, chưa đáp ứng nhu cầu của nhiều loại đối tượng sử dụng. Các
phương tiện thanh toán KDTM chưa đạt được tính tiện ích và phạm vi thanh
toán để có thể thay thế cho tiền mặt. Phương thức giao dịch chủ yếu tiếp xúc
trực tiếp và mặt đối mặt. Để được nhận một sản phẩm dịch vụ của ngân hàng,
các chủ thể tham gia thường phải đến các điểm giao dịch của ngân hàng.
Phương thức giao dịch từ xa, dựa trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại
như giao dịch qua internet, qua mobile, homebanking chưa phát triển hoặc
mới chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ hẹp;
Tính cạnh tranh trên thị trường dịch vụ vẫn ở mức thô sơ và phát triển dưới
mức tiềm năng. Cạnh tranh bằng thương hiệu, chất lượng dịch vụ chưa phổ
biến. Các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, thay vì sáng tạo ra sản phẩm
mới hoặc tạo ra giá trị gia tăng trên sản phẩm cùng loại trên thị trường lại tập
trung vào yếu tố giá cả nhằm đánh bại đối thủ cạnh tranh. Điều đó không chỉ
làm tổn hại chính lợi nhuận của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán mà
còn tổn hại tới sự gắn kết chính bản thân họ và khách hàng. Hơn nữa, khi cạnh
tranh bằng giá, các tổ chức cung ứng dịch vụ sẽ tìm mọi cách giảm giá thay vì
phải tăng chất lượng dịch vụ và cải tiến phương thức phục vụ, tạo ra sự khác
biệt về sản phẩm dịch vụ và điều này sẽ hạn chế sự phát triển thị trường này.
Khi khách hàng không nhận thấy sự khác nhau, họ sẽ dễ dàng từ bỏ một sản
phẩm dịch vụ để chuyển sang sản phẩm khác chỉ đơn giản vì phí rẻ hơn, và như
vậy, các tổ chức cung ứng sẽ rất khó duy trì được cơ sở khách hàng của mình.
4) Thứ tư, những hạn chế về hạ tầng kỹ thuật
Một trở ngại không nhỏ nữa đối với quá trình thúc đẩy thanh toán KDTM là
sự thiếu thống nhất trong hệ thống các thiết bị tiếp nhận thẻ tại Việt Nam.

Người dùng thẻ thanh toán tại Việt Nam gặp khó khăn do hệ thống chấp nhận
thẻ của các ngân hàng chưa có sự liên thông đầy đủ. Thực tế hiện nay ở một số
trung tâm mua sắm và siêu thị có trang bị POS nhưng lượng khách thanh toán
qua thẻ chỉ đếm trên đầu ngón tay bởi các máy POS này chỉ chấp thẻ VISA và
Master chứ chưa dùng được cho các thẻ nội địa, vì thế gây bất tiện cho người
dùng cũng như lãng phí trong đầu tư. Có một thực tế trong nhiều năm trước
đây, cơ sở vật chất của nhiều NHTM còn nhiều yếu kém do không có nhiều vốn
để đầu tư trang bị máy móc thiết bị và công nghệ nên khi thực hiện công tác
thanh toán giữa các tổ chức kinh tế thường chậm trễ, ảnh hưởng đến chu chuyển
vốn của nền kinh tế nói chung và từng doanh nghiệp, cá nhân nói riêng, vì vậy
họ lựa chọn phương thức thanh toán bằng tiền mặt.
Thời gian gần đây, trước sự đòi hỏi của thị trường và cạnh tranh
trong dịch vụ ngân hàng, tình hình đầu tư và ứng dụng công nghệ thông tin
trong ngành ngân hàng đã được cải thiện. Tuy nhiên, vì trong phát triển hoạt
động thanh toán, vốn đầu tư đòi hỏi rất lớn mà thời gian thu hồi lại lâu mà hiệu
quả đầu tư cũng chưa đạt hiệu quả như mong muốn, nên thường các ngân hàng
lớn mới có khả năng tập trung vốn đầu tư trang thiết bị phục vụ hoạt động thanh
toán.
Trước hết, hạ tầng cơ sở kỹ thuật phục vụ cho hoạt động thanh
toán phát triển chưa đồng bộ, mới tập trung ở các đô thị, chưa vươn đến các
vùng nông thôn, miền núi; hệ thống POS chưa phát triển và thiếu hệ thống
chuyển mạch, dịch vụ cho hệ thống ATM còn nghèo nàn, vẫn chủ yếu là để rút
tiền mặt. Số lượng máy ATM tuy có tăng, nhưng số lượng phân bổ chủ yếu ở
các thành phố lớn, các khu công nghiệp. Vẫn còn tình trạng tại các trung tâm
thương mại hay siêu thị lớn, khách hàng có trong tay thẻ tín dụng nhưng thay vì
sử dụng thẻ tín dụng, thì lại ra các máy ATM rút tiền để thanh toán bởi họ chưa
nhận thấy cái lợi của việc thanh toán qua thẻ tín dụng. Hay tình trạng một đơn
vị chấp nhận thẻ cùng tồn tại nhiều thiết bị POS của các ngân hàng khác nhau
để phục vụ cho các giao dịch bằng thẻ gây lãng phí trong đầu tư của các ngân
hàng và khiến đơn vị chấp nhận thẻ cũng chưa mặn mà với việc thanh toán

bằng thẻ. Điều này thu hẹp đáng kể phạm vi sử dụng các phương tiện thanh
toán KDTM. Việc giao dịch thanh toán giữa các doanh nghiệp, các hộ sản xuất
kinh doanh cá thể và cá nhân ngay tại các đô thị vẫn còn phổ biến chuyện dùng
tiền mặt. Trong khi đó, việc phổ biến, hướng dẫn, quảng bá về công dụng, tính
tiện lợi và cách sử dụng các phương tiện thanh toán KDTM của các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán chưa đầy đủ, kịp thời tới công chúng.
5) Thứ năm, công tác thông tin tuyên truyền chưa được quan tâm, chú
trọng và định hướng đúng đắn.
Những mục tiêu chiến lược, định hướng và các chính sách lớn để phát triển
hoạt động thanh toán chưa được công bố đầy đủ cho công chúng. Vì vậy, không
chỉ người dân mà thậm chí nhiều doanh nghiệp còn rất ít hiểu biết hoặc hiểu
biết mơ hồ về các dịch vụ thanh toán và phương tiện thanh toán KDTM. Ngoài
ra, các phương tiện thông tin đại chúng đôi khi còn phản ánh thiên lệch, khai
thác những yếu điểm, lỗi kỹ thuật hoặc những yếu tố tiêu cực mang tính cá biệt
để đưa lên công luận, khiến cho thông tin đến với những người tiêu dùng
thường một chiều, thậm chí sai lạc, gây mất lòng tin vào một công cụ thanh
toán nào đó ngay từ khi mới bắt đầu phát triển.
Một điểm hạn chế nữa là thanh toán không dùng tiền mặt chưa
phát triển rộng do dịch vụ bán hàng online quảng cáo sản phẩm hiện nay còn
chưa thực sự tương xứng với túi tiền bỏ ra. Vô hình chung những vấn đề này đã
khiến khách hàng quay lại với thói quen tiêu dùng cố hữu là sử dụng tiền mặt
để thanh toán khi mua hàng.
VI Giải pháp phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
1.Đối với ngân hàng thương mại
Có nhiều nguyên nhân làm chậm tiến độ việc triển khai hệ thống
thanh toán không dùng tiền mặt hiện tại, có nhiều lý do khác nhau. Nhưng theo
tôi vấn đề hiện tại cơ bản đang làm chậm tiến độ của việc triển khai hệ thống
thanh toán không dùng tiền mặt nằm ở định hướng phát triển và hợp tác giữa
các NHTM. Thể hiện qua những yếu tố sau:
- Chậm trễ trong việc kết nối hệ thống thanh toán thống nhất giữa

các Ngân hàng Thương mại: Chúng ta biết rằng, đối tượng cung cấp dịch vụ
ngân hàng tới các cá nhân, tổ chức chính là các ngân hàng thương mại, nếu
không tạo ra một hệ thống kết nối thanh toán thống nhất giữa các Ngân hàng
thương mại thì sẽ gây khó khăn và bất tiện cho người sử dụng dịch vụ ngân
hàng khi phải mở nhiều tài khoản tại các Ngân hàng khác nhau. Các Ngân hàng
nên bắt tay nhau để tạo ra thị trường lớn hơn để cùng khai thác thay vì cạnh
tranh nhau trên thị phần còn nhỏ bé. Nếu Việt Nam thực hiện việc thanh toán
không dùng tiền mặt thành công như ở các nước phát triển theo tôi nghĩ sẽ
không thiếu dịch vụ và không thiếu khách hàng cho tất cả các Ngân hàng hiện
tại với thị trường Việt Nam có tới gần 90 triệu dân. Các trở ngại về công nghệ,
năng lực theo tôi sẽ không phải là vấn đề lớn nếu các Ngân hàng TM chủ chốt
thực sự muốn đẩy nhanh tiến độ kết nối hệ thống thanh toán.
- Cần phải thay đổi cách nhìn về phát triển các dịch vụ thanh toán
hiện tại: Theo tôi được biết thì hầu hết các Ngân hàng tại Việt Nam hiện nay
đều bị thua lỗ trong mảng kinh doanh thẻ và trong tương lai nếu vẫn tiếp tục
triển khai như hiện tại thì sẽ tiếp tục bị lỗ, Các ngân hàng thương mại đang chạy
đua trong việc mở rộng mạng lưới và phát triển hệ thống máy ATM nhưng việc
phát triển này vừa gây ra lãng phí lại không hiệu quả. Ví dụ như ở thị trường Đà
nẵng có tới gần 900 ngàn dân mà có gần bằng ngần đó thẻ ATM được phát
hành, số thẻ ATM thực sự được sử dụng theo tôi chỉ khoảng vài chục ngàn
người, việc phát triển hệ thống thẻ ATM chưa giải quyết được triệt để vấn đề
thanh toán không dùng tiền mặt vì khi người dân rút tiền từ thẻ ATM họ sẽ lại
dùng tiền mặt để thanh toán, hiện tại các NH Thương mại mới kết nối hệ thống
máy ATM thống nhất. Trong khi, điều cần phát triển nhất là các máy POS thì
các ngân hàng thương mại chưa thực sự chú trọng, chi phí một máy POS chỉ
khoảng vài triệu và có thể giảm xuống vài trăm ngàn ( nếu trong nước sản xuất
hoặc chính phủ hỗ trợ ), nếu các máy POS đó được đặt khắp mọi nơi từ các chợ,
siêu thị, cơ quan trường học và với một hệ thống POS được kết nối thống nhất
giữa các ngân hàng thì sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho người dân trong việc
thanh toán không dùng tiền mặt. Máy POS không những có đăc điểm chi phí rẻ,

dễ sử dụng, nhỏ gọn và dùng được các chức năng, thanh toán, truy vấn số dư
- Các sản phẩm được thiết kế còn bất tiện và hạn chế trong việc sử
dụng thanh toán không dùng tiền mặt. Tuy rằng hầu hết các NH thương mại đã
thay Corebanking mua ở nước ngoài nhưng các sản phẩm tiền gửi thiết kế vẫn
theo hình thức cũ. Tôi lấy ví dụ như các ngân hàng thiết kế sản phẩm tiền gửi
tiết kiệm có kỳ hạn. Mỗi lần gửi tiền thì Ngân hàng lại cấp cho một quyển sổ
tiết kiệm mới, việc rút bớt một phần hoặc nộp tiền vào sổ người dân lại phải tới
ngân hàng, ký tá rất nhiều thủ tục và giấy tờ, việc chuyển tiền từ tiền gửi tiết
kiệm sang tiền gửi thanh toán không thuận tiện và vẫn phải tới ngân hàng. Ví
dụ mở một tài khoản tại Canada có thể dùng nhiều sản phẩm tiền gửi thanh toán
và tiền gửi tiết kiệm khác nhau. Tuy nhiên chỉ cần duy nhất một thẻ ATM và số
tài khoản có thể kiểm tra toàn bộ các sản phẩm mình có thông qua thẻ ATM và
E-banking, chuyển, rút tiền đơn giản thông qua máy ATM hoặc E-banking và
khi giao dịch không phải mang theo bất cứ giấy tờ nào.
- Các NHTM chưa mạnh dạn trong việc triển khai E- banking.
Khi thực hiện giao dịch E-banking tại các NHTM tại VN thường phải nhập tới
3 vòng mật khẩu, kèm theo phải sử dụng các thiết bị bảo mật, trong khi đó tại
Canada chỉ cần nhập 1 vòng mật khẩu để sử dụng dịch vụ, hỏi vấn đề này tại
các ngân hàng ở Canada thì họ nói là nếu có hacker hoặc bị người khác lợi dụng
thì khi người bị hại thông báo họ sẽ phối hợp với ngân hàng bạn để trả lại số
tiền cho người bị hại và cơ quan an ninh sẽ phối hợp điều tra để bảo vệ quyền
lợi của người gửi tiền.
2.Đối với NHTW
Về phía Chính phủ và Ngân hàng nhà nước cũng đã rất tích cực
trong việc đẩy nhanh việc thanh toán không dùng tiền mặt. Cụ thể:
Về phía Chính Phủ và NHNN cũng đã có những hành động cụ thể
để đẩy nhanh việc triển khai hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt tại VN.
Về phía Chính phủ và NHNN đã ban hành các văn bản:
- Đề án Thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2010 và
định hướng đến 2020 theo Quyết định số 291/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng

Chính phủ.
- Nghị định 161/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 Quy định thanh
toán bằng tiền mặt; Chỉ thị 20/2007/CT-TTg về việc trả lương qua tài khoản
cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước; Quyết định về Séc, về
Nhờ thu Hối phiếu qua người thu hộ, về Thẻ ngân hàng…
- Ngân hàng NH là đơn vị chủ trì, đứng ra để yêu cầu các NHTM
thực hiện việc kết nối hệ thống thanh toán thẻ ATM
- Đồng thời NHNN cũng đã thực hiện triển khai hệ thống thanh
toán bù trừ, thanh toán điện tử liên ngân hàng
Tuy nhiên, NHNN nên có vai trò định hướng cho các NHTM
trong việc phát triển hệ thống POS và kết nối hệ thống này, đẩy nhanh tiến độ
kết nối hệ thống máy POS. Chính phủ có thể hỗ trợ một phần tiền nếu các đơn
vị sử dụng máy POS để giảm chi phí máy POS tại VN xuống, Việt Nam nên có
một chiến dịch để thực hiện triển khai đồng loạt việc trang bị và sử dụng hệ
thống máy POS tại các cơ sở thanh toán ( cơ quan, siêu thị, chợ, cửa hàng )
đồng thời có chiến dịch truyền thông và phối hợp với các NH Thương mại tổ
chức hệ thống đào tạo người dân sử dụng máy POS và các dịch vụ thanh toán
không dùng tiền mặt khác của Ngân hàng, Các ngân hàng thương mại cũng nên
có trung tâm và phương án để xử lý các sự cố liên quan tới việc khách hàng sử
dụng dịch vụ thẻ thanh toán của NH TM.
3.Sản phẩm khác
Để tạo thói quen thanh toán cho người dân, ngay bản thân các đơn
vị trung gian cung cấp dịch vụ (đơn vị bán hàng qua mạng; kênh quảng cáo về
sản phẩm…) cũng cần phải nhận thức rõ và có trách nhiệm với vấn đề này. các
đơn vị bán hàng và cung cấp dịch vụ phải sử dụng POS trong hoạt động thanh
toán.



KẾT LUẬN

Như vậy, có thể thấy rằng, phát triển thanh toán KDTM không chỉ là vấn đề
của ngành ngân hàng bởi thực chất ngân hàng chỉ là tổ chức trung gian. Thanh
toán KDTM chỉ có thể thực hiện được khi các chủ thể thanh toán mở tài khoản
tiền gửi thanh toán tại ngân hàng. Việc mở tài khoản này lại phụ thuộc vào thu
nhập và nhu cầu thanh toán của chính chủ thể thanh toán nhưng nhu cầu này,
thói quen này chỉ có được khi các chủ thể nhìn thấy những tiện ích, những
thuận lợi trong thanh toán KDTM mà điều này có được hay không lại nhờ vào
hệ thống ngân hàng. Tất nhiên, chỉ riêng những nỗ lực của hệ thống ngân hàng
thì không thể đẩy nhanh thanh toán KDTM trong nền kinh tế mà cần và rất cần
có hỗ trợ của Chính phủ để có những chủ trương quyết liệt hơn, những chủ
trương mang tính chất bắt buộc phải triển khai đồng bộ trên diện rộng tại tất cả
các tổ và phải giám sát chặt chẽ việc thực hiện. Đồng thời, cũng cần áp dụng
các mức phí ưu đãi đối với các tổ chức sử dụng hình thức thanh toán KDTM
nhằm tạo ra sự chênh lệch với nơi sử dụng tiền mặt. Bên cạnh đó, cần tổ chức
tuyên truyền rộng rãi lợi ích của thanh toán KDTM là nhiệm vụ không chỉ một
mình các ngân hàng mà vấn đề này là công tác chung của các bộ ngành, cộng
đồng xã hội, doanh nghiệp đang tổ chức bán hàng điện tử thanh toán online. Có
như vậy mới thay đổi được thói quen sử dụng tiền mặt của người dân, mới thay
đổi được tư duy “rút tiền mặt từ ATM để thanh toán tiền hàng” và từng bước
xây dựng văn hoá thanh toán KDTM trong quảng đại dân chúng.


×