Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Thực trạng pháp luật về tiền gửi của cá nhân và thực tiễn thi hành tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam (agribank)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THỊ THÚY

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TIỀN GỬI CỦA CÁ NHÂN
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM (AGRIBANK)

Chuyên ngành

: Luật kinh tế

Mã số

: 8380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Thị Giang Thu

Hà Nội – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.


Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Thị Thúy


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới cô giáo –
PGS.TS Phạm Thị Giang Thu, Khoa Pháp luật kinh tế, Trường Đại học Luật
Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể quý thầy cô đang công tác
tại Trường Đại học Luật Hà Nội, Quý thầy cô trong Khoa Pháp luật kinh tế
đã dạy dỗ và truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu trong suốt hai năm
học tập và rèn luyện tại trường. Vốn kiến thức này không chỉ là nền tảng cho
quá trình nghiên cứu luận văn mà còn là hành trang vững chắc để tôi ứng
dụng vào công tác và cuộc sống của mình.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và người thân đã
luôn luôn bên cạnh tôi, ủng hộ, chia sẻ, động viên cũng như tạo mọi điều
kiện để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Thị Thúy


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Agribank


: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam

NHNN
NHTMCP

: Ngân hàng Nhà nước
: Ngân hàng Thương mại cổ phần

TCTD

: Tổ chức tín dụng

TGTK

: Tiền gửi tiết kiệm

NHTM

: Ngân hàng thương mại

BHTG

: Bảo hiểm tiền gửi

BLDS

: Bộ luật Dân sự



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIỀN GỬI CỦA CÁ NHÂN, PHÁP
LUẬT VỀ TIỀN GỬI CỦA CÁ NHÂN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI......... 7
1.1. Tiền gửi của cá nhân, hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân ..................... 7
1.1.1. Tiền gửi của cá nhân ..................................................................................... 7
1.1.2. Phân loại tiền gửi của cá nhân ...................................................................... 8
1.1.3. Hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân .......................................................... 12
1.2. Ý nghĩa, vai trò của hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân tại Ngân hàng
thương mại ........................................................................................................... 18
1.2.1. Đối với Ngân hàng thương mại .................................................................. 18
1.2.2. Đối với cá nhân gửi tiền.............................................................................. 18
1.2.3. Đối với nền kinh tế - xã hội ........................................................................ 20
1.3. Một số vấn đề lý luận về pháp luật tiền gửi của cá nhân tại Ngân hàng
thương mại ........................................................................................................... 21
1.3.1. Pháp luật về tiền gửi của cá nhân, bản chất pháp lý quan hệ nhận tiền gửi
giữa cá nhân gửi tiền và ngân hàng ...................................................................... 21
1.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về tiền gửi của cá nhân ................ 23
1.3.3. Khái quát nội dung điều chỉnh của pháp luật về tiền gửi của cá nhân tại ngân
hàng thương mại ................................................................................................... 26
Kết luận Chương 1 .............................................................................................. 28
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TIỀN GỬI CỦA CÁ NHÂN TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ
TIỀN GỬI CỦA CÁ NHÂN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT
TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM ....................................................................... 30
2.1. Thực trạng pháp luật về tiền gửi của cá nhân tại Ngân hàng thương mại ... 30
2.1.1. Các quy định về chủ thể tham gia quan hệ nhận tiền gửi của cá nhân ....... 30
2.1.2. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia quan hệ nhận tiền
gửi cá nhân ............................................................................................................ 33
2.1.3. Các quy định về thủ tục liên quan đến tiền gửi của cá nhân ............................ 36

2.1.4. Các quy định về lãi suất trong hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận
tiền gửi của cá nhân .............................................................................................. 41


2.1.5. Các quy định về bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền trong hoạt động nhận
tiền gửi cá nhân ..................................................................................................... 43
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về tiền gửi của cá nhân tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam ....................................................... 46
2.2.1. Vài nét về Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.... 46
2.2.2. Việc áp dụng quy định về chủ thể tham gia quan hệ nhận tiền gửi của cá
nhân ....................................................................................................................... 50
2.2.3. Việc áp dụng quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia quan hệ
nhận tiền gửi của cá nhân...................................................................................... 54
2.2.4. Việc áp dụng quy định về các thủ tục liên quan đến tiền gửi của cá nhân ........ 58
2.2.5. Việc áp dụng quy định về lãi suất trong hoạt động huy động vốn bằng hình
thức nhận tiền gửi của cá nhân ............................................................................. 63
2.2.6. Việc áp dụng quy định về bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền trong hoạt
động nhận tiền gửi cá nhân ................................................................................... 66
2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tiền gửi của cá nhân ở Việt Nam và
nâng cao hiệu quả huy động tiền gửi của cá nhân tại Agribank .................... 68
2.3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tiền gửi cá nhân ở Việt Nam................ 68
2.3.2. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động tiền gửi của cá nhân tại
Agribank ............................................................................................................... 73
Kết luận Chương 2 .............................................................................................. 76
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 79


1


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một trong những định chế quan trọng nhất
của hệ thống tài chính quốc gia. Một trong những vai trò chính của các ngân hàng
thương mại là huy động nguồn vốn cho nền kinh tế. Nếu đối với sự vận hành của nền
kinh tế quốc gia, nguồn vốn được xem như máu trong một cơ thể sống thì hệ thống
các ngân hàng thương mại là các mao mạch chính. Các ngân hàng thương mại có vai
trò quan trọng trong việc làm cầu nối đưa nguồn vốn tới các dự án đầu tư trong nền
kinh tế bằng hoạt động kinh doanh tiền tệ của mình.
Nguồn vốn của NHTM được hình thành bằng nhiều hình thức khác nhau như
vốn tự có, vốn tiền gửi, vốn từ việc phát hành giấy tờ có giá, vốn tài trợ, ủy thác đầu
tư, nợ Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước,… Đối với bất kỳ ngân hàng nào, nguồn
huy động từ tiền gửi của khách hàng luôn là kênh quan trọng, chiếm tỷ lệ cao nhất
trong tổng vốn huy động, nó có liên quan mật thiết đến lợi ích đông đảo của người
dân trong xã hội, liên quan đến sự ổn định tiền tệ quốc gia, sự an toàn của hệ thống
ngân hàng, sự ổn định và phát triển của nền kinh tế xã hội. Thực tế cho thấy vốn huy
động tiền gửi luôn chiếm tỷ trọng lớn, thường chiếm trên 50% tổng nguồn vốn của
các ngân hàng thương mại. Để có được nguồn vốn này, các ngân hàng cần phải tiến
hành huy động từ nhiều nguồn khác nhau như cá nhân thuộc các bộ phận dân cư, công
ty kinh doanh, các công ty tài chính, cơ quan chính quyền, kho bạc nhà nước, bảo
hiểm xã hội, tổ chức tín dụng khác…, trong đó huy động tiền gửi từ cá nhân thông
qua việc sử dụng tài khoản cá nhân và tiền gửi tiết kiệm chiếm một vai trò đặc biệt
quan trọng.
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, thu nhập và mức sống của dân cư
ngày càng tăng lên, lượng tiền nhàn rỗi cũng tăng lên, người dân có nhu cầu được
bảo đảm an toàn cho đồng tiền của mình và khai thác triệt để những lợi ích từ nó. Vì
vậy, nhu cầu gửi tiền tại các ngân hàng thương mại ngày càng tăng cao và đa dạng
về hình thức. Gửi tiền ở ngân hàng là hình thức đầu tư an toàn, ổn định và ít rủi ro.
Đối với nhiều người, gửi tiết kiệm là một trong những lựa chọn hàng đầu vì vừa đảm
bảo an toàn vừa có thêm nguồn thu từ lãi suất tiền gửi. Đối với hoạt động huy động

vốn tiền gửi dân cư tại các ngân hàng thương mại, mặc dù tiềm năng vốn trong dân
cư còn rất lớn, song chưa được tiếp cận, khai thác hiệu quả do người dân còn thiếu
lòng tin ở ngân hàng và do các yếu tố pháp lý liên quan đến việc gửi tiền.
Hoạt động nhận tiền gửi của ngân hàng và gửi tiền của các cá nhân diễn ra


2

thường nhật hàng ngày với số lượng giao dịch lớn, cùng với đó là những rủi ro, tranh
chấp xảy ra nhiều, đặc biệt liên quan đến thủ tục gửi rút tiền, thừa kế, tặng cho,…
Xuất phát từ tính chất rủi ro và nguy cơ tranh chấp cao như vậy mà việc gửi tiền của
khách hàng nói chung và cá nhân nói riêng tại ngân hàng không những chịu sự điều
chỉnh của hệ thống pháp luật chung về dân sự, thương mại, doanh nghiệp mà còn
được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp luật chuyên ngành ngân hàng với những
nguyên tắc rất khắt khe. Mặc dù vậy, pháp luật về tiền gửi cá nhân vẫn còn sơ sài,
thiếu thống nhất, có những quy định chưa rõ ràng và chịu sự điều chỉnh bởi nhiều
văn bản quy phạm chồng chéo nhau, dẫn đến nhiều khó khăn khi áp dụng và có thể
gây thiệt hại đến quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể liên quan. Vì những lý
do trên, cùng với nhận định Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam là một ngân hàng thương mại lớn uy tín trên cả nước, với mạng lưới Chi nhánh,
Phòng giao dịch và số lượng khách hàng lớn, có thực tiễn huy động vốn dưới hình
thức nhận tiền gửi từ khách hàng cá nhân phong phú nên tôi chọn đề tài “Thực trạng
pháp luật về tiền gửi của cá nhân và thực tiễn thi hành tại Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn (Agribank)” để làm đề tài luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến tiền gửi cá nhân tại ngân hàng thương mại, dưới góc độ nghiên
cứu pháp luật, hiện đã có một số nghiên cứu được công bố, tiêu biểu như:
- Khóa luận tốt nghiệp “Pháp luật về huy động vốn của NHTM – Thực trạng và
giải pháp” năm 2011 của tác giả Ma Thị Thắm, Đại học Luật Hà Nội.
- Luận văn Thạc sĩ luật học “Hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của Ngân hàng

thương mại cổ phần Việt Nam” của tác giả Hoàng Tuyết Mai, người hướng dẫn khoa
học: TS. Nguyễn Thị Ánh Vân năm 2010 của Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Luận văn Thạc sĩ luật học “Hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận tiền
gửi tiết kiệm của Ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Bùi
Thị Huyền Trang, người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuyến năm 2013
của Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận
tiền gửi của ngân hàng thương mại ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thúy
Vân, người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Thu Thủy năm 2014 của Khoa
Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Một số Luận án Tiến sĩ có liên quan đến hoạt động huy động vốn của các ngân


3

hàng thương mại, trong đó có đề cập đến hình thức nhận tiền gửi như:
- Luận án Tiến sĩ: “Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng
thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của
tác giả Ngô Quốc Kỳ, người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Mơ, TS. Dương
Đăng Huệ của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2003.
- Luận án Tiến sĩ: “Các giao dịch thương mại chủ yếu của ngân hàng thương
mại trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn
Tuyến, người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Trần Đình Hảo, TS. Võ Đình Toàn của
Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2004.
Nhìn chung, hầu hết những công trình nghiên cứu nói trên được thực hiện trong
bối cảnh nền kinh tế và môi trường pháp lý cũ. Bên cạnh đó, mặc dù nhiều vấn đề
liên quan đến pháp luật về huy động vốn của ngân hàng thương mại đã được đề cập,
tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu pháp luật về tiền gửi
cá nhân cũng như khai thác thực tiễn thi hành pháp luật về tiền gửi cá nhân tại một
NHTM cụ thể. Thực tế đó cho thấy, việc nghiên cứu đề tài “Thực trạng pháp luật về

tiền gửi của cá nhân và thực tiễn thi hành tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn (Agribank)” là khả thi, cần thiết, hữu ích và có tính ứng dụng cao trên
thực tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những quan điểm, lý thuyết về tiền gửi cá nhân
và giao dịch nhận tiền gửi của NHTM với người gửi tiền, những quy định pháp luật
hiện hành có liên quan đến tiền gửi cá nhân tại ngân hàng thương mại, trong đó tập
trung vào quy định tại các văn bản: Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày
13/9/2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế về tiền gửi tiết
kiệm; Quyết định số 47/2006/QĐ-NHNN ngày 25/9/2006 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm theo Quyết định
số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13/9/2004; Thông tư 23/2014/TT-NHNN ngày
19/8/2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về hướng dẫn mở và sử dụng tài
khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; Thông tư 32/2016/TTNHNN ngày 26/12/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 23/2014/TTNHNN hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán;… Kết hợp với việc tìm hiểu, đánh giá thực tiễn thi hành các quy


4

định đó tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, luận văn sẽ
phân tích những mặt tích cực, hạn chế của những quy phạm pháp luật có liên quan.
Từ đó, luận văn đưa ra những đánh giá về thực trạng các quy định của pháp luật Việt
Nam và có những kiến nghị, phương hướng góp phần hoàn thiện pháp luật về tiền
gửi cá nhân tại NHTM ở Việt Nam và nhằm nâng cao hiệu quả nhận tiền gửi của cá
nhân tại Agribank.
Kết quả của luận văn là sản phẩm mang tính ứng dụng, vì vậy các nội dung
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về tiền gửi cá nhân sẽ mang
tính ứng dụng chung. Mặt khác, những nội dung nghiên cứu quy định nội bộ của
Agribank cùng những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động tiền gửi cá nhân

sẽ mang tính ứng dụng riêng tại Agribank.
b) Phạm vi nghiên cứu
Xét một cách toàn diện, pháp luật về tiền gửi cá nhân bao gồm rất nhiều nội
dung như: chủ thể tham gia quan hệ nhận tiền gửi; quyền và nghĩa vụ của các bên
trong quan hệ nhận tiền gửi; thủ tục liên quan đến tiền gửi của cá nhân; quy định
nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân gửi tiền; giải quyết tranh chấp phát sinh;... Nhận
thấy trên thực tế, tiền gửi cá nhân phát sinh phần lớn tại các ngân hàng thương mại,
trong đó Agribank - một trong các ngân hàng thương mại quốc doanh là đại diện tiêu
biểu có nguồn huy động tiền gửi từ cá nhân lớn nhất hệ thống, tiếp cận nguồn tiền gửi
dân cư trên mọi vùng miền của đất nước. Do đó, phạm vi nghiên cứu của luận văn
chỉ giới hạn và tập trung phân tích các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về
tiền gửi cá nhân tại ngân hàng thương mại và thực tiễn tại Agribank, đánh giá thực
trạng những quy định này dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn vận hành và đề xuất các
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi trên thực tế.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu và thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để đánh giá khách quan, toàn diện
thực trạng các quy định của pháp luật về tiền gửi cá nhân và thực tiễn áp dụng tại
Agribank Việt Nam.
Ngoài ra, để hoàn thành mục đích nghiên cứu, luận văn cũng kết hợp sử dụng
nhiều phương pháp cụ thể như: phương pháp giải thích, phân tích, tổng hợp, so sánh
nhằm làm rõ các vấn đề pháp lý liên quan đến tiền gửi cá nhân tại các NHTM nói


5

chung và Agribank nói riêng trong tương quan với các quy định pháp luật khác điều
chỉnh hoạt động ngân hàng; kết hợp với phương pháp thống kê các số liệu thực tế để
góp phần đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về tiền gửi cá nhân tại Agribank.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Với đề tài: “Thực trạng pháp luật về tiền gửi của cá nhân và thực tiễn thi hành
tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank)”, tác giả đi sâu vào
phân tích thực trạng pháp luật về tiền gửi cá nhân hiện nay ở Việt Nam cũng như
những bất cập còn tồn tại, những thiếu sót và thực tiễn thi hành tại Agribank. Từ đó
đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật tại Agribank.
Nhằm đạt được mục tiêu tổng quát trên, luận văn đặt ra các mục tiêu, nhiệm vụ
cụ thể như sau:
- Nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận về tiền gửi cá nhân, pháp luật về
tiền gửi cá nhân tại NHTM.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về tiền
gửi cá nhân tại Agribank nhằm làm rõ những bất cập, vướng mắc của quy định pháp
luật cũng như các quy định nội bộ của Agribank về tiền gửi cá nhân.
- Qua đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định pháp luật về
tiền gửi cá nhân ở Việt Nam và nâng cao hiệu quả hoạt động nhận tiền gửi cá nhân
tại các NHTM nói chung và Agribank nói riêng.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
So với các công trình nghiên cứu trước đây, luận văn có tính mới, thể hiện ở
những điểm sau đây:
- Nghiên cứu chuyên sâu pháp luật về tiền gửi cá nhân tại các NHTM, tiếp cận
dưới góc độ một đối tượng của hoạt động ngân hàng.
- Làm rõ hệ thống những văn bản quy phạm pháp luật, những quy định mới nhất
được ban hành điều chỉnh về tiền gửi của cá nhân tại các NHTM.
- Đi sâu tìm hiểu từ thực tế, phân tích thực tiễn thực thi những quy định pháp
luật về tiền gửi cá nhân tại Agribank.
- Trên cơ sở phân tích những tồn tại, bất cập, luận văn nêu ra một số kiến nghị,
giải pháp hoàn thiện pháp luật về tiền gửi cá nhân và nâng cao hiệu quả hoạt động
nhận tiền gửi cá nhân tại Agribank Việt Nam.



6

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của Luận văn được chia làm hai chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tiền gửi của cá nhân, pháp luật về tiền gửi
của cá nhân tại ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về tiền gửi của cá nhân tại Ngân hàng thương
mại và thực tiễn thi hành pháp luật về tiền gửi của cá nhân tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.


7

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIỀN GỬI CỦA CÁ NHÂN, PHÁP
LUẬT VỀ TIỀN GỬI CỦA CÁ NHÂN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tiền gửi của cá nhân, hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân
1.1.1. Tiền gửi của cá nhân
a) Tiền gửi
Trong nhiều hình thức huy động vốn của NHTM, có thể nói hình thức huy động
vốn mang tính chủ đạo, hình thành nên đặc trưng của NHTM là nhận tiền gửi. Nhờ
có hoạt động này mà đã hình thành nên nguồn vốn chiếm tỉ lệ lớn trong tổng nguồn
vốn của NHTM. Đây là nguồn vốn mang tính chủ đạo, quan trọng nhất bên cạnh vốn
chủ sở hữu của NHTM. Tiền gửi chính là một trong những yếu tố làm nên đặc trưng
của NHTM so với các tổ chức kinh tế khác, đó là “nơi chứa tiền” theo cách hiểu đơn
giản nhất khi nhắc đến các ngân hàng.
Ở Việt Nam, định nghĩa tiền gửi sớm được đưa vào quy định của pháp luật về
ngân hàng. Cụ thể, Luật các Tổ chức tín dụng 1997 tại khoản 9 Điều 20 quy định:
“Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi

được hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền”.
Luật các TCTD năm 2004, sửa đổi bổ sung Luật các TCTD 1997 tại điều 20 khoản
9 đưa ra định nghĩa về tiền gửi: “Tiền gửi là số tiền của tổ chức, cá nhân gửi tại tổ
chức tín dụng hoặc các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng dưới hình thức tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi
được hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền”.
Về cơ bản, định nghĩa tiền gửi được quy định ở hai văn bản quy phạm pháp luật nói
trên không có sự khác nhau về bản chất, chỉ sửa đổi về mặt câu chữ.
Ngoài định nghĩa tại Luật các TCTD nói trên, tại Nghị định số 70/2000/NĐ-CP
ngày 21 tháng 11 năm 2000 của Chính phủ về việc giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp
thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng đưa ra quy định về tiền
gửi như sau: “Tiền gửi của khách hàng bao gồm tiền Đồng Việt Nam và các loại
ngoại tệ của các tổ chức và cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi
có kỳ hạn (kể cả tiền gửi tiết kiệm) và các hình thức tiền gửi khác”.
Như vậy, cả hai định nghĩa trên đây đều chưa rõ ràng, không nói lên được bản
chất thế nào là tiền gửi mà chỉ định nghĩa theo phương pháp liệt kê. Thậm chí, Luật
các TCTD năm 2010 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD năm


8

2017 đã không đưa ra định nghĩa tiền gửi như các văn bản luật trước đó. Bên cạnh
đó, tác giả cho rằng tiền gửi “phải được hoàn trả cho người gửi tiền” là chưa thực sự
chính xác vì tùy vào mục đích của người gửi tiền mà tiền gửi có thể được hoàn trả
lại cho người gửi tiền hoặc không. Mục đích của việc gửi tiền có thể là mở tài khoản
để sử dụng các dịch vụ, lợi ích như dịch vụ thanh toán, gửi rút tiền qua thẻ mà ngân
hàng cung cấp,…, hai là khách hàng gửi tiền để hưởng lợi ích kinh tế từ lãi suất của
việc gửi tiền. Như vậy, tiền gửi có thể được hoàn trả lại cho người gửi tiền hoặc thanh
toán cho người thứ ba theo yêu cầu của người gửi tiền tại các tổ chức nhận tiền gửi.
Tựu chung lại, có thể hiểu về tiền gửi trong hoạt động ngân hàng một cách khái

quát nhất như sau: Tiền gửi là số tiền khách hàng gửi tại các tổ chức tín dụng dưới
nhiều hình thức khác nhau, được hưởng lãi hoặc không được hưởng lãi và phải được
hoàn trả cho người gửi tiền hoặc thanh toán cho người thứ ba theo yêu cầu của họ.
b) Tiền gửi của cá nhân
Trên thực tế, các Ngân hàng thương mại có thể nhận tiền gửi từ rất nhiều nguồn
khác nhau như các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, đơn vị hành chính sự nghiệp,
các tổ chức tín dụng khác,… và không thể không kể tới là từ các tầng lớp dân cư với
tư cách cá nhân.
Như vậy, “tiền gửi của cá nhân” là tiền gửi mà chủ thể gửi tiền vào ngân hàng
là cá nhân, hay nếu đi từ định nghĩa tiền gửi thì: Tiền gửi cá nhân là số tiền mà khách
hàng là cá nhân gửi tại các tổ chức tín dụng dưới nhiều hình thức khác nhau, được
hưởng lãi hoặc không được hưởng lãi và phải được hoàn trả cho khách hàng hoặc
thanh toán cho người thứ ba theo yêu cầu của họ.
1.1.2. Phân loại tiền gửi của cá nhân
Khi tham gia quan hệ gửi tiền, người gửi tiền luôn hướng tới một mục đích nhất
định. Nhằm đáp ứng những nhu cầu, mục đích đa dạng của khách hàng, các NHTM
đưa ra nhiều loại tiền gửi khác nhau để người gửi tiền lựa chọn hình thức gửi thích
hợp nhất tùy thuộc vào mục đích, tính chất và khả năng nguồn vốn của họ. Dựa theo
từng tiêu chí cụ thể người ta có thể phân chia tiền gửi cá nhân nói riêng và tiền gửi
nói chung thành nhiều loại tiền gửi khác nhau, trong đó cách phân loại phổ biến nhất
là theo kỳ hạn và theo mục đích gửi tiền.
1.1.2.1. Phân loại theo kỳ hạn gửi tiền
Theo kỳ hạn gửi tiền, tiền gửi bao gồm tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ
hạn:


9

a) Tiền gửi không kỳ hạn
Tiền gửi không kỳ hạn là khoản tiền gửi với thời gian không xác định. Thông

thường, tiền gửi loại này để thực hiện các khoản chi trả cho hoạt động sản xuất kinh
doanh hoặc vì mục đích tiêu dùng. Tiền gửi không kỳ hạn hầu hết là khoản tiền đang
chờ thanh toán, không phải là tiền mà khách hàng để dành nên khách hàng có thể rút
ra hoặc sử dụng để thanh toán bất kỳ lúc nào theo yêu cầu. Khách hàng gửi loại tiền
này sẽ không được trả lãi hoặc trả lãi với mức lãi suất rất thấp. Đối với tiền gửi không
kỳ hạn, khách hàng được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả như séc, ủy nhiệm
chi và các lệnh chi khác… Ngoài ra, khách hàng có thể gửi tiền vào NHTM với thời
gian không xác định với mục đích bảo toàn tài sản, không mang tính chất phục vụ
thanh toán, khi cần có thể rút ra để sử dụng.
b) Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào NHTM trên cơ sở có
sự thỏa thuận với NHTM về kỳ hạn gửi tiền (hay thời gian rút tiền). Về nguyên tắc,
người gửi tiền chỉ được rút tiền khi đến hạn thỏa thuận. Tuy nhiên, trên thực tế để
thu hút khách hàng gửi loại tiền gửi này, các NHTM có thể cho phép khách hàng
được rút tiền trước thời hạn với mức lãi suất được hưởng thấp hơn so với lãi suất áp
dụng đối với kỳ hạn đã thỏa thuận. Đối với mỗi loại kỳ hạn, NHTM áp dụng một
mức lãi suất tương ứng trên nguyên tắc kỳ hạn càng dài, lãi suất càng cao. Các loại
kỳ hạn cụ thể do tổ chức nhận tiền gửi quy định và thường được chia ra ba loại: Ngắn
hạn (dưới 12 tháng), trung hạn (từ 12 tháng đến dưới 60 tháng), dài hạn (từ 60 tháng
trở lên).
Việc phân loại tiền gửi của cá nhân theo kỳ hạn từ ngắn hạn, trung hạn đến dài
hạn và không thời hạn có ý nghĩa quan trọng đối với cá nhân gửi tiền cũng như ngân
hàng nhận tiền gửi. Với cá nhân gửi tiền, việc phân loại kỳ hạn tiền gửi giúp đáp ứng
nhu cầu của từng khách hàng nhất định bởi thời gian nhàn rỗi của khoản tiền cũng
như nhu cầu về thời gian gửi tại ngân hàng của mỗi khách hàng là khác nhau, thậm
chí có sự thay đổi trong quá trình gửi tiền. Tiền gửi không kỳ hạn có thể rút bất cứ
lúc nào, tạo cho người gửi tiền sử dụng số tiền gửi một cách linh hoạt hơn nhưng lại
không được hưởng lãi hoặc lãi suất rất thấp. Do đó khi tham gia quan hệ tiền gửi dưới
hình thức này, khách hàng thường sử dụng đồng thời với những dịch vụ mà tổ chức
nhận tiền gửi cung cấp, đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền linh hoạt của mình. Tiền gửi có

kỳ hạn ràng buộc khách hàng phải tuân thủ theo kỳ hạn gửi tiền nhưng lại có mức lãi


10

suất cao hơn. Nếu vì một lý do nào đó mà người gửi tiền theo kỳ hạn phải rút tiền
trước hạn thì các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng báo trước một thời hạn nhất
định và khách hàng sẽ chỉ được hưởng lãi suất rất thấp như đối với tiền gửi không kỳ
hạn. Đối với ngân hàng, việc phân chia thành nhiều loại tiền gửi với kỳ hạn khác nhau,
mỗi kỳ hạn phù hợp với nhóm khách hàng riêng giúp cho các ngân hàng thu hút được
nhiều khách hàng tới gửi tiền và đồng thời tạo điều kiện cho NHTM sử dụng nguồn
vốn huy động bằng nhận tiền gửi có hiệu quả, lập kế hoạch kinh doanh phù hợp. Tiền
gửi có kỳ hạn càng dài thì ngân hàng càng có lợi thế sử dụng tiền gửi này để cho vay
trung dài hạn, ổn định hơn và thu lại lợi nhuận cao hơn. Tuy nhiên, đối với tiền gửi
không kỳ hạn, do tính bất ổn định và không thể dự đoán trước việc rút tiền của khách
hàng nên ngân hàng không thể sử dụng toàn bộ số vốn này để cho vay trung và dài hạn
mà chỉ sử dụng theo một tỷ lệ nhất định do Ngân hàng Nhà nước quy định.
Mặc dù pháp luật hiện hành có nhiều quy định đề cập đến các loại tiền gửi, tuy
nhiên hiện nay chưa có văn bản nào quy định thống nhất, tập trung về khái niệm cũng
như quy chế pháp lý về tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Quy định về tiền
gửi không kỳ hạn hiện được áp dụng theo Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19
tháng 8 năm 2014 hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán của tổ chức,
cá nhân tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư
32/3016/TT-NHNN) và một phần về tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn theo Quy chế
về tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm theo Quyết định 1160/2004/QĐ-NHNN ngày
13/9/2004. Đối với tiền gửi có kỳ hạn, hiện nay pháp luật chưa có văn bản quy phạm
điều chỉnh riêng biệt, chỉ mới có quy định một phần về tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
tại Quyết định 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13/9/2004. Ngân hàng Nhà nước cũng
không quy định về các loại kỳ hạn cụ thể mà để cho các tổ chức nhận tiền gửi tự quy
định phù hợp với chiến lược kinh doanh của mình. Năm 2017, Ngân hàng Nhà nước

đã xây dựng dự thảo Thông tư hướng dẫn giao dịch tiền gửi có kỳ hạn tại TCTD, chi
nhánh Ngân hàng nước ngoài nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động nhận tiền gửi có
kỳ hạn bằng VNĐ/ngoại tệ của TCTD và đang trong quá trình lấy ý kiến. Việc sớm
hoàn thiện, ban hành Thông tư này có ý nghĩa quan trọng trong việc khắc phục những
vướng mắc hiện tại do thiếu cơ chế pháp lý về tiền gửi có kỳ hạn.
1.1.2.2. Phân loại theo mục đích gửi tiền
Theo mục đích gửi tiền của người gửi tiền, có thể phân loại tiền gửi cá nhân thành
tiền gửi tiết kiệm (tiền gửi phi giao dịch) và tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch):


11

a) Tiền gửi tiết kiệm:
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết
kiệm, được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức
nhận tiền gửi tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm
tiền gửi. Có thể thấy, đây là loại tiền gửi mà pháp luật quy định riêng đối với trường
hợp người gửi tiền là cá nhân, nó được gửi ở các NHTM để được quản lí, cất giữ hộ
hoặc để hưởng lãi theo định kỳ.
Tiền gửi tiết kiệm có hai loại là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết
kiệm có kỳ hạn. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi
tiền có thể rút tiền theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kỳ ngày làm việc
nào của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là tiền gửi tiết
kiệm, trong đó người gửi tiền thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm về kỳ hạn
gửi nhất định.
b) Tiền gửi thanh toán
Tiền gửi thanh toán là loại hình tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức, cá nhân
gửi vào NHTM với mục đích chủ yếu là để thực hiện các giao dịch thanh toán, chi trả
qua Ngân hàng cho các hoạt động mua bán hàng hóa, sử dụng dịch vụ và các khoản
chi khác phát sinh trong đời sống hằng ngày bằng các phương tiện thanh toán như:

séc lĩnh tiền mặt, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, chuyển tiền điện tử....một cách thường
xuyên, an toàn, thuận tiện. Pháp luật hiện hành không quy định cụ thể về khái niệm
tiền gửi thanh toán. Tuy nhiên, quy chế pháp lý về tiền gửi thanh toán hiện được thực
hiện theo Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19 tháng 8 năm 2014 hướng dẫn việc
mở và sử dụng tài khoản thanh toán của tổ chức, cá nhân tại tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán.
Sự phân loại tiền gửi của cá nhân thành tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán
có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn đối với cả cá nhân gửi tiền và ngân hàng nhận
tiền gửi. Đúng như tên gọi của hai loại tiền gửi, việc phân loại như vậy đã đáp ứng
nhu cầu của khách hàng là gửi tiền để tiết kiệm và để thanh toán. Mục đích gửi tiền
khác nhau nên quy chế pháp lý điều chỉnh hai loại tiền gửi này cũng khác nhau. Nếu
một khách hàng có đồng vốn nhàn rỗi muốn gửi tại Ngân hàng để đảm bảo an toàn
tài sản và hưởng lãi từ số tiền đó thì sẽ gửi tiền theo hình thức tiền gửi tiết kiệm và
tùy theo nhu cầu họ sẽ lựa chọn kỳ hạn gửi tiết kiệm cho phù hợp. Còn nếu khách
hàng muốn dùng tiền gửi của mình để thực hiện các giao dịch thanh toán, chi trả qua


12

Ngân hàng cho các hoạt động mua bán hàng hóa, sử dụng dịch vụ và các khoản chi
khác phát sinh trong đời sống hằng ngày thì sẽ gửi tiền bằng hình thức mở tài khoản
thanh toán. Với các ngân hàng, phân loại tiền gửi theo mục đích gửi tiền giúp họ phân
loại được khách hàng, xây dựng chế độ quản lý tiền gửi một cách khoa học, từ đó
việc hoạch định các chính sách kinh doanh đồng vốn huy động được từ tiền gửi đạt
hiệu quả cao hơn. Ví dụ, đối với tiền gửi thanh toán của khách hàng, bản chất là tiền
gửi không kỳ hạn, không mang tính ổn định nên các ngân hàng sẽ không tận dụng tối
đa nguồn tiền gửi này để cho vay trung, dài hạn mà chỉ sử dụng cho các mục đích
kinh doanh ngắn hạn và kinh doanh thu lợi nhuận từ việc cung ứng các dịch vụ đi
kèm với tài khoản thanh toán.
Khác với cách phân loại tiền gửi theo kỳ hạn, pháp luật ghi nhận việc phân loại

tiền gửi theo mục đích gửi tiền rõ ràng hơn bằng việc ban hành hai quy chế pháp lý
riêng biệt cho tiền gửi tiết kiệm (Quy chế tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm theo Quyết
định 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13/9/2004) và tiền gửi thanh toán (Thông tư số
23/2014/TT-NHNN ngày 19 tháng 8 năm 2014 hướng dẫn việc mở và sử dụng tài
khoản thanh toán của tổ chức, cá nhân tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán). Việc
ghi nhận và điều chỉnh bằng quy chế pháp lý riêng đối với mỗi loại tiền gửi tạo điều
kiện thuận lợi cho việc áp dụng của các tổ chức nhận tiền gửi và cá nhân gửi tiền.
Bên cạnh các cách phân loại trên, tiền gửi của cá nhân có thể được phân biệt theo
loại tiền bao gồm tiền gửi nội tệ và tiền gửi ngoại tệ; theo phương thức trả lãi thường
áp dụng đối với tiền gửi tiết kiệm như tiết kiệm trả lãi trước, tiết kiệm trả lãi sau và tiết
kiệm trả lãi định kỳ; theo phương thức nộp gốc của tiền gửi tiết kiệm như tiết kiệm gửi
một lần, tiết kiệm gửi góp định kỳ và tiết kiệm gửi góp không theo định kỳ.
1.1.3. Hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân
Trong lịch sử phát triển ngân hàng, nhận tiền gửi được xem là loại hình giao
dịch ngân hàng sớm nhất và lâu đời nhất. Cùng với thời gian, giao dịch nhận tiền gửi
từ chỗ có bản chất là giao dịch dân sự thuần túy, đã trở thành những giao dịch có tính
chất thương mại rõ rệt. Để nhận thức đầy đủ và chính xác hơn về khái niệm nhận tiền
gửi nói chung và nhận tiền gửi của cá nhân nói riêng của NHTM cần xem xét từ cả
hai góc độ: kinh tế và pháp lý.
Dưới góc độ kinh tế, giao dịch nhận tiền gửi được nhìn nhận như là một nghiệp
vụ kinh doanh của NHTM, với nội dung chủ yếu là tiếp nhận các khoản tiền gửi của
khách hàng thông qua việc mở các tài khoản cho khách hàng như tài khoản tiền gửi


13

có kỳ hạn, tài khoản tiền gửi không kỳ hạn và tài khoản tiền gửi tiết kiệm. Việc
NHTM mở những tài khoản tiền gửi này cho khách hàng không đơn thuần là một
nghiệp vụ giữ hộ tài sản hay quản lý tài sản cho khách hàng để nhận tiền thù lao mà
quan trọng hơn nó còn là nghiệp vụ huy động vốn - nghiệp vụ đi vay của ngân hàng

thương mại từ nền kinh tế1. Việc NHTM mở những tài khoản tiền gửi này cho khách
hàng phản ánh dòng tiền chuyển từ các tổ chức, cá nhân cho vay (người gửi tiền)
sang cho NHTM để sử dụng vào hoạt động kinh doanh. Trong nghiệp vụ huy động
vốn này, số tiền của khách hàng gửi trên tài khoản tại ngân hàng thực chất là khoản
vốn mà khách hàng đồng ý cho ngân hàng vay trong những thời hạn khác nhau để
thỏa mãn nhu cầu kinh doanh của ngân hàng.
Dưới góc độ pháp lý, giao dịch nhận tiền gửi của ngân hàng thương mại được
hiểu là cam kết song phương giữa NHTM với khách hàng gửi tiền, thông qua giao
kết hợp đồng tài khoản tiền gửi. Trong giai đoạn đầu của hoạt động ngân hàng, hợp
đồng này chỉ là đơn thuần là một hợp đồng dịch vụ gửi giữ tài sản, theo đó ngân hàng
đóng vai trò là bên nhận gửi giữ để nhận được tiền thù lao gửi giữ. Về sau, do nhu
cầu khách quan của hoạt động kinh tế, giữa ngân hàng và khách hàng gửi tiền đã có
thêm điều khoản thỏa thuận về việc cho phép ngân hàng nhận tiền gửi được quyền
sử dụng chính số tiền gửi này để cho vay hay đầu tư vào công việc khác nhằm mục
đích sinh lợi, với điều kiện phải hoàn trả cho người gửi tiền toàn bộ số vốn đã sử
dụng, kèm theo một khoản tiền lãi nhất định tùy thuộc vào thời hạn mà ngân hàng
được quyền sử dụng số tiền gửi đó để cho vay. Có thể nói, sự kiện này đã phản ánh
quá trình chuyển hóa một cách tự nhiên từ hợp đồng gửi giữ tài sản sang hình thức
hợp đồng lưỡng tính (vừa có tính chất của hợp đồng gửi giữ tài sản, vừa có tính chất
của hợp đồng vay tài sản) và cuối cùng chuyển hẳn thành hợp đồng vay tài sản2.
Việc xem xét có hình thành hay không hoạt động nhận tiền gửi của ngân hàng
thương mại được xác định trên cơ sở quan hệ nhận tiền gửi phát sinh giữa một bên
là tổ chức, cá nhân gửi tiền và bên còn lại là ngân hàng thương mại. Bản chất quan
hệ nhận tiền gửi là quan hệ hợp đồng vay nợ, thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình
đẳng. Trong quan hệ này, nhất thiết phải có sự chuyển giao một lượng tiền xác định
từ người gửi tiền sang ngân hàng thương mại. Tùy theo thời hạn được thỏa thuận
Nguyễn Văn Tuyến (2004), Các giao dịch thương mại chủ yếu của ngân hàng thương mại trong điều kiện
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
2
Nguyễn Văn Tuyến (2004), Các giao dịch thương mại chủ yếu của ngân hàng thương mại trong điều kiện

nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
1


14

trước (kể cả việc nhận tiền gửi “không kỳ hạn”), ngân hàng thương mại có nghĩa vụ
hoàn trả cho người gửi tiền cả gốc và lãi (nếu có). Việc gửi và nhận tiền gửi có thể
thực hiện bằng cách thức trực tiếp (tại quầy giao dịch của ngân hàng thương mại)
hoặc thông qua hệ thống giao dịch ngân hàng điện tử (thực hiện gửi tiền online),
nhưng đều qua tài khoản tại ngân hàng. Trường hợp thực hiện gửi tiền trực tiếp,
khách hàng nhận thẻ tiết kiệm hoặc chứng chỉ tiền gửi. Trường hợp thực hiện giao
dịch điện tử, khách hàng nhận thấy số dư tăng trên tài khoản của mình khi kết thúc
việc gửi tiền cùng với các thông tin đi kèm3.
Pháp luật Việt Nam quy định hoạt động huy động vốn dưới hình thức nhận tiền
gửi trong nhiều văn bản nhưng văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất là Luật các
TCTD. Trước đây, Luật các TCTD 1997, được sửa đổi, bổ sung năm 2004 chỉ đề cập
đến định nghĩa tiền gửi mà không đề cập đến định nghĩa hoạt động nhận tiền gửi.
Theo đó, tiền gửi là số tiền của tổ chức, cá nhân gửi tại tổ chức tín dụng hoặc các tổ
chức khác có hoạt động ngân hàng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có
kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Hiện nay, Luật các TCTD năm 2010,
được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đang có hiệu lực thi hành đã quy định về “nhận tiền
gửi” tại khoản 13 Điều 4 như sau: “Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức,
cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm,
phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác
theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.”
Như vậy, về cơ bản, tiền gửi trong khái niệm “nhận tiền gửi” tại Luật các TCTD năm
2010, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 không khác biệt nhiều so với khái niệm “tiền
gửi” quy định trong Luật các TCTD 1997, được sửa đổi, bổ sung năm 2004. Luật các
TCTD 1997, được sửa đổi bổ sung năm 2004 có một phần riêng quy định về huy

động vốn của các TCTD bao gồm nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, vay vốn
giữa các tổ chức tín dụng, vay vốn của ngân hàng nhà nước. Theo đó, Luật này xác
định phát hành giấy tờ có giá không phải là hoạt động nhận tiền gửi. Còn hiện nay,
Luật các TCTD năm 2010 đưa “phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu”
vào định nghĩa nhận tiền gửi, với tư cách là một hình thức nhận tiền gửi. Trong phạm
vi đề tài, tác giả chỉ tập trung phân tích về hoạt động nhận tiền gửi thông qua các

Phạm Thị Giang Thu (2017), “Pháp luật về hoạt động nhận tiền gửi của Ngân hàng thương mại ở Việt
Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 10 (354), Tr.72.
3


15

hình thức gửi tiền, không bao gồm hoạt động phát hành giấy tờ có giá.
Như vậy, có thể rút ra được rằng hoạt động nhận tiền gửi là giao dịch thương
mại phát sinh giữa NHTM với khách hàng gửi tiền, theo đó NHTM đồng ý vay của
người gửi tiền một khoản tiền nhất định để làm vốn kinh doanh và cam kết hoàn trả
số tiền đó cho người gửi tiền vào một thời điểm nhất định kèm theo một khoản lãi
do hai bên thỏa thuận (nếu có). Hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân là hoạt động
nghiệp vụ của ngân hàng hướng đến khách hàng là cá nhân, cũng chính là đối tượng
khách hàng chiếm tỉ trọng tiền gửi lớn nhất tại hầu hết các ngân hàng.
So với các loại hình tổ chức tín dụng khác, hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân
tại ngân hàng thương mại có sự khác biệt nhất định ở chỗ NHTM là TCTD có quyền
năng mở rộng nhất trong việc thực hiện hoạt động nhận tiền gửi. Theo khoản 1, khoản
2 Điều 98 Luật các TCTD năm 2010, NHTM được nhận tiền gửi dưới các hình thức
sau: “1. Nhận tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại
tiền gửi khác. 2. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy
động vốn trong và ngoài nước”. Tại Quyết định 1160/2004/QĐ-NHNN ngày
13/9/2004 quy định ngân hàng thương mại được nhận tiền gửi tiết kiệm của mọi cá

nhân theo các loại kỳ hạn khác nhau, chỉ có những ngân hàng được phép hoạt động
ngoại hối mới được nhận tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ, và việc nhận tiền gửi này
phải phù hợp với quy định pháp luật hiện hành của chính phủ Việt Nam và ngân hàng
nhà nước về quản lí ngoại hối. Như vậy, có thể thấy rằng, đối với tiền gửi cá nhân là
đối tượng nghiên cứu của luận văn thì NHTM là tổ chức chính được thực hiện nghiệp
vụ nhận tiền gửi. Chính vì vậy, nhận tiền gửi được coi là một trong những hoạt động
nghiệp vụ chủ lực của ngân hàng thương mại.
So với tiền gửi của tổ chức, tiền gửi của cá nhân hiện nay chiếm tỷ trọng cao
hơn trong tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và hoạt động nhận tiền gửi cá
nhân có phạm vi tiền gửi được nhận rộng hơn, cụ thể: NHTM có thể nhận tiền gửi
của cá nhân dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi
tiết kiệm, trong khi đó pháp luật quy định đối với khách hàng là tổ chức thì không có
hình thức nhận tiền gửi tiết kiệm. Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là bởi một bộ
phận lớn khách hàng cá nhân có tiền gửi nhàn rỗi một cách ổn định, lâu dài nên có
thể “tiết kiệm” và hưởng lãi suất. Trong khi đó, tiền gửi của tổ chức dù dưới bất cứ
hình thức nào cũng là một phần trong hoạt động luân chuyển vốn thường xuyên, chỉ
tạm thời nhàn rỗi, Nhà nước cũng không khuyến khích doanh nghiệp gửi tiền tiết


16

kiệm để hưởng lãi mà vốn ấy phải được luân chuyển đưa vào phát triển kinh tế. Đối
với tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn nói chung thì tổ chức, cá nhân gửi tiền
sẽ không nhận được sổ/thẻ tiết kiệm, toàn bộ hoạt động gửi tiền sẽ được lưu lại trên
hệ thống ngân hàng; còn đối với tiền gửi tiết kiệm thì cá nhân được gửi vào tài khoản
tiền gửi tiết kiệm, được xác nhận trên sổ/thẻ tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy
định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi. Pháp luật hiện hành cũng quy định chỉ bảo
hiểm tiền gửi của cá nhân, không bảo hiểm tiền gửi của tổ chức. Bởi lẽ, mục tiêu lớn
nhất của bảo hiểm tiền gửi là bảo vệ số đông người gửi tiền nhỏ lẻ, không có điều
kiện tham gia sản xuất - kinh doanh, không có điều kiện tiếp cận thông tin tham gia

gửi tiền tại các TCTD. Đối với tiền gửi của doanh nghiệp tại các tổ chức tín dụng thì
đây là một phần trong hoạt động luân chuyển vốn thường xuyên, được quản lý chặt
chẽ bởi chế độ quản trị doanh nghiệp nên không thể có vấn đề thiếu thông tin về tổ
chức tín dụng mà doanh nghiệp gửi tiền. Còn đối với các tổ chức chính trị - xã hội
và các tổ chức khác có tiền gửi tại các tổ chức tín dụng thì hầu hết nguồn vốn có
được từ huy động nhằm thực hiện mục tiêu nhất định, chỉ tạm thời nhàn rỗi nên
thường không kết dư với số lượng lớn, sau mỗi đợt huy động phải công khai việc
huy động, quản lý và sử dụng để tạo lòng tin, sự đồng thuận và ủng hộ cao của các
thành viên tham gia đóng góp. Ngoài ra, các tổ chức này cũng có bộ máy quản lý tài
chính chuyên trách để thu thập thông tin chặt chẽ liên quan đến các tổ chức tín dụng.
Với tính chất là giao dịch/chuỗi giao dịch gắn liền với tài sản, hoạt động nhận
tiền gửi của cá nhân luôn chứa đựng không ít những rủi ro. Vì vậy, việc bảo vệ quyền
lợi của cá nhân gửi tiền không chỉ có vai trò quan trọng đối với cá nhân gửi tiền mà
còn với cả các NHTM. Khi quyền lợi của cá nhân gửi tiền được đảm bảo, lợi ích đầu
tiên của các NHTM đó là củng cố được niềm tin của khách hàng, giữ gìn uy tín và
văn hóa kinh doanh, là nền tảng cho việc phát triển và mở rộng quy mô hoạt động.
Không thể phủ nhận một điều rằng, để đưa ra quyết định gửi tiền tại một NHTM, bất
kỳ cá nhân nào cũng đều phải cân nhắc đến yếu tố uy tín, sự bảo đảm an toàn tiền
gửi của hệ thống Ngân hàng đó. Chỉ khi NHTM gây dựng được uy tín với khách
hàng và đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền, nguồn vốn của ngân hàng mới có thể
ổn định để thực hiện các hoạt động kinh doanh khác, trong đó chủ yếu là hoạt động
cho vay. Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền cũng chính là bảo đảm an toàn cho hệ
thống ngân hàng, đặc biệt là khi ngân hàng rơi vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, giám
sát đặc biệt hoặc bị phá sản. Khi một ngân hàng bị rơi vào tình trạng đó, cá nhân gửi


17

tiền sẽ có nguy cơ phải gánh chịu rủi ro không được hoàn trả lại hoặc chỉ được chi
trả từ bảo hiểm tiền gửi một phần rất nhỏ số tiền đã gửi, hay từ giá trị phân chia tài

sản ngân hàng sau phá sản theo quyết đinh của tòa án. Điều này dẫn đến một cuộc
khủng hoảng niềm tin khiến cho người dân đồng loạt đi rút tiền. Thay vì gửi ngân
hàng, tiền được cất giữ tại nhà, dẫn đến hệ quả thiếu nguồn vốn cho việc đầu tư trở
lại nền kinh tế. Không chỉ dừng lại ở đó, tình trạng này có thể sẽ tạo ra hiệu ứng
Domino (phản ứng chuỗi) khiến nhiều ngân hàng mất khả năng thanh toán, gây ra
cuộc khủng hoảng đối với toàn bộ nền kinh tế.
Ngoài các biện pháp bảo vệ quyền lợi chung cho người gửi tiền được các
NHTM áp dụng theo quy định pháp luật như trích lập dự trữ bắt buộc, tham gia bảo
hiểm tiền gửi, việc bảo vệ quyền lợi của cá nhân gửi tiền có sự khác biệt nhất định
giữa người gửi tiền trực tiếp giao dịch tại ngân hàng và người gửi tiền qua hệ thống
giao dịch điện tử. Đối với người gửi tiền trực tiếp giao dịch tại Ngân hàng, Ngân
hàng bảo đảm quyền lợi cho người gửi tiền bằng cách thực hiện quy trình nghiệp vụ
nghiêm ngặt, đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật như việc nhận diện cá nhân, đối
chiếu giấy tờ pháp lý, lấy chữ ký của khách hàng,…hay việc thông báo mất các sổ
tiết kiệm/thẻ tiết kiệm đang lưu hành, tránh kẻ gian trục lợi; sử dụng camera ghi lại
hình ảnh giao dịch của khách hàng phục vụ việc tra soát khi có khiếu nại của khách
hàng hoặc theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền. Trên thực tế, cá nhân gửi tiền
trong nhiều trường hợp không thể biết đầy đủ trình tự, thủ tục để NHTM nhận tiền
gửi và trách nhiệm của nhân viên ngân hàng phải làm gì để hoàn tất một giao dịch
nhận tiền gửi. Vì vậy, khi phát sinh tranh chấp liên quan đến tiền gửi của khách hàng
mà nguyên nhân là từ phía nhân viên ngân hàng thì ngân hàng phải liên đới chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Đối với cá nhân gửi tiền thực hiện các giao dịch qua hệ
thống giao dịch điện tử, việc đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền chủ yếu được
NHTM thực hiện thông qua các hình thức cảnh báo qua tin nhắn điện thoại, thiết lập
dịch vụ tra cứu thông tin tài khoản, quy định hạn mức giao dịch qua hệ thống giao
dịch điện tử, thiết lập quy trình xác thực hai lớp, dữ liệu của khách hàng khi lưu trữ,
truyền trên mạng Internet phải được mã hóa hoặc che dấu và yêu cầu khách hàng bảo
mật thông tin liên quan đến tài khoản và giao dịch của mình. Ngoài ra, khi có yêu
cầu của cá nhân gửi tiền, ngân hàng có nghĩa vụ phong tỏa tài khoản tiền gửi để đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.



18

1.2. Ý nghĩa, vai trò của hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân tại Ngân hàng
thương mại
1.2.1. Đối với Ngân hàng thương mại
Hoạt động nhận tiền gửi có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng thương mại. Do tiền gửi cá nhân chiếm tỷ trọng lớn trong lượng tiền
gửi mà các NHTM huy động nên hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân cũng theo đó
giữ vai trò quan trọng đối với các ngân hàng. Tiền gửi hình thành nên vốn huy động
là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Để bước vào hoạt động kinh
doanh thì ngoài lượng vốn bắt buộc phải có, ngân hàng phải huy động thêm từ các
nguồn khác, trong đó vốn huy động từ tiền gửi chiếm tỷ trọng đa số. Từ nguồn vốn
huy động được, các ngân hàng có thể tổ chức mọi hoạt động kinh doanh, quyết định
quy mô hoạt động tín dụng, quyết định khả năng thanh toán và bảo đảm uy tín của
NHTM trên thương trường, quyết định năng lực cạnh tranh của NHTM,… Nguồn
vốn dồi dào giúp cho ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động, tăng cường quan hệ với
các đối tác, tăng năng lực cạnh tranh với các ngân hàng khác, hạ lãi suất, linh hoạt về
thời hạn tín dụng, hình thức trả lãi,… Các dịch vụ ngân hàng sẽ ngày càng được cải
tiến, phát triển và được thực hiện tốt hơn.
Trong số các hoạt động ngân hàng, hoạt động nhận tiền gửi và cấp tín dụng được
coi là hai hoạt động quan trọng nhất. Hoạt động nhận tiền gửi, trong đó chiếm tỷ trọng
lớn và đóng vai trò chính là việc nhận tiền gửi của cá nhân có ý nghĩa lớn đối với hoạt
động cấp tín dụng của NHTM. Bởi lẽ, tiền gửi của cá nhân tạo nên nguồn vốn chủ
yếu, có tính ổn định, quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác
của ngân hàng. Ngân hàng có nhiều vốn sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn so với ngân hàng
ít vốn, có điều kiện đưa ra các hình thức tín dụng linh hoạt, hạ lãi suất cho vay để từ
đó làm tăng quy mô tín dụng. Tiền gửi từ cá nhân thường có thời gian nhàn rỗi tương
đối dài, sẽ là yếu tố thuận lợi cho việc cho vay trung và dài hạn của các ngân hàng.

1.2.2. Đối với cá nhân gửi tiền
Khách hàng là cá nhân gửi tiền vào NHTM thông qua mở tài khoản hoặc gửi
tiền tiết kiệm tại ngân hàng. Các hình thức nhận tiền gửi của NHTM tạo ra những giá
trị, lợi ích quan trọng đối với người gửi tiền.
Thứ nhất, việc cá nhân gửi tiền tại NHTM đem đến cho họ cơ hội bảo đảm an
toàn về tài sản do NHTM là tổ chức có chức năng nhận tiền gửi chuyên nghiệp. Là tổ
chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, trong tổ chức và hoạt động, các NHTM luôn


19

chú trọng việc xây dựng quy trình tác nghiệp chặt chẽ để bảo đảm an toàn tài sản cho
người gửi tiền cũng như sự an toàn của cả hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, với sự hỗ
trợ của Nhà nước thông qua việc quy định về nghĩa vụ tham gia bảo hiểm tiền gửi và
nghĩa vụ trích lập dự phòng bắt buộc đối với các NHTM, các khoản tiền gửi của khách
hàng tại NHTM sẽ trở nên an toàn hơn so với việc lựa chọn các hình thức đầu tư khác
như mua vàng, ngoại tệ, chứng khoán hay bất động sản,…
Thứ hai, các cá nhân gửi tiền được hưởng lãi từ tiền gửi tiết kiệm và được
NHTM cung ứng các dịch vụ liên quan đến tài khoản. Nếu xét về giá trị, các khoản
tiết kiệm tuy nhỏ hơn so với các loại tài sản tiền gửi khác nhưng số lượng khá nhiều
nên các NHTM luôn có các chính sách ưu đãi để có thể huy động được tối đa số lượng
tiền gửi. Trên thực tế, không phải tất cả những người có khoản tiền tiết kiệm đều có
khả năng kinh doanh hay đạt được thành công khi đầu tư tiền của vào các kênh đầu
tư khác. Vì vậy, khi có khoản tiền nhàn rỗi, rất nhiều người lựa chọn gửi tiền vào các
ngân hàng để hưởng lãi suất thay vì giữ tiền một chỗ. Thực tiễn cho thấy các sản
phẩm tiền gửi tiết kiệm của NHTM ngày càng phong phú và đa dạng, phù hợp với
các nhu cầu, mục đích khác nhau của khách hàng. Ngoài ra, đối với những khách
hàng sử dụng tài khoản tiền gửi thanh toán sẽ được NHTM cung ứng dịch vụ thanh
toán qua tài khoản nếu có nhu cầu. Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công
nghệ, các NHTM cũng chạy đua với việc áp dụng các tiến bộ của khoa học công nghệ

vào các sản phẩm, dịch vụ để đem đến cho khách hàng sự thuận tiện, nhanh chóng
trong mọi giao dịch với chất lượng phục vụ tốt nhất. Bên cạnh đó, khách hàng có thể
được Ngân hàng cung cấp xác nhận về tiền gửi theo quy định khi có nhu cầu. Trên
thực tế, nhiều giao dịch của các cá nhân cần đến sự xác nhận của ngân hàng về tiền
gửi của cá nhân đó, phổ biến nhất là trường hợp xác nhận về tiền gửi nhằm mục đích
chứng minh tài chính hoặc mục đích sử dụng tiền gửi làm tài sản bảo đảm cho một
khoản vay. Đối với việc chứng minh tài chính du học, hầu hết Đại sứ quán các nước
đều yêu cầu người muốn đi du học phải cung cấp tài liệu chứng minh khả năng chi trả
những nhu cầu cá nhân sinh hoạt hằng ngày trong thời gian học tập tại nước ngoài như:
ăn ở, đi lại, các dịch vụ khác… Đối với việc chứng minh tài chính để đi du lịch, để
được Đại sứ quán xét duyệt và cấp visa, cá nhân phải chứng minh được khả năng tài
chính cho việc: ăn, ở, đi lại, vé máy bay hai chiều cũng như các nhu cầu cá nhân tối
thiểu trong thời gian đi du lịch. Đối với việc sử dụng tiền gửi làm tài sản bảo đảm cho
một khoản vay, các TCTD cho vay thường yêu cầu cá nhân cung cấp xác nhận đã phong


×