Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Thực trạng pháp luật về thuế đối với doanh nghiệp ở việt nam hiện nay và thực tiễn thi hành tại công ty cổ phần vật giá việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.35 MB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THANH HƯƠNG

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT GIÁ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hướng ứng dụng

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THANH HƯƠNG

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT GIÁ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế


Mã số

: 8380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hướng ứng dụng

Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuyến

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng
theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thanh Hương


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Thầy giáo – TS. Nguyễn Văn
Tuyến, Thầy đã dành nhiều thời gian để hướng dẫn và đưa ra những định hướng về
phương pháp nghiên cứu khoa học và góp ý về nội dung của Đề tài luận văn. Với sự
hướng dẫn tận tâm của Thầy, tôi đã hoàn thiện Luận văn thạc sỹ của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong trường Đại học Luật Hà Nội,

đặc biệt các thầy cô giáo trong Khoa sau Đại học đã hết lòng chỉ bảo, truyền đạt kiến thức
cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường để tôi có thêm những kiến thức chuyên sâu,
những kỹ năng nghiên cứu khoa học giúp ích và tạo điều kiện tốt cho tôi nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2018

Học viên

Nguyễn Thanh Hương


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BVMT

Bảo vệ môi trường

GTGT

Giá trị gia tăng

MST

Mã số thuế


NNT

Người nộp thuế

NSNN

Ngân sách nhà nước

SDĐPNN

Sử dụng đất phi nông nghiệp

TNDN

Thu nhập doanh nghiệp

TTĐB

Tiêu thụ đặc biệt

UBND

Ủy ban nhân dân

UBTVQH

Ủy ban thường vụ quốc hội

XNK


Xuất nhập khẩu


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………..

1

1. Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………………

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài………………………………………………..

1

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài……………………………...

2

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn…………………….

2

5. Các câu hỏi nghiên cứu của đề tài…………………………………………

3

6. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………..


3

7. Bố cục của luận văn………………………………………………………..

3

PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………………...

5

Chương 1. LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT THUẾ ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP Ở VIỆT NAM……………………………………………………...

55

1.1. Lý luận chung về pháp luật thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam hiện
nay…………………………………………………………………………….

5

1.2. Lý luận pháp luật về thuế trực thu đối với doanh nghiệp………………..

8

1.2.1. Thuế thu nhập doanh nghiệp…………………………………………...

99

1.2.2. Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp……………………………………..


1111

1.3. Lý luận pháp luật về thuế gián thu đối với doanh nghiệp………………..

13

1.3.1. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu……………………………………….

1313

1.3.2. Thuế tiêu thụ đặc biệt…………………………………………………..

1616

1.3.3. Thuế giá trị gia tăng……………………………………………………

1818

1.3.4. Thuế bảo vệ môi trường………………………………………………..

1919

1.3.5. Thuế tài nguyên………………………………………………………..

2121

Kết luận chương 1…………………………………………………………….

22


Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THUẾ TRỰC THU ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM……………………………………………

23

2.1. Thực trạng pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt
Nam…………………………………………………………………………...

2323

2.1.1. Nội dung cơ bản của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp……….

2323


2.1.2. Ưu điểm và những hạn chế, bất cập của pháp luật thuế thu nhập doanh
nghiệp…………………………………………………………………………

26

2.2. Thực trạng pháp luật về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp áp dụng đối
với doanh nghiệp……………………………………………………………...

3232

2.2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp áp
dụng đối với doanh nghiệp…………………………………………………...

3232


2.2.2. Ưu điểm và những hạn chế, bất cập của pháp luật về thuế sử dụng đất
phi nông nghiệp áp dụng đối với doanh nghiệp………………………………

3636

Kết luận chương 2…………………………………………………………….

39

Chương 3. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THUẾ GIÁN THU ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM……………………………………………

4040

3.1. Thực trạng pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với doanh
nghiệp…………………………………………………………………………

4040

3.1.1. Nội dung cơ bản của pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu………

4040

3.1.2. Ưu điểm và những hạn chế của pháp luật về thuế xuất nhập khẩu…….

4949

3.2. Thực trạng pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với doanh nghiệp……

5252


3.2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt………………

5252

3.2.2. Ưu điểm và những hạn chế của pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt…...

5454

3.3. Thực trạng pháp luật về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp……..

5656

3.3.1. Nội dung cơ bản của pháp luật thuế giá trị gia tăng đối với doanh
nghiệp…………………………………………………………………………

5656

3.3.2 Ưu điểm và những hạn chế, bất cập của pháp luật thuế giá trị gia tăng
đối với doanh nghiệp…………………………………………………………

5757

3.4. Thực trạng pháp luật về thuế bảo vệ môi trường đối với doanh nghiệp…

5959

3.4.1. Nội dung cơ bản của pháp luật thuế bảo vệ môi trường……………….

5959


3.4.2. Ưu điểm và những hạn chế của pháp luật về thuế bảo vệ môi trường…

6161

3.5. Thực trạng pháp luật về thuế tài nguyên đối với doanh nghiệp………….

6464

3.5.1. Nội dung cơ bản của pháp luật thuế tài nguyên đối với doanh nghiệp...

6464

3.5.2. Ưu điểm và những hạn chế, bất cập của pháp luật về thuế tài nguyên...

6868


Kết luận Chương 3……………………………………………………………

71

Chương 4. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THUẾ TẠI CÔNG TY
CỔ PHẦN VẬT GIÁ VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ……………...

7272

4.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật thuế đối với doanh nghiệp tại Công ty cổ
phần Vật Giá Việt Nam………………………………………………………


7272

4.1.1. Khái quát về tình hình thực hiện pháp luật thuế tại Công ty cổ phần
Vật Giá Việt Nam…………………………………………………………….

7272

4.1.2. Những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật thuế
tại Công ty cổ phần Vật Giá Việt Nam……………………………………….

7474

4.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật thuế đối với doanh nghiệp
ở Việt Nam……………………………………………………………………

7676

Kết luận chương 4………………………………………….…………………

85

KẾT LUẬN………………………………………………...…………………

86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………..

87



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cũng như các quốc gia khác trên thế giới, hệ thống pháp luật thuế ở Việt
Nam được coi là một thành tố quan trọng trong hệ thống pháp luật kinh tế – tài
chính. Đặc biệt, trong quá trình đổi mới và hội nhập với nền kinh tế thế giới, vai trò
của hệ thống thuế ngày càng trở nên rõ nét và thể hiện rõ chức năng của mình trong
quản lý và điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Nhà nước sử dụng công cụ thuế nhằm
tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo nguồn lực tài chính
phục vụ hiệu quả cho hoạt động của Nhà nước và xã hội. Mỗi sắc thuế được ban
hành nhằm đáp ứng các mục tiêu riêng và phù hợp với đối tượng mà Nhà nước cần
quản lý và điều tiết.
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức WTO vào cuối năm
2006. Sự kiện này mang lại nhiều cơ hội và cả những thách thức không nhỏ đối với
chúng ta. Muốn tận dụng tốt các cơ hội, chúng ta phải nỗ lực ở nhiều vấn đề, trong
đó việc thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào những lĩnh
vực, những vùng cần khuyến khích cũng là một vấn đề quan trọng. Muốn vậy,
chúng ta cần phải có một hệ thống pháp luật về thuế thoả đáng để các nhà đầu tư
mạnh dạn bỏ vốn kinh doanh. Trong bối cảnh lạm phát tăng cao như hiện nay, chi
phí doanh nghiệp phát sinh là rất lớn. Do vậy, để doanh nghiệp yên tâm, ổn định sản
xuất, kinh doanh, Nhà nước hơn lúc nào hết cần đặc biệt quan tâm đến chính sách
về các loại thuế đối với doanh nghiệp để họ có thể yên tâm hoạt động. Chính từ thực
tiễn này, tác giả đã chọn đề tài: “Thực trạng pháp luật về thuế đối với doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay và thực tiễn thi hành tại Công ty cổ phần Vật Giá
Việt Nam” để nghiên cứu và làm rõ hơn về thực trạng thực thi, áp dụng pháp luật
thuế tại các doanh nghiệp hiện nay, cụ thể là tại Công ty cổ phần Vật Giá Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề thuế đối với doanh nghiệp đã được đề cập nhiều trong các công trình
nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên, phần lớn các công trình nghiên cứu đều có xu

hướng tập trung vào việc tìm hiểu lý thuyết về thuế hoặc lý luận pháp luật thuế,


2

trong đó có một số vấn đề khá điển hình và mang tính thời sự như: Vấn đề chống
chuyển giá, vấn đề ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp... Đặc biệt, trong thời gian
gần đây mặc dù pháp luật về thuế đã có những thay đổi rất đáng kể nhưng chưa có
công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về mặt thực tiễn áp dụng pháp luật thuế đối
với doanh nghiệp – với tư cách là một luận văn thạc sĩ luật học. Vì vậy, luận văn
với đề tài: “Thực trạng pháp luật về thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam hiện
nay và thực tiễn thi hành tại Công ty cổ phần Vật Giá Việt Nam” có thể xem là
một trong những đề tài góp phần làm rõ bức tranh thực tiễn thực hiện pháp luật thuế
đối với doanh nghiệp ở Việt Nam thông qua việc phân tích, đánh giá các quy định
của pháp luật về thuế và tìm hiểu thực tiễn quá trình áp dụng pháp luật thuế tại
Công ty cổ phần Vật Giá Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn là trên cơ sở những vấn đề lý luận
về pháp luật thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay để đưa ra đánh giá
thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn thực hiện pháp luật thuế đối với doanh
nghiệp ở Việt Nam trên cơ sở khảo sát thực tiễn thực hiện pháp luật thuế tại một
doanh nghiệp cụ thể là Công ty cổ phần Vật giá Việt Nam.
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về thuế đối với doanh nghiệp
và cơ chế điều chỉnh pháp luật thuế đối với doanh nghiệp;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật thuế đối với doanh nghiệp và thực
tiễn thực hiện pháp luật thuế đối với doanh nghiệp hiện nay ở Việt Nam;
- Đề xuất các giải pháp có tính thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật thuế đối với doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn

Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là các quy định pháp luật về thuế
đối với doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay và thực tiễn áp dụng pháp luật thuế tại
Công ty cổ phần Vật Giá Việt Nam.
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn tập trung vào việc nghiên cứu, đánh giá nội


3

dung các quy định của pháp luật về thuế đối với doanh nghiệp hiện nay và thông
qua tình hình áp dụng pháp luật thuế tại Công ty cổ phần Vật Giá Việt Nam để từ đó
đưa ra các nhận xét và kiến nghị hoàn thiện pháp luật thuế đối với doanh nghiệp.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của đề tài
Để triển khai nghiên cứu đề tài, luận văn phải trả lời được các câu hỏi nghiên
cứu có tính khái quát sau đây:
- Bản chất và đặc trưng của thuế áp dụng đối với doanh nghiệp và mô hình
pháp luật thuế đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường?
- Thực tiễn thực hiện pháp luật thuế đối với doanh nghiệp và những hạn chế,
bất cập của pháp luật thuế đối với doanh nghiệp hiện nay ở Việt Nam từ thực tiễn
tại Công ty cổ phần giá Việt Nam?
- Giải pháp nào để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật thuế đối với doanh
nghiệp tại Việt Nam hiện nay?
6. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai thực hiện đề tài, luận văn sử dụng phối hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu được áp dụng phổ biến trong khoa học xã hội và nhân văn như:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, so sánh đối chiếu được sử
dụng để làm rõ các vấn đề lý luận về thuế đối với doanh nghiệp và đánh giá thực
trạng pháp luật về thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp thống kê, khảo sát được sử dụng để xử lý các thông tin, số
liệu thực tế về quá trình thực hiện pháp luật thuế tại doanh nghiệp nói chung và
Công ty cổ phần Vật Giá Việt Nam nói riêng.

7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được thiết kế gồm 04 chương như sau:
Chương 1: Lý luận pháp luật về thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thuế trực thu đối với doanh nghiệp ở Việt
Nam.
Chương 3: Thực trạng pháp luật về thuế gián thu đối với doanh nghiệp ở Việt


4

Nam.
Chương 4: Thực tiễn thực hiện pháp luật thuế đối với doanh nghiệp tại Công
ty Cổ phần Giá Việt Nam và một số kiến nghị.


5

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
Ở VIỆT NAM
1.1. Lý luận chung về pháp luật thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam
hiện nay
Thuế là khoản thu bắt buộc mang tính cưỡng chế bằng sức mạnh của nhà
nước mà các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ phải nộp vào ngân sách nhà nước khi có
đủ những điều kiện nhất định. Các khoản thu này không mang tính đối giá và hoàn
trả trực tiếp cho người nộp thuế. Đây là quan điểm toàn diện, hệ thống và đầy đủ
nhất, thể hiện đúng bản chất của thuế, là cơ sở quan trọng để đi vào phân tích những
đặc điểm của thuế. Cụ thể, thuế có những đặc điểm cơ bản như sau:

Thứ nhất, thuế là một phạm trù lịch sử gắn liền với nhà nước (từ phạm vi
điều chỉnh đến hình thức thu thuế) bởi vì có sự xuất hiện, tồn tại, phát triển và mất
đi của thuế; mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì có chính sách thuế khác nhau. Mọi
sự thay đổi của lịch sử sẽ dẫn đến sự thay đổi về thuế.
Thứ hai, thuế là một khoản thu mang tính bắt buộc được đảm bảo thực hiện
bởi các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực cao và sức mạnh cưỡng chế của nhà
nước do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành.
Thứ ba, thuế là một khoản thu mang tính bắt buộc vì không ai tự nguyện từ
bỏ quyền lợi của mình để nộp thuế cho nhà nước. Hơn nữa, để nhà nước tồn tại,
nguồn thu từ thuế phải thường xuyên và ổn định. Nếu tự nguyện nộp thì không thể
thường xuyên và ổn định được. Tính bắt buộc được thể hiện dưới khía cạnh là bắt
buộc đối với nhà nước, tức thu thuế là nghĩa vụ bắt buộc đối với cán bộ, cơ quan thu
thuế. Cán bộ cơ quan thu thuế không được quyền lựa chọn đối tượng nộp thuế, đối
tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế,… Đối với người dân thì đây là nghĩa vụ chuyển
giao tài sản của họ cho nhà nước khi có đủ điệu kiện do pháp luật thuế quy định mà
không phải quan hệ thanh toán trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng. Tính bắt buộc


6

của thuế là một trong những đặc tính quan trọng để phân biệt thuế với các khoản thu
khác trên cơ sở tự nguyện hình thành nên ngân sách nhà nước.
Thứ tư, thuế được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế hành chính
và cưỡng chế hình sự. Hậu quả của việc cưỡng chế này có thể dẫn đến giảm hiệu
quả, uy tín trong sản xuất kinh doanh, thậm chí là chấm dứt sự tồn tại của đối tượng
bị áp dụng.
Thứ năm, thuế không mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng
nộp. Trong quan hệ pháp luật thuế không có mối liên hệ trực tiếp giữa số tiền thuế
mà các đối tượng nộp thuế đã nộp cho nhà nước và các quyền, lợi ích hợp pháp mà
đối tượng nộp thuế nhận được từ nhà nước. Người nộp thuế nhiều và người nộp

thuế ít đều được hưởng lợi ích như nhau. Thuế không phải là khoản phải trả khi các
đối tượng nộp thuế đã nhận được một lợi ích hay quyền lợi cụ thể nào từ phía nhà
nước.
Thứ sáu, thuế có phạm vi tác động rộng bởi hầu như mọi đối tượng hàng hóa
dịch vụ (được phép lưu thông và hợp pháp), mọi tổ chức, cá nhân (có tư cách chủ
thể) đều chịu sự điều chỉnh của thuế.
Căn cứ vào tính chất của từng sắc thuế, thuế được phân thành thuế trực thu
và thuế gián thu.
Thuế trực thu là loại thuế thu trực tiếp vào đối tượng nộp thuế, người có
nghĩa vụ nộp thuế đồng thời là người chịu thuế, người phải trả tiền thuế và trực tiếp
nộp thuế vào NSNN. Hay nói cách khác là nhà nước đã tiến hành điều tiết một cách
trực tiếp một phần thu nhập của các tổ chức, cá nhân vào ngân sách nhà nước.
Trong hệ thống pháp luật thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, thuế trực
thu tiêu biểu gồm: Thuế thu nhập doanh nghiệp; Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.
Về ưu điểm, chính sách về thuế trực thu công bằng hơn vì nhà nước hiểu rõ
và cá biệt hóa được người chịu thuế, trên cơ sở đó đảm bảo công bằng xã hội hơn
cho việc điều tiết thu nhập. Căn cứ này cũng là cơ sở để lý giải vì sao các loại thuế
trực thu thường có mức thuế suất rất cao nhưng chế độ miễn giảm rất linh hoạt
nhằm đảm bảo sự công bằng.


7

Về nhược điểm, thuế trực thu khó thu, người nộp thuế có xu hướng trốn thuế
vì họ cảm thấy gánh nặng về thuế khi phải trích một phần lợi ích của chính bản thân
mình cho nhà nước. Bên cạnh đó, việc theo dõi, quản lý thu thuế này là rất phức tạp,
đòi hỏi cán bộ thuế phải có chuyên môn cao, có hệ thống xử lý thông tin liên thông.
Điều này cũng làm cho chi phí hành thu đối với loại thuế trực thu cũng tăng lên
tương đối cao và khó khăn so với thuế gián thu. Điều này đôi khi cũng làm cho việc
tập trung thu nhập vào ngân sách nhà nước không đáp ứng kịp thời, đầy đủ.

Thuế gián thu là loại thuế thu gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa và dịch vụ.
Trong thuế gián thu, đối tượng nộp thuế không phải là người chịu thuế (người gánh
chịu thuế là người tiêu dùng). Thuế gián thu không tách biệt ra khỏi giá cả hàng hóa
và dịch vụ mà nó cấu thành trong giá cả hàng hoá dịch vụ, làm cho người tiêu dùng
lầm tưởng đó là giá mà họ trả để có được hàng hoá dịch vụ đó. Trong thuế gián thu,
đối tượng nộp thuế và người chịu thuế là khác nhau. Thông thường, người chịu thuế
chính là người tiêu dùng. Trong một số trường hợp đặc biệt, đối tượng nộp thuế và
người chịu thuế là một. Ví dụ: Doanh nghiệp A nhập khẩu máy lạnh về để trang bị
cho hệ thống văn phòng của mình. Trong trường hợp này, thuế giá trị gia tăng, thuế
tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu là thuế gián thu nhưng chính doanh nghiệp A là
người chịu thuế đồng thời là người nộp thuế. Các loại thuế gián thu đối với doanh
nghiệp tiêu biểu gồm: Thuế Xuất khẩu, nhập khẩu; Thuế Tiêu thụ đặc biệt; Thuế
Giá trị gia tăng; Thuế bảo vệ môi trường; Thuế tài nguyên.
Về ưu điểm, thuế gián thu dễ thu bởi vì đối tượng nộp thuế không phải là
người chịu thuế (không có cảm giác gánh nặng về thuế).
Về nhược điểm, tỷ trọng tiền thuế gián thu trên thu nhập của người nghèo lại
cao hơn tỷ trọng tiền thuế gián thu trên thu nhập của người giàu. Đây là tính không
công bằng của thuế gián thu. Nhà nước không cá biệt hóa được người chịu thuế nên
khó khăn trong việc thực hiện chính sách miễn giảm về thuế.
Hệ thống pháp luật thuế đối với doanh nghiệp có những vai trò cơ bản như
sau:


8

Thứ nhất, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Thuế là một trong 3 nguồn
thu chủ yếu và thường xuyên trong Ngân sách nhà nước, chiếm trên 90% tổng
nguồn thu Ngân sách nhà nước. Nhà nước quan tâm khi ban hành một sắc thuế thì
sẽ bổ sung bao nhiêu phần trăm cho nguồn thu ngân sách nhà nước, chi phí hành thu
như thế nào. Để thực hiện tốt vai trò này, cần phải đáp ứng những yêu cầu sau: Cần

phải đảm bảo rằng các văn bản qui phạm pháp luật thuế đồng bộ, thống nhất và
khoa học để có thể dễ dàng trong việc áp dụng thuế; thuế đưa ra phải bao quát hầu
hết mọi hoạt động từ sản xuất kinh doanh, chế biến, sửa chữa, khai thác, xây dựng
đến dịch vụ, từ nguồn thu nhập thường xuyên đến không thường xuyên, những hoạt
động tiêu dùng của xã hội; Việc thu thuế cần phải đảm bảo việc nuôi dưỡng nguồn
thu; bên cạnh đó, việc thu thuế phải đảm bảo tính công bằng. Thuế là sản phẩm, là
công cụ pháp lý giúp nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế: Thuế tạo nguồn thu để
phục vụ nhu cầu đầu tư của đất nước. Thuế là công cụ điều tiết giá cả thị trường,
chống lạm phát hoặc giảm phát. Thuế góp phần điều tiết và hướng dẫn tiêu dùng: để
hạn chế tiêu dùng các sản phẩm và sử dụng các dịch vụ không cần thiêt, nhà nước
đánh thuế rất cao và ngược lại. Thuế được coi là công cụ quan trong để bảo vệ nền
sản xuất trong nước, đồng thời khuyền khích nhà đầu tư đầu tư vào những ngành,
những vùng miền nhà nước cần phát triển. Thuế là công cụ điều tiết thu nhập và
thực hiện công bằng xã hội.
Thứ hai, thuế điều tiết thu nhập một cách hợp lý dựa trên thu nhập. Các luật
thuế được ban hành đều xác nhận động viên một phần thu nhập vào ngân sách nhà
nước như một lý do cơ bản để ban hành sắc thuế đó.
Thứ ba, thuế tạo công bằng xã hội. Điều này được thể hiện ở việc nhà nước
sử dụng nguồn tài chính có được để xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội, thực hiện
các chính sách xã hội như: đào tạo nghề cho trẻ em lang thang cơ nhỡ, chăm sóc
cho người già không nơi nương tựa, chính sách xã hội đối với gia đình có công với
cách mạng, gia đình neo đơn, hay các chương trình xây dựng hệ thống nước ngọt để
cung cấp nước cho mùa khô, đào kênh rửa phèn, ngăn mặn…
1.2. Lý luận pháp luật về thuế trực thu đối với doanh nghiệp


9

1.2.1. Thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) là loại thuế đánh trên thu nhập của các

doanh nghiệp để động viên một phần thu nhập của họ vào Ngân sách nhà nước
(NSNN). Ngoài ra, nhà nước cũng có thể sử dụng loại thuế này để điều tiết vĩ mô
nền kinh tế thông qua việc động viên công bằng giữa các thành phần kinh tế,
khuyến khích ưu đãi đầu tư nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển.
Thuế thu nhập doanh nghiệp (hay còn gọi là thuế thu nhập công ty) xuất hiện
lần đầu tên vào năm 1920 tại Hoa Kỳ và Đức, sau đó được phát triển và áp dụng
rộng rãi ở các nước Châu Âu từ sau thế chiến thứ hai. [1]
Ở các nước, mặc dù tên gọi của loại thuế này có thể khác nhau, chẳng hạn
như thuế thu nhập công ty, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế lợi tức… nhưng xét về
bản chất thì không có sự khác biệt. Thực tế cho thấy có quốc gia quy định loại thuế
này trong một luật riêng (ví dụ như Việt Nam), trong khi quốc gia khác lại quy định
chung cùng với loại thuế trực thu khác như thuế thu nhập cá nhân… trong cùng một
đạo luật, gọi là luật thuế thu nhập.
Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, thuế TNDN dễ thu hơn so với
thuế thu nhập cá nhân. Việc quản lý thuế đối với doanh nghiệp có thể dựa trên hồ sơ
đăng ký kinh doanh và số lượng doanh nghiệp bao giờ cũng ít hơn số lượng cá nhân
trong quốc gia cho nên dễ quản lý. Ở các nước phát triển, thuế TNDN được xem
như là một loại thuế thu trước của thuế thu nhập cá nhân. Ở các quốc gia này, doanh
nghiệp hầu hết là doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần cho nên người chịu thuế
thực tế là chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc cổ đông. Những người này chỉ nhận được
lợi tức từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau khi doanh nghiệp đã nộp thuế
TNDN cho nhà nước. Khoản lợi tức nhận được từ thu nhập của doanh nghiệp sẽ
được tính vào thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân. Để giảm tình trạng thuế chồng
thuế thì các quốc gia có thể cho phép khầu trừ phần thuế TNDN đã đóng hoặc đánh
thuế thu nhập cá nhân trên phần lợi tức này ở mức thuế suất thấp.
Được xem là loại thuế trực thu nhưng đôi khi đối tượng chịu thuế TNDN có
1 Xem thêm: Viện Khoa học tài chính (Bộ Tài chính), Từ điển thuật ngữ Tài chính – tín dụng, NXB Tài
chính, Hà Nội 1996, tr. 340 – 341.



10

thể chuyển gánh nặng về thuế cho các đối tượng khác. Thuế TNDN có thể chuyển
cho cổ đông, cho người tiêu dùng hoặc cho cả người lao động trong doanh nghiệp.
Quá trình tự do hoá hoạt động đầu tư quốc tế và tự do hóa thương mại quốc tế đã
làm cho hoạt động của các doanh nghiệp vượt ra khỏi phạm vi biên giới lãnh thổ
quốc gia. Việc phân định quyền đánh thuế trở nên cần thiết và các quốc gia có xu
hướng hợp tác với nhau để phân định quyền đánh thuế và giảm tình trạng trốn thuế.
Với tư cách là một loại thuế trực thu điển hình, thuế TNDN là công cụ quan
trọng để Nhà nước thực hiện việc điều tiết thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Nhà
nước sử dụng thuế TNDN làm công cụ điều tiết thu nhập của các chủ thể có thu
nhập, đảm bảo yêu cầu đóng góp của các chủ thể kinh doanh vào NSNN được công
bằng, hợp lý. Mặc khác, các doanh nghiệp thua lỗ trong sản xuất kinh doanh vừa
không phải đóng thuế TNDN, vừa có thể được chuyển lỗ sang các năm sau để có cơ
hội phục hồi và giảm tình trạng phá sản doanh nghiệp. Thuế TNDN là nguồn thu
quan trọng của NSNN. Phạm vi áp dụng của thuế TNDN rất rộng, gồm cá nhân,
nhóm kinh doanh, hộ cá thể và các tổ chức kinh tế có hoạt động sản xuất, kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ có phát sinh thu nhập chịu thuế. Một khi nền kinh tế thị
trường phát triển, tăng trưởng kinh tế được bảo đảm, hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ ngày càng mang lại nhiều lợi nhuận thì khả năng huy động nguồn tài
chính cho NSNN thông qua thuế TNDN sẽ ngày càng dồi dào. Mặt khác, so với các
loại thuế khác, thuế TNDN dễ thu, ít tốn kém chi phí nên hiệu quả thu cũng cao hơn
nhiều. Ở các nước đang phát triển, tiền thu được từ thuế TNDN nhiều hơn nhiều so
với thuế thu nhập cá nhân. Còn ở các nước phát triển mặc dù thu từ thuế TNDN ít
hơn so với thuế thu nhập cá nhân nhưng thuế TNDN giữ vai trò là loại thuế thu
trước của thuế thu nhập cá nhân. Thuế TNDN cũng là công cụ quan trọng để góp
phần khuyến khích, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển theo hướng kế hoạch,
chiến lược, phát triển toàn diện của Nhà nước. Nhà nước ưu đãi, khuyến khích đối
với các chủ thể đầu tư, kinh doanh vào những ngành, lĩnh vực và những vùng, miền
mà nhà nước ưu tiên khuyến khích phát triển trong từng giai đoạn nhất định.

Xét về phương diện lý thuyết, thuế TNDN có những ưu điểm và nhược điểm


11

cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về ưu điểm: Thuế TNDN có ưu điểm quan trọng nhất mà các loại
thuế gián thu không có được, đó chính là tính công bằng trong điều tiết thu nhập của
người chịu thuế. Điều này thể hiện ở chỗ, thuế thu nhập doanh nghiệp đánh trên
phần thu nhập chịu thuế phát sinh từ kinh doanh và từ các hoạt động khác của
doanh nghiệp nên về nguyên tắc là chủ thể nào có thu nhập càng cao thì phải nộp
thuế càng nhiều và ngược lại. Đây chính là nhân tố cốt lõi đảm bảo tính công bằng
của thuế thu nhập nói chung và thuế thu nhập doanh nghiệp nói riêng. Ngoài ra, một
ưu điểm khác nữa của thuế thu nhập doanh nghiệp cần được nhắc đến là: thuế thu
nhập doanh nghiệp có tác động trực tiếp đến thái độ của doanh nghiệp tùy thuộc vào
mức thuế suất cao hay thấp, do các mức thuế suất này có ảnh hưởng trực tiếp đến
lợi ích của người nộp thuế là doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là, doanh nghiệp sẽ
tự giác nôp thuế nếu mức thuế suất được cho là hợp lý và phù hợp với khả năng
chịu thuế của doanh nghiệp. Ngược lại, doanh nghiệp sẽ có xu hướng chống lại việc
nộp thuế nếu mức thuế suất được cho là quá cao và gây bất lợi cho doanh nghiệp.
Đặc điểm này là yếu tố để Nhà nước thiết kế chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp
theo hướng thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh một ngành nghề nào đó hoặc hạn chế
doanh nghiệp kinh doanh một ngành nghề nào đó theo ý muốn của Nhà nước.
Thứ hai, về nhược điểm: Thuế thu nhập doanh nghiệp có nhược điểm lớn
nhất là mục tiêu đánh thuế khá rõ ràng, lộ liễu và người nộp thuế luôn hiểu rõ rằng
họ là người bị điều tiết thu nhập nên doanh nghiệp có xu hướng muốn trốn thuế
hoặc tránh thuế để đỡ bất lợi. Điều này dẫn đến nguy cơ thuế thu nhập doanh nghiệp
thường có tỷ lệ trốn lậu cao và thường khó thu hơn so với các loại thuế gián thu. Từ
đó, thuế thu nhập doanh nghiệp được coi là loại thuế có chi phí quản lý, hành thu
khá tốn kém.

1.2.2. Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp tuy không phải là loại thuế trực thu điển
hình nhất (giống như thuế thu nhập doanh nghiệp hay thuế thu nhập cá nhân) nhưng
thực tiễn cho thấy nó luôn đóng một vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết thị


12

trường bất động sản nói chung và thị trường quyền sử dụng đất nói riêng.
Đối với chủ thể kinh doanh như doanh nghiệp, việc tiếp cận với nguồn lực
đất đai để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh vốn dĩ là nhu cầu tất yếu và
do đó chủ thể này có thể phải kê khai, nộp thuế sử dụng đất phi nông nghiệp – với
tư cách là người sử dụng đất vào hoạt động kinh doanh (phi nông nghiệp).
Kể từ khi Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp được Quốc hội khoá XII
thông qua tại Kỳ họp thứ 7 ngày 17/6/2010 và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2012 cho đến này, việc kê khai, tính thuế và nộp thuế sử dụng đất phi nông
nghiệp đối với các tổ chức, cá nhân (trong đó có doanh nghiệp) đã phát sinh và bộc
lộ nhiều vấn đề trong thực tiễn áp dụng, cả về mặt ưu điểm cũng như hạn chế, bất
cập.
Ở mức độ khái quát, có thể cho rằng việc nhà làm luật ban hành Luật thuế sử
dụng đất phi nông nghiệp nhằm đảm bảo các mục tiêu chủ yếu sau:
(i) Tăng cường quản lý nhà nước đối với đất đai, khuyến khích tổ chức, cá
nhân sử dụng đất tiết kiệm, có hiệu quả, góp phần hạn chế đầu cơ về đất và khuyến
khích thị trường bất động sản phát triển lành mạnh;
(ii) Khắc phục những mặt hạn chế của chính sách thuế nhà, đất hiện hành.
Nâng cao tính pháp lý của pháp luật về thuế đất trên cơ sở bổ sung mới và kế thừa
các quy định còn phù hợp;
(iii) Đơn giản hóa về kỹ thuật tính toán và hành thu, đảm bảo sự rõ ràng, dễ
thực hiện, dễ quản lý;
(iv) Tiếp cận với thông lệ quốc tế về thuế đất, tạo điều kiện thuận lợi cho

việc hội nhập quốc tế;
(v) Động viên hợp lý sự đóng góp của người sử dụng đất, nhất là những đối
tượng sử dụng đất vượt hạn mức quy định vào NSNN.
Xét về khía cạnh bản chất, nguyên tắc cơ bản nhất chi phối việc ban hành và
thực thi Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp là “người nào sử dụng nhiều đất thì
người đó sẽ phải trả thuế nhiều hơn so người sử dụng diện tích đất ít hơn”. Dựa trên
nguyên tắc này, số thuế sử dụng đất phải nộp hàng năm sẽ được xác định dựa trên


13

căn cứ là diện tích đất, giá đất và thuế suất theo tỷ lệ phần trăm (%) tính trên giá
đất. Ngoài ra, việc thiết kế, ban hành và thực thi Luật thuế sử dụng đất phi nông
nghiệp còn hướng đến mục tiêu quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai,
tránh tình trạng đầu cơ đất trong nền kinh tế và thông qua đó góp phần minh bạch
hóa thị trường bất động sản. Dựa trên nguyên tắc này, nhiều quốc gia đã quy định
theo hướng áp dụng biểu thuế lũy tiến đối với phần diện tích đất sử dụng vượt hạn
mức so với phần diện tích đất sử dụng trong hạn mức quy định.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định những trường hợp sử dụng đất tiết
kiệm hơn thì người sử dụng đất sẽ được áp mức thuế thuận lợi hơn. Trái lại, cùng là
đất phi nông nghiệp nhưng sử dụng không đúng mục đích hoặc chưa sử dụng thì
người sử dụng đất sẽ bị áp dụng mức thuế cao hơn. Điều này cho thấy rằng mục tiêu
quan trọng của thuế suất trong Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp chính là góp
phần định hướng các nhà đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh, dự án nhà ở
quan tâm đến việc thực hiện đầu tư theo tiến độ.
1.3. Lý luận pháp luật về thuế gián thu đối với doanh nghiệp
1.3.1. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Trong xu thế hội nhập quốc tế nước ta đã và đang từng bước hòa mình để
phát triển kinh tế và mở rộng quan hệ đối ngoại. Việc buôn bán, trao đổi hàng hóa
giữa nước ta với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới ngày càng đa dạng

phong phú. Mỗi quốc gia độc lập và có chủ quyền đều sử dụng một loại thuế thu
vào hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới và cửa khẩu của quốc gia mình.
Thuế đánh vào hàng hóa trong các trường hợp này được gọi chung là thuế quan.
Trong hệ thống pháp luật của Việt Nam thì thuế quan được gọi với tên chung là
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và là loại thuế độc lập trong hệ thống pháp luật thuế
Việt Nam cũng như các nước trên thế giới. Đây là loại thuế tương đối đặc biệt bởi
lẽ, ngoài chức năng huy động nguồn thu cho NSNN thì thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu còn có chức năng bảo hộ nền sản xuất trong nước, điều tiết cán cân thương
mại giữa các quốc gia.
Thuế nhập khẩu là một loại thuế mà một quốc gia hay vùng lãnh thổ đánh


14

vào hàng hóa có nguồn gốc từ nước ngoài trong quá trình nhập khẩu. Thuế xuất
khẩu là loại thế đánh vào những mặt hàng mà Nhà nước muốn hạn chế xuất khẩu.
Như vậy, thuế XNK là loại thuế gián thu đánh vào những mặt hàng được phép xuất
khẩu, nhập khẩu qua biên giới, kể cả thị trường trong nước vào khu phi thuế quan
và từ khu phi thuế quan vào thị trường trong nước.
Xét về phương diện lý thuyết, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có những đặc
điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, đối tượng chịu thuế xuất khẩu, nhập khẩu là hàng hóa được đưa
qua biên giới một quốc gia hoặc đưa từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan
và ngược lại. Đây chính là dấu hiệu để phân biệt giữa thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu với các loại thuế nội địa khác như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trường…
Thứ hai, thuế XNK là một loại thuế gián thu. Nhà nước sử dụng thuế XNK
để điều chỉnh hoạt động ngoại thương thông qua việc tác động vào cơ cấu giá cả của
hàng hóa XNK. Vì vậy, thuế XNK là một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hóa
XNK; người nộp thuế là người thực hiện hoạt động XNK hàng hóa; người chịu thuế

là người tiêu dùng hàng hóa XNK. Nhà nước thu thuế XNK của người tiêu dùng
gián tiếp thông qua người cung cấp hàng hóa XNK.
Với ý nghĩa là một loại thuế đặc thù trong trong cấu trúc hệ thống thuế ở mỗi
quốc gia, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có vai trò và ý nghĩa thiết thực. Mặc dù
xuất hiện muộn hơn so với một số sắc thuế nội địa nhưng thuế nhập khẩu đã nhanh
chóng khẳng định được vai trò, tác dụng to lớn của mình đối với nền kinh tế quốc
gia, đặc biệt là vai trò kiểm soát hoạt động nhập khẩu hàng hóa với bên ngoài. Ngày
nay cho dù xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đang từng bước ảnh hưởng đến tình
trạng của loại thuế này theo hướng hạn chế vai trò của nó ở mỗi quốc gia. Song về
cơ bản đây vẫn là giải pháp quản lý vĩ mô có hiệu quả đối với nền kinh tế trong
nước nhất là đối với những quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế


15

hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường như Việt Nam [2].
Vai trò này của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được thể hiện ở một số khía
cạnh sau đây:
Một là, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đảm bảo nguồn thu cho NSNN. Quản
lý nhà nước đối với thuế XNK nhằm đảm bảo nguồn thu thuế XNK được đầy đủ,
chính xác, kịp thời, thường xuyên, ổn định cho NSNN. Thuế luôn là nguồn thu quan
trọng và chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng số thu NSNN của hầu hết các quốc gia.
Nguồn huy động tập trung thông qua thuế là một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội
và thu nhập quốc dân. Nhờ đó, một bộ phận thu nhập của xã hội được tập trung vào
NSNN để đảm bảo nhu cầu chi tiêu, giúp nhà nước thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ của mình.. Đảm bảo nguồn thu từ thuế XNK là vai trò quan trọng hàng
đầu của công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, điều đó không có
nghĩa là nhà nước cần phải tăng thu thuế XNK khẩu bằng mọi giá. Một tỉ lệ thu thuế
XNK hợp lý và ổn định sẽ vừa kích thích nền kinh tế phát triển, hiệu quả vừa đảm
bảo nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Vì vậy, vai trò đảm

bảo nguồn thu thuế XNK là một trong những vai trò quan trọng. Tuy nhiên, trong
giai đoạn hiện nay, với xu thế hội nhập và cắt giảm thuế quan thì nguồn thu từ thuế
XNK ngày càng giảm, vì vậy việc quản lý thuế XNK và đảm bảo nguồn thu là rất
khó.
Hai là, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có vai trò là công cụ để giúp Nhà
nước kiểm soát hàng hóa XNK qua biên giới. Kiểm soát hàng hóa XNK là mục tiêu
chủ chốt của mỗi quốc gia, đặc biệt trong xu thế tự do hóa thương mại trên phạm vi
khu vực và thế giới. Thông qua việc quản lý thu thuế XNK cơ quan nhà nước sẽ
quản lý được số lượng, loại hình hàng hóa thực XNK, từ đó kiểm soát được tất cả
hàng hóa xuất khẩu ra khỏi Việt Nam và hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Việt
Nam. Đây là cơ sở quan trọng để Nhà nước đưa ra chính sách pháp luật phù hợp đối
với hoạt động XNK, cho phép xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa nào, cấm xuất khẩu,
nhập khẩu hàng hóa nào.
2. Xem thêm: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NBX Công an nhân dân, Hà Nội
2017.


16

Ba là, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu còn có vai trò quan trọng trong việc
bảo hộ sản xuất trong nước. Nhà nước sẽ sử dụng công cụ thuế nhập khẩu theo
hướng có lợi cho nền kinh tế. Thông qua các chính sách đối với hàng hóa XNK,
Nhà nước tác động vào giá cả hàng hóa nhập khẩu trên thị trường nội địa, làm giảm
khả năng cạnh tranh đối với hàng hóa được sản xuất trong nước. Và để thay thế,
người tiêu dùng sẽ chuyển sang sử dụng hàng hoá trong nước sản xuất. Bảo hộ sản
xuất trong nước nhằm hỗ trợ nền sản xuất phát triển, tạo công ăn việc làm và nguồn
thu nội địa. Bảo hộ cũng làm giảm tính cạnh tranh, lãng phí nguồn lực gây thiệt hại
cho người tiêu dùng. Chính vì vậy việc lựa chọn ngành nghề bảo hộ, thời gian bảo
hộ phù hợp là điều vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, về lâu dài thì đầu tư đổi mới
công nghệ, cải tiến phương thức quản lý để nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản

phẩm để tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế mới là yếu tố quyết định.
Bốn là, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có vai trò thực hiện các chính sách
đối ngoại của nhà nước trong mối quan hệ bang giao với các quốc gia. Đây là một
biện pháp quản lý tiến bộ thay vì sử dụng những biện pháp phi thuế quan như cấm
nhập khẩu. Trong điều kiện hiện nay, để thực hiện điều chỉnh cơ cấu XNK theo
định hướng phát triển kinh tế xã hội thì Nhà nước sẽ sử dụng công cụ thuế quan
theo hướng có lợi cho nền kinh tế là một chính sách phù hợp, góp phần cân bằng
cán cân thương mại và ổn định được cán cân thanh toán quốc tế. Hiện nay, Việt
Nam đã thiết lập mối quan hệ thương mại với rất nhiều nước và vùng lãnh thổ, tham
gia nhiều hiệp định thương mại, là thành viên của Tổ chức Hải quan thế giới
(WCO), Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Để xác định mức độ chịu thuế của
các hàng hóa khác nhau, mỗi nước đều xây dựng một biểu thuế quan. Biểu thuế
quan là một bảng tổng hợp quy định một cách có hệ thống các mức thuế quan đánh
vào các loại hàng hóa chịu thuế khi xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Biểu thuế quan có
thể được xây dựng dựa trên phương pháp tự định hoặc phương pháp thương lượng
giữa các quốc gia.
1.3.2. Thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) là loại thuế tiêu dùng được áp dụng phổ biến


17

ở các nước trên thế giới với những tên gọi khác nhau. Đối với Việt Nam, tiền thân
của thuế TTĐB hiện hành là thuế hàng hóa được ban hành năm 1951. Luật thuế
TTĐB ban hành lần đầu tiên vào năm 1990, ban đầu chỉ nhằm vào 06 mặt hàng:
thuốc lá, rượu, bia, pháo, bài lá và vàng mã. Kể từ khi ban hành đến nay, Luật thuế
TTĐB đã qua nhiều lần bổ sung sửa đổi cho phù hợp với chính sách kinh tế - xã hội
của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn phát triển. Thuế TTĐB là thuế đánh vào
một số hàng hoá và dịch vụ đặc biệt, nhằm điều tiết sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng
của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ. Việc quy định các hàng hóa, dịch vụ nào thuộc

đối tượng chịu thuế TTĐB tùy thuộc vào chính sách điều tiết của từng nước, xuất
phát từ hoàn cảnh kinh tế, xã hội, chính sách điều tiết, hướng dẫn sản xuất tiêu dùng
của Nhà nước, phong tục và tập quán tiêu dùng của một số loại hàng hóa, dịch vụ
trong từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội cụ thể. Nhìn chung, các hàng hoá,
dịch vụ chịu thuế TTĐB thường có các tính chất sau: một số hàng hoá, dịch vụ có
giá bán cao; cầu của những hàng hoá này thường kém co giãn so với giá cả; hàng
hoá có thể có hại cho sức khoẻ, làm ảnh hưởng không tốt đến môi trường.
Thứ nhất, thuế TTĐB có tính chất gián thu. Tính chất gián thu của loại thuế
này thể hiện ở chỗ thuế TTĐB đánh vào thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá và
dịch vụ chịu thuế TTĐB một cách gián tiếp thông qua giá cả của hàng hoá, dịch vụ
mà người đó tiêu dùng và người sản xuất và kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế
TTĐB là người nộp thuế cho nhà nước thay cho người tiêu dùng. Như vậy, người
sản xuất, nhập khẩu hàng hoá, kinh doanh dịch vụ sẽ nộp thuế TTĐB và khoản thuế
này được chuyển vào giá bán sản phẩm và chuyển sang cho người tiêu dùng cuối
cùng phải gánh chịu.
Thứ hai, thuế TTĐB là thuế tiêu dùng, nhưng khác với thuế TNDN và thuế
GTGT, thuế TTĐB có đối tượng chịu thuế hẹp, chỉ bao gồm một số hàng hoá, dịch
vụ Nhà nước cần điều tiết.
Thứ ba, thuế TTĐB thường có mức thuế suất cao nhằm điều tiết sản xuất
vàhướng dẫn tiêu dùng hợp lý, thông qua đó nhằm điều tiết một phần thu nhập của
những người tiêu dùng các hàng hoá, dịch vụ này. Do đối tượng của Thuế TTĐB


×