Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư gan nguyên phát được điều trị bằng phương pháp xạ trị trong chọn lọc với hạt vi cầu phóng xạ y 90 tại bệnh viện bạch mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 87 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Khối u ác tính tại gan có thể là ung thư gan nguyên phát hoặc ung thư từ
nơi khác di căn gan. Ung thư gan hay ung thư biểu mô tế bào gan là khối u
xuất phát từ tế bào nhu mô gan. Ung thư gan là loại ung thư phổ biến hàng
thứ 5 trên thế giới và đứng thứ 4 trong các nguyên nhân gây tử vong do ung
thư ở người. Tại Việt Nam, theo cơ quan ghi nhận ung thư quốc tế được công
bố trên GLOBOCAN 2012, tỷ lệ mắc UT gan chuẩn theo tuổi ở nam giới là
40,2/100.000 dân, phổ biến đứng hàng thứ 2, ở nữ giới là 10,9/100.000 dân,
phổ biến đứng hàng thứ 3.
Có nhiều phương pháp điều trị bệnh ung thư gan, thùy thuộc vào thể
trạng người bệnh, kích thước khối u, tình trạng di căn hạch, di căn xa, huyết
khối tĩnh mạch cửa, xơ gan, dịch ổ bụng… mà thầy thuốc lựa chọn phương
pháp điều trị phù hợp cho người bệnh. Phẫu thuật đóng vai trò chủ đạo trong
điều trị căn bệnh này ở giai đoạn khu trú. Ngoài ra có thể sử dụng các phương
pháp khác như nút mạch, đốt sóng cao tần, tiêm cồn, xạ trị, hóa trị triệu
chứng, điều trị đau và giảm nhẹ triệu chứng, điều trị đích, nút mạch vi cầu
phóng xạ. Mỗi phương pháp có những ưu điểm và chỉ định riêng.
Tuy nhiên với những ung thư gan giai đoạn muộn: khi đã có huyết khối
tĩnh mạch cửa, các phương pháp can thiệp như phẫu thuật, nút mạch hóa chất
hoặc đốt sóng cao tần không còn được chỉ định, thì vẫn còn một phương pháp
mang lại hi vọng cho các bệnh nhân: nút mạch u gan bằng hạt vi cầu phóng xạ
90

Y. Phương pháp nút mạch bằng hạt vi cầu phóng xạ 90Y là phương pháp mới,

có hiệu quả được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới trong 20 năm nay. Tại
Việt Nam phương pháp này lần đầu tiên được áp dụng vào tháng 10 năm 2013
tại Bệnh viện Trung ương quân đội 108 và Bệnh viện Bạch Mai. Cho đến nay
đã có hơn hàng chục bệnh nhân ung thư gan và ung thư di căn gan được điều




2

trị bằng phương pháp này. Vì vậy tôi tiến hành nghiên cứu“Nghiên cứu đặc
điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư gan nguyên phát
được điều trị bằng phương pháp xạ trị trong chọn lọc với hạt vi cầu phóng
xạ Y-90 tại Bệnh viện Bạch Mai”với hai mục tiêu chính sau:
1. Nhận xét đặc điểm điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân
ung thư gan nguyên phát được điều trị bằng phương pháp xạ trị
trong chọn lọc với hạt vi cầu phóng xạ Y-90 tại Bệnh viện Bạch Mai
2. Xác định liều điều trị Y-90


3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Tình hình dịch tễ
Ung thư biểu mô tế bào gan là loại bệnh thường gặp chiếm khoảng 5,67,2% các loại ung thư, đứng hàng thứ 5 về tần suất gặp và hàng thứ 3 về số tử
vong hàng năm trong các loại ung thư với hơn 500000 người chết mỗi năm
[1]. Năm 2012, ước tính có thêm 782000 ca mới mắc và 746000 người bệnh
tử vong do ung thư biểu mô tế bào gan [1].
Tại Việt Nam, ung thư gan đứng thứ 2 ở nam giới và đứng thứ 3 ở nữ
giới về tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong rất cao, đứng thứ nhất ở cả hai giới.
Trung bình mỗi năm tại nước ta ghi nhận gần 22000 ca ung thư gan mới mắc
và gần 21000 ca tử vong [2].
1.2. Các yếu tố nguy cơ
Có nhiều yếu tố nguy cơ của UTBMTBG tuy nhiên các yếu tố nguy
cơ chính là viêm gan virus mạn tính (viêm gan B và viêm gan C).

* Viêm gan B: Một số nghiên cứu về dịch tễ học đã chứng minh có mối
quan hệ chặt chẽ giữa tỷ lệ ung thư gan và nhiễm virus viêm gan B mạn ở
người. Một nghiên cứu ở Đài Loan từ những năm 1980 trên 22708 người theo
dõi sau 8,9 năm cho thấy tỷ lệ mắc ung thư gan ở những người mang virus
viêm gan B cao gấp 98,4 lần so với người không mang[3]. Nghiên cứu của
Đào Văn Long và cộng sự năm 1993 trên 114 người bệnh UTBMTBG cho
thấy tỷ lệ nhiễm HBV là 70,4% [4].
* Viêm gan C: Tỷ lệ nhiễm virus viêm gan C thay đổi nhiều theo các
vùng khác nhau. Ở Nhật Bản, kháng thể kháng HCV (anti-HCV) có thể được
phát hiện ở tới 90% bệnh nhân ung thư gan [5]. Nguy cơ ung thư gan cao gấp


4

17 lần ở bệnh nhân có HCV dương tính so với người bình thường và khoảng
60-80% bệnh nhân HCV dương tính có xơ gan[5].
* Xơ gan: Mối liên quan giữa xơ gan và HCC đã được thấy từ lâu. 7080% HCC phát triển trên nền xơ gan[6]. Xơ gan do các nguyên nhân khác
nhau được coi là yếu tố tiền ung thư. Tỷ lệ phát sinh ung thư gan hàng năm
trên người bệnh xơ gan là 1-6%[7]. Ở châu Âu, nguyên nhân xơ gan chủ yếu
do rượu, còn lại ở châu Á, châu Phi nguyên nhân chủ yếu là do viêm gan B,
trong khi viêm gan C là nguyên nhân hàng đầu gây xơ gan ở Nhật Bản và các
nước phương Tây [6, 8].
* Các yếu tố nguy cơ khác: gồm nghiện rượu, bệnh lí gan nhiễm mỡ
không do rượu[9], nghiện thuốc lá[10], phơi nhiễm aflatoxin[11], các yếu tố
môi trường...
1.3.Triệu chứng lâm sàng
a. Triệu chứng cơ năng:
Bệnh nhân có thể hoàn toàn không có triệu chứng gì, chỉ phát hiện ung
thư gan khi đi khám định kì, hoặc tình cờ siêu âm ổ bụng phát hiện khối u
gan. Giai đoạn này bệnh nhân cũng có thể chỉ gặp các triệu chứng không đặc

hiệu như mệt mỏi, ăn kém, đầy bụng, đau tức hạ sườn phải, sốt nhẹ…
Giai đoạn muộn hơn, các triệu chứng thường gặp cũng không đặc hiệu
giống các bệnh ung thư nói chung, như gầy sút cân nhiều, mệt mỏi nhiều, ăn
kém, chướng bụng, ỉa chảy, đau hạ sườn phải, khối u to chèn ép hay di căn
gây khó thở.
b.Triệu chứng thực thể:
Ở giai đoạn đầu, có thể không phát hiện được triệu chứng nào trên bệnh
nhân.Giai đoạn sau có thể phát hiện gan to với đặc điểm bờ không đều, mật
độ chắc, ấn có thể đau, nghe có thể thấy tiếng thổi do tăng sinh mạch. Triệu


5

chứng khác hay gặp là cổ chướng, thường là cổ chướng dịch tiết hay dịch
máu, có thể tìm thấy tế bào ung thư trong dịch cổ chướng.Tuần hoàn bàng hệ,
xuất huyết tiêu hóa khi u xâm lấn chèn ép mạch cửa. Vàng da khi suy gan hay
u chèn ép đường mật.Gầy sút cân, thể trạng gầy, hạch thượng đòn cũng có thể
gặp khi ung thư ở giai đoạn muộn, di căn[12]
1.4.Cận lâm sàng
1.4.1 Xét nghiệm
Alpha Fetoprotein (AFP)
AFP là một protein bào thai. Bình thường, sau khi sinh, nồng độ AFP
giảm thấp, chỉ còn một lượng nhỏ khoảng dưới 10 ng/ml do gan niêm mạc
đường tiêu hóa sản xuất. AFP cao ở bệnh nhân ung thư gan, xơ gan và suy
gan. Việc sử dụng AFP để chẩn đoán UTBMTBG và giá trị ngưỡng của
AFP dùng cho chẩn đoán UTBMTBG còn chưa thống nhất. Theo khuyến
cáo của Hội gan mật châu Âu 2012, AFP đã không còn được sử dụng trong
chẩn đoán UTBMTBG [13]. Tuy nhiên, do hạn chế về phương tiện chẩn
đoán hình ảnh, tại Việt Nam, AFP vẫn được sử dụng như một chất chỉ điểm
u để sàng lọc và chẩn đoán UTBMTBG nhằm tránh bỏ sót các trường hợp

mà các phương pháp chẩn đoán hình ảnh thông thường chưa phát hiện
được. Các giá trị ngưỡng thường được sử dụng là 200 ng/ml và 400
ng/ml[14].Ngoài ra, AFP còn có giá trị trong việc theo dõi, đánh giá điều trị
và tiên lượng UTBMTBG[15], [16].
AFP có thể được chia thành 3 thể khác nhau là AFP-L1 ,AFP-L2,AFPL3 dựa trên sự khác nhau về ái tính với lectin. Trong đó AFP-L1 gần như
không có ái tính với lectin là dạng chủ yếu trong huyết thanh những người
bệnh có bệnh gan lành tính. Ngược lại AFP-L3 có ái tính mạnh nhất với lectin
có thể được phát hiện trong khoảng 35% số trường hợp người bệnh
UTBMTBG có khối u nhỏ <3cm[17]. Khi tính tỷ số giữa AFP-L3 trên tổng


6

AFP vượt ngưỡng 15% là có giá trị chẩn đoán, độ nhạy và độ đặc hiệu lần
lượt là 55,3% và 93,9%.[18] Một số nghiên cứu đã chỉ ra tỷ số giữa AFP-L3
với tổng AFP có mối tương quan chặt chẽ với đặc điểm ác tính và tiên lượng
của bệnh (đặc biệt là tình trạng xâm lấn tĩnh mạch cửa).Người bệnh
UTBMTBG có AFP-L3 dương tính có chức năng gan kém hơn, đặc điểm mô
bệnh học ác tính hơn và khối u to hơn.Người ta cũng thấy AFP-L3 có giá trị
chẩn đoán ở những người bệnh có mức tăng AFP vừa phải.
PIVKA-II
PIVKA-II hay des-gamma-carboxy prothrombin (DPC) là prothrombin
bất thường do thiếu hụt nhóm carboxy ở vị trí gamma trong 10 phân tử
glutamic acid nằm ở phía đầu amin (N-terminus) của prothrombin, nó bị giảm
khả năng gắn kết với ion Ca 2+ của prothrombin, và đảo lộn quá trình đông
máu bình thường.Vai trò của PIVKA-II trong ung thư gan được Liebman HA
và cộng sự lần đầu tiên công bố năm 1984 [19]. Tuy vậy lúc đầu vai trò của
PIVKA-II trong chẩn đoán và tiên lượng, đánh giá hiệu quả điều trị ung thư
gan HCC được triển khai nghiên cứu, cũng như áp dụng trong lâm sàng nhiều
nhất tại Nhật Bản. Trong thời gian gần đây, vai trò của PIVKA-II được chú ý

nhiều hơn tại một số nước châu Âu, Hoa Kỳ cũng như tại châu Á. Trong bệnh
lý gan và ung thư gan, quá trình sinh học của AFP và PIVKA-II là độc lập với
nhau. Phần lớn các nghiên cứu ở Nhật Bản và Châu Á nhận thấy PIVKA-II có
vai trò tốt hơn AFP, đặc biệt mối tương quan với kích thước khối u, mối tương
quan với hình thành huyết khối, hay xâm lấn mạch máu, đánh giá khả năng tái
phát sau điều trị. Tuy nhiên về khả năng chẩn đoán ung thư gan sớm thì kết
quả của các nghiên cứu tại châu Á chưa có sự đồng thuận. PIVKA-II hiện
diện trong 91% bệnh nhân HCC. Chỉ số bìnhthường: 0-7,5 ng/ml. Sự tăng
PIVKA-II thường phản ảnh nguy cơ ở bệnh nhân bị viêm gan mãn tính diễn
tiến đến HCC.


7

1.4.2. Chẩn đoán hình ảnh
a. Hình ảnh siêu âm
Siêu âm là phương pháp không xâm nhập, dễ áp dụng, giá rẻ, độ nhạy
cao. Với đầu dò linear tần số cao có thể phát hiện được các tổn thương kích
thước nhỏ đến 5mm, phát hiện được 100% các u gan kích thước trên 2cm,
trên 50% các tổn thương có kích thước 1-2cm và khoảng 20% các tổn thương
dưới 1cm [20].
UTBMTBG thường xuất hiện trên nền gan xơ. Đặc điểm siêu âm của
UTBMTBG có liên quan tới kích thước khối u. Các khối u nhỏ <3cm, biệt
hóa cao thường tương đối đồng nhất và giảm âm, trong khi các khối u lớn
thường không đồng nhất do hoại tử, chứa mỡ, xơ hóa, vôi hóa. Đối với u gan
thể lan tỏa, trên siêu âm có thể thấy các cấu trúc bình thường trong nhu mô
gan bị thay đổi không còn rõ nét và xuất hiện nhiều vùng tăng âm.
Bên cạnh đó siêu âm giúp đánh giá mức độ gan xơ, các dấu hiệu của
tăng áp tĩnh mạch cửa như: lách to, giãn tĩnh mạch cửa, giãn tĩnh mạch lách
và các tĩnh mạch tuần hoàn bàng hệ, cổ chướng.

Các kỹ thuật siêu âm có chất tương phản và siêu âm Doppler cũng góp
phần giúp phân biệt tổn thương lành tính hay ác tính
b.Chụp cắt lớp vi tính (CLVT)
Là phương pháp dễ thực hiện, có độ nhạy cao trong chẩn đoán
UTBMTBG. Theo các nghiên cứu, độ nhạy và độ đặc hiệu của chụp CLVT
xoắn ốc trong chẩn đoán UTBMTBG lần lượt là 61-87,7% và 91%, độ nhạy
giảm dần khi kích thước khối u giảm dần. Đối với kích thước u trên 2cm, độ
nhạy 89-100%, giảm xuống còn 44-67% đối với u có kích thước 1-2cm [21].


8

Trên phim chụp trước tiêm hình ảnh tùy vào kích thước u và các thành
phần bên trong. Khối u nhỏ thường khá đồng nhất, u lớn không đồng nhất do
có vùng hoại tử, chảy máu, mỡ. Sau tiêm khối UTBMTBG biểu hiện ngấm
thuốc mạnh thì động mạch (25-30s sau tiêm) và thải thuốc nhanh thì tĩnh
mạch cửa (70-80s sau tiêm).
Ngoài ra chụp CLVT còn giúp phân giai đoạn UTBMTBG, phát hiện
các biểu hiện xâm lấn, huyết khối tĩnh mạch cửa, thông động tĩnh mạch cửa,
di căn, các biểu hiện của tăng áp lực tĩnh mạch cửa (lách to, giãn tĩnh mạch
cửa và các tĩnh mạch tuần hoàn bàng hệ)…
c.Chụp cộng hưởng từ (CHT)
Đây là phương pháp hình ảnh giá trị chẩn đoán cao và ít xâm nhập, độ
nhạy của cộng hưởng từ là 90-95% và độ đặc hiệu là 90-95% [21]. Các chuỗi
xung cơ bản trong chụp cộng hưởng từ gan mật gồm: xung T2W, T1 in-phase
và T1 out-phase, chuỗi xung DWI và các chuỗi xung tiêm thuốc.
* Đặc điểm hình ảnh điển hình của UTBMTBG thể khối trên CHT
• Khối nhỏ hơn 3cm thường tín hiệu đồng nhất, khối lớn thường không
đồng nhất do các vùng hoại tử, chảy máu.
• Trên T2W khối UTBMTBG thường tăng nhẹ tín hiệu. Các khối đồng

tín hiệu trên T2W có thể tương ứng với mức độ biệt hóa khối u cao hơn.
• Trên T1W UTBMTBGđồng tín hiệu mặc dù cũng có thể hơi giảm hoặc
hơi tăng tín hiệu. Các khối u lớn hơn (>3cm) thường biểu hiện giảm tín hiệu
không đồng nhất trên T1W.
• Động học ngấm thuốc của u giống như CLVT.
d. Chụp mạch số hóa xóa nền (DSA)
Chụp mạch số hóa xóa nền (DSA) là phương pháp xâm lấn, ít khi được


9

dùng để chẩn đoán mà thường để phối hợp với các phương pháp điều trị như
nút mạch gan hóa chất, nút hạt vi cầu gắn hóa chất, nút hạt vi cầu phóng xạ...
Hình ảnh khối UTBMTBG hầu hết là các khối tăng sinh mạch, các
mạch máu thường sắp xếp lộn xộn, có thể thấy các hồ mạch máu hoặc hồ tĩnh
mạch. Ngoài ra có thể đánh giá mức độ thông động tĩnh mạch cửa, thông
động tĩnh mạch gan…

Hình 1.1. Hình ảnh UTBMTBG điển hình trên chụp mạch
e.Chụp positron cắt lớp (PET/CT)
Chụp PET/CT sử dụng dược chất phóng xạ 18-F-2-fluoro-2-deoxy-Dglucose(FDG).Theo nghiên cứu cuat Mai Trọng Khoa và cộng sự đã xác định
được độ nhạy của FDG PET/CT đạt tới 75%, độ đặc hiệu thấp là 31,3%, tỷ lệ
PET/CT dương tính giả là 38%, âm tính giả là 25%. Độ nhạy tương đối thấp
của PET/ CT với FDG trong phát hiện UTBMTBG do sự tăng hoạt hóa của
men glucose-6-phosphatase trong tế bào ác tính dẫn đến việc đào thải FDG làm
tế bào ung thư hấp thu FDG không cao hơn tế bào gan bình thường[22].
1.4.3.Tế bào học và giải phẫu bệnh
+Tế bào học
Tế bào học là phương pháp an toàn và có độ chính xác cao. Nghiên cứu
tại Việt Nam năm 1993 về giá trị của tế bào học trong chẩn đoán UTBMTBG

cho kết quả độ nhạy là 90- 95% và độ đặc hiệu là 91- 93%[23].


10

Các đặc điểm của tế bào ung thư gan trên tế bào học gồm: tế bào kích
thước to nhỏ khác nhau, đứng riêng rẽ hay từng bè gợi lại cấu trúc tế bào gan;
có thể có các giọt mật trong nguyên sinh chất; nhân tế bào lớn, kiềm tính, có
thể có nhân quái, nhân chia, có nhiều hạt nhân, nhân không điển hình; xuất
hiện các hốc sáng bên trong bào tương, các thể vùi ưa acid hoặc bazơ.
+Mô bệnh học
Mô bệnh học là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán ung thư. Tuy nhiên, do
tính chính xác cao của tế bào học và sự khó được chấp nhận của bệnh nhân
đối với thủ thuật sinh thiết, đối với UTBMTBG, sinh thiết làm mô bệnh học
chỉ làm trong số ít trường hợp. Độ chính xác phụ thuộc vào sinh thiết, vị trí,
kích thước u và kinh nghiệm của nhà giải phẫu bệnh. Độ nhạy của phương
pháp là 70- 90%[13].
Mô bệnh học UTBMTBG có đặc điểm tế bào tương tự như mô tả tế bào
học, ngoài ra còn mô tả được sự sắp xếp của các tiểu thùy thành thể bè, thể
ống tuyến, thể nhú, thể đảo hay thể không điển hình.
1.5.Chẩn đoán xác định
Theo hướng dẫn chẩn đoán của Hội nghiên cứu bệnh lý gan Mỹ năm
2005 [24, 25], việc chẩn đoán UBTG nên được tiến hành như sau: Trong
trường hợp khối u có kích thước nhỏ dưới 1cm, BN nên được theo dõi bằng
siêu âm 3-6 tháng một lần. Nếu khối u giữ nguyên kích thước trong 2 năm thì
tiếp tục theo dõi bằng siêu âm 6-12 tháng một lần.
Khối u 1-2cm cần được tiến hành 2 phương pháp CĐHA động học
(CLVT và CHT có thuốc đối quang hoặc siêu âm cản âm). Nếu có hình ảnh
điển hình của UBTG trên cả hai phương pháp thì có thể chẩn đoán xác định
mà không cần làm thêm xét nghiệm. Nếu chỉ 1 phương pháp có hình ảnh điển

hình thì cần phải làm sinh thiết chẩn đoán.


11

Nếu khối u >2cm, chỉ cần 1 phương pháp CĐHA động học có hình ảnh UBTG
điển hình hoặc chỉ cần nồng độ AFP huyết thanh >200ng là đủ để chẩn đoán.
Trong trường hợp khối u >2cm nhưng CĐHA không điển hình và nồng
độ AFP <200ng/ml cần tiến hành sinh thiết chẩn đoán.
Mẫu sinh thiết nhỏ cần được đọc bởi các bác sĩ giải phẫu bệnh có kinh
nghiệm. Trường hợp mẫu sinh thiết âm tính và không khẳng định được các
bệnh lý khác, cần sinh thiết lại hoặc tiếp tục theo dõi trên siêu âm 6-12 tháng
một lần cho đến khi tổn thương biến mất hoặc tăng kích thước hoặc thay đổi
tính ngấm thuốc trên các phương tiện CĐHA động học.
Tổn thương trênsiêu âm

U < 1cm

Theo dõi mỗi 3 tháng/lần
trong vòng 18 tháng. Sau
đó 6 tháng lần

1-2 cm trên siêu âm
Chụp CT, MRI:
* Cả hai điển hình=HCC
*Hình ảnh điển hình với 1
phương pháp +
AFP>200ng/ml=HCC

Hơn 2 cm trên siêu âm


Chụp CT, MRI:
*Hình ảnh điển hình với 1 phương
pháp=HCC
*Hình ảnh không điển hình+
aFP>400ng/mL=HCC
* Hình ảnh không điển hình+AFP
thấp Sinh thiết

Hình 1.2. Phác đồ chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan theo Hội nghiên cứu bệnh lý
gan Mỹ.[25]


12

1.6.Chẩn đoán giai đoạn ung thư biểu mô tế bào gan
Có nhiều bảng phân loại như phân loại theo TNM, phân loại theo
Okuda,phân loại theo Barcelona…, trong đó phân loại giai đoạn theo
Barcelona được áp dụng rộng rãi nhất.
Bảng 1.1 : Phân chia giai đoạn Bệnh theo BCLC [26]
Giai đoạn

Sớm

Trung

ECOG Hình thái khối u

Okuda Chức năng gan


A1

0

1u<5 cm

I

ALTMC và BiliruBin

A2

0

1u<5 cm

I

Tăng ALTMC ;

A3

0

1u<5 cm

I

ALTMC và Bilirubin


A4

0

3 u <3 cm

I-II

Child-Pugh : A-B

B

0

U lớn

I-II

Child-Pugh : A-B

Tiến triển C

1-2

Xâm lấn mạch, di

I-II

Child-Pugh : A-B


Cuối

3-4

Xâm lấn mạch, di

III

Child-Pugh : C

D

Bảng 1.2: Đánh giá chức năng gan theo Child-Pugh[19]
Các chỉ số đánh giá

1điểm

2điểm

3điểm

Hội chứng não gan
Cổ trướng

Không
Không

Nhẹ
Ít


Nặng
Vừa, nhiều

Bilirubin huyết thanh (µmol/L)
Albumin huyết thanh (g/L)

<34
>35

34–50
28–35

>50
<28


13

Tỷ lệ prothrombin (%)
Hoặc INR
Xếp loại Child-Pugh:

>54

45–54

<45

< 1,7
1,7 – 2,2

> 2,2
A:5-6 điểm,B:7-9 điểm,C:10-15 điểm

1.7. Các phương pháp điều trị UTBMTBG
Có rất nhiều phương pháp điều trị UTBMTBG và cho đến nay vẫn chưa
có một bảng hướng dẫn điều trị được thống nhất trên toàn thế giới. Ở các khu
vực khác nhau việc điều trị phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau như giai đoạn
của khối u gan, kinh nghiệm của phẫu thuật viên, bác sĩ ung thư hay nhà can
thiệp mạch. Tuy nhiên, ở Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới sử dụng bảng
phân loại Barcelona để tham khảo và lựa chọn phương pháp điều trị.Theo
bảng phân loại này, u gan được chia thành các giai đoạn 0 (rất sớm), giai đoạn
A (sớm), giai đoạn B (trung gian), giai đoạn C (tiến triển) và giai đoạn D (kết
thúc). Ứng với các giai đoạn này có các phương pháp điều trị khác nhau được
đề xuất.Các phương pháp điều trị UTBMTBG được chia 3 nhóm chính tùy
theo giai đoạn u: Điều trị triệt căn (phẫu thuật/điều trị hủy u tại chỗ) dành cho
u gan giai đoạn sớm. Điều trị tạm thời bằng can thiệp nội mạch dành cho
những khối u giai đoạn vừa. Điều trị hóa chất và điều trị triệu chứng dành cho
u gan giai đoạn muộn và giai đoạn cuối.


14

Hình 1.2.Chỉ định điều trị ung thư biểu mô tế bào gan theo phân loại
Barcelona[27]
1.7.1. Phương pháp điều trị triệt căn
1.7.1.1. Phẫu thuật
 Phẫu thuật cắt gan
Phẫu thuật cắt gan được coi là một phương pháp điều trị triệt căn
mang lại thời gian sống thêm 5 năm lên đến 50%[28].Tuy nhiên, chỉ có
khoảng 20% bệnh nhâncó thểcắt gan do khi phát hiện khối u đã quá lớn, di

căn ngoài gan hoặc bệnh lí gan nền[28].
* Chỉ định:
Việc lựa chọn đối tượng cắt gan ở các trung tâm khác nhau thì không
giống nhau, tuy nhiên thường chỉ định cắt gan trong TH:
• U gan một khối, kích thước không quá 5cm hoặc từ 2-3 khối kích thước
mỗi khối < 3cm.
• Chức năng gan còn tốt (Child pugh A).


15

• Thể tích gan còn lại sau cắt đảm bảo (FLR 20% là mức thể tích tối
thiểu an toàn cho phẫu thuật gan rộng ở người trước đó không có bệnh lí gan
nền), trong khi ở người có bệnh lí gan mạn FLR 40%.
* Chống chỉ định tương đối:
• Người bệnh lớn tuổi, có các bệnh kết hợp.
• Khối lớn, nhiều khối cả hai thùy, có xâm lấn TM cửa hoặc TM gan.
• Di căn ngoài gan, huyết khối TM chủ dưới, xâm lấn thân tĩnh mạch cửa
hoặc động mạch gan chung.
• Tăng áp lực tĩnh mạch cửa (lách to, tuần hoàn bàng hệ, giảm tiểu cầu <
100.000/ mm3).

 Phẫu thuật ghép gan
Ghép gan là phương pháp điều trị một cách triệt để cả khối u gan và
bệnh lí nền gan sẵn có. Ghép gan thường được chỉ định cho các khối
UTBMTBG giai đoạn sớm, trên nền gan xơ và kết quả một số nghiên cứu đã
chứng minh ghép gan đối với UTBMTBG giai đoạn sớm có tỷ lệ sống sau 4
năm là 85%[29].
Chỉ định ghép gan cho những khối UTBMTBG thỏa mãn tiêu chuẩn
Milan, chỉ có khoảng 5% bệnh nhân UTBMTBG đáp ứng tiêu chuẩn này[30].

Tuy nhiên vấn đề đặt ra đối với ghép gan là nguồn tạng ghép còn hạn
chế, chi phí ghép gan cao và phải dùng thuốc ức chế miễn dịch kéo dài sau
khi ghép.Vì vậy chống chỉ định ghép gan ở những TH đã có di căn xa, TH có
nguy cơ tái phát cao.
Một vấn đề nữa là có khoảng 25% người bệnh bị loại khỏi danh sách
chờ ghép trong vòng 6 tháng đầu do u phát triển hoặc di căn[31]. Vì vậy ở
nhiều trung tâm trên thế giới hiện nay có thể áp dụng các phương pháp điều


16

trị tại chỗ như đốt sóng cao tần, nút mạch hoặc tiêm cồn cho những BN đang
trong danh sách chờ ghép.
1.7.1.2. Các phương pháp phá hủy u tại chỗ không phẫu thuật
Mặc dù phẫu thuật cắt gan để loại bỏ khối ung thư được khuyến cáo
là phương pháp lựa chọn hàng đầu nhưng cho đến nay mới chỉ có khoảng
15-20%[32] người bệnh đáp ứng được các tiêu chí để có thể phẫu thuật và
con số được phẫu thuật thực sự thì ít hơn. Lý do là vì:
• Bệnh nhân ung thư gan thường trên nền bệnh lý xơ gan vậy nếu thể tích
gan dự trữ không đảm bảo có thể dẫn đến suy gan sau phẫu thuật.
• Bệnh nhân UTBMTBG thường có nhiều khối ở cả hai thùy nên không
thể cắt bỏ hoàn toàn.
• Sau phẫu thuật, có một tỷ lệ đáng kể bị tái phát do có những di căn
thầm lặng trước đó.
• Có một bộ phận không nhỏ người bệnh từ chối phẫu thuật.
Mặt khác, ngày nay có rất nhiều phương pháp điều trị tại chỗ khối u
mang lại hiệu quả điều trị khối u giai đoạn sớm tương đương phẫu thuật và tỷ
lệ tai biến thấp, có thể coi là các phương pháp thay thế cho phẫu thuật.
 Tiêm cồn qua da(percutaneous ethanol injection-PEI)
Phương pháp được thực hiện lần đầu năm 1983 bởi Sugiura và cộng sự với

nhóm đối tượng là các người bệnh UTBMTBG không có chỉ định cắt gan.
*Nguyên lý: cồn tuyệt đối (Ethanol 95%) gây mất nước cấp làm nguyên
sinh chất tế bào bị đông vón dẫn đến xơ hóa và cồn xâm nhập vào mạch máu
gây hoại tử tế bào nội mạc, gây ngưng kết tiểu cầu tạo hiện tượng tắc mạch
quanh u gây thiếu máu tổ chức u. Do tổ chức u có xu hướng mềm hơn so với
nhu mô gan xơ xung quanh và khối u thường giàu mạch nuôi dưỡng do đó
cồn lan tỏa trong khối u dễ dàng và đồng đều.


17

Một số nghiên cứu về mô bệnh học cho thấy ở 70% trường hợp
UTBMTBG kích thước u nhỏ hơn 3cm có hoại tử khối hoàn toàn. Với khối u
nhỏ hơn 2cm, tỷ lệ hoại tử khối gần 100%[33].
* Chỉ định:
• Ung thư giai đoạn sớm (Barcelona A): có 1 khối u hoặc không quá 3
khối u kích thước 3cm và có bệnh lý kèm theo, không thích hợp với chỉ định
ghép gan.
* Chống chỉ định:
• Nhiều dịch ổ bụng.
• Rối loạn đông máu nặng.
• Các tổn thương > 5cm hoặc thâm nhiễm.
• UTBMTBG đã xâm lấn thân chung tĩnh mạch cửa và tĩnh mạch gan.
• Các khối u ở bề mặt gan cũng khó thực hiện kỹ thuật do nguy cơ rò từ
khối u vào ổ bụng và nguy cơ di căn theo vết kim.
 Tiêm acid acetic qua da(percutaneous acetic acid injection)
* Nguyên lý tương tự tiêm cồn, tuy nhiên tiêm acid acetic có ưu điểm so
với tiêm cồn và thích hợp với các khối u mà bên trong có nhiều vách vì acid
acetic có khả năng phân hủy lipid và chiết tách các thành phần collagen.
* Kỹ thuật acid acetic có nồng độ 50% và có khả năng gây hoại tử tế

bào gan gấp 3 lần cồn tuyệt đối vì vậy công thức tính lượng acid acetic tiêm là
▪ V(ml) = 4/3 x 3,14 x (r + 0,5 )3 x 1/3
* Chỉ định, chống chỉ định, biến chứng:tương tự tiêm cồn.
 Điều trị u gan bằng vi sóng(microwave ablation)
* Nguyên lý:Quá trình đốt u gan bằng vi sóng sử dụng thiết bị sinh ra


18

trường điện từ với tần số >900Mhz. Các phân tử (nước, đường, các chất hữu
cơ) thường là lưỡng cực (1 đầu tích điện âm và 1 đầu tích điện dương). Các
phân tử lưỡng cực này có xu hướng quay sao cho song song với chiều điện
trường bên ngoài, khi điện trường dao động các phân tử quay nhanh qua lại
hàng tỷ lần mỗi giây và chính sự dao động này chuyển thành nhiệt làm chết tế
bào qua cơ chế hoại tử đông.
Tần số dòng điện được sử dụng hiện nay là 915MHz hoặc 2450MHz.
Lợi điểm của vi sóng so với phương pháp đốt sóng cao tần thông thường là
vùng hoại tử rộng hơn, không phụ thuộc vào việc truyền năng lượng trong mô
và sự cháy và khô của tổ chức và cũng không bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng tản
nhiệt như đốt sóng cao tần[34, 35], tuy nhiên phương pháp này có nhược
điểm giá thành còn cao, chưa phổ biến trên thế giới. Chỉ định và chống chỉ
định tương đối giống với đốt sóng cao tần, đốt u gan bằng vi sóng được
khuyến cáo khi kích thước khối u dưới 7 cm. Có một số nghiên cứu trên thế
giới cũng như Việt Nam bước đầu cho thấy hiệu quả của điều trị u gan bằng vi
sóng [36-38].
 Điều trị u gan bằng áp lạnh (Cryotherapy of the liver)
Nguyên lý: Phương pháp này tiêu hủy khối u bằng cách hạ nhiệt độ tổ
chức u xuống thấp, nước trong tế bào, ngoài tế bào, những mạch máu nhỏ
đông vón lại dưới dạng tinh thể gây chết tế bào và hoại tử tổ chức, sau đó quá
trình làm tan đông đột ngột làm vỡ các tế bào. Quy trình đóng băng-làm tan

băng này được thực hiện ít nhất 2 lần để gây hoại tử khối u[39]. Có nhiều loại
kim đốt lạnh được sử dụng để chọc qua da vào khối u để tạo nên một quả
bóng băng bao trùm khối u và viền nhu mô lành quanh khối u. Phương pháp
này chưa được sử dụng rộng rãi, và có khá nhiều biến chứng trong đó có biến
chứng sốc lạnh có thể xảy ra ở khoảng 1% số bệnh nhân [40].


19

 Đốt sóng cao tần qua da (Radiofrequency ablation- RFA)
Được Rossi và McGahan áp dụng từ những năm 1990 và đã được chứng
minh là phương pháp gây hoại tử tổ chức u mà không ảnh hưởng đến vùng
nhu mô gan lành. Đốt sóng cao tần thích hợp nhất với các khối u gan có kích
thước nhỏ trên nền gan xơ, phương pháp này có thể áp dụng cho đa số các
trường hợp u gan giai đoạn sớm giống như phẫu thuật, mà hiệu quả của nó đã
được chứng minh trong nhiều nghiên cứu mang lại thời gian sống thêm cho
bệnh nhân tương đương với phẫu thuật mà mức độ an toàn cao, ít nguy cơ tai
biến [41]. Một số nghiên cứu đã chứng minh sự đáp ứng hoàn toàn của khối u
sau RFA đạt tới 97% và tỷ lệ sống sau 5 năm lên tới 68% [42, 43]. Ngoài ra
có thể kết hợp đốt sóng cao tần (ĐSCT) với các phương pháp khác như nút
mạch, giúp điều trị hạ bậc để người bệnh đáp ứng tiêu chuẩn ghép gan.
* Nguyên lý
• Sóng cao tần phá hủy u và tổ chức xung quanh bằng nhiệt. Khi nhiệt độ
lên trên 43C tế bào chết sau 30 giây, nhiệt độ lên 55C tế bào chết sau 1 giây,
nhiệt độ 60C tế bào chết ngay lập tức. Ở nhiệt độ 100C nước trong và ngoài
tế bào bắt đầu sôi. Khi nhiệt độ lên trên 200C, các phân tử hydrocarbon bị bẻ
gãy khiến carbon bị giữ lại ở tổ chức.
• Dòng điện xoay chiều được sử dụng có tần số 200kHz đến 20 MHz.
Một mạch điện khép kín được tạo bởi nguồn phát, kim điện cực, người bệnh
và điện cực phân tán (grouding pads). Điện trở giữa đầu kim và mô trong cơ

thể có sự cách biệt rất lớn nên khi dòng điện xoay chiều đi qua, các ion liên
tục và đập và bắn ra khỏi đầu kim với tốc độ cao và di chuyển trong mô xung
quanh dẫn tới lực ma sát làm nóng tổ chức. Nhiệt sinh ra được dẫn truyền vào
các tổ chức xung quanh đến khi cân bằng nhiệt. Năng lượng càng cao, thể tích
tổ chức hoại tử càng lớn. Tuy nhiên khi sử dụng dòng điện cường độ cao sẽ


20

làm khô tổ chức quanh đầu kim nhanh chóng dẫn đến thu nhỏ thể tích mô bị
đốt. Các tổ chức quanh đầu kim khi bị cháy và khô lại tạo ra CO 2 sẽ đóng vai
trò như lớp cách điện làm giảm bề mặt điện cực tiếp xúc dẫn đến phải tăng
cường độ dòng điện. Do vậy nếu muốn thể tích đốt rộng cần điều chỉnh cường
độ phù hợp để đạt được nhiệt năng tối ưu và không gây đốt cháy quá mức.
* Chỉ định
• Có một khối u không quá 5cm hoặc có không quá 3 khối u, kích thước
mỗi khối không quá 3cm.
• Xơ gan giai đoạn Child Pugh A hoặc B.
• Phương pháp này thích hợp cả với người bệnh không thể phẫu thuật
được do kích thước, vị trí, số khối u, do chức năng gan còn lại không đảm bảo
hoặc có bệnh lý kèm theo.
• Người bệnh UTBMTBG khối nhỏ trên nền gan xơ, đây là phương pháp
được áp dụng trong khi chờ ghép gan.
• Với người bệnh có 2 khối ở 2 thùy gan, một bên phẫu thuật được, có
thể kết hợp phương pháp này ở bên còn lại để mở rộng chỉ định phẫu thuật.
• Trên thực tế có thể tiến hành đốt sóng cả những khối u có kích thước
lớn hơn bằng cách đốt nhiều lần, đốt bằng nhiều kim đồng thời, hoặc đốt sóng
cao tần phối hợp với các phương pháp khác như nút mạch hóa chất.
* Chống chỉ định
• Chống chỉ định tuyệt đối: di căn ngoài gan, huyết khối tĩnh mạch cửa,

rối loạn tâm thần không phối hợp được, đang nhiễm trùng, khối u xâm lấn
đường mật chính, rối loạn đông máu.
• Chống chỉ định tương đối: khối u ở vị trí rốn gan nơi có nhiều nhánh
đường mật chính, các nhánh đường mật rất nhạy cảm với nhiệt độ vì thế nếu
ĐSCT có thể gây hẹp đường mật thứ phát hoặc rò mật, khối > 5cm ở người xơ


21

gan nặng, có trên 4 tổn thương, bệnh lý nội khoa nặng, rối loạn đông máu nặng.
• Các tổn thương nằm gần mạch máu lớn, tổn thương sát cơ hoành, sát
bao gan gần với các tạng rỗng vẫn có thể thực hiện việc đốt sóng cao tần với
các kỹ thuật bổ sung như việc nút tắc tĩnh mạch cửa, bơm dịch ổ bụng hay
bơm dịch màng phổi.
* Biến chứng
• Tỷ lệ tai biến nói chung dao động 2,2-10,6% và tỷ lệ tử vong 0,3-1,4%
[44, 45]. Chia thành 3 nhóm:
◦ Tai biến ngay sau thủ thuật (6-24h) gồm chảy máu ổ bụng, nhồi
máu gan, tràn dịch màng phổi cần dẫn lưu, tràn máu màng phổi,
viêm phúc mạc.
◦ Tai biến sau thủ thuật (trong vòng 30 ngày): áp xe gan, rò đường
mật, thủng tạng rỗng.
◦ Tai biến muộn gồm di căn theo vết kim, di căn ổ bụng.
◦ Các biến chứng thường xảy ra khi khối u ở vị trí sát cơ quan hay
tạng lân cận.
• Livraghi và cộng sự [46] nghiên cứu đốt sóng cao tần 1776 trường hợp
có 2 tử vong (0,11%), 27 biến chứng lớn (1,52%), biến chứng lớn gồm chảy
máu ổ bụng, áp xe gan, thủng ống tiêu hóa, di căn theo đường chọc kim,
biloma, nhồi máu gan, bỏng da, chảy máu màng phổi. Tỷ lệ biến chứng di căn
theo đường chọc được báo cáo chiếm 0,6% trường hợp [47]

1.7.2. Hóa trị
Sorafenib là một chất ức chế nhiều men kinase đường uống
(multikinase inhibitor), nó biểu hiện tác dụng chống tăng sinh mạch bằng
cách gắn vào các receptor của yếu tố phát triển nội mô mạch (vascular
endothelial growth factor receptor - VEGFR) và yếu tố phát triển tiểu cầu
(platelet-derived growth factor receptor - PDGFR). Gần đây 1 nghiên cứu


22

thử nghiệm lâm sàng có đối chứng phase III về sorafenib đã chứng minh
hiệu quả tăng thời gian sống thêm, thời gian đến khi bệnh tiến triển ở các
UTBMTBG giai đoạn tiến triển [48]. Chưa có bằng chứng rằng sorafenib
có vai trò trong việc giảm giai đoạn của bệnh nhân trước phẫu thuật vì tỉ lệ
đáp ứng với sorafenib chỉ khoảng 3%.
1.7.3. Xạ trị ngoài
Việc sử dụng phương pháp xạ trị ngoài bị hạn chế do các tế bào gan lành
khá nhạy cảm với tia xạ do đó chỉ có thể xạ với liều tối đa 25-30Gy, liều cao
hơn có nguy cơ gây viêm gan do xạ trị [49].
Nói chung phương pháp này ít được sử dụng vì hiệu quả không cao
1.7.4. Can thiệp điều trị ung thư gan qua đường nội mạch
1.7.4.1. Nút mạch gan hóa chất (Transarterial chemoembolization-TACE)
* Khái niệm:TACE hay nút mạch gan hóa chất từ lâu đã được áp dụng
rộng rãi và trở thành một phương pháp điều trị thường quy đối với ung thư
biểu mô tế bào gan không thể phẫu thuật. Thời gian sống thêm mà TACE
mang lại đã được chứng minh trong nhiều nghiên cứu gấp hơn 2 lần so với chỉ
điều trị hóa chất toàn thân và chăm sóc hỗ trợ. TACE cũng được sử dụng là
phương pháp để giảm độ những khối u không thể cắt bỏ trở nên có thể phẫu
thuật được.
* Nguyên lý: Trong khi nhu mô gan lành được cấp máu phần lớn (7080%) bởi tĩnh mạch cửa[50]thì khối u gan chủ yếu được cấp máu từ các

nhánh động mạch[51]. Trong quá trình nút mạch, một ống thông được đặt vào
nhánh động mạch cấp máu cho khối u (siêu chọn lọc) hoặc động mạch phân
thùy chứa khối u (chọn lọc), sau đó hỗn dịch hóa chất-lipiodol sẽ được bơm
vào khối u, tiếp đó một chất nút mạch (spongel) sẽ được bơm vào động mạch
để gây tắc nhánh mạch nuôi khối u. Chính vì vậy TACE sẽ điều trị khối


23

UTBMTBG mà không làm ảnh hưởng đến nhu mô gan lành.

Hình 1.3. Kỹ thuật nút mạch siêu chọn lọc
A. Khối u gan tăng sinh mạch, catheter đươc luôn siêu chon loc đên đ ông
mạch nuôi u.
B. Ảnh chụp single shot sau nút mạch: u lắng đong hóa chất hoàn toàn, có
trào ngươc tĩnh mạch cửa quanh u.
* Chỉ định:
• Người bệnh ở giai đoạn trung bình (Barcelona B), có nhiều khối ung
thư nhưng chức năng gan và toàn trạng của người bệnh vẫn còn đảm bảo
(Child- Pugh A-B, PS 0).
* Chống chỉ định
• Child Pugh C
• Thể trạng tồi (ECOG 3)
• Đã di căn ngoài gan
• Trước đây chống chỉ định cho những u gan đã có huyết khối tĩnh mạch
cửa nhưng một số nghiên cứu gần đây đã chỉ ra TACE cũng giúp cải thiện
thời gian sống thêm và triệu chứng lâm sàng ở bệnh nhân u gan đã có huyết
khối tĩnh mạch cửa.



24

* Biến chứng
• Đa số bệnh nhân có thể gặp hội chứng sau nút mạch gồm sốt, đau bụng,
buồn nôn.
• Các biến chứng bao gồm: suy gan, chết, hội chứng não gan, áp xe gan,
viêm túi mật cấp, tổn thương phổi và chảy máu tiêu hóa, suy thận cấp…
• Một số biến chứng ít gặp khác: vỡ u gan, biloma, áp xe gan, nhồi máu gan.
1.7.4.2. Nút u gan bằng hạt vi cầu gắn hóa chất (Deb-TACE):
Nút u gan bằng hạt vi cầu gắn hóa chất (Deb-TACE): cho phép tập
trung liều cao hóa chất vào khối u trong khi giảm liều trong máu tuần hoàn.
Beads là các polymer có đặc tính sinh học như PVA (polyvinyl alcohol) được
sulfonate hóa để gắn với hóa chất. Chúng gây tắc các nhánh mạch nhỏ trong
khối u trong khi hóa chất được giải phóng tại chỗ một cách từ từ.Về mặt hiệu
quả lâm sàng, có một số nghiên cứu đã khẳng định sự hiệu quả và tính an toàn
của điều trị u gan bằng Deb-TACE.Một nghiên cứu gần đây so sánh hiệu quả
điều trị của Deb-TACE và TACE thông thường thấy tỷ lệ khối u tiến triển sau
12tháng thấp hơn ở nhóm điều trị bằng Deb-TACE [52]. Nghiên cứu của
Malagari[53] trên 71 bệnh nhân có khối u gan kích thước trung bình 6,2cm được
điều trị bằng Deb-TACE trung bình 2,7 đợt, thời gian theo dõi trung bình 23
tháng cho thấy tỷ lệ sống thêm sau 12 tháng là 97%, sau 24 tháng là 91%.
1.7.5. Điều trị UTBMTBG bằng phương pháp nút mạch bằng hạt vi cầu
phóng xạ (SIRT)
Trong bệnh ung thư gan nguyên phát, khối u được nuôi dưỡng bởi các
nhánh động mạch gan (90%) và tĩnh mạch cửa (10%). Phương pháp nút mạch
bằng hạt vi cầu phóng xạ Y-90 trong điều trị ung thư gan và ung thư di căn
gan là phương pháp can thiệp qua đường động mạch gan nhằm đưa các hạt vi
cầu phóng xạ Y90 (có kích thước 20-40 micromet) vào động mạch nuôi khối
u. SIRT-Spheres microsphere bao gồm những hạt vi cầu có kích thước từ 20



25

đến 60 micron đường kính. Y-90 là một chất đồng vị phóng xạ phát ra tia beta
tinh khiết năng lượng cao, nhưng không phát ra tia gamma nguyên thủy. Năng
lượng tối đa của các hạt beta là 2,27 MeV với giá trị trung bình là 0,93MeV.
Phạm vi phát tia trong mô tối đa là 11mm với giá trị trung bình là 2,5mm.
Chu kì bán rã 64,1 giờ. Trong sử dụng điều trị đòi hỏi chất đồng vị phóng xạ
phân rã cho tới vô cực, 94% bức xạ được cung cấp trong 11 ngày. SIRTSpheres microsphere là một thiết bị cấy lâu dài, mỗi thiết bị được vô trùng và
chỉ sử dụng một lần duy nhất. Các hạt vi cầu này sẽ đi vào các nhánh động
mạch nhỏ khắp trong khối u gây tắc mạch. Khối u sẽ bị tiêu diệt theo hai cơ
chế: giảm nuôi dưỡng u và bức xạ bêta năng lượng 0,93 MeV được phát ra từ
đồng vị phóng xạ Y90 gắn trên các hạt vi cầu sẽ tiêu diệt các tế bào ung thư
và làm giảm thể tích hoặc tiêu hoàn toàn khối u gan mà rất ít ảnh hưởng đến
tổ chức lành xung quanh.

Hình 1.4. Hạt vi cầu Y-90 và bình chứa
Nguồn:
Phương pháp nút mạch bằng hạt vi cầu phóng xạ Y-90 là phương pháp
mới, có hiệu quả được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới trong 20 năm nay.
Tại Việt Nam phương pháp này lần đầu tiên được áp dụng vào tháng 10 năm
2013 tại bệnh viện Trung ương quân đội (108) và Bệnh viện Bạch Mai.


×