Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

ĐÁNH GIÁ tác DỤNG điều TRỊ hội CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH BẰNG bài ‘‘bồi THỔ cố TRUNG PHƯƠNG” THỂ tỳ DƯƠNG hư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 94 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng ruột kích thích (HCRKT) là một hội chứng thường gặp của
đường tiêu hoá với các rối loạn chức năng ruột, bao gồm một nhóm các triệu
chứng như: đau bụng, trướng bụng, rối loạn đại tiện….Các triệu chứng này tái
đi tái lại nhiều lần mà không tìm thấy tổn thương về giải phẫu bệnh hoặc các
rối loạn về hoá sinh.
HCRKT là một bệnh phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Theo
nghiên cứu TIBS (Trust in Irritable Bowel Syndrome) trên 41.000 người, tại 8
quốc gia Châu Âu (Bỉ, Pháp, Đức, Italia, Tây Ban Nha, Thuỵ Sĩ, Anh và Hà
Lan) cho thấy tần suất mắc HCRKT là 11,5%, thay đổi tuỳ theo quốc gia (6%12%) [1]. Ở Việt Nam, theo Hà Văn Ngạc và cộng sự, năm 1995, tại phòng
khám của bệnh viện Trung ương Quân đội 108 tỷ lệ đó là 17,3%, tuổi 30-60
chiếm 75,2% [2]. Nguyễn Thị Tuyết Vân (2004) khảo sát 6166 bệnh nhân
thuộc bệnh lý đại trực tràng, hậu môn tại phòng khám Bệnh viện Bạch Mai
cho thấy có 83,18% mắc hội chứng ruột kích thích [3].
HCRKT là một bệnh mạn tính, bệnh tuy không nguy hiểm đến tính mạng
của người bệnh nhưng ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng cuộc sống, cũng
như đòi hỏi một chi phí khá tốn kém cho công tác khám và điều trị. Y học
hiện đại (YHHĐ) đã đạt được nhiều kết quả trong điều trị với mục tiêu làm
giảm triệu chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Tuy
nhiên việc điều trị cũng còn gặp nhiều khó khăn do cơ chế bệnh sinh của
HCRKT khá phức tạp.
Ở nước ta bên cạnh những thành tựu của YHHĐ, Y học cổ truyền
(YHCT) đã có những đóng góp tích cực trong việc phòng và điều trị
HCRKT. Theo Y học cổ truyền HCRKT thuộc phạm vi của chứng “Tiết tả”,


2

“Cửu tiết”, “Táo kết” đã được nhắc đến trong y văn cổ của Trung Quốc,


Việt Nam. Bệnh được chia làm nhiều thể: Tỳ dương hư, Can tỳ bất hoà, tỳ
thận dương hư, khí trệ. Cho đến nay đã có rất nhiều bài thuốc YHCT được
nghiên cứu, chứng minh có tác dụng điều trị HCRKT như: “Bình vị tan”,
“Viên nang Hế Mọ”, “Tứ thần hoàn”, ‘‘An trung tán”, “Điều nguyên cứu
bản thang” [4], [5], [6], [7], [8].
Trong nhiều năm gần đây Bộ Y tế đã đưa ra chủ trương khuyến khích
việc nghiên cứu ứng dụng những bài thuốc của những đại danh y Việt Nam
như: Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông…vào các cơ sở đông y nói riêng và các
cơ sở y tế nói chung. Vì vậy việc tiếp tục nghiên cứu nhằm đưa ra những số
liệu chính xác tăng thêm tính thuyết phục trong việc ứng dụng lâm sàng của
bài thuốc là cần thiết và mang ý nghĩa thực tiễn. “Bồi thổ cố trung phương” là
một trong những bài thuốc cổ phương của Hải Thượng Lãn Ông lưu truyền lại
trong tập “Hiệu phỏng tân phương” của bộ sách “Hải thượng y tông tâm lĩnh”
(tập 2). Bài thuốc có tác dụng điều trị chứng Tỳ dương hư - một chứng bệnh
có những điểm tương đồng với HCRKT theo Y học hiện đại.
Để đưa ra những minh chứng khoa học về tác dụng của bài thuốc chúng
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá tác dụng điều trị hội chứng ruột
kích thích bằng bài Bồi thổ cố trung phương thể tỳ dương hư” với 3 mục
tiêu sau:
1. Đánh giá tác dụng điều trị của bài “Bồi Thổ Cố Trung Phương” kết
hợp với Duspatalin trên bệnh nhân hội chứng ruột kích thích thuộc
thể tỳ dương hư (YHCT).
2. So sánh tác dụng điều trị của phương pháp kết hợp trên với nhóm
dùng Duspatalin đơn thuần.
3. Theo dõi các tác dụng không mong muốn của bài thuốc.


3

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN
1.1. Hội chứng ruột kích thích theo y học hiện đại
1.1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu HCRKT trên thế giới
Theo y văn thế giới HCRKT đã được biết đến từ rất lâu. Năm 1673
Guyon L đã nói đến chứng đau bụng đầy hơi. Nhưng đến đầu thế kỷ 20 chứng
bệnh này còn được gọi theo nhiều tên như viêm đại tràng mạn tính, viêm đại
tràng co thắt, viêm đại tràng tiết nhầy, viêm đại tràng nhẹ, đi ngoài phân lỏng
do xúc động... vì cho rằng nguyên nhân là do viêm ở đại tràng [9], [10], [11].
Năm 1922, Hurst cho rằng gọi viêm đại tràng là không xác đáng vì
không thấy tổn thương viêm thực thể [6], [12].
Năm 1944, Almy và Tulin đề nghị gọi là đại tràng kích thích hay rối
loạn thần kinh đại tràng [6], [12].
Năm 1962, Chaudray N.A và Truelove S.C, lần đầu tiên đã đi sâu tìm
hiểu, nghiên cứu lâm sàng của hội chứng ruột kích thích và nhận thấy rằng
không những có rối loạn chức năng ở đại tràng mà còn có rối loạn chức năng
ở khu vực ruột nói chung nên gọi chứng bệnh này là HCRKT. Thuật ngữ này
được dùng cho đến nay [5].
Năm 1989, tại hội nghị quốc tế về tiêu hoá lần thứ 13 tại Rome, đã đưa ra
tiêu chuẩn Rome (còn gọi là tiêu chuẩn Rome I) để chẩn đoán HCRKT [13].
Năm 1999, tại hội nghị quốc tế về tiêu hoá ở Rome đã đưa ra tiêu chuẩn
Rome II cho chẩn đoán HCRKT. Các tiêu chuẩn này quy định chặt chẽ hơn về
thời gian mắc bệnh và tấn số xuất hiện các triệu chứng đặc trưng [13].
Năm 2005, tại hội nghị quốc tế về tiêu hoá ở Rome đã đưa ra tiêu chuẩn
Rome III cho chẩn đoán HCRKT với các tiêu chuẩn ngắn gọn hơn nhằm mục
đích tiện sử dụng cho các bác sỹ lâm sàng [14].


4

1.1.2. Định nghĩa

Năm 1990, Thompson. W.G đã định nghĩa HCRKT như sau: Các rối
loạn chức năng của ruột tái đi tái lại nhiều lần mà không tìm thấy tổn thương
về giải phẫu, tổ chức học, sinh hoá gọi là hội chứng ruột kích thích [15], [10].
1.1.3. Cơ chế bệnh sinh [16], [17].
Cơ chế bệnh sinh của HCRKT rất phức tạp, chưa hoàn toàn sáng tỏ, các
triệu chứng thường do nhiều cơ chế bệnh sinh khác nhau gây nên.
Gần đây nhờ các kỹ thuật thăm dò trên thực nghiệm và lâm sàng đã
làm sáng tỏ các cơ chế điều chỉnh ống tiêu hoá, chủ yếu là tác động qua
lại giữa hệ thống thần kinh trung ương với hệ thống thần kinh ruột (trục
não - ruột) [18], [19].
Hiện nay người ta cho rằng HCRKT có liên quan tới ba cơ chế sau:
1.1.3.1. Sự cảm thụ bất thường chức năng ống tiêu hoá, tăng nhạy cảm
hoặc nội tạng dễ kích thích.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về những bất thường của cảm giác
nội tạng và cho đó là yếu tố nền tảng gây ra các triệu chứng của HCRKT.
Cảm thụ nội tạng được thực hiện thông qua sự hoạt hoá của đường thần kinh
hướng tâm gây ra do những kích thích tác động vào những thụ cảm thể hoá
học trên niêm mạc, vào thụ cảm thể cơ học của cơ trơn và vào thụ cảm thể
cảm giác của mạc treo ruột. Khi tiến hành đo đạc độ nhạy của các thụ cảm
thể, thấy rằng ở bệnh nhân HCRKT độ nhạy của các thụ cảm thể hoá học, cơ
học và cảm giác đều tăng hơn so với độ nhạy của người bình thường. Trong
nhiều trường hợp, còn thấy phản ứng quá nhạy của ruột trước các stress được
giải thích là do sự nhạy cảm hoá của thần kinh hướng tâm, do đó những kích
thích tâm lý mà người bình thường không cảm nhận được lại gây cảm giác
đau ở bệnh nhân HCRKT [12], [20], [21].


5

1.1.3.2. Rối loạn vận động của ruột, tăng nhu động ruột gây ỉa chảy, giảm

nhu động ruột gây táo bón.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này nhưng kết quả không
đồng nhất.
Cơ trơn của ống tiêu hóa bắt đầu từ 2/3 dưới thực quản kéo dài đến cơ
thắt trong của hậu môn. Sự co cơ trơn nhịp nhàng ở thành ruột tạo ra chênh
lệch áp lực giữa từng đoạn ruột, có tác dụng đẩy các chất trong lòng ruột đi từ
trên xuống dưới với một tốc độ thích hợp (nhu động đẩy).
Tốc độ vận chuyển các chất chứa trong ống tiêu hóa phản ánh nhu động
ruột. Vận chuyển nhanh ở ruột non làm giảm sự hấp thu ở niêm mạc và gây ỉa
lỏng. Ngược lại, vận chuyển chậm làm tăng hấp thu nước gây táo bón do đó
tạo điều kiện thuận lợi cho các vi khuẩn phát triển và lại gây ỉa chảy. Tốc
độ của nhu động đẩy trong lòng ruột không tỷ lệ thuận với sự co cơ tại
chỗ (co thắt đoạn). Ở những bệnh nhân bị táo bón, co thắt đoạn quá nhiều
trong khi đó nhu động đẩy kém nên giảm khả năng đẩy phân xuống dưới
và ra ngoài. Trong trường hợp ỉa lỏng thì ngược lại, giảm co thắt đoạn và
tăng nhu động đẩy.
Ở bệnh nhân bị HCRKT sự đáp ứng của đại tràng với thức ăn thay đổi
tuỳ theo thể bệnh nhưng thường là đáp ứng thái quá và kéo dài [12], [20].
1.1.3.3. Thay đổi sự chịu đựng của ruột, một số đoạn ruột giảm khả năng
chịu áp lực của khối thức ăn.
Ngoài ra, sự gia tăng quá mức phản ứng ống tiêu hóa với các stress tâm
lý (lo, buồn bực, trầm cảm, căng thẳng...), không dung nạp bẩm sinh với một
số thức ăn, những viêm nhiễm tiêu hoá trong tiền sử cũng đóng một vai trò
nhất định trong cơ chế bệnh sinh [12], [20], [22]. Gần đây hàng loạt trường
hợp HCRKT có liên quan tới yếu tố gia đình cũng đã được ghi nhận, kết quả


6

của một nghiên cứu ở mức độ gen, Yeo A. và cộng sự (2004) tiến hành phân

thể di truyền trên 194 bệnh nhân nữ ở Bắc Mỹ bị HCRKT thể lỏng và 448 phụ
nữ Mỹ cùng da trắng khỏe mạnh, thấy có mối liên kết có ý nghĩa giữa
HCRKT thể lỏng và kiểu di truyền ghép đoạn hoặc mất đoạn ở gen khởi động
mã cho việc tổng hợp chất vận chuyển tái hấp thu Serotonin (SERT) [23].
Pata C. và cộng sự (2005) đã tìm thấy gen khởi động của gen mã hóa cho thụ
thể 5-HT2A bị dịch chuyển, những trường hợp có sự chuyển đổi này có nguy
cơ bị HCRKT cao [24], [25].
1.1.4. Triệu chứng
1.1.4.1. Triệu chứng lâm sàng
* Triệu chứng cơ năng:
Các triệu chứng của HCRKT rất thay đổi, khác nhau ở mỗi người bệnh
và có thể diễn biến theo thời gian.
Theo các tác giả Manning A.P. (1978), Thompson W.G (1990) [26],
HCRKT có nhiều triệu chứng nhưng trong đó có 3 triệu chứng hay gặp là [27]:
- Rối loạn đại tiện: có 3 hình thái


Thay đổi số lần đại tiện: bệnh nhân đi ỉa lỏng nhiều lần trong

ngày (>3 lần/ngày), phân có nhầy trong, đi ỉa lỏng thường xảy ra từng đợt 57 ngày. Đi ỉa lỏng tăng lên khi thay đổi thức ăn, căng thẳng thần kinh.


Táo bón: số lần đi đại tiện giảm (<3 lần/tuần), phân khô, cứng,

có khi có bọc ít nhầy hoặc như phân dê, thường xảy ra từng đợt kéo dài 5 – 7
ngày. Hay kèm theo đau bụng, thời gian đi đại tiện lâu có cảm giác đại tiện
không ra hết phân [28], [29].


7




Táo bón xen lẫn đi lỏng: Bệnh nhân bị từng đợt táo bón, ỉa lỏng

xen kẽ nhau, đi lỏng có tính chất mạn tính thường xảy ra đột ngột sau ăn các
thứ đồ ăn tanh, mỡ, sữa hoặc khi thần kinh bị căng thẳng, mỗi đợt kéo dài 5 –
7 ngày, mỗi năm có nhiều đợt [30], giữa hai đợt có thể phân bình thường.
- Đau bụng: Đau có tính chất lan toả hay khu trú dọc theo khung đại
tràng. Đau âm ỉ không ở vị trí nào rõ rệt, có lúc đau dữ dội rồi trở về bình
thường. Cảm giác đau có thể giảm đi sau khi trung, đại tiện, tăng lên khi bị
táo bón.
- Trướng bụng, đầy hơi: bệnh nhân luôn có cảm giác có nhiều hơi trong
bụng, bụng ậm ạch khó chịu. Trướng bụng thường xảy sau khi ăn làm cho
bệnh nhân không muốn ăn, ăn ít, khi ợ hơi hoặc trung tiện được thì thấy dễ
chịu [31], [32].
* Triệu chứng thực thể:
Không có một triệu chứng thực thể nào đặc trưng cho HCRKT. Bệnh
thường diễn biến nhiều năm nhưng tình trạng sức khoẻ toàn thân không
thay đổi.
1.1.4.2. Cận lâm sàng
- Xét nghiệm máu: Công thức máu, sinh hóa máu trong giới hạn bình
thường.
- Xét nghiệm phân: Không có máu, không có vi khuẩn gây bệnh.
- Chụp X – quang đại tràng: Không tìm thấy hình ảnh tổn thương hoặc cấu
trúc bất thường ở đại tràng.
- Soi đại trực tràng: Niêm mạc hồng bóng, có thể có xung huyết nhẹ, tăng
tiết nhầy, tăng co thắt hoặc giảm nhu động.



8

- Sinh thiết để xét nghiệm mô bệnh học thấy niêm mạc bình thường.
1.1.5. Chẩn đoán HCRKT
Trước đây để chẩn đoán hội chứng ruột kích thích thường phải chẩn
đoán loại trừ các nguyên nhân gây tổn thương tại niêm mạc trực tràng như:
Viêm loét, bệnh crohn, polyp, ung thư...
Đã có nhiều nghiên cứu về tiêu chuẩn chẩn đoán của HCRKT đã được
công nhận và áp dụng thực tế trên lâm sàng: Tiêu chuẩn Manning (1978),
Tiêu chuẩn Rome I (1989), Tiêu chuẩn Rome II (1999), Tiêu chuẩn Rome III
(2005) [12], [13], [14].
Hiện nay tiêu chuẩn Rome II (1999), Rome III (2005) đã được áp dụng
rộng rãi ở hầu hết các nước để chẩn đoán HCRKT:
Tiêu chuẩn Rome II [13].
- Đau bụng hoặc cảm giác khó chịu xảy ra trong 12 tháng qua và ít nhất
trong 12 tuần (không nhất thiết phải liên tiếp). Có ít nhất hai trong ba đặc
điểm sau:
+ Giảm bớt sau khi đi đại tiện.
+ Kết hợp thay đổi hình dạng phân.
+ Kết hợp với thay đổi số lần đi ngoài.
- Các triệu chứng có thể giúp chẩn đoán:
+ Số lần đại tiện không bình thường (trên 3 lần/ngày hoặc dưới 3
lần/tuần).
+ Thay đổi hình dạng khối phân (nhão, lỏng, cứng).
+ Thay đổi khi tống phân (phải rặn, đại tiện gấp, cảm giác đại tiện
không hết).


9


+ Phân có nhầy mũi.
+ Bụng trướng hơi hoặc có cảm giác nặng bụng.
Trong 5 triệu chứng nói trên, nếu có một hoặc nhiều triệu chứng thường
xuyên xảy ra trong đợt đau bụng, chiếm đến ¼ thời gian của đợt gợi ý đến đau
bụng có nguồn gốc từ ruột.
Theo tiêu chuẩn Rome II biểu hiện đau, khó chịu ở bụng là những điểm
cốt yếu để chẩn đoán HCRKT và phải liên quan đến rối loạn đại tiện.
Mặt khác tiêu chuẩn Rome II cũng bao gồm một tiêu chuẩn về tần số (tái
đi tái lại) và thời gian của các triệu chứng (12 tuần trong 12 tháng). Do đó tiêu
chuẩn này có thể áp dụng cho các bệnh nhân có triệu chứng tái diễn thành
từng đợt [5].
Tiêu chuẩn Rome III: [14], [30], [33].
Thường xuyên đau bụng hay khó chịu ở bụng ít nhất 3 ngày trong 1
tháng, trong 12 tuần gần đây nhất và kết hợp ít nhất với 2 trong 3 đặc điểm
sau đây:
- Đau bụng giảm hoặc dễ chịu sau khi đi đại tiện.
- Thay đổi về số lần đi đại tiện.
- Thay đổi về hình thức và hình dạng của phân.
+ Triệu chứng giúp thêm chuẩn đoán:
- Số lần đại tiện (>3 lần/ngày hoặc < 3 lần/tuần).
- Thay đổi hình dạng khối phân (nhão, lỏng, cứng).
- Cảm giác đại tiện thay đổi: phải rặn, đại tiện gấp, cảm giác đại tiện
không hết phân.
- Phân có nhày.


10

- Bụng trướng hơi hoặc đầy bụng.
Và không phát hiện triệu chứng bệnh thực thể.

- Các triệu chứng trên xuất hiện đủ trong 3 tháng gần đây cùng với
những triệu chứng đầu tiên khởi phát trên 6 tháng trước khi chẩn đoán
bệnh. Theo dõi về tần suất đau và khó chịu ở bụng ít nhất 2 ngày/tuần và
chú ý phát hiện loại trừ triệu chứng của tổn thương thực thể là tiêu chuẩn
quan trọng nhất.
1.1.6. Điều trị
1.1.6.1. Nguyên tắc điều trị:
* Chủ yếu là điều trị triệu chứng vì: trong hầu hết các trường hợp,
không điều trị khỏi bệnh do chưa có loại thuốc nào đem lại lợi ích nổi bật cho
HCRKT và chưa có một phương thức điều trị cụ thể nào là có hiệu quả cho tất
cả bệnh nhân HCRKT
1.1.6.2. Mục tiêu điều trị:
* Giảm các triệu chứng đặc trưng nổi trội.
* Cải thiện chất lượng cuộc sống tốt hơn cho người bệnh.
Sau khi đã chẩn đoán xác định là HCRKT, cần cho bệnh nhân biết bệnh
của họ, giúp họ hiểu được thực chất căn bệnh tuy kéo dài, hay tái phát nhưng
không nguy hiểm, không đe doạ đến tính mạng để giúp người bệnh yên lòng.
Cùng BN xác định các yếu tố liên quan tới căn bệnh để phòng tránh, giúp họ
dần dần có được cuộc sống dễ chịu hơn.
1.1.6.3. Các liệu pháp không dùng thuốc [34].
* Không dùng thuốc kháng sinh trừ trường hợp bội nhiễm.
* Coi trọng các liệu pháp không dùng thuốc
- Chế độ ăn uống: quan trọng nhất, đặc biệt trong đợt đang có triệu
chứng đau bụng. Cần chú ý hướng dẫn người bệnh tìm những thức ăn không


11

thích hợp với mình. Bên cạnh đó, khuyên người bệnh nên tránh ăn quá nhiều
cùng một lúc; những thức ăn làm tăng triệu chứng co thắt, đau quặn, đầy

bụng, tiêu chảy; những thức ăn có tính kích thích mạnh (hạt tiêu, ớt, hành, cà
phê, rượu); thực phẩm có nhiều chất béo; sữa; thực phẩm để lâu bảo quản
không tốt gây khó tiêu; thức ăn sinh hơi nhiều (Đậu, hạt, bắp cải, sầu riêng,
nước uống có ga, nước hoa quả) [35].
- Chế độ luyện tập: Đòi hỏi người bệnh phải rất kiên trì công phu;
luyện đại tiện ngày một lần vào giờ nhất định, thường vào buổi sáng; massage
bụng buổi sáng để gây cảm giác đi ngoài và giúp đi ngoài dễ dàng hơn. Có thể
kết hợp với tập thể dục, tập dưỡng sinh, ngồi thiền, yoga…hợp lý rất có hiệu
quả đối với trường hợp HCRKT ở bệnh nhân tâm thể nói riêng [36].
- Liệu pháp tâm lý: Các thầy thuốc có kinh nghiệm đều có lời khuyên là:
việc điều trị tâm lý cho bệnh nhân HCRKT phải kết hợp ngay từ lúc tiếp xúc
bệnh nhân, trong cả quá trình khám bệnh, cả sau khi uống thuốc, vì bệnh nhân
rất cần được sự chia sẻ nhằm làm dịu đi căng thẳng của họ trong quá trình chữa
bệnh [36].
1.1.6.4. Điều trị bằng thuốc:
* Đau bụng: là triệu chứng khó kiểm soát nhất trong HCRKT, thường
dùng các thuốc sau:
-Thuốc chống co thắt:
+ Kháng Cholinergic: là thuốc có tác dụng đối kháng với acetylcholine
(Atropin, Scopolamin)
+ Chống co thắt hướng cơ trơn.
Mebeverine (Duspatalin), dẫn xuất từ papaverine, có tác dụng chọn lọc
qua hệ thống thần kinh thực vật trên sợi cơ trơn (khác với tác dụng chống co
thắt hướng thần kinh). Mebeverine là loại thuốc được sử dụng phổ biến trên


12

thế giới trong điều trị HCRKT do thuốc có tác dụng chống co thắt cơ trơn
nhưng không làm giảm trương lực cơ, thuốc có tác dụng bình thường hoá các

vận động của ruột (táo, lỏng) và bình thường hoá sự tăng nhạy cảm của ruột.
Tác dụng ngoài ý muốn: nổi mẩn, buồn nôn và nôn [37].
- Thuốc điều hoà chức năng vận động đường tiêu hoá: Trimebutin
(Debridat):
Đây là thuốc tác dụng trên hệ enkephalinergic bằng cách kích thích các
thể cảm thụ thể enkephalinergic ở ruột khi có rối loạn nhu động ruột, các thụ
cảm thể này có tác dụng điều hoà nhu động ruột [12], [37].
- Thuốc chống trầm cảm (như amitriptyline, imipramine, desipramin…):
Những thuốc này được sử dụng cho bệnh nhân bị HCRKT đặc biệt là những
người có triệu chứng nặng hoặc kéo dài, thường lo lắng và trầm cảm. Những
thuốc chống trầm cảm do có tác dụng huỷ phó giao cảm làm giảm nhu động
ruột nên có tác dụng giảm đau, điều hoà thần kinh và tính chất này độc lập với
tác dụng trên tâm thần của thuốc. Những thuốc chống trầm cảm phải được sử
dụng thường xuyên chứ không phải khi nào cần mới dùng, chúng được sử dụng
cho những bệnh nhân có triệu chứng hay tái đi tái lại. Thận trọng khi sử dụng
cho các bệnh nhân có bệnh tim mạch, đái tháo đường [37].
- Thuốc kháng thụ thể 5-HT3 có tác dụng làm giảm trương lực cơ ruột
sau khi ăn nên có tác dụng giảm triệu chứng đau bụng và khó chịu ở bụng.
Kháng 5-HT3 được dùng điều trị HCRKT có đau và tiêu chảy chiếm ưu thế ở
nữ giới mà đại diện là Alosetron [37].
* Tiêu chảy [12], [37]: Thường dùng các thuốc giảm nhu động ruột,
tăng tái hấp thu nước và chất điện giải trong lòng ruột vào máu. Đây là các
thuốc tổng hợp, tác dụng theo kiểu morphine do có cấu trúc tương tự
morphine. Thuốc có tác dụng nhanh, kéo dài và không có tác dụng theo kiểu
trung ương. Đại diện là các thuốc sau:


13

- Loperamide (Imodium) có tác dụng điều trị tiêu chảy nhưng không

có tác dụng giảm đau. Loperamide và những thuốc thuộc nhóm opi khác đã
được chứng minh là có hiệu quả với những bệnh nhân tiêu chảy là chủ yếu
vì có tác dụng làm giảm nhu động ruột, tăng tái hấp thu nước và chất điện
giải trong lòng ruột. Đồng thời Loperamide cũng giúp làm tăng sức chịu
đựng của bệnh nhân bằng cách tăng trương lực cơ thắt hậu môn nên làm
giảm sự gấp gáp không kiềm chế được khi bị tiêu chảy [37]. Tác dụng phụ:
nổi mẩn ở da, đau bụng, táo bón.
- Thuốc kháng thụ thể 5-HT3: thường dùng Alosetron, là một chất
kháng 5-HT3 tương đối chọn lọc và mạnh, làm chậm vận chuyển của ruột do
làm giảm tính kích thích của ruột ở bệnh nhân HCRKT, thuốc phù hợp với
phụ nữ bị HCRKT có tiêu chảy. Tác dụng phụ: dễ gây táo bón [37].
* Táo bón: dùng chất xơ, thuốc nhuận tràng, thuốc điều chỉnh vận động
ống tiêu hoá.
- Bổ xung chất xơ: được chỉ định dùng ít nhất 12g/ngày, chất xơ với
nhiều tác dụng như khả năng giữ nước, làm tăng khối lượng phân và tăng
quá trình lên men nên có hiệu quả chống táo bón tốt. Nên dùng chất xơ kéo
dài cho bệnh nhân HCRKT có táo bón nhưng phải giảm liều khi có đau hoặc
trướng bụng.
- Thuốc nhuận tràng: là thuốc làm tăng nhu động, chủ yếu ở đại tràng,
thường phải dùng nhiều ngày. Thuốc có thể kích ứng trực tiếp lên niêm mạc
ruột hoặc tác dụng gián tiếp do làm tăng khối lượng phân, hoặc do tác dụng
giữ nước, nên làm mềm phân.
+ Lactulose (Duphalac): là một disaccharid tổng hợp, không được hấp
thu, đến đại tràng bị các vi khuẩn chuyển hoá, cắt thành các acid hữu cơ, có
trọng lượng phân tử thấp, kích thích niêm mạc và gây mềm phân [37].


14

+ Macrogol (Movicol): Là polymer mạch dài có trọng lượng phân tử cao

nên giữ nước theo đường nối hydro, làm tăng thể tích và nhão phân do trọng
lượng phân tử cao nên không bị hấp thu và chuyển hoá tại ống tiêu hoá [37].
+ Anthraquinon: Các glycosid của anthraquinon có nhiều trong cây lô
hội, trong đại hoàng. Các anthraquinon bị thuỷ phân chủ yếu ở đại tràng, giải
phóng ra hoạt chất có tác dụng phong toả cation qua thành ruột, làm giữ lại
nước trong lòng ruột. Mặt khác, hoạt chất còn kích thích các nhánh thần kinh
cảm giác ở niêm mạc đại tràng, làm tăng nhu động ruột [37].
Nói chung các thuốc trên không nên dùng lâu dài, thuốc nhuận tràng trị
táo bón nhưng có thể làm tăng đau bụng và trướng bụng.
- Thuốc đồng vận 5-HT4: Tegaserod (thuốc đồng vận 5-HT4 mới) có
hiệu quả trong điều trị HCRKT với triệu chứng táo bón chiếm ưu thế.
Tegaserod sau khi gắn vào thụ thể 5-HT4 sẽ “bắt chước” tác dụng của
Serotonin [5], [37]:
+ Kích thích phản xạ nhu động ruột làm tăng vận chuyển ruột.
+ Kích thích bài tiết Cl- và nước làm giảm táo bón.
+ Ức chế dẫn truyền thần kinh hướng tâm ở ruột làm giảm cảm giác
đau bụng.
+ Kết hợp với thụ thể 5-HT4 tại các tận cùng thần kinh ở ruột, do đó
tạo xung truyền đến những nơron nằm sâu trong lớp cơ, điều hoà nhu động
ruột làm giảm trướng bụng.
Tác dụng phụ: tiêu chảy, đau đầu, choáng váng.
Tóm lại, để điều trị tốt HCRKT thầy thuốc cần phải biết kết hợp tác
động tâm lý người bệnh làm họ tin tưởng và yên tâm, kiên nhẫn hợp tác với
thầy thuốc, vừa biết sử dụng thuốc tinh tế, có cân nhắc tuỳ trường hợp. Thăm
khám kỹ, hỏi bệnh tỷ mỉ, theo dõi định kỳ nhưng tránh những kỹ thuật phức
tạp, những xét nghiệm rắc rối có thể làm cho BN quá lo lắng, ảnh hưởng đến
tâm lý chữa bệnh của người bệnh.


15


1.2. Hội chứng ruột kích thích theo y học cổ truyền
1.2.1. Khái niệm về chứng tiết tả, táo kết và mối quan hệ giữa chứng tiết
tả, táo kết với hội chứng ruột kích thích.
Trong y văn của Y học cổ truyền không có bệnh danh HCRKT, nhưng
căn cứ vào những biểu hiện lâm sàng có thể thấy HCRKT thuộc phạm vi của
chứng Tiết tả, Táo kết, Cửu tiết.
Tiết tả còn gọi là “Phú tả” tức đi ỉa nhiều lần, phân lỏng nát, thậm chí đi
ra nước không. Nội kinh cho là bệnh “Tiết” gồm có: “Nhu tiết”, “Đông tiết”,
“Trúc tiết”, các thầy thuốc đời Đường gọi là bệnh “Hạ lợi”, thời Tống tổng
quát là bệnh “Tiết tả”.
Tiết tả chủ yếu thuộc về tỳ vị và đại tiểu trường. Nguyên nhân gây
bệnh gồm: cảm thụ ngoại tà, do ăn uống quá độ, tỳ vị dương hư, mệnh môn
hoả suy và tình chí thất thường. Tuỳ theo nguyên nhân gây bệnh mà sinh ra
các chứng tiết tả cấp tính hay mạn tính. Cảm thụ ngoại tà, ăn uống quá độ
gây ra các chứng tiết tả cấp tính tức thời. Các nguyên nhân còn lại: Tỳ vị
dương hư, mệnh môn hoả suy và tình chí thất thường gây ra các chứng tiết
tả mạn tính tái diễn nhiều lần.
Táo kết đã được nhắc đến trong sách Nội kinh. Táo kết do nhiều
nguyên nhân gây ra gồm: Âm hư, huyết nhiệt, huyết hư, khí hư và khí trệ.
Trong những năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu y học Việt Nam và
thế giới, đặc biệt Trung Quốc đã đi sâu nghiên cứu và tìm mối liên hệ giữa
các triệu chứng lâm sàng của HCRKT và chứng “Tiết tả”, “Táo kết” thấy
có nhiều nét tương đồng. HCRKT tương ứng với thể hư chứng của “Tiết tả”
và thể khí trệ của “Táo kết”. Khi điều trị HCRKT theo biện chứng luận trị
của chứng “Tiết tả” và “Táo kết” đã làm cải thiện các triệu chứng lâm sàng
[38], [39], [40], [41].


16


1.2.2. Cơ chế bệnh sinh của HCRKT theo YHCT
1.2.2.1. Do tỳ dương hư:
Tỳ sở dĩ đảm bảo được công năng vận hoá là nhờ dương khí đầy đủ. Nếu
lao động quá sức, đau ốm triền miên đều dẫn đến tỳ dương hư suy không vận
hoá được thức ăn, đình trệ lại, trong đục hỗn tạp gây nên tiết tả [38], [39].
1.2.2.2. Do mệnh môn hoả suy:
Nếu ốm lâu hoặc đi lỏng kéo dài, tổn thương đến thận dương, thận
dương suy không ôn được tỳ, khiến tỳ dương suy dẫn đến tiết tả. Trong Cảnh
nhạc toàn thư nói: “Dạ dày là quan ải của thận khai khiếu ở tiền âm và hậu
âm, thận chủ chức năng đóng mở. Nếu thận dương yếu, mệnh môn hoả suy,
âm hàn nhiều gây ra tiết tả [38], [39], [40], [41].
1.2.2.3. Do tình chí thất thường:
Người vốn tỳ vị hư yếu lại bị tình chí thất thường ảnh hưởng đến như
tức giận hại can, lo nghĩ hại tỳ, khiến can khí phạm tỳ vị, khiến tỳ vị vận hoá
kém gây nên tiết tả [38], [41].
1.2.2.4. Do khí có uất trệ:
Do lo nghĩ buồn bực nhiều hoặc ngồi lâu ít vận động dần dần làm cho
khí cơ uất trệ khiến công năng tiêu hoá, thông giáng đào thải thất thường, do
đó cặn bã tích lại gây nên [38], [40], [41].
1.2.3. Các thể lâm sàng của HCRKT theo Y học cổ truyền [42], [43].
Căn cứ vào bệnh chứng và nguyên nhân HCRKT theo Y học cổ
truyền gồm có bốn thể: Tỳ vị hư, Thận dương hư hay mệnh môn hoả suy,
Can tỳ bất hoà và Khí trệ [40], [41].
1.2.3.1. Thể tỳ dương hư:
- Triệu chứng: Bụng lạnh đau, nôn ra nước trong, ăn kém, đầy bụng, sôi
bụng, phân nát, sống phân, người mệt mỏi, chân tay lạnh, sắc mặt vàng nhợt,


17


chóng mặt, môi nhợt, chất lưỡi nhợt bệu, rêu lưỡi trắng hoặc trơn, mạch nhu
hoãn hoặc hư nhược.
- Phân tích: Do tỳ vị hư yếu, vận hoá kém, không phân biệt được thanh
trọc, thăng giáng thất thường, ăn không tiêu sinh ra đầy bụng sôi bụng, đại
tiện phân lúc nát lúc sống. Tả làm cho tỳ vị càng hư yếu không sinh được tinh
hoa, khí huyết kém dần nên mặt bủng, người gầy yếu mệt mỏi, chân tay lạnh
chóng mặt, mạch hư nhược là mạch của tỳ vị hư.
- Pháp điều trị: Bổ tỳ vị (kiện tỳ trợ vận hay kiện tỳ hoá thấp)
- Dùng bài: Sâm linh bạch truật tán, Tứ quân tử thang gia giảm.
1.2.3.2. Thể thận dương hư hay mệnh môn hoả suy:
- Triệu chứng: Cơ thể lạnh, chân tay lạnh, thể trạng gầy, mệt mỏi, ăn
kém, bụng lạnh trướng đầy, bụng dưới lạnh đau, ỉa lỏng phân sống, ngũ canh
tiết tả, lưng mỏi gối lạnh, tiểu tiện vặt, tiểu đêm, chất lưỡi nhạt bệu có vết hằn
răng, mạch trầm trì tế nhược. Thể này còn được gọi là tỳ thận dương hư.
- Phân tích: Do tiết tả lâu ngày khiến thận dương hư, dương khí yếu, vị
quan không vững nên có những triệu chứng trên. Loại này gọi là “ngũ canh
tiết tả”, sau khi tả được khí được thông lợi nên giảm đau, chất lưỡi nhạt bệu,
mạch trầm trì tế nhược là mạch của tỳ thận dương hư.
- Pháp điều trị: Ôn bổ tỳ thận dương, cố sáp.
- Dùng bài: Tứ thần hoàn, Phụ tử lý trung thang.
1.2.3.3. Thể can tỳ bất hoà:
- Triệu chứng: Ngực sườn trướng đầy đau, hay thở dài, tinh thần ức uất
dễ cáu giận, mỗi khi buồn bực căng thẳng thì phát sinh đau bụng ỉa chảy ngay,
miệng đắng họng khô, ăn uống sút kém, bụng trướng, đại tiện lúc táo, lúc
lỏng, sôi bụng, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch huyền.


18


- Phân tích: Do tỳ khí vốn yếu, hoặc là vốn có thực trệ và thấp tà lại
gặp khi tình chí thất thường làm hại can, can mất sự sơ tiết, hoành nghịch
phạm tỳ. Tỳ mất sự kiện vận, thuỷ cốc không được tiêu hoá gây ra tiết tả.
- Pháp điều trị: Sơ can kiện tỳ.
- Dùng bài: Thống tả yếu phương, Tứ nghịch tán gia giảm.
1.2.3.4. Thể khí trệ:
- Triệu chứng: Trướng đầy bĩ tức khó chịu và đau, riêng về trướng đầy
và đau lúc nhẹ lúc nặng, bộ vị thường cố định đau xiên đau nhói, bĩ trướng
cũng có lúc có lúc không, lúc tan lúc tụ. Trướng đầy mà khó chịu có thể giảm
nhẹ khi ợ hơi hoặc trung tiện, ăn ít, rêu lưỡi mỏng, mạch huyền.
- Phân tích: Bệnh này do can khí uất trệ, khí cơ không đều nên trướng
đầy bĩ tức, do can khí không hoà, tỳ vận hoá không tốt nên ăn ít, khí hư đình
trệ làm cặn bã lưu lại nên đại tiện không thông.
- Pháp điều trị: Thuận khí hành trệ.
- Dùng bài: Lục ma thang, Bảo hòa hoàn gia giảm.
1.3. Tình hình nghiên cứu ứng dụng YHCT điều trị HCRKT ở Việt Nam.
Trong những năm gần đây đã có nhiều tác giả nghiên cứu đánh giá
tác dụng của các bài thuốc cổ phương, các bài thuốc gia truyền trong điều
trị HCRKT.
* Ở Việt Nam:
Từ 1991 - 1994, Nguyễn Văn Thang và cộng sự qua nghiên cứu trên
100 bệnh nhân bị rối loạn cơ năng đại tràng được điều trị tại Viện Y học Cổ
truyền Việt Nam đã rút ra kết luận: Thuốc Y học cổ truyền có tác dụng điều trị
rối loạn cơ năng đại tràng theo phân loại các thể bệnh của YHCT [44], [45].


19

Năm 1999, Nguyễn Thị Nhuần nghiên cứu tác dụng điều trị của Bài
thuốc “Bình vị tan” trên 60 bệnh nhân bị HCRKT thấy tỷ lệ đạt hiệu quả tốt

chiếm 50,0% đặc biệt ở thể thực chứng theo YHCT [5].
Năm 2002, Cầm Thị Hương và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng của cao
“Cảng kham” trên 108 bệnh nhân HCRKT, sau điều trị 30 ngày tỷ lệ đạt kết
quả tốt chiếm 82,4% [46].
Năm 2005, Bùi Thị Phương Thảo và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu
tác dụng của viên nang Hế mọ (cây Hế mọ là một cây thuốc nam mọc phổ
biến ở vùng núi và trung du) trên 39 bệnh nhân bị HCRKT, tỷ lệ đạt kết quả
tốt sau 30 ngày điều trị là 71,8% [6].
Năm 2008, Nguyễn Thị Tuyết Nga nghiên cứu tác dụng của bài thuốc
“Tứ thần hoàn” trong điều trị HCRKT thể lỏng (thể hư hàn theo YHCT) thấy
tỷ lệ đạt hiệu quả tốt chiếm 61,2% [4], [47].
Năm 2011, Lê Thúy Hạnh nghiên cứu tác dụng của bài thuốc ‘‘An
trung tán’’ trong điều trị HCRKT thể lỏng (thể Tỳ vị hư hàn theo YHCT) thấy
tỷ lệ đạt hiệu quả tốt chiếm 86,7% [7].
Năm 2011, Nguyễn Đình Đạo nghiên cứu tác dụng của bài thuốc “ Điều
nguyên cứu bản thang’’ trong điều trị HCRKT thấy tỷ lệ đạt hiệu quả tốt
chiếm 60% [8].
* Ở Trung Quốc:
Năm 1983, Lý Tổ Thanh (Trung Quốc) tiến hành nghiên cứu quan sát
đối chiếu điều trị hội chứng ruột kích thích bằng thụt trung dược vào đại
tràng, cho kết quả điều trị tốt 58,0%; Khá 23,3%; Kém 18,7% [48].
Năm 1986, Trương Địch (Trung Quốc) tiến hành nghiên cứu “Thống tả yếu
phương hợp tứ thần hoàn” điều trị 187 bệnh nhân hội chứng ruột kích thích, liệu


20

trình từ 7 - 28 ngày, kết quả điều tri tốt 128 bệnh nhân (68,45%), khá 41 bệnh
nhân (21,9%), kém 18 bệnh nhân (9,65%) [49].
Năm 2001, Chuyên Quân, Hạ Hoằng Cục (Trung Quốc) tiến hành nghiên

cứu điều trị 30 bệnh nhân hội chứng ruột kích thích bằng bài “Thống tả yếu
phương hợp tứ thần hoàn” kết quả điều trị tốt 18 bệnh nhân (60,0%), khá 07
bệnh nhân (23,3%), kém 05 bệnh nhân (16,7%) [50].
Năm 2005, Lâm Quỳnh (Trung Quốc) tiến hành nghiên cứu quan sát lâm
sàng điều trị 45 trường hợp hội chứng ruột kích thích bằng bài “Nhu can an
thần” kết quả điều trị tốt 25 bệnh nhân (55,5%), khá 13 bệnh nhân (28,9%),
kém 07 bệnh nhân (15,6%) [51].
Năm 2005, Vương Thư Khiết (Trung Quốc) tiến hành nghiên cứu “Thất
vị bạch truật tán điều trị 58 bệnh nhân hội chứng ruột kích thích thể tiết tả
mãn tính” kết quả điều trị tốt 44 bệnh nhân (75,86%), trung bình 11 bệnh
nhân (18,97%), kém 03 bệnh nhân (5,17%) [52].
Bên cạnh phương pháp dùng thuốc YHCT, các nhà khoa học cũng tìm
hiểu tác dụng điều trị của các phương pháp không dùng thuốc YHCT:
Năm 1993, Chu Thế Kiệt (Trung Quốc): Dùng phương pháp xoa bóp
để điều trị HCRKT, dùng ngón cái day vào các huyệt Quan nguyên, Mệnh
môn; day 10 - 20 lần/huyệt, 1 lần/ngày, 15 lần/liệu trình. Điều trị 43 bênh
nhân: Kết quả tốt 32 bệnh nhân (74,4%), khá 09 bệnh nhân (20,9%), kém
02 bệnh nhân (4,7%) [53].
Năm 1998, Lục Á Khang (Trung Quốc) dán thuốc vào huyệt ở loa tai:
Chọn các huyệt Thần môn, can, tỳ, thận. Sau khi dùng kim châm xác định vị
trí của huyệt, tiến hành sát trùng, dùng miếng cao dán vương bất lưu hành cố
định tại huyệt vị, mỗi lần làm 1 bên tai, cách ngày lại đổi bên kia, 10
ngày/liệu trình. Điều trị 48 bệnh nhân; Kết quả điều trị tốt 34 bệnh nhân


21

(70,8%), khá 07 bệnh nhân (14,6%), trung bình 05 bệnh nhân (10,4%), kém
02 bệnh nhân (4,2%) [54].
Năm 1993, Phó Hoài Đan và Thái Quốc Vĩ (Trung Quốc) trong điều trị

chứng tỳ vị hư nhược, dùng phép kiện tỳ hòa vị thẩm thấp, chỉ tả; Châm các
huyệt Tỳ du, Thiên khu, Trung quản, Túc tam lý, Âm lăng tuyền. Ngày châm
1 lần, 10 lần/liệu trình, nghỉ 1 tuần rồi tiếp liệu trình thứ 2 (bổ pháp). Tỷ lệ
hiệu quả đạt 85%. Theo tác giả, nhóm châm cứu so với nhóm dùng thuốc thấy
kết quả tương đương nhau [55].
Năm 1985, Tôn Quốc Phạm và Lâm Cát Phẩm (Trung Quốc) tiến hành
nghiên cứu thuỷ châm điều trị 100 bệnh nhân hội chứng co thắt kết tràng do
can tỳ, dựa theo nguyên tắc tuần kinh thủ huyệt dùng vitamin B12 500µg
(microgam) để thủy châm vào các huyệt chính: Thiên khu, Thượng cự hư,
huyệt phối hợp Công tôn, Khí hải, Tam âm giao, Dương lăng tuyền. Kết quả
điều trị tốt 72 bệnh nhân (72%), khá 20 bệnh nhân (20%), kém 08 bệnh
nhân(8,0%) [56].
Năm 1991, Vương Cảnh Huy và Cs (Trung Quốc) tiến hành nghiên cứu
“Cứu cách thuốc điều trị 28 bệnh nhân hội chứng ruột kích thích” dùng mồi
thuốc tự chế gồm: Phụ tử, Nhục quế, Hoàng liên, Mộc hương, Hồng hoa, Đan
sâm đặt lên huyệt Trung quản, Khí hải, Túc tam lý, Đại trường du, Thiên khu,
Thượng cự hư. 06 huyệt này cùng cứu một lúc; 1 lần/ngày, 2 mồi thuốc/huyệt,
12 lần/liệu trình. Kết quả điều trị tốt 23 bệnh nhân (82,9%), khá 04 bệnh nhân
(14,3%), kém 01 bệnh nhân (2,8%) [57].
Kết quả nghiên cứu cho thấy các phương pháp điều trị không dùng thuốc
của YHCT như châm cứu, thuỷ châm, từ châm, cứu cách thuốc… cũng cho
kết quả cải thiện các triệu chứng lâm sàng của HCRKT tương tự như dùng
thuốc YHCT.


22

1.4. Tổng quan về các vị thuốc trong bài Bồi thổ cố trung phương [58], [59],
[60], [61]:
1.4.1. Nguồn gốc xuất xứ

Bài “Bồi thổ cố trung phương” của Hải Thượng Lãn Ông trong tập
“Hiệu phỏng tân phương” [39].
1.4.2. Thành phần bài thuốc
Thành phần “Bồi thổ cố trung phương” gồm 04 vị:
Bạch truật

60g

Thục địa (sao khô)

30g

Cam thảo (tẩm mật nướng khô)

04g

Can khương (sao đen)

06g

1.4.3. Cách dùng
Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 lần uống sau ăn 1 tiếng, uống ấm, uống
trong 30 ngày.
1.4.4. Tác dụng
Tác dụng của bài thuốc được mô tả rõ trong cuốn Hiệu phỏng tân
phương của Hải thượng lãn ông như sau: “Một bên thì Tỳ âm thương tổn, một
bên thì Vị dương quá mạnh, lại vì ăn nhiều những vị xào nướng, những thức
thơm ráo mà gây nên bệnh, hoặc ăn được mà không tiêu, hoặc miệng dạ dày
khô ráo không nạp được đồ ăn, hoặc nôn mửa ỉa chảy, cũng như chứng tỳ hư
không thể tàng nạp được nguyên khí mà phát nhiệt. Vì nhiệt tân dịch khô ráo

dần dần được tạo thành các chứng Phiên vị (ăn vào lại nôn mửa ra) Quan cách
(trên nôn mửa dưới bí đái) đều có công hiệu.
Gia giảm:
- Chứng hàn nặng mà ỉa chảy bỏ Thục địa, gia Phục linh và Đại phụ tử
- Nôn mửa là chứng khí hư hỏa nghịch sung lên gia Ngưu tất, Ngũ vị tử
- Khí hư nguy cấp chân tay lạnh giá bỏ Thục địa, Cam thảo gia Nhân
sâm, Phụ tử


23

-

Trọc khí ở trên sinh tức hơi, đầy hơi gia Nhục quế, Phụ tử
Nôn mửa không ngừng gia Ô mai
Thượng thực tỳ hư không vận hóa được gia Sa nhân, Phụ tử
Tỳ hư lâu ngày gia Bạch thược, Thăng ma
Ỉa lỏng lâu không khỏi gia Nhục đậu khấu, Biển đậu, Phục linh, Thăng ma
Vị nhiệt tân dịch khô mà khát gia Mạch môn, Ngũ vị tử
Huyết hư miệng dạ dày khô ráo liên miên gia Đương quy, Bạch thược
Tỳ hư tổn âm hỏa lần lên bỏ Cam thảo, gia Ngũ vị tử, Ngưu tất, Phụ tử

1.4.5. Tổng quan về các vị thuốc [62], [63].
Trong dược điển Việt Nam IV [62] và từ các tài liệu: “Những cây thuốc
và vị thuốc Việt Nam” của Đỗ Tất Lợi [63]. Chúng tôi khái quát tác dụng của
các vị thuốc trong bài Bồi thổ cố trung phương đã được nghiên cứu tác dụng
dược lý lâm sàng theo YHHĐ như sau:
1.4.5.1. Bạch truật (Rhizoma Atractylodes macrocephalae) [62], [63].
Tên khoa học:
Atractylodes macrocephala Koidz, họ cúc (Composiae)

Phần dùng làm thuốc:
Dùng thân rễ cứng chắc, có dầu thơm nhẹ, ruột màu trắng ngà, củ rắn
chắc có nhiều dầu là tốt.
Tác dụng dược lý [61], [63]:
+ Tác dụng bổ ích cường tráng: Trên thực nghiệm thuốc có tác dụng
làm tăng trọng chuột, tăng sức bơi lội, tăng khả năng thực bào của hệ thống tế
bào lưới, tăng cường chức năng miễn dịch của tế bào, làm tăng cao IgG trong
huyết thanh, có tác dụng tăng bạch cầu và bảo vệ gan, tăng sự tổng hợp
Protein ở ruột non.
+ Tác dụng chống loét: Nước sắc Bạch truật trên thực nghiệm chứng
minh có tác dụng bảo vệ gan, phòng ngừa được sự giảm sút Glycogen ở gan.


24

+ Ảnh hưởng đến ruột: đối với ruột cô lập của thỏ, lúc ruột ở trạng thái
hưng phấn thì thuốc có tác dụng ức chế, ngược lại lúc ruột đang ở trong trạng
thái ức chế thì thuốc có tác dụng hưng phấn. Tác dụng điều tiết 2 chiều đó của
thuốc có liên quan đến hệ thống thần kinh thực vật, do đó Bạch truật có thể
chữa được táo bón và tiêu chảy.
+ Tác dụng đối với máu: Nước sắc và cồn Bạch truật đều có tác dụng
chống đông máu, dãn mạch máu.
+ Tác dụng lợi niệu: Bạch truật có tác dụng lợi niệu rõ và kéo dài, có
thể do thuốc có tác dụng ức chế tiểu quản thận tái hấp thu nước, tăng bài
tiết Natri.
+ Bạch truật có tác dụng hạ đường huyết. Glucozid Kali Atactylat chiết
từ Bạch truật có tác dụng chọn lọc trên đường huyết, đầu tiên gây tăng, sau đó
gây hạ đường huyết đến mức co giật do hạ đường huyết quá thấp. Lượng
Glycogen trong gan chuột nhắt giảm đáng kể, nhưng lượng Glycogen trong
tim hơi tăng, dưới tác dụng của Gluczid này.

+ Trên súc vật thực nghiệm cho thấy Bạch truật có tác dụng an thần với
liều lượng nhỏ chất tinh dầu.
+ Tinh dầu Bạch truật có tác dụng chống ung thư nơi súc vật phát triển
+ Chống loét dạ dày: Gây loét dạ dày thực nghiệm, tạo nên những tổn
thương có bệnh sinh khác nhau. Loét hay bằng cách thắt môn vị, có khả năng
gây nên không những tình trạng ứ trệ dịch vị dạ dày mà còn gây tổn thương
về mạch máu kèm theo thiếu máu nguồn gốc thần kinh thực vật. Loét bằng
cách cho nhịn đói (có thể do nguồn gốc tâm lý). Loét bằng cách tiêm
Histamin được gây nên một phần do tăng tiết dịch vị và phần khác do tác
dụng làm hư hại mạch máu bởi liều cao Histamin: Bạch truật có tác dụng ức
chế rõ rệt đối với loét trên, nhưng không tác dụng đối với loét do Histamin.


25

+ Hoạt động tiết dịch vị: Bạch truật có tác dụng làm giảm rõ rệt lượng
dịch vị tiết ra và không làm giảm độ Acid tự do của dịch vị.
+ Chức năng ngoại tiết của gan: Bạch truật không gây biến đổi về lưu
lượng mật nhưng làm tăng một cách có ý nghĩa hàm lượng cặn khô trong mật
và như vậy đã tăng lượng các chất thải trừ qua mật.
+ Đối với chức năng gan: trong nghiệm pháp BSP (Bromo Sulfon
Phtalein) về khả năng phân hủy và thải trừ chất mầu của gan cho thấy Bạch
truật không ảnh hưởng đối với chức năng này của gan.
+ Kháng Viêm:
. Rễ Bạch truật có hoạt tính chống siêu vi khuẩn và chống ung thư trong
thí nghiệm invitro.
. Hoạt tính chống viêm của Bạch truật được thể hiện rõ rệt trên giai
đoạn cấp tính của phản ứng viêm, tương ứng với những biến đổi về mạch
máu gây thoát huyết tương ở khoảng ngoài tế bào và tạo phù nề. Tác dụng
này đã được chứng minh trong thí nghiệm gây phù gây phù bằng Kaolin

với liều Bạch truật từ 7,5g/kg thể trọng trở lên. Đối với giai đoạn bán cấp
của phản ứng viêm tương ứng với sự tạo thành tổ chức hạt trong mô hình u
hạt thực nghiệm với Amian, Bạch truật có tác dụng ức chế rõ rệt với liều từ
10g/kg thể trọng trở lên.
+ Bạch truật không ảnh hưởng đối với thành phần các Protein huyết
thanh và chức năng bài tiết Urê của thận.


×