Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp giữa thương nhân với người tiêu dùng tại tòa án ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.43 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

NGUYỄN THỊ QUỲNH

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP GIỮA THƢƠNG NHÂN VỚI NGƢỜI TIÊU DÙNG
TẠI TÒA ÁN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

HÀ NỘI - 2018

HÀ NỘI, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

NGUYỄN THỊ QUỲNH

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH


CHẤP GIỮA THƢƠNG NHÂN VỚI NGƢỜI TIÊU DÙNG
TẠI TÒA ÁN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

Chuyên ngành

: Luật kinh tế

Mã số

: 8380107

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Bùi Ngọc Cƣờng

HÀ NỘI - 2018

HÀ NỘI, NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Quỳnh


LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu công tác thực
tiễn, được sự hướng dẫn, giảng dạy tận tình của các Thầy, Cô, cùng sự quan
tâm giúp đỡ, động viên từ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế.
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu cùng toàn thể Quý Thầy, Cô giáo Trường Đại học Luật
Hà Nội, các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ đã tận tâm giảng dạy, truyền đạt
nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian tôi học tập và
nghiên cứu tại trường.
Đồng thời, chân thành cảm ơn Khoa Sau đại học, Khoa Pháp luật kinh
tế Trường Đại học Luật Hà Nội đã thực hiện quản lý đào tạo, cung cấp thông
tin cần thiết về quy chế đào tạo cũng như chương trình đào tạo một cách kịp
thời, tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận văn này đúng tiến độ.
Đặc biệt, với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến Tiến sỹ Bùi Ngọc Cường, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ
bảo và tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình thực hiện nghiên cứu luận
văn của mình
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng chấm
luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn thiện luận văn này.
Hà Nội, ngày 14 tháng 01 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Quỳnh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

Hội BVQLNTD

: Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Luật BVQLNTD

: Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp giữa thƣơng nhân với ngƣời
tiêu dùng ........................................................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm tranh chấp giữa thương nhân với người tiêu dùng ............. 9
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp giữa thương nhân với người tiêu dùng ..... 10
1.2.
Phƣơng thức giải quyết tranh chấp giữa thƣơng nhân với ngƣời
tiêu dùng ......................................................................................................... 13
1.2.1. Phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án .............................. 14
1.2.2. Phương thức giải quyết tranh chấp tại Tòa án ................................... 19
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 22
Chƣơng 2 ........................................................................................................ 23
2.1. Tranh chấp giữa thƣơng nhân với ngƣời tiêu dùng đƣợc giải quyết
theo thủ tục tố tụng thông thƣờng ............................................................... 23
2.2. Tranh chấp giữa thƣơng nhân với ngƣời tiêu dùng đƣợc giải quyết

theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ............................................................. 27
2.2.1. Nội dung thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ............................................... 27
2.2.2. Ý nghĩa của thủ tục tố tụng rút gọn....................................................... 32
2.3. Thực tiễn giải quyết tranh chấp giữa thƣơng nhân với ngƣời tiêu
dùng tại Tòa án .............................................................................................. 34
2.3.1. Những kết quả đạt được trong giải quyết tranh chấp giữa thương nhân
với người tiêu dùng tại Tòa án ........................................................................ 34
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế trong giải quyết tranh chấp giữa thương nhân
với người tiêu dùng tại Tòa án ........................................................................ 36
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 46


Chƣơng 3 ........................................................................................................ 47
3.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp giữa
thƣơng nhân với ngƣời tiêu dùng tại Tòa án .............................................. 48
3.1.1. Bổ sung cơ chế khởi kiện tập thể trong giải quyết tranh chấp giữa
thương nhân và người tiêu dùng ..................................................................... 48
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng dân sự
2015 và kiểm soát việc áp dụng thủ tục rút gọn tại Toà án ............................ 51
3.1.3. Nghiên cứu xây dựng mô hình Toà án giản lược theo hướng Toà chuyên
trách giải quyết vụ việc tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng ... 54
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp giữa thƣơng nhân
với ngƣời tiêu dùng tại Tòa án ..................................................................... 56
3.2.1. Chú trọng công tác tổ chức thực thi, nâng cao hiệu quả áp dụng thủ
tục rút gọn trong thực tiễn giải quyết tranh chấp tiêu dùng ....................... 56
3.2.2. Tổ chức các thiết chế xã hội hoá tại từng địa phương, chi tiết tới từng
địa bàn dân cư để hỗ trợ người tiêu dùng trong giải quyết tranh chấp tiêu
dùng. ……………………………………………………………………….57
3.2.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng nhằm nâng cao ý thức tự bảo vệ chính bản thân mình của

người tiêu dùng ............................................................................................... 58
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................. 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế Việt Nam thời gian qua đã chứng kiến nhiều sự kiện nổi
bật bao gồm cả những mảng tối và sáng giữa bức tranh hội nhập toàn cầu.
Trong đó, vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đang trở thành vấn đề
quan trọng và nhận được sự quan tâm của toàn xã hội. Bước vào thời kỳ đổi
mới, nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Công tác bảo vệ người tiêu dùng trong
thời kỳ này đã được tập trung chú trọng. Với việc ban hành Pháp lệnh bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng số 13/1999/PL-UBTVQH10 ngày 27 tháng 04 năm
1999 cùng các Nghị định hướng dẫn thi hành pháp lệnh như: Nghị định
69/2001/NĐ-CP ngày 02 tháng 10 năm 2001 và Nghị định 55/2008/NĐ-CP
ngày 24 tháng 04 năm 2008, điều này đã đánh dấu bước phát triển mới trong
việc thiết lập và hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo hành lang pháp lý quan
trọng đối với hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu
dùng. Năm 2010, Quốc hội đã ban hành Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng để góp phần hạn chế một số vấn đề còn tồn tại cũng như nâng cao hiệu
quả công tác bảo vệ người tiêu dùng. Bên cạnh đó, vấn đề bảo vệ người tiêu
dùng cũng được đề cập ở các mức độ khác nhau tại các văn bản quy phạm
pháp luật như: Bộ luật tố tụng dân sự (2015), Bộ luật hình sự (2015), Luật
thương mại (2005), Luật cạnh tranh (2004), Luật an toàn thực phẩm (2010)…
Tuy nhiên, trước sự phát triển ngày càng nhanh chóng và đa dạng của

nền kinh tế thị trường, có rất nhiều vấn đề mới đã nảy sinh. Thời gian gần
đây, tình trạng vi phạm quyền lợi người tiêu dùng đã và đang diễn ra phổ
biến, ngày càng phức tạp với hậu quả để lại nghiêm trọng hơn. Cục Cạnh
tranh và Bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Công thương) cho biết, trong năm 2017
đã tiếp nhận và xử lý trên 1.400 khiếu nại, yêu cầu của người tiêu dùng liên
quan đến nhiều hành vi vi phạm hoặc có dấu hiệu vi phạm quyền lợi người


2

tiêu dùng trong nhiều lĩnh vực của đời sống - xã hội.1. Nhiều vụ đã khiến dư
luận phải bàng hoàng vì không ngờ những loại thực phẩm vốn quen thuộc
hàng ngày, thậm chí là các món ăn dân dã, cũng đã bị sử dụng chất cấm, chất
độc hại. Người dân bàng hoàng với việc phát hiện rau muống trồng từ nhớt
thải, thịt lợn bị dùng chất cấm salbutamol, thịt bò bơm nước, trái cây ngâm
thuốc giục chín, cà phê hóa chất, phát hiện măng ngâm tẩm chất vàng ô để tạo
màu2.... Người tiêu dùng Việt Nam đang phải sống trong một môi trường
không an toàn, quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm nghiêm trọng. Trong khi
đó, các quy định của pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho
quá trình phát hiện và xử lý các vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng.
Bảo vệ người tiêu dùng trong quan hệ tranh chấp giữa người tiêu dùng
với thương nhân là một trong những yêu cầu cơ bản của pháp luật về bảo vệ
người tiêu dùng do trong quan hệ này, người tiêu dùng có vị trí yếu thế hơn so
với thương nhân. Pháp luật nước ta, cụ thể trong Luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng năm 2010 đã ghi nhận nhiều phương thức giải quyết tranh chấp giữa
người tiêu dùng và thương nhân như: thương lượng, hoà giải, trọng tài, Toà
án,… Trong đó, phương thức giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và
người tiêu dùng tại Toà án là một phương thức giải quyết truyền thống và có
nhiều ưu điểm so với các phương thức giải quyết tranh chấp còn lại.
Tuy nhiên, hiệu quả thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp giữa

người tiêu dùng với thương nhân tại Toà án trên thực tế còn tồn tại một số hạn
chế nhất định và chưa phát huy hết những ưu điểm của phương thức này. Do
1

Trân Trân (2018), “Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng xử lý trên 1.400 khiếu
nại”, Công an nhân dân, tại địa chỉ: ngày truy cập 15/08/2018.
2

Bùi Ai Giôn (2016), “Quyền khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”,
Tạp chí Luật sư Việt Nam, (11), tr. 21 - 25.


3

đó, việc tìm hiểu đề tài: “Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp
giữa thƣơng nhân với ngƣời tiêu dùng tại Tòa án ở Việt Nam” là vấn đề
cần thiết nhằm hiểu rõ hơn về các quy định pháp luật về việc giải quyết tranh
chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân tại Toà án, từ đó so sánh với thực
tiễn áp dụng, tìm ra ưu điểm và hạn chế của phương thức giải quyết tranh
chấp này so với các phương thức khác, đồng thời đưa ra những giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật và đảm bảo cho phương thức giải quyết tranh chấp
này hoạt động có hiệu quả hơn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật tiêu dùng ở nước ta được quan tâm đúng mức và bước đầu
có một số nghiên cứu quy mô và có giá trị tham khảo. Hiện nay có một số
công trình nghiên cứu liên quan đến phương thức giải quyết tranh chấp giữa
thương nhân với người tiêu dùng tại Toà án như:
- Nguyễn Thị Vân Anh (chủ biên, 2013), Tăng cường năng lực các
thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam, đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, Hà

Nội.
- Đinh Thị Mai (chủ biên, 2008), Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế pháp
lý nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Viện Khoa học pháp lý – Bộ
Tư pháp, Hà Nội.
- Nguyễn Trọng Điệp (2014), Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu
dùng với thương nhân ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện
Khoa học xã hội, Hà Nội.
Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu được công bố dưới hình thức
các bài viết được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành luật như:
- Phan Thị Thanh Thuỷ (2018), “Từ vụ kiện Apple Inc. làm chậm iPhone
ở Việt Nam, Bàn về xu hướng khởi kiện tập thể trong giải quyết tranh chấp


4

tiêu dùng”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, tập 34, (02).
- Phan Thị Thanh Thuỷ (2018), “Kiện tập thể trong giải quyết tranh chấp
tiêu dùng ở một số nước ASEAN và những gợi ý cho Việt Nam”, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, (01).
- Nguyễn Trọng Điệp, Nguyễn Tiến Đạt (2017), “Pháp luật giải quyết
tranh chấp tiêu dùng Việt Nam dưới góc nhìn so sánh với quốc tế”, Tạp chí
Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Luật học, 33, (2).
- Bùi Ai Giôn (2016), “Quyền khởi kiện vụ án dân sự bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Tạp chí Luật sư Việt Nam, (11).
- Nguyễn Trọng Điệp (2015), “Tố tụng rút gọn trong giải quyết tranh
chấp tiêu dùng”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, 31, (2).
-




Thị

Lan

Anh

(2014),

“Giải

quyết

tranh

chấp

về quyền lợi người tiêu dùng tại tòa án nhân dân”, Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật, (09).
- Quách Thúy Quỳnh (2013), “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng
các vụ kiện tập thể - kinh nghiệm nước ngoài và các gợi ý hoàn thiện pháp
luật”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (16).
- Đặng Thanh Hoa (2013), “Giải quyết tranh chấp của người tiêu
dùng theo thủ tục rút gọn”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (8).
Có thể nói, cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào đi sâu
nghiên cứu một cách cơ bản, bao quát và có hệ thống về giải quyết tranh chấp
giữa người tiêu dùng và thương nhân tại Toà án. Việc tác giả lựa chọn nghiên
cứu đề tài này là hoàn toàn mới mẻ. Với dự định nghiên cứu của mình, tác giả
sẽ làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến tranh chấp giữa thương
nhân và người tiêu dùng và các phương thức giải quyết tranh chấp tiêu dùng

tại Toà án; thực tiễn áp dụng pháp luật và trên cơ sở đó đề xuất các phương
hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn


5

a. Đối tượng nghiên cứu
(i) Các quan điểm, nghiên cứu, lý luận về tranh chấp giữa thương
nhân và người tiêu dùng, phương thức giải quyết tranh chấp giữa người
tiêu dùng với thương nhân tại Toà án.
(ii) Hệ thống các văn bản pháp luật của Việt Nam cũng như thế giới về
giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng tại Toà án.
(iii) Thực tiễn giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu
dùng tại Toà án ở Việt Nam.
(iv) Kinh nghiệm pháp lý nước ngoài cho Việt Nam trong việc xây dựng
cơ chế giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân tại Toà
án.
b. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những khía cạnh pháp lý của tranh
chấp giữa thương nhân với người tiêu dùng, các phương thức giải quyết tranh
chấp giữa thương nhân với người tiêu dùng, đặc biệt là phương thức giải
quyết tranh chấp tại Toà án. Luận văn tìm hiểu thực trạng pháp luật hiện hành
và thực tiễn giải quyết tranh chấp tiêu dùng ở Việt Nam cũng như pháp luật
bảo vệ người tiêu dùng của một số quốc gia phát triển nhằm đánh giá quy
định pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của Việt Nam về vấn đề này và đưa ra
những kiến nghị hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp giữa người tiêu
dùng và thương nhân tại Toà án.
4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận

về giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân tại Toà án;
phân tích, đánh giá các nội dung lý luận liên quan tới tranh chấp tiêu dùng,
các phương thức giải quyết tranh chấp tiêu dùng của Việt Nam, trọng tâm là
phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân tại
Toà án, nêu lên thực trạng, bất cập của quy định pháp luật, đề xuất một số giải


6

pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp giữa
thương nhân với người tiêu dùng tại Toà án.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, việc nghiên cứu luận văn có
một số nhiệm vụ cụ thể:
- Hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh
chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân tại Toà án;
- Tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích được những kết quả đã đạt được
cũng như những hạn chế còn tồn tại trong quá trình thực thi pháp luật về giải
quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân tại Toà án;
- Chứng minh tính tất yếu của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và
thương nhân tại Toà án. Từ đó, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp giữa thương nhân với người tiêu
dùng tại Toà án.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên cứu trong
khi thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
truyền thống như: phương pháp phân tích, luận giải và phương pháp nghiên
cứu văn bản,… Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả kết hợp
các phương pháp cụ thể bao gồm:
Phương pháp tổng hợp: phương pháp này được sử dụng để khái quát các

quy định của pháp luật về các phương thức giải quyết tranh chấp và trọng tâm
là phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân
tại Toà án.
Phương pháp so sánh: được áp dụng trong quá trình tìm hiểu các quy
định của các văn bản pháp luật khác nhau như: Luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng 2010, Bộ luật dân sự 2015, Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004, Luật thương mại 2005, Luật cạnh tranh 2004…, so


7

sánh giữa các quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật của một số quốc
gia trên thế giới.
Phương pháp tra cứu mạng Internet: nhằm tìm kiếm kiến thức, các
thông tin liên quan, các bài báo, sự việc được đăng tải trên Internet.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa khoa học: Luận văn góp phần làm sáng tỏ các quy định pháp
luật hiện hành về tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân và đặc biệt
là phương thức giải quyết tranh chấp giữa thương nhân với người tiêu dùng tại
Toà án trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu, lý luận và thực tiễn thành
công ở một số nước trên thế giới, góp phần bổ sung vào kho tàng nghiên cứu
về pháp luật tiêu dùng hiện nay ở Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn khai thác tính cấp thiết của việc hoàn thiện
các quy định pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu
dùng với thương nhân tại Toà án trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu hơn
với thế giới, người tiêu dùng đòi hỏi cao hơn việc được bảo vệ các quyền và lợi
ích chính đáng trước những xâm hại lợi ích từ phía thương nhân cung ứng hàng
hóa, đồng thời vai trò mờ nhạt của các tổ chức xã hội, cơ quan quản lý Nhà
nước trong hoạt động bảo vệ người tiêu dùng khi phát sinh tranh chấp. Thực tế
này đặt ra yêu cầu cấp bách cần sớm có những nghiên cứu một cách tổng thể về

hoạt động giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân tại Toà
án, nhằm góp phần làm kim chỉ nam để áp dụng trong công tác xây dựng và áp
dụng pháp luật.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp giữa thương
nhân với người tiêu dùng và phương thức giải quyết tranh chấp giữa thương
nhân với người tiêu dùng tại Toà án.


8

Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp giữa
thương nhân với người tiêu dùng tại Toà án.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả giải quyết tranh chấp giữa thương nhân với người tiêu dùng tại Toà án.


9

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA
THƢƠNG NHÂN VỚI NGƢỜI TIÊU DÙNG VÀ PHƢƠNG THỨC
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA THƢƠNG NHÂN VỚI
NGƢỜI TIÊU DÙNG TẠI TÒA ÁN
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp giữa thƣơng nhân với
ngƣời tiêu dùng
1.1.1. Khái niệm tranh chấp giữa thương nhân với người tiêu dùng
Trong khoa học pháp lý, tranh chấp được hiểu là những mâu thuẫn, bất

đồng về quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh trong quá trình thực hiện
giao dịch. Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng số 59/2010/QH12 ngày 17
tháng 11 năm 2010 (Luật BVQLNTD 2010) không đưa ra khái niệm tranh
chấp giữa thương nhân với người tiêu dùng. Về mặt học thuật, tranh chấp
giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh (hay còn gọi là “thương
nhân”) và tranh chấp trong hoạt động tiêu dùng là những khái niệm có nội
hàm rộng hẹp khác nhau, mặc dù chúng đều được hiểu là sự bất đồng chính
kiến, sự mâu thuẫn hay xung đột lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ
thể tham gia trong các quan hệ tiêu dùng cụ thể.3
Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, song nhiều nhà khoa học đã thống nhất
cho rằng tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân được hiểu là sự bất
đồng chính kiến, sự mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ
giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ tiêu dùng. Theo đó, tranh chấp giữa
người tiêu dùng với thương nhân có thể có các dạng cơ bản sau:
- Tranh chấp về số lượng, chất lượng, tiêu chuẩn hàng hoá, dịch vụ được
cung ứng;

3

Nguyễn Thị Vân Anh (chủ biên, 2014), Giáo trình Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, tr.174


10

- Tranh chấp về thực hiện các nghĩa vụ cung cấp thông tin của tổ chức,
cá nhân kinh doanh trong việc cung cung ứng hàng hoá, dịch vụ của mình;
- Tranh chấp về thực hiện các nghĩa vụ bảo hành, thu đổi hàng hoá, trả
lại tiền, thu hồi hàng hoá theo quy định của pháp luật;
- Tranh chấp về các điều kiện giao dịch chung và hợp đồng theo mẫu của

tổ chức, cá nhân cung ứng hàng hoá, dịch vụ;
- Tranh chấp về hành vi lừa dối hoặc gây nhầm lẫn của thương nhân cho
người tiêu dùng thông qua hoạt động quảng cáo hoặc che giấu, cung cấp
thông tin không đầy đủ, sai lệch, không chính xác;
- Tranh chấp về hành vi ép buộc, quấy rối người tiêu dùng thông qua tiếp
thị hàng hoá, dịch vụ của thương nhân trái với ý muốn của người tiêu dùng;
- Tranh chấp về nghĩa vụ đảm bảo an toàn bí mật thông tin của người
tiêu dùng khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hoá, dịch vụ.
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp giữa thương nhân với người tiêu
dùng
Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân là việc lựa
chọn các hình thức, biện pháp thích hợp để giải tỏa các mâu thuẫn, bất đồng,
xung đột lợi ích giữa các bên, tạo lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có
thể chấp nhận được.
Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân phải đáp
ứng được như yêu cầu sau:
Thứ nhất, phải huy động được sức mạnh của toàn xã hội, trong đó có
vai trò tích cực của bản thân mỗi người tiêu dùng. Bản chất của bảo vệ người
tiêu dùng bắt đầu từ định chuẩn, đăng kí chuẩn, hỗ trợ liên kết sức mạnh của
người tiêu dùng cho tới thực thi pháp luật những công việc như vậy thuộc
nhiều tổ chức, cơ quan như hiệp hội, truyền thông, báo chí, hành chính công
tố và tòa án. Thêm vào đó, sức mạnh này chỉ có thể được củng cố và gây sức


11

ép đối với các doanh nghiệp khi mỗi người tiêu dùng có ý thức chủ động và
trách nhiệm xã hội trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hóa.
Thứ hai, khắc phục vị thế bất cân xứng trong mối quan hệ giữa người
tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Vị thế

bất cân xứng của người tiêu dùng là do thiếu thông tin, kinh nghiệm, khả năng
đàm phán và tài chính nên thường phải chịu những rủi ro trong giao dịch với
tổ chức, cá nhân kinh doanh cung ứng hàng hóa, dịch vụ, đặc biệt là những rủi
ro về pháp lý.
Thứ ba, đảm bảo sự hài hòa lợi ích của người tiêu dùng, doanh nghiệp
và lợi ích chung của toàn xã hội. Khắc phục vị thế bất cân xứng của người
tiêu dùng không có nghĩa là bảo vệ người tiêu dùng bằng mọi giá, bỏ qua các
quyền và lợi ích hợp pháp của thương nhân cung ứng hàng hóa, dịch vụ.
Trong mọi trường hợp, lợi ích chung của toàn xã hội sẽ là thước đo đánh giá
các thể chế bảo vệ người tiêu dùng nói chung, các phương thức giải quyết
tranh chấp của người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh nói riêng.
Tranh chấp giữa thương nhân với người tiêu dùng có một số đặc điểm
như sau:
Thứ nhất, chủ thể của tranh chấp là người tiêu dùng và thương nhân.
Tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân là loại hình tranh chấp phải
có một bên tham gia là người tiêu dùng. Khoản 1 Điều 3 Luật BVQLNTD
2010 quy định: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ
cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”. Như vậy
người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam được xác định bao gồm các cá nhân,
gia đình, tổ chức và họ là người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ của cá nhân,
tổ chức kinh doanh với mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, tổ chức đó.
Theo Khoản 1 Điều 6 Luật thương mại năm 2005, thương nhân bao gồm tổ
chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại độc lập
thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Cũng như các quốc gia khác, khái


12

niệm thương nhân theo pháp luật Việt Nam cũng bao gồm các chủ thể truyền
thống là cá nhân và pháp nhân, ngoài ra còn bao gồm các tổ hợp tác, các hộ

gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại một cách độc lập
thường xuyên (hộ kinh doanh).
Thứ hai, nội dung của các tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương
nhân chủ yếu liên quan đến các nghĩa vụ của thương nhân trong quá trình đưa
hàng hoá, dịch vụ của mình vào lưu thông.
Mặc dù quan hệ tiêu dùng được xác lập giữa người tiêu dùng và nhà
cung ứng trên cơ sở tự nguyện, nhưng người tiêu dùng luôn ở vị thế bất cân
xứng do thiếu thông tin, kinh nghiệm và khả năng đàm phán nên thường phải
gánh chịu những rủi ro trong giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh. Vì
vậy, pháp luật luôn phải có những biện pháp nhằm bảo vệ người tiêu dùng
trong quan hệ với thương nhân khi bên thương nhân vì lợi ích của riêng mình
đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.
Thứ ba, tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân có thể có sự
tham gia của chủ thể đặc biệt – các tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng. Tuy nhiên điều đáng lưu ý là không phải tổ chức xã hội bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng nào cũng có quyền khởi kiện vụ án dân sự vì lợi ích
của người tiêu dùng. Chỉ những tổ chức xã hội đáp ứng những tiêu chí nhất
định được quy định tại Khoản 2, Điều 28 Luật BVQLNTD 2010 mới được
tham gia khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Thứ tư, về hệ quả xã hội của các tranh chấp: tranh chấp giữa người tiêu
dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh có thể dẫn đến những phản ứng tiêu cực
từ phía cộng đồng người tiêu dùng và toàn xã hội như: tẩy chay tập thể đối
với sản phẩm, dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh cung ứng; sản phẩm
có xuất xứ từ quốc gia hoặc vùng lãnh thổ; công khai phổ biến các thông tin
trung thực trong quá trình giải quyết tranh chấp luôn là mục tiêu ưu tiên trong
chính sách và pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở các quốc gia trên thế
giới.


13


Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới, các tranh chấp về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng chủ yếu tồn tại dưới dạng tranh chấp về số lượng,
chất lượng, nghĩa vụ bảo hành và hướng dẫn sử dụng hàng hoá, dịch vụ, phản
ánh tính đơn điệu, áp đặt của các tổ chức, cá nhân kinh doanh cung ứng hàng
hoá, dịch vụ trong bước chuyển sang kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, sự hội nhập quốc tế của Việt Nam trong những năm gần đây
đã làm phát sinh nhiều phương thức bán hàng mới như: bán hàng đa cấp, bán
hàng tận cửa, bán hàng trực tuyến…. Bên cạnh sự thuận tiện cho thương nhân
và người tiêu dùng, các hình thức bán hàng này còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ có
thể gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Yêu cầu về đảm bảo an toàn tính mạng,
sức khoẻ, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người tiêu dùng trong nền
kinh tế thị trường hiện đại cũng đòi hỏi phát sinh các nghĩa vụ pháp lý mới
của thương nhân cung ứng hàng hoá, dịch vụ và tranh chấp với người tiêu
dùng như: hợp đồng mẫu và điều kiện giao dịch chung; trách nhiệm sản phẩm
và nghĩa vụ thu hồi hàng hoá có khuyết tật; nghĩa vụ đảm bảo thông tin an
toàn, bí mật thông tin của người tiêu dùng khi tham gia giao dịch, sử dụng
hàng hoá, dịch vụ,….
1.2. Phƣơng thức giải quyết tranh chấp giữa thƣơng nhân với ngƣời
tiêu dùng
Sự thay đổi về nội dung và hình thức các tranh chấp giữa người tiêu
dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh trong quá trình chuyển đổi sang nền
kinh tế mới đã và đang đòi hỏi các hình thức giải quyết tranh chấp phải được
thực hiện trên cơ sở nền tảng của một nền kinh tế thị trường hiện đại. Tuỳ
từng trường hợp cụ thể mà áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp này
hay phương thức kia. Hoạt động giải quyết tranh chấp trong các quan hệ dân
sự được phân thành các hình thức phổ biến như: thương lượng, hòa giải, trọng
tài, tòa án. Tùy thuộc vào quy mô giá trị và bản chất vụ việc, các bên có tranh
chấp sẽ lựa chọn một hoặc tuần tự nhiều phương thức để đạt được mục đích
đặt ra ban đầu. Đối với các tranh chấp tiêu dùng, Luật BVQLNTD năm 2010



14

cũng đề cập tới bốn hình thức giải quyết tranh chấp phổ biến này tại Khoản 1
Điều 30 và toàn bộ nội dung Chương 4 của Luật. Mỗi phương thức đều có
những ưu điểm và hạn chế riêng, và việc lựa chọn phương thức nào để giải
quyết tranh chấp tùy thuộc vào hiệu quả mà phương thức đó có thể đem lại
cho những bên trong cuộc đối với mỗi vụ việc cụ thể.
1.2.1. Phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án
1.2.1.1. Thương lượng
Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp giữa tổ chức, cá nhân
kinh doanh và người tiêu dùng mà không sử dụng đến vai trò của người thứ
ba. Trong phương thức này, các bên cùng nhau trình bày quan điểm, chính
kiến, bàn bạc, tìm các biện pháp thích hợp và đi đến thống nhất thoả thuận để
tự giải quyết các bất đồng.
Ở Việt Nam, phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng được
ghi nhận chính thức như là một hình thức giải quyết tranh chấp độc lập. Đối
với quan hệ tiêu dùng, Luật BVQLNTD 2010 thừa nhận thương lượng là một
phương thức giải quyết tranh chấp, quy định tại Khoản 1 Điều 30 Luật
BVQLNTD như sau: “Người tiêu dùng có quyền gửi yêu cầu đến tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ để thương lượng khi cho rằng quyền, lợi
ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.”. Theo đó, hình thức này chỉ bị hạn chế
khi tranh chấp gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của nhiều người
tiêu dùng và lợi ích công cộng quy định tại khoản 2 Điều 30 Luật BVQLNTD
2010.
Khi phát sinh tranh chấp, người tiêu dùng có quyền gửi yêu cầu đến
thương nhân để thương lượng khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm phạm. Thương nhân có trách nhiệm tiếp nhận, tiến hành thương
lượng với người tiêu dùng trong thời hạn không quá 07 (bảy) ngày làm việc,

kể từ ngày nhận được yêu cầu 4.
4

Điều 31 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng số 59/2010/QH12 ngày 17/11/2010


15

Mặc dù, tại Điều 32 Luật BVQLNTD 2010 có quy định: “Kết quả
thương lượng thành của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ với
người tiêu dùng được lập thành văn bản, trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận khác”. Song lại không đề cập đến giá trị pháp lý của kết quả thương
lượng nêu trên. Thực tế cho thấy, dù thương lượng có nhiều những ưu điểm
nhưng ở Việt Nam hình thức này không được sử dụng rộng rãi. Có thể kể đến
các nguyên nhân cơ bản như:
- Thương nhân không ý thức được trách nhiệm xã hội của mình và
thường lợi dụng vị thế bất cân xứng về thông tin trong quá trình cung ứng
hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng;
- Bản thân người tiêu dùng chưa nhận thức được quyền của mình và sử
dụng các quyền đó để bảo vệ lợi ích của chính mình;
- Pháp luật Việt Nam thừa nhận hình thức giải quyết tranh chấp thương
lượng song lại không thừa nhận khả năng cưỡng chế thi hành những cam kết
của các bên trong biên bản thương lượng. Đây là rào cản lớn nhất khi tham
gia giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, dễ xảy ra tình trạng thoái thác
thực hiện nghĩa vụ đã cam kết của các bên.
1.2.1.2. Hòa giải
Hoà giải là hình thức giải quyết tranh chấp, trong đó các bên trong quá
trình thương lượng có sự tham gia của bên thứ ba độc lập do hai bên cùng
chấp nhận hay chỉ định làm vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên nhằm tìm
kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết xung đột nhằm chấm dứt

các tranh chấp, bất hoà. Hòa giải là giải pháp mang tính chất tự nguyện tùy
thuộc vào sự lựa chọn của các bên.
Luật BVQLNTD 2010 đã quy định khá chi tiết về quyền lựa chọn
phương thức hòa giải tại Điều 33: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ và người tiêu dùng có quyền thỏa thuận lựa chọn bên thứ ba là cá
nhân hoặc tổ chức hòa giải để thực hiện việc hòa giải.”


16

Nguyên tắc hòa giải quy định tại Điều 34 của Luật BVQLNTD 2010: “1.
Bảo đảm khách quan, trung thực, thiện chí, không được ép buộc, lừa dối. 2.
Tổ chức, cá nhân tiến hành hòa giải, các bên tham gia hòa giải phải bảo đảm
bí mật thông tin liên quan đến việc hòa giải, trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Tổ chức hòa giải được pháp luật quy định tại Điều 35: “Tổ chức, cá
nhân có đủ điều kiện theo quy định của Chính phủ được thành lập tổ chức
hòa giải để giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ”. Ngoài ra, tổ chức hòa giải các tranh chấp giữa
người tiêu dùng và thương nhân được quy định tại các Điều 31, 32 và 33 của
Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27 tháng 10 năm 2011 của Chính phủ về
việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BVQLNTD
2010. Theo đó, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thành lập, giải thể tổ chức
hòa giải bao gồm: cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng; tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Điều 31).
Hòa giải viên phải đáp ứng các điều kiện làm hòa giải viên được quy định tại
Điều 32: Là công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm
chất đạo đức tốt, trung thực, có ít nhất năm (5) năm kinh nghiệm công tác.
Người đang bị quản chế hành chính, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự
hoặc đã bị kết án mà chưa được xóa án tích không được làm hòa giải viên.

Các bên có trách nhiệm thực hiện kết quả hòa giải thành theo Điều 37
Luật BVQLNTD 2010 trong thời hạn đã thỏa thuận trong biên bản hòa giải;
trường hợp một bên không tự nguyện thực hiện thì bên kia có quyền khởi kiện
ra Tòa án để yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật.
Mặc dù hòa giải là phương thức được sử dụng rộng rãi, chiếm 80% các vụ
việc khiếu nại của người tiêu dùng nhưng kết quả hòa giải nhiều khi không
được các bên nghiêm túc thực thi do giá trị pháp lý của biên bản hòa giải thành
là không cao. Như vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, phương thức hòa giải


17

vẫn có những hạn chế nhất định. Ở Việt Nam, giải quyết tranh chấp giữa
thương nhân và người tiêu dùng bằng hòa giải còn hạn chế do pháp luật Việt
Nam không thừa nhận khả năng cưỡng chế thi hành những cam kết của các
bên trong biên bản hòa giải thành.
1.2.1.3. Trọng tài
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là hình thức thức giải quyết tranh
chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập
nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra phán quyết buộc các bên tranh
chấp phải thực hiện. Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp xuất phát
từ nhu cầu bảo vệ lợi ích của các thương nhân trong kinh doanh.
Trong trường hợp người tiêu dùng và tổ chức cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ vẫn chưa tìm được tiếng nói chung thông qua các phương thức
như thương lượng hoặc hòa giải thì có thể thỏa thuận lựa chọn phương pháp
là gửi đơn lên Trọng tài. Theo Luật BVQLNTD 2010, trọng tài được sử dụng
như một cách giải quyết tranh chấp phát sinh khi có điều khoản trọng tài
(Thuật ngữ dùng trong Luật Trọng tài thương mại 2010 là “thỏa thuận trọng
tài”). Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài giữa người tiêu dùng với thương
nhân được quy định từ Điều 38 đến Điều 40 Luật BVQLNTD 2010. Bên cạnh

đó, Điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010 cũng quy định về Thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp của Trọng tài: “1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ
hoạt động thương mại. 2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất
một bên có hoạt động thương mại. 3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp
luật quy định được giải quyết bằng trọng tài.”
Như vậy, tranh chấp giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh
doanh tuy không thuần tuý là một tranh chấp thương mại song nó vẫn thuộc
thẩm quyền của trọng tài thương mại nếu được các bên lựa chọn bằng thoả
thuận trọng tài.


18

Tuy nhiên, để điều khoản trọng tài có hiệu lực, tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ phải thông báo về điều khoản trọng tài trước khi giao
kết hợp đồng và được người tiêu dùng chấp thuận. Theo điều 17 của Luật
Trọng tài thương mại 2010 về Quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh
chấp của người tiêu dùng thì:
Đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người
tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện
chung về cung cấp hàng hóa, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận
trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa chọn trọng tài hoặc tòa án
để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền
khởi kiện tại trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận.
Cách thiết kế quy định này đảm bảo tính linh hoạt, theo đó, nếu người
tiêu dùng hài lòng với điều khoản trọng tài, tranh chấp vẫn được giải quyết
bằng trọng tài như hai bên đã thoả thuận theo điều kiện giao dịch chung.
Ngược lại, nếu cảm thấy thiệt thòi bởi thỏa thuận đó, người tiêu dùng cần có
cơ hội để xem xét và quyết định, nếu đồng ý với thỏa thuận trọng tài thì xác
nhận vào văn bản riêng. Đây là một quy định riêng của Luật trọng tài nhằm

bảo vệ người tiêu dùng, bổ sung các nguyên tắc chung khác trong pháp luật
bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
Trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, bên cạnh những thuận
lợi, các doanh nghiệp cũng gặp phải rất nhiều vấn đề phát sinh khi thực hiện
các hợp đồng. Bởi vậy mà khi xảy ra tranh chấp, phương thức giải quyết bằng
trọng tài là phương thức đạt hiệu quả cao nhất. Bởi giải quyết bằng phương
thức này chỉ giải quyết một lần, bằng một hội đồng trọng tài do các bên lựa
chọn nên các bên có thể chọn những chuyên gia giỏi nhất, độc lập, vô tư và
khách quan nhất, có thể bảo vệ được các bí mật của thương nhân, thủ tục do
các bên tự thỏa thuận và thời gian giải quyết tranh chấp ngắn gọn.


×