Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Đánh giá tác dụng của cao lỏng hoàng kinh trong điều trị viêm khớp dạng thấp giai đoạn i II

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 67 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Viêm khớp dạng thấp (VKDT) là một trong các bệnh khớp mạn tính
thường gặp nhất, chiếm khoảng 0,5% đến 1,5% dân số tùy theo từng chủng
tộc. Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của Trần Ngọc Ân và cộng sự, bệnh chiếm
khoảng 0,5% dân số và chiếm 20% số bệnh nhân mắc bệnh khớp điều trị ở
bệnh viện. Bệnh gặp ở nữ nhiều hơn nam, chủ yếu ở nhóm nữ tuổi trung
niên [1]. Nguyên nhân gây bệnh còn chưa rõ và hiện nay VKDT được xếp
vào nhóm bệnh tự miễn. Bệnh có đặc trưng cơ bản là viêm không đặc hiệu,
mạn tính các màng hoạt dịch khớp, diễn biến kéo dài, hay tái phát, để lại hậu
quả nặng nề là dính khớp và biến dạng khớp, tỷ lệ tàn phế cao. Các nghiên
cứu gần đây đã làm sáng tỏ hơn về cơ chế bệnh sinh của bệnh VKDT nhờ
vậy cũng đã có hàng loạt các thuốc mới ra đời nhằm cắt đứt một hay nhiều
mắt xích trong cơ chế bệnh sinh phức tạp của bệnh. Ở Việt Nam, các phác
đồ điều trị VKDT cũng được các bác sỹ cập nhật liên tục và ứng dụng điều
trị cho bệnh nhân, tuy nhiên trong quá trình điều trị các thuốc của YHHĐ
phát sinh nhiều tác dụng không mong muốn như là xuất huyết tiêu hóa, gây
độc cho gan, thận, làm tăng nguy cơ nhiễm trùng, ức chế tủy xương… Nó
đặc biệt nguy hại khi phải sử dụng kéo dài cho những bệnh nhân có kèm
thêm các bệnh mạn tính khác. Do đó, việc không ngừng nâng cao hiệu lực
của thuốc, đảm bảo tính an toàn của thuốc điều trị bệnh VKDT vẫn là mục
tiêu phấn đấu của các nhà khoa học hiện nay.
Trong Y học cổ truyền (YHCT), VKDT thuộc phạm vi chứng tý và đã
được đề cập từ rất lâu về nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh và phương pháp điều
trị. Có rất nhiều các vị thuốc, bài thuốc YHCT có tác dụng tốt trong điều trị
VKDT đã được nghiên cứu trên lâm sàng và chứng minh trên thực nghiệm.


2



Bên cạnh các bài thuốc uống trong cổ phương lâu đời, có những vị thuốc nam
được người dân dùng rộng rãi trong cộng đồng có tác dụng tốt. Một trong các
vị thuốc nam đó là cây Hoàng kinh được dùng phổ biến ở khu vực miền trung
và cao nguyên Việt Nam. Năm 2013, cây thuốc này đã được nghiên cứu thẩm
định lại về thực vật học, độc tính và tác dụng sinh học trên thực nghiệm. Kết
quả cho thấy cây thuốc này có tinh an toàn cao và có tác dụng chống viêm
giảm đau tốt. Trên cơ sở đó, những thiết kế nghiên cứu trên lâm sàng tác dụng
của dược liệu này được tiến hành.
Đề tài “Đánh giá tác dụng của cao lỏng Hoàng kinh trong điều trị
viêm khớp dạng thấp giai đoạn I - II ” được tiến hành với các mục tiêu sau:
1. Đánh giá tác dụng giảm đau, chống viêm trên lâm sàng
của cao lỏng Hoàng kinh trong điều trị bệnh nhân viêm
khớp dạng thấp giai đoạn I - II .
2. Khảo sát tác dụng không mong muốn của cao lỏng Hoàng kinh trên
lâm sàng.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình hình mắc bệnh Viêm khớp dạng thấp trên Thế giới và Việt Nam
Bệnh khớp nói chung và bệnh viêm khớp dạng thấp nói riêng là một bệnh
khá phổ biến. Trên thế giới, cứ 8 người ở độ tuổi từ 18 đến 79 lại có một người
bị viêm khớp mạn tính. Theo thống kê của tổ chức Y tế Thế giới, bệnh VKDT
chiếm 0,5 - 3% dân số (ở người lớn) [1]. Tại Mỹ, theo Mac Duffic, tỷ lệ VKDT
là 0,5 – 1% trong quần thể dân cư từ 20 -80 tuổi; ở nhóm tuổi 55 – 75, tỷ lệ này
là 4,5%. Ở Nam Phi tỷ lệ mắc bệnh 0,19%. Ở Pháp, tỷ lệ mắc bệnh VKDT là

0,5%. Ở Trung Quốc: 0,13%; Ở Oman: 0,36%; I rắc: 1%; Phần Lan: 2%; và ở
Bắc Mỹ, tỷ lệ trong dân Pima Indian là 5,3%.
Ở Việt Nam, theo thống kê của bộ Y tế tỷ lệ mắc bệnh và tử vong của
các bệnh thuộc hệ cơ, xương, khớp và mô liên kết như sau: năm 1999 tỷ lệ
mắc là 2,78%, chết 0,13%, năm 2001 mắc 2,67%, chết 0,13%, năm 2002 mắc
2,8%, chết 0,22% [2]. Theo một số công trình nghiên cứu ở miền Bắc Việt
Nam, VKDT chiếm 0,5% trong nhân dân; trong bệnh viện, bệnh VKDT
chiếm 20% số BN điều trị ở khoa khớp, 70 -80% là nữ, 60 -70% trên 30 tuổi
[1],[3]. Qua thống kê mô hình bệnh khớp 10 năm (1979- 1989) của bệnh viện
Bạch Mai, bệnh nhân VKDT vẫn chiếm 24,12% trong tổng các BN xương
khớp [4]. Tại bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, bệnh khớp chiếm
5,19% ở khoa Nội, trong đó VKDT chiếm tỷ lệ 53,69% [5]. Theo tác giả
Hoàng Đức Linh, qua nghiên cứu điều tra 47.161 cư dân ở 2 tỉnh Đăklăk và
Lâm Đồng cho thấy tỷ lệ mắc bệnh VKDT là 0,33% [6].


4

1.2. Viêm khớp dạng thấp theo quan niệm của Y học hiện đại
1.2.1. Sơ lược về lịch sử tên gọi của bệnh Viêm khớp dạng thấp
Bệnh VKDT đã được biết đến từ thời Hypocrat. Sydenham đã mô tả đầu
tiên (năm 1683) với tên gọi là thấp khớp teo đét.
Lần lượt với thời gian, nó được mô tả bằng nhiều tên gọi khác nhau theo
các tác giả như: gút suy nhược tiên phát theo Auguste Landré Beauvais (năm
1800), viêm khớp teo đét theo Charcot J.M (năm 1853), viêm đa khớp mạn
tính tiến triển (Polyarthrite - Chronique Évolutive - PCE), viêm đa khớp dạng
thấp (Polyarthrite - Rhumatoide - PR) của trường phái Pháp, viêm đa khớp
nhiễm khuẩn không đặc hiệu của các tác giả Nga. Năm 1890, viêm khớp dạng
thấp là tên gọi được Garrot mô tả chi tiết bệnh cảnh lâm sàng. Hiện nay, đa số
các nước đều gọi là bệnh VKDT [1],[3].

Ở Việt Nam, trước kia vẫn thường dùng cả hai tên là viêm đa khớp dạng thấp
hoặc VKDT ở các cơ sở y tế cả nước. Tại Hội nghị toàn quốc lần thứ II về các
bệnh thấp khớp họp tại Đà Lạt tháng 3 năm 1996, đã thống nhất tên gọi VKDT
trong cả nước. Hiện nay, tên gọi VKDT đã được sử dụng chính thức trong giảng
dạy tại các trường Đại học Y khoa và trong mọi y văn trong nước [1].
1.2.2. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh
Trước đây có nhiều giả thuyết được đưa ra về nguyên nhân của bệnh,
song cho đến nay còn chưa thực sự được biết rõ. Gần đây, người ta coi VKDT
là một bệnh tự miễn dịch với sự tham gia của nhiều yếu tố [1]: yếu tố di
truyền, yếu tố nhiễm khuẩn, vai trò quan trọng của các limpho T và B, các
siêu kháng nguyên, và mới đây hiện tượng chết tế bào theo chương trình có
vai trò trong khởi phát bệnh tự miễn.


5

Dưới tác động của một tác nhân gây bệnh, với một cơ địa dễ phát sinh
bệnh, cơ thể đó sẽ sinh ra một kháng thể chống lại tác nhân gây bệnh, nó lại
kích thích cơ thể sinh ra tự kháng thể. Kháng thể, tự kháng thể với sự có mặt
của bổ thể, kết hợp với nhau tạo thành phức hợp miễn dịch kích thích các mô
ở khớp sinh ra các yếu tố gây viêm và hấp dẫn sự tập trung bạch cầu đa nhân,
đại thực bào. Trong quá trình thực bào, các phức hợp miễn dịch giải phóng ra
men tiêu thể, phá huỷ các mô và gây viêm.Các Lympho bào T ở màng hoạt
dịch khớp đưa ra một lượng Lymphokin cũng góp phần phá huỷ mô và gây
viêm. Khi các mô ở khớp bị phá huỷ lại cung cấp yếu tố kháng nguyên, do đó
quá trình viêm không đặc hiệu kéo dài không chấm dứt, đi từ khớp này sang
khớp khác, mặc dù tác nhân gây bệnh ban đầu đã chấm dứt từ lâu [1].
Tácnhân
nhângây
gây

Tác
bệnh (VR,
(VR, vivi
bệnh
khuẩn,dị
khuẩn,dị
nguyên)
nguyên)

Mentiêu
tiêuthể
thể
Men

Mànghoạt
hoạtdịch
dịch
Màng
khớp
khớp

Cơ địa
địa (giới,
(giới,

tuổi, nội
nội tiết,
tiết,
tuổi,
HLA - - DR4

DR4
HLA
Ditruyền)
truyền)
Di

Thựcbào
bào
Thực

Viêm không đặc hiệu

Khángthể
thể11
Kháng

Khángthể
thể22
Kháng

Phứchợp
hợpmiễn
miễndịch
dịch
Phức

Dínhvàvàbiến
biếndạng
dạng
Dính


Sơ đồ 1.1: Tóm tắt cơ chế viêm khớp dạng thấp [1]


6

1.2.3. Đặc điểm lâm sàng
1.2.3.1. Biểu hiện tại khớp
* Giai đoạn khởi phát:
Phần lớn bắt đầu bằng viêm một khớp, xuất hiện từ từ, tăng dần, khớp bị
viêm sưng đau rõ. Dấu hiệu cứng khớp buổi sáng chiếm 10-20%. Bệnh kéo
dài vài tuần đến vài tháng rồi chuyển sang giai đoạn toàn phát.
* Giai đoạn toàn phát
- Viêm nhiều khớp, chủ yếu là các khớp nhỏ. Theo số liệu Việt Nam [1],
vị trí và tỷ lệ mắc bệnh như sau: cổ tay 80%, bàn ngón tay 76%, khớp gối
71%, khớp ngón gần 70%, cổ chân 63%, ngón chân 36%, khớp vai 33%, khớp
khuỷu 28%, khớp háng 15%, cột sống 7%, các khớp khác 3%.
- Tính chất viêm:
Đối xứng 98%, cứng khớp buổi sáng 89% [1], sưng phần mu tay hơn
lòng bàn tay, sưng đau và hạn chế vận động, ít nóng đỏ, có thể có nước ở
khớp gối.
- Diễn biến: bệnh tăng dần, các khớp nặng dần có thể tiến tới dính và
biến dạng (bàn tay gió thổi, ngón tay hình cổ cò, khớp gối ở tư thế nửa co).
1.2.3.2. Dấu hiệu toàn thân và biểu hiện ngoài khớp
- Toàn thân có thể có các dấu hiệu như: mệt mỏi, ăn ngủ kém, da xanh,
niêm mạc nhợt do thiếu máu.
- Biểu hiện ngoài khớp [1]:
 Hạt dưới da: 10-20% (ở Việt Nam chỉ thấy 5% trường hợp).
 Da khô, teo và xơ, nhất là các chi.
 Rối loạn dinh dưỡng và vận mạch, loét vô khuẩn, phù chi dưới.

 Teo cơ vùng quanh khớp tổn thương là hậu quả của sự không vận động.


7

 Viêm gân (hay gặp gân Achille).
 Viêm co kéo hoặc giãn dây chằng.
 Bao khớp có thể tổn thương phình ra thành các kén (kyste) hoạt dịch.
 Nội tạng: hiếm gặp, có thể tổn thương tim, phổi, hạch, lách to.
 Xương: mất vôi, gãy xương tự nhiên.
 Các tổn thương khác: viêm mống mắt, có rối loạn thần kinh thực vật,
thiếu máu nhược sắc, chèn ép thần kinh do viêm xơ dính phần mềm quanh
khớp, nhiễm Amyloid chủ yếu ở thận (thường xuất hiện rất muộn).
1.2.4. Đặc điểm cận lâm sàng
1.2.4.1. Xét nghiệm chung
Trong bệnh viêm khớp dạng thấp, một số chỉ số huyết học và sinh hoá có
sự thay đổi [1],[7].
- Công thức máu: hồng cầu giảm, thiếu máu nhược sắc, bạch cầu tăng
hoặc giảm.
- Tốc độc lắng máu tăng.
- Sợi huyết tăng.
- Phản ứng lên bông (dương tính).
- Điện di Protein: Albumin giảm, Globulin tăng, tỷ lệ A/G đảo ngược.
1.2.4.2. Dịch khớp
Mucin giảm rõ rệt, giảm độ nhớt; bạch cầu đa nhân trung tính tăng, trong
bào tương của nó có nhiều hạt nhỏ (gọi là tế bào hình nho) [1],[7].
1.2.4.3. Các xét nghiệm miễn dịch
Một số phản ứng đặc hiệu tìm thấy có giá trị cao trong chẩn đoán và tiên
lượng bệnh [1],[7]:



8

- Waaler-Rose và/hoặc Latex (dương tính). Nếu dùng dịch khớp để xét
nghiệm sẽ có độ dương tính cao và sớm hơn so với máu.
- Một số trường hợp có thể tìm thấy tế bào Hargrave, kháng thể kháng nhân.
- Yếu tố dạng thấp RF (Rheumatoid Factor) dương tính khi đậm độ pha
loãng huyết thanh từ 1/32 trở lên.
- Các kháng thể Anti- CCP (Cyclic Citrullinated Peptid) xuất hiện sớm,
khi dương tính có giá trị tiên lượng hủy hoại khớp. Khi có mặt đồng thời với
RF thì độ đặc hiệu trong VKDT rất cao.
1.2.4.4. Sinh thiết màng hoạt dịch
Áp dụng trong các trường hợp khó, mục đích để chẩn đoán VKDT thể
một khớp [1],[7]:
Thường được tiến hành ở khớp gối. Thấy 5 loại tổn thương như sau:
- Sự tăng sinh các hình lông của màng hoạt dịch.
- Tăng sinh của lớp tế bào phủ hình lông, từ một lớp phát triển thành
nhiều lớp.
- Xuất hiện những đám hoại tử giống như tơ huyết.
- Tăng sinh nhiều mạch máu tân tạo ở phần tổ chức đệm.
- Thâm nhập nhiều tế bào viêm quanh các mạch máu mà chủ yếu là tế
bào Lympho và Plasmocyt.
(Khi thấy có 3 tổn thương trở lên có thể hướng đến chẩn đoán xác định VKDT).
1.2.4.5. X Quang
* Giai đoạn đầu thấy tình trạng mất vôi ở đầu xương và cản quang ở
phần mềm quanh khớp.


9


* Sau một thời gian thấy xuất hiện những hình khuyết nhỏ hoặc bào mòn
xương phần tiếp giáp giữa sụn khớp và đầu xương, khe khớp hẹp lại do sụn
khớp bị tổn thương.
* Sau cùng là huỷ hoại phần sụn khớp và đầu xương gây nên tình trạng
dính khớp, biến dạng khớp.
1.2.5. Tiến triển, biến chứng và tiên lượng
● Tiến triển chung
Bệnh thường kéo dài nhiều năm, phần lớn có tiến triển từ từ, tăng dần,
nhưng có khoảng 25% trường hợp có các giai đoạn lui bệnh rõ rệt. Hiếm thấy
khỏi hẳn. Nói chung, VKDT là một bệnh mạn tính với các đợt tiến triển khó
dự đoán. Bệnh có thể tiến triển nặng lên khi bị nhiễm khuẩn, lạnh, chấn
thương, phẫu thuật [1].
● Giai đoạn bệnh
Theo Steinbroker, dựa vào chức năng vận động và tổn thương X.Quang,
quá trình tiến triển của bệnh VKDT được chia làm 4 giai đoạn [1],[7]:
* Giai đoạn I:
Tổn thương khu trú ở màng hoạt dịch, sưng đau chỉ ở phần mềm,
X.Quang chưa thấy thay đổi, bệnh nhân còn vận động gần như bình thường,
vẫn có khả năng thực hiện được nghề nghiệp của mình.
* Giai đoạn II:
Đau và cứng một hoặc nhiều khớp, khả năng vận động bị hạn chế, tay
còn cầm nắm được nhưng đi lại phải chống gậy, nạng. X.Quang có hình
khuyết, khe khớp hẹp.


10

* Giai đoạn III:
Khả năng vận động hạn chế nhiều, BN chỉ tự phục vụ được mình trong
sinh hoạt. X.Quang thấy khớp biến dạng và dính một phần.

* Giai đoạn IV:
Mất hết chức năng vận động, phải có người phục vụ. Trên X.Quang thấy
khớp dính và biến dạng nặng.
Theo thống kê của Bệnh viện Bạch Mai [4], sau 10 năm bị bệnh, có
khoảng 50% ở giai đoạn I và II, 40% ở giai đoạn III và 10% ở giai đoạn IV.
● Biến chứng thường gặp: lao, nhiễm trùng khác, các tai biến do dùng
thuốc điều trị VKDT, chèn ép thần kinh, viêm dính khớp và dây chằng, các
biến chứng tim, thận, mắt hiếm gặp.
●Tiên lượng: phụ thuộc nhiều yếu tố, bệnh thường nặng nếu có biểu
hiện nội tạng, số khớp viêm nhiều, chẩn đoán và điều trị muộn.
1.2.6. Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh VKDT
Đã có nhiều tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh VKDT như: tiêu chuẩn của Hội
thấp khớp Mỹ năm 1958 (ARA 1958), Roma 1961, New York 1966, tiêu
chuẩn Roma cải tiến của Zvereva 1983, và gần đây nhất là tiêu chuẩn ACR
(American College of Rheumatology) 1987 [1].
Trong phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi chỉ xin nêu tiêu chuẩn ACR
năm 1987 (là tiêu chuẩn hiện nay được cả thế giới sử dụng) [7].
Tiêu chuẩn chẩn đoán VKDT của Hội thấp khớp Mỹ ACR năm 1987
Hội Thấp khớp Mỹ năm 1987 đưa ra 7 tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh VKDT,
trong đó có 5 tiêu chuẩn lâm sàng và 2 tiêu chuẩn cận lâm sàng [1]:
1. Cứng khớp buổi sáng kéo dài trên một giờ.


11

2. Viêm tối thiểu 3 trong 14 khớp sau: khớp ngón tay gần, bàn ngón tay,
cổ tay, khuỷu, gối, cổ chân, bàn ngón chân (2 bên) được thăm khám, xác định
bởi thầy thuốc chuyên khoa.
3. Sưng tối thiểu 1 trong 3 vị trí sau: khớp ngón gần, bàn ngón tay, cổ tay.
4. Có tính chất đối xứng.

5. Hạt dưới da.
6. Tìm thấy yếu tố dạng thấp trong huyết thanh (kỹ thuật đạt độ đặc hiệu 95%).
7. Hình ảnh X.Quang điển hình (chụp bàn tay thấy hình bào mòn, mất
vôi thành dải).
Thời gian diễn biến của bệnh phải từ 6 tuần trở lên. Chẩn đoán xác định
khi có từ 4 tiêu chuẩn trở lên.
1.2.7. Tình hình điều trị
* Nguyên tắc chung [1],[7]:
- VKDT là một bệnh mạn tính kéo dài nhiều năm, đòi hỏi quá trình điều
trị phải kiên trì, liên tục, có khi suốt cả cuộc đời người bệnh.
- Kết hợp nhiều biện pháp điều trị như nội khoa, ngoại khoa, vật lý chỉnh
hình, tái giáo dục lao động nghề nghiệp. Thời gian điều trị chia làm nhiều giai
đoạn (nội trú, ngoại trú, điều dưỡng) và phải có người chuyên trách theo dõi
bệnh nhân lâu dài.
* Mục tiêu (Amor,1983) [7]
- Điều trị triệu chứng bằng các thuốc chống viêm (Steroid hoặc không
Steroid), các thuốc giảm đau.
- Điều trị bệnh bằng các thuốc DMARD’s (thuốc điều trị cơ bản bệnh)
- Chỉnh hình, dự phòng, phẫu thuật, phục hồi chức năng.


12

- Điều trị biến chứng do thuốc điều trị.
- Giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội cho bệnh nhân.


13

* Một số thuốc giảm đau, chống viêm thường được sử dụng hiện nay:

+ Thuốc dùng đường uống hoặc tiêm truyền như:
‣ Các thuốc chống viêm Glucocorticoid; Thuốc chống viêm không
Steroid (CVKS): (Diclofenac, Piroxicam, Meloxicam, Celecoxib).
‣ Điều trị triệu chứng đau theo hình tháp 4 bậc (sơ đồ 1.2):

Can thiệp
phẫu thuật
Các thuốc chống viêm
không steroid
.Các thuốc giảm đau thông
thường: Paracetamol
Tư vấn giáo dục kiến thức cho bệnh nhân về cách phòng và điều
trị bệnh; điều trị vật lý trị liệu; cung cấp thiết bị trợ giúp như nẹp
chỉnh hình; giảm cân và luyện tập…
Sơ đồ 1.2: Tháp điều trị giảm đau trong bệnh khớp
+ Hiện nay trên thị trường còn có các dạng thuốc dùng ngoài da (bôi,
đắp, dán) có tác dụng giảm đau như:
-Voltaren (gel bôi 1%).
-Diclofenac (gel bôi 1%).
- Salonpas (gel, tuýp).
- Gấu Misa (tuýp).


14

1.3. Viêm khớp dạng thấp theo Y học cổ truyền
Bệnh VKDT nằm trong phạm vi chứng tý của YHCT, do phong, hàn,
thấp, nhiệt làm bế tắc sự vận hành của khí huyết ở kinh mạch gây nên các
triệu chứng như: các khớp xương đau (do thống tất bất thông), co rút, tê bì
hoặc sưng và nóng. Bệnh diễn biến lâu ngày và tái phát nhiều lần làm ảnh

hưởng đến can thận gây biến dạng khớp và teo cơ gây cản trở sự hoạt động
của khớp [8].
Tài liệu ghi chép về chứng tý sớm nhất thấy trong sách nội kinh đã nêu:
“3 thứ tà khí: phong, hàn, thấp cùng hợp lại gây ra chứng tý”. Đồng thời trong
sách nội kinh lại ghi rằng: “Sự cảm thụ 3 thứ tà khí đó lại có sự thiên thắng
nên khi biểu hiện bệnh có sự khác nhau”, được chia thành: phong tý (hành tý),
hàn tý (thống tý), thấp tý (trước tý) và trong đợt tiến triển, các khớp có sưng,
nóng, đỏ thì thành nhiệt tý.
1.3.1. Nguyên nhân
Theo quan niệm của YHCT [8], do vệ khí yếu, tấu lý sơ hở, ba thứ tà
khí (phong, hàn, thấp) thừa cơ xâm nhập vào hệ thống kinh lạc, cân,
xương, gây nên sự bế tắc ở kinh lạc, làm cho sự lưu thông khí huyết bị
thất thường từ đó sinh ra bệnh. Có trường hợp 3 thứ tà khí này khi xâm
nhập vào cơ thể, lại sẵn có nhiệt phục gây ra chứng nhiệt tý; hoặc 3 thứ tà
khí này nhất là thấp tà lâu ngày uất trệ hoá nhiệt cũng gây nên nhiệt tý.
Nếu bệnh khớp lâu ngày không được điều trị, bệnh tái phát nhiều lần sẽ
gây tổn thương đến tạng phủ (can, thận, tỳ).
1.3.2. Phân loại theo thể bệnh
Dựa vào nguyên nhân gây bệnh, bệnh phong thấp được chia làm 2 thể
lớn là phong thấp hàn tý và phong thấp nhiệt tý [9], [10], [8].


15

1.3.2.1. Thể phong thấp hàn tý
Theo Thiên Tố Luận sách Tố Vấn nói: “Ba khí: phong, hàn, thấp thường
đến hợp thành chứng tý”; lại nói: “Vì ăn, uống không đầy đủ hoặc ở chỗ ẩm
thấp, hoặc vì dãi nắng dầm mưa làm giảm sức chống đỡ của cơ thể, do đó tà
khí nhân chỗ yếu mà lấn vào làm cản trở kinh lạc”. Biểu hiện: tứ chi, các
khớp đau nhức ( khớp bàn ngón tay, khớp cổ tay, khuỷu tay, đầu gối, cổ chân),

nhất là các khớp lớn đau rõ hơn, ít sưng nóng đỏ, BN thường có cảm giác
nặng nề chân tay, sợ lạnh, sợ gió, chườm nóng dễ chịu, rêu lưỡi trắng nhớt,
chất lưỡi ít thay đổi, mạch huyền khẩn hoặc phù hoãn [9], [10], [8].
Pháp điều trị: tán hàn, khu phong, trừ thấp, thông kinh hoạt lạc.
Thể chất mỗi người một khác nên sự cảm thụ tà khí gây bệnh cũng khác
nhau, cho nên trên lâm sàng phân thành 3 thể:
- Nếu phong thắng gọi là phong tý (hành tý), các khớp đau di chuyển, co
duỗi khó, sợ gió, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù. Tính của phong là di chuyển.
Kỳ Bá nói: “Khi phong khí ở trong khoảng bì phu thì trong không thể thông,
ngoài không thể tiết, nó dẫn đi rất nhanh và biến đổi luôn làm tấu lý mở rộng”.
- Nếu hàn thắng gọi là hàn tý (thống tý): các khớp đau dữ dội cố định, co
duỗi khó khăn, sợ lạnh, gặp nóng đỡ, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch nhu hoãn.
Tính của hàn là ngưng trệ, ít di động. Trương Cảnh Nhạc nói: “Khí âm hàn
khi xâm nhập vào khoảng da thịt, gân xương thì ngưng kết lại, dương khí
không lưu hành được nên đau”.
- Nếu thấp thắng gọi là thấp tý (trước tý): các khớp đau, đau cố định
mang tính co rút, chân tay nặng nề, khó vận động, khớp biến dạng, chất lưỡi
nhợt, rêu trơn, mạch nhu hoãn. Thấp tà tính năng trì trệ. Trương Cảnh Nhạc
nói: “Thấp tý thì thân thể nặng nề, đau nhức, tê dại, không di dịch, thấp tà là
theo thổ hoá nên phần nhiều phát ở cơ nhục”.


16

Bàn về tà khí phong hàn thấp, Tuệ Tĩnh nói: “Tê thấp là mình mẩy khớp
xương không nóng đỏ mà tự dưng phát đau, có khi không cựa được. Nguyên
nhân do nguyên khí hư yếu, phong thấp hàn xâm nhập vào mà sinh bệnh. Ba
khí ấy vào kinh lạc trước, sau đó vào xương làm cử động khó khăn, vào mạch
làm huyết trệ, vào gân làm co lại, vào nhục thì tê dại, vào da gây lạnh”[11].
1.3.2.2. Thể Phong thấp nhiệt (nhiệt tý) .

Do phong thấp hàn uất lại hoá hoả, hoặc do nhiệt chứa ở kinh lạc, phong
hàn bế ở ngoài [9],[10],[8].
Sách Kim Quỹ nói: “Chứng nhiệt tý là bế thấp nhiệt ở trong, nguyên
tạng phủ kinh lạc đã sẵn có nhiệt lại gặp phong thấp hàn lấn vào, nhiệt bị uất,
hàn khí không thông, lâu ngày hàn cũng hoá nhiệt thành “nhiệt tý”. Biểu hiện
các khớp xương ở bàn ngón tay- chân, cổ tay, khuỷu tay, đầu gối, cổ chân
sưng nóng đỏ đau, không co duỗi được, tại chỗ rát, phát sốt, ra mồ hôi, sợ
nóng, phiền táo, rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác.
Pháp điều trị: thanh nhiệt giải độc, khu phong trừ thấp.
* Dù là thể phong thấp hàn hay phong thấp nhiệt, nếu diễn biến kéo dài
cũng đều ảnh hưởng đến công năng hoạt động của các tạng can, thận, tỳ gây
biến dạng, teo cơ, dính cứng khớp. Vương Chí Lan nói: “Ở những người âm
hư, ôn tà uất lại thành nhiệt gây chứng nhiệt thắng. Dương hư sinh chứng hàn
thắng. Âm dương lưỡng hư mà ôn tà lâu ngày thành hàn nhiệt thác tạp. Ba loại
này không điều trị kịp thời sẽ thương tổn đến tạng phủ. Đầu tiên tổn thương tỳ,
can, thận, dần dần hình thành cơ nhục teo, cân co quắp, gân cốt co cứng, tái
diễn nhiều lần dẫn đến xương khớp biến dạng”. Lúc này pháp điều trị phải bổ
khí huyết, bổ can thận kết hợp khu phong trừ thấp, thông kinh lạc.


17

1.3.3. Tình hình điều trị
1.3.3.1. Nguyên tắc và phương pháp điều trị.
* Nguyên tắc chung là khu trừ ngoại tà, thông kinh lạc [12],[13],[14].
- Chữa phong thấp hàn tý thì phương pháp kết hợp khu phong, tán hàn, trừ
thấp, mà phân biệt cái nào là chủ yếu, cái nào thứ yếu để chữa. Như phong tý thì
khu phong là chính, thấp tý thì trừ thấp là chính, hàn tý thì tán hàn là chính.
- Chữa nhiệt tý chủ yếu thanh nhiệt là chính kết hợp với khu phong trừ
thấp thông kinh lạc.

- Hải Thượng Lãn Ông nói “Chữa phong nên bổ huyết, chữa hàn nên bổ
hoả, chữa thấp nên kiện tỳ” [12],[14].
- Đối với bệnh đã lâu, khí huyết hư suy, can thận suy kém phép chữa
phải bổ khí huyết, tu dưỡng can thận.
* Phương pháp điều trị
Tương đương với YHHĐ, Y học cổ truyền cũng có các phương pháp
dùng thuốc uống trong; thuốc bôi, đắp ngoài và các phương pháp không dùng
thuốc như: châm cứu, xoa bóp- bấm huyệt, phục hồi chức năng…
1.3.3.2. Sơ lược phương pháp điều trị bằng thuốc Y học cổ truyền
Thuốc điều trị phong thấp của YHCT chủ yếu chứa các thành phần hoạt
chất như: tinh đầu, Flavon, Saponin, Alkaloid, có tác dụng chống viêm giảm
phù nề, tiêu sưng, giảm đau, chống dị ứng và bổ dưỡng [15].
* Thuốc uống:
Có rất nhiều vị thuốc, bài thuốc được dùng để điều trị chứng tý. Trong
phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi chỉ xin nêu một số bài thuốc cổ phương
thường dùng [16], [17], [18], [19], [11], [20].


18

- Đối với thể phong thấp hàn tý:
٠Pháp điều trị là tán hàn, khu phong, trừ thấp, thông kinh hoạt lạc.
٠Bài thuốc cổ phương:
Nếu phong thắng (hành tý): Phòng phong thang (Hoà Tễ Cục Phương).
Nếu hàn thắng (thống tý): Ô đầu thang (Kim Quỹ).
Nếu thấp thắng (trước tý): Ý dĩ nhân thang (Trương Thị Y Thông).
- Đối với thể phong thấp nhiệt tý:
٠Pháp điều trị là thanh nhiệt giải độc, khu phong trừ thấp.
٠Bài thuốc cổ phương:
Thể vừa: Quế chi thược dược tri mẫu thang (Kim Quỹ).

Thể nặng: Quế chi bạch hổ thang (Kim Quỹ).
- Đối với chứng tý lâu ngày ảnh hưởng đến khí, huyết, can, thận:
٠Pháp điều trị là bổ khí huyết, bổ can thận, khu phong trừ thấp thông kinh lạc.
٠Bài thuốc cổ phương: Độc hoạt tang ký sinh thang (Thiên Kim Phương).
* Thuốc đắp bó ngoài, thuốc xoa ngoài hoặc bôi tẩm lên khớp sưng.
+ Từ thế kỷ XIV, Tuệ Tĩnh đã biết sử dụng các vị thuốc nam sẵn có để
đắp, chườm vào các khớp xương bị sưng đau do tê thấp [21] như:
٠Bài 1:

Giấm tốt 1 bát; Hành 1 nắm

Đem nấu sôi một dạo, lấy khăn vải nhúng ướt rồi chườm vào khớp sưng
đau.
٠Bài 2:

Hột cải tán bột, hòa với lòng trắng trứng gà mà bôi, ngoài lấy

lụa buộc lại, ngày thay một lần.


19

٠Bài 3:

Hoa cúc; Lá ngải

Hai thứ bằng nhau, giã nát, lấy bông buộc thuốc vào đầu gối.
+ Trong cuốn sách “Thuốc nam dùng trong gia đình” [22] giới thiệu một
số bài thuốc nam kinh nghiệm dùng ngoài dưới dạng đắp lá tươi có hiệu quả
cao như:

٠Bài 1:

Lá xoan tươi, Lá na tươi, Bồ hóng bếp

Ba thứ bằng nhau, giã nhỏ cho vào sào nóng, để nguội dần đến khi ấm
thì đắp vào nơi sưng đau. Ngày đắp 2 lần.
٠Bài 2:

Lá na tươi 10g, Quả đu đủ tươi 10g, Vôi đã tôi với muối 5g

Các thứ giã nhỏ đắp vào chỗ sưng, đau.
+ Bên cạnh đó, các thuốc dùng ngoài cũng đã được nghiên cứu bào chế
theo quy trình công nghệ cao để tạo ra những chế phẩm sử dụng thuận tiện. Có
một số dạng bào chế cơ bản đối với thuốc điều trị chứng sưng đau tại khớp như:
- Cao thuốc: là những dạng thuốc dùng nước để nấu dược liệu rồi cô đặc
đến mức độ nhất định.
Ví dụ: Cao dán Thiên Hương của bệnh viện YHCT Trung Ương.
Bạch hổ hoạt lạc cao của công ty đông nam dược Bảo Linh
Cao dán Hero của Nhật Bản.
- Cồn thuốc hoặc rượu thuốc: là dạng thuốc thể lỏng được bào chế bằng
cách dùng cồn hoặc rượu để rút hoạt chất của được liệu theo tỷ lệ nhất định.
Ví dụ: Cồn xoa bóp (địa liền, giềng, huyết giác, thiên niên kiện, đại hồi,
quế, ô đầu, camphor) của công ty cổ phần dược phẩm OPC.
Cồn Boneal Cốt Thống Linh của Trung Quốc.


20

1.3.4. Một số nghiên cứu về thuốc điều trị giảm đau, chống viêm dùng
trong điều trị chứng phong thấp (chứng tý) của YHCT.

1.3.4.1. Nghiên cứu thực nghiệm
- Năm 1981, Viện dược liệu Trung Ương nghiên cứu tác dụng của bài
thuốc chữa thấp khớp gồm: hà thủ ô, thổ phục linh, thiên niên kiện, hương
phụ, quế chi, cỏ xước, ngải cứu, cà gai, lá lốt, vòi voi, bạc thau bằng thực
nghiệm, kết quả cho thấy: Bài thuốc có tác dụng chống viêm cấp tính, có tác
dụng trên quá trình viêm mạn tính, tác dụng làm teo tuyến ức chuột cống non,
biểu hiện tác dụng của thuốc chống viêm có cấu trúc Steroid.
- Đỗ Trung Đàm [23],[24],[25], nghiên cứu tác dụng của bài thuốc chữa
thấp khớp SASP – 5221 (hy thiêm, ngưu tất, thổ phục, lá lốt) trên thực
nghiệm và chứng minh thuốc có tác dụng chống rỉ dịch mạnh, chống tăng
sinh khá, tác dụng hạ sốt vừa phải nhưng kéo dài, làm giảm lượng serotonin
và tăng hàm lượng Dopamin - một chất có tác dụng điều hòa viêm.
- Đỗ Trung Đàm (1996), nghiên cứu vài trò của Thổ phục linh trong các
bài thuốc chữa thấp khớp và cho thấy: Thuốc có tác dụng chống viêm cấp tính
và tác dụng chống viêm mạn tính [26],[27].
- Nguyễn Thị Vân Thái [28] nghiên cứu tác dụng giảm đau, tiêu viêm
của Tiếp cốt thảo (TCT) trên thỏ, chuột nhắt và chuột cống cho thấy: Thuốc
có tác dụng giảm đau, tiêu viêm rõ. Đặc biệt, sử dụng TCT dưới dạng thuốc
đắp ngoài kết hợp uống đạt kết quả tốt hơn so với đơn thuần uống hoặc đắp.
- Năm 1999, Nguyễn Quang Vinh, Đỗ Trung Đàm, Nguyễn Thị Dung
nghiên cứu tác dụng giảm đau của cao “Thấp khớp II” trên mô hình gây đau
thực nghiệm bằng acid acetic [29].


21

1.3.4.2. Nghiên cứu lâm sàng
* Một số nghiên cứu lâm sàng đánh giá tác dụng của bài
thuốc YHCT:
- Năm 1976, Đoàn Thị Nhu, Đỗ Kim Chi, Nguyễn Ninh Hải nghiên

cứu dược liệu Ngưu tất, Hy thiêm, Thiên niên kiện về tác dụng chống
viêm cho thấy: Thuốc có tác dụng chống viêm trên mô hình gây phù thực
nghiệm chân chuột bằng kaolin, có tác dụng làm giảm trọng l ượng tuyến
ức chuột cống non nhưng yếu [30].
- Năm 1986, Đỗ Thị Phương đánh giá bài thuốc của viên Hyđan (Hy
thiêm, ngũ gia bì, mã tiền chế) do xí nghiệp dược phẩm Thanh Hoá sản xuất.
Kết quả tốt, khá là 80% và thuốc có tác dụng tốt trên bệnh nhân thể phong
thấp nhiệt tý, điều trị VKDT giai đoạn I-II [31].
- Năm 1992, Hoàng Bảo Châu và cộng sự nghiên cứu tác dụng chống
viêm giảm đau của bài “Độc hoạt II” (Độc hoạt tang ký sinh bỏ phòng phong,
tế tân, tần giao, tang ký sinh, bạch linh, bạch thược, gia hy thiêm, thổ phục
linh, hà thủ ô, kê huyết đằng, cốt toái, can khương, kim ngân). Tác giả cho
thấy thuốc có khả năng chống viêm giảm đau với thấp khớp, tỷ lệ tốt và khá là
75%. Thuốc có tác dụng tốt với thể phong thấp hàn tý [32].
- Năm 1997, Phạm Quốc Toán đánh giá tác dụng bài thuốc “Thấp khớp
II” điều trị viêm khớp dạng thấp giai đoạn I và II, thấy bài thuốc có tác dụng
chống viêm, giảm đau trên bệnh nhân VKDT giai đoạn I và II. Bài thuốc Thấp
khớp II không độc, không gây ra các tác dụng không mong muốn [33].
- Năm 2004, Nguyễn Thị Lan Trang [34] đánh giá tác dụng điều trị của
viên nang “Thấp khớp” trong bệnh VKDT cho thấy: thuốc có tác dụng chống
viêm, giảm đau, tăng cường khả năng vận động khớp (với p<0,001).


22

* Một số nghiên cứu lâm sàng đánh giá tác dụng của thuốc dùng ngoài
- Cồn đắp Cốt Thống Linh đã được nghiên cứu thực nghiệm và trên lâm
sàng tại các cơ sở Y tế của Trung Quốc, thuốc được đưa vào thị trường Việt Nam
từ đầu năm 2007, hiện đang được sử dụng tại khoa Cơ Xương Khớp –Bệnh
Viện Bạch Mai và một số bệnh viện khác trong toàn quốc.

- Nguyễn Quang Vinh (2002) nghiên cứu tác dụng giảm đau của cao dán
Hero trên bệnh nhân đau khớp, thấy tác dụng giảm đau có ý nghĩa thống kê ở
ngày thứ nhất đến ngày thứ 5 (với p< 0.05). Mức độ giảm rõ rệt nhất ở ngày
đầu tiên (với p<0.01). Tác giả kết luận: “ có thể dùng cao dán này để hỗ trợ
điều trị các bệnh nhân đau khớp [35].
- Nguyễn Thị Thanh Tú (2005) đánh giá tác dụng giảm đau của cao dán
Thiên Hương trong điều trị bệnh đau dây thần kinh toạ thấy có tác dụng giảm
đau tốt, sử dụng an toàn, tiện lợi. Tác giả khuyến nghị có thể nghiên cứu cao
dán này trên những mặt bệnh khác nhau [36].
1.4. Giới thiệu về cây Hoàng Kinh và các nghiên cứu đã có
1.4.1. Giới thiệu về cây thuốc Hoàng kinh
* Tên khoa học: Vitex Negundo.L

Hình 1: Cây Hoàng kinh


23

* Phân bố của cây Hoàng kinh ở Việt Nam:
Ở Viêt Nam, Hoàng kinh phân bố rộng rãi ở hầu hết các tỉnh thuộc vùng
núi thấp, trung du, đôi khi ở vùng đồng bằng 2 miền Bắc, Nam [37]. Hoàng
kinh mọc hoang và được trồng ở các tỉnh như Lạng Sơn, Quảng Ninh,
TháiNguyên, Hà Nội, Ninh Bình, Thanh Hoá, Quảng Nam, Đà Nẵng, Bình
Định, Tiền Giang, Kiên Giang, Đăk lăk [38].
* Một số công dụng của Hoàng kinh
- Hoàng kinh có vị the đắng, mùi thơm, làm lưu thông huyết mạch, trừ
thấp, trừ ho, kích thích tiêu hoá. Lá Hoàng kinh được sử dụng nhiều hơn cả
[37].
- Lá Hoàng kinh được dùng chữa cảm mạo, sốt, nhức đầu, ngạt mũi, ho,
chữa phong thấp tê bại, gân xương đau nhức, đau thần kinh toạ. Lá giã đắp

chữa đau thấp khớp, viêm và bong gân [37],[39],[40].
- Liều dùng: 40-80g tươi/ngày hoặc 16-40g lá khô dưới dạng thuốc sắc [37].
* Các nghiên cứu về cây Hoàng kinh
Cây Hoàng kinh đã được nhiều nước nghiên cứu về thực vật, thành phần
hoá học và tác dụng dược lý.
- Về thành phần hoá học, các nghiên cứu cho thấy rằng:
+ Lá chứa nhiều flavonoid như: 5, 6, 7, 8, 3’, 4’, 5’- heptamethoxyflavon, 5hydroxyl- 6, 7, 8, 3’- pentamethoxyflavon, 5- hydroxyl- 6, 7, 8, 3’, 4’, 5’hexamethoxyflavon, 5-hydroxy-6,7,8,4’-tetramethoxyflavon, 5-hydroxy-7, 3’,
4’,5’-tetramethoxyflavon, 4’-pentamethoxyflavan, 3, 5- dihydroxy- 3’, 4’, 6, 7tetramethoxyflavonol, 5, 3’- dihydroxy-7, 8, 4’- trimethoxyflavanon, 5, 3’dihydroxy-6, 7, 4’-trimethoxyflanon [37],[38].
+ Cành chứa: 3, 6, 7, 3’, 4’-Pentanmethoxy-5-O- glucopyra-nosylrhamnoside; 4’-O-beta-D-galactosyl; beta-D- galactopyranoside; Methyl
leucodelphindin ether; Leucocyanidin-7-O-rhamnoglucoside; 6-C-glycosyl-5-Orhamnopy-ranosyl -trimethoxywogonin;Acerosin-5-O-glucoside monoacetate
[37], [38], [41].


24

+ Hạt chứa: 3β -acetoxyolean-12-en-27-oic acid; 2α, 3α-dihydroxyoleana5,12-dien-28-oic acid; 2β,3α diacetoxyoleana-5,12-dien-28-oic acid; 2α, 3βdiacetoxy-18-hydroxyoleana-5,12-dien-28-oic acid, vitedoin-A; vitedoin-B; a
phenylnaphthalene-type lignan alkaloid, vitedoamine-A; five other lignan
derivatives, 6-hydroxy-4-(4-hydroxy-3- methoxy-phenyl)-3-hydroxymethyl-7methoxy-3,4-dihydro-2 naphthaldehyde, β-sitosterol; p-hydroxybenzoic acid; 5oxyisophthalic acid; n-tritriacontane, n-hentriacontane; n-pentatriacontane; nnonacosane [37],[38],[41],[42].
+ Rễ chứa: 2β, 3α-diacetoxyoleana-5,12-dien-28-oic acid; 2α,3αdihydroxyoleana-5,12-dien-28-oic acid; 2α,3β -diacetoxy-18-hydroxyoleana-5,12dien-28-oic acid; vitexin and isovitexin, negundin-A; negundin-B; (+)diasyringaresinol; (+)-lyoniresinol; vitrofolal-E and vitrofolal-F, acetyl oleanolic acid;
sitosterol; 3-formyl-4.5-dimethyl-8- oxo-5H-6,7-dihydronaphtho (2,3-b)furan [37],
[38],[41],[42].
+ Tinh dầu từ lá tươi, hoa và quả khô chứa: δ-guaiene; guaia-3,7dienecaryophyllene epoxide; ethyl-hexadecenoate; α-selinene; germacren-4-ol;
caryophyllene epoxide; (E)-nerolidol; β-selinene; α-cedrene; germacrene D;
hexadecanoic acid; p-cymene and valencene [37],[38],[41].
- Về tác dụng dược lý:
Hoàng kinh có rất nhiều tác dụng như chống ho; ức chế in vitro các
chủng vi khuẩn tụ cầu vàng, liên cầu tan máu, E.Coli; tác dụng chống nấm
của cao lá Hoàng kinh đã đươc chứng minh trong thực nghiệm in vitro và in
vivo. Ngoài ra lá Hoàng kinh còn có tác dụng chống viêm, chống sưng đau
khớp [37],[38],[39]. Tác dụng chống viêm của HK hiện nay đang được rất

nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm [40],[41],[42].
Những nghiên cứu về tác dụng chống viêm của Hoàng kinh đã cho thấy
nước sắc lá Hoàng kinh có tác dụng dự phòng phát triển sưng khớp trong viêm
khớp thực nghiệm gây bằng tiêm formaldehyd ở chuột cống trắng [37]. Các chất
chiết xuất từ lá của cây Hoàng kinh có tác dụng ức chế prostaglandin- chất trung
gian hoá học của quá trình viêm. Do đó làm giảm viêm và giảm cảm giác đau.
Nghiên cứu còn cho thấy dịch chiết của lá Hoàng kinh không làm thay đổi hình


25

thái mô học của dạ dày ngay cả khi dùng liều độc hại. Điều này được cho là do
ức chế chọn lọc COX- 2 [41],[42].
1.4.2. Tổng quan về cao lỏng Hoàng kinh:
* Quy trình bào chế
Cao lỏng Hoàng kinh được bào chế từ cành và lá khô của cây Hoàng
kinh.
Quy trình: Cành và lá Hoàng kinh được thu hái tại Sóc Sơn, Hà Nội.
Phơi khô, cắt nhỏ, cho vào túi vải, để vào nồi chiết, đổ ngập nước, đun sôi (sử
dụng nguồn nhiệt là hơi), để sôi trong 4 tiếng, chắt ra, để lắng cặn, gạn, lọc
phần nhựa lắng ở đáy và nhựa bám thành nồi được dịch chiết 1. Tiếp tục quy
trình trên được dịch chiết 2, trộn dịch chiết 1 và 2 cho vào nồi cô chân không
đến khi được tỷ trọng 1,06 là được cao lỏng tỷ lệ 1:1 (1g dược liệu tương
đương 1ml cao). Hòa acid benzoic 1% theo tỉ lệ 1g benzoic với 1 lít cao, được
cao lỏng Hoàng kinh.
Sơ đồ 1.3. Qui trình bào chế cao lỏng Hoàng kinh
Cành và lá Hoàng kinh cắt nhỏ

Chiết với nước trong 4h, lọc và chiết 2 lần
Bã dược liệu


Dịch chiết 1 và 2

Cho vào nồi cô chân không
Rút dịch chiết
Thêm acid benzoic 1%
Cao lỏng Hoàng kinh


×