Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thi hành tại thành phố hưng yên, tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

ĐINH THỊ NGÂN

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG KHI
NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI THÀNH PHỐ HƢNG YÊN, TỈNH HƢNG YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

HÀ NỘI - NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

ĐINH THỊ NGÂN

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG KHI
NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI THÀNH PHỐ HƢNG YÊN, TỈNH HƢNG YÊN



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Quang Huy

HÀ NỘI - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn
đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đinh Thị Ngân


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ sự cảm ơn trân trọng nhất tới giáo viên hướng dẫn khoa học TS.
Trần Quang Huy đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành
luận văn.
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu để hoàn thành luận văn, ngoài sự nỗ lực
của bản thân, tôi đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo của các thầy cô
giáo và sự giúp đỡ nhiệt tình, chu đáo của cơ quan, đồng nghiệp và cán bộ địa
phương.

Tôi xin trân trọng cảm ơn sự góp ý, giúp đỡ của các thầy, cô giáo Khoa Luật
Kinh tế Trường Đại học Luật Hà Nội, tập thể Trung tâm Triển khai và Ứng dụng
khoa học, công nghệ về đất đai, Chi cục quản lý đất đai tỉnh Hưng Yên, Phòng Tài
nguyên môi trường thành phố Hưng Yên, Ban Quản lý dự án xây dựng kết cấu hạ
tầng đô thị Thành phố Hưng Yên đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn
thành luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện nhưng luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự chỉ dẫn và góp ý thêm của các quý
thầy cô, bạn vè và tập thể lớp để tôi rút kinh nghiệm và hoàn thiện hơn.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn

Đinh Thị Ngân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài........................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................. 4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ............................................................................ 5
7. Kết cấu của Luận văn ....................................................................................................... 5
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƢỜNG KHI NHÀ NƢỚC
THU HỒI ĐẤT VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG KHI NHÀ NƢỚC THU
HỒI ĐẤT ............................................................................................................................. 7
1.1. Tổng quan về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ................................................... 7
1.1.1. Khái niệm “thu hồi đất”, “bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất” ........................ 7
1.1.2. Phân biệt bồi thường trong đất đai và bồi thường trong dân sự ............................ 9

1.2. Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.................................................... 12
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất.......... 12
1.2.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ............. 13
1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất14
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG KHI NHÀ NƢỚC
THU HỒI ĐẤT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH PHỐ HƢNG YÊN,
TỈNH HƢNG YÊN........................................................................................................... 19
2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ..........................19
2.1.1. Nội dung quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo
Luật đất đai 2013 ......................................................................................................19
2.1.2. Trình tự, thủ tục tổ chức thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư .23
2.1.3. Những mặt tích cực của Luật Đất đai 2013 so với Luật Đất đai 2003 ...........25


2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại Thành phố
Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên ................................................................................................. 27
2.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, tình hình sử dụng đất tại Thành phố Hưng
Yên, tỉnh Hưng Yên tác động đến việc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất ................. 27
2.2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại Thành
phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên ........................................................................................... 32
2.2.3. Thực trạng thi hành pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất tại một số
dự án cụ thể trên địa bàn thành phố Hưng Yên: .............................................................. 49
2.2.4. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại
Thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên ............................................................................... 61
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG KHI NHÀ
NƢỚC THU HỒI ĐẤT NHÌN TỪ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH PHỐ
HƢNG YÊN ...................................................................................................................... 67
3.1. Giải pháp chung nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật khi bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ................................................................... 67

3.1.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu
hồi đất ........................................................................................................................72
3.1.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật .................................................. 73
3.2. Giải pháp riêng đối với thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên ................................ 75
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ Ý NGHĨA

STT

Chữ viết tắt

Ý nghĩa

1

BT, HT&TĐC

2

GCN QSDĐ

3

GPMB

Giải phóng mặt bằng


4

HĐND

Hội đồng nhân dân

5



6

QĐ-UBND

7

QSDĐ

8

TTg

9

TTPTQĐ

10

TĐC


11

UBND

Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Nghị định
Quyết định ủy ban nhân dân
Quyền sử dụng đất
Thủ tướng
Trung tâm phát triển quỹ đất
Tái định cư
Ủy ban nhân dân


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và hiện đại hóa đất nước, tất yếu kéo
theo nhu cầu sử dụng đất phục vụ các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Trong điều
kiện quỹ đất có hạn, việc phân bổ hợp lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên đất đai cho
các mục đích phát triển kinh tế - xã hội có ý nghĩa quan trọng.
Trong thời gian qua, để thực hiện công tác thu hồi đất thực hiện các dự án
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, mục đích phát triển kinh
tế, Nhà nước đã kịp thời ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh
công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Những chính sách này đã từng bước thúc
đẩy công tác thu hồi đất phục vụ phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, vấn đề
bồi thường kéo dài vẫn đang là vấn đề nổi cộm tại nhiều địa phương, ảnh hưởng đến

hiệu quả sử dụng đất, đến người có đất bị thu hồi và tác động xấu đến môi trường
đầu tư của nước ta. Nguyên nhân gây nên tình trạng này ngoài vấn đề về giá đất tính
bồi thường chưa hợp lý, còn nguyên nhân quan trọng là do chính sách, thủ tục về
thu hồi đất, bồi thường còn nhiều vướng mắc, bất cập. Mặt khác, một số địa phương
đã đơn giản trong việc thu hồi đất, chưa gắn công tác thu hồi đất với tái định cư đặc
biệt là hỗ trợ việc làm, dạy nghề cho lao động; việc bồi thường cho hộ bị thu hồi đất
chủ yếu thực hiện dưới hình thức tiền tệ hoá, chưa có cơ chế, giải pháp kịp thời và
hiệu quả để hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm, ổn định đời sống cho người bị thu hồi
đất. Vì vậy, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm, không chuyển đổi được nghề
nghiệp, khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt do thu hồi đất... hiện đang là vấn đề bức
xúc diễn ra khá phổ biến ở nhiều địa phương.
Hưng Yên là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của Bắc Bộ, nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội luôn gắn liền với chiến lược phát triển của vùng và của cả
nước. Trong những năm vừa qua, sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hưng Yên
nói chung và thành phố Hưng Yên nói riêng đã làm diện mạo thành phố Hưng Yên
có nhiều thay đổi, nhiều dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, khu đô thị, thương


2

mại, dịch vụ đã và đang được triển khai thực hiện. Cũng như các địa phương khác
trong cả nước, công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng để thực hiện các dự án đầu
tư, xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn thành phố cũng gặp một số khó khăn vướng
mắc về mặt chính sách, thủ tục thu hồi đất, bồi thường khi thu hồi đất... cần phải
tiếp tục có giải pháp, kiến nghị tháo gỡ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu,
Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất sử dụng ổn định lâu
dài của tổ chức hộ gia đình, cá nhân. Khi nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục
đich quốc phòng – an ninh; phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng

thì người bị thu hồi đất được bồi thường, hỗ trợ tái định cư. Thực tiễn thi hành pháp
luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất cho thấy các cơ quan thực thi gặp rất
nhiều khó khăn, thách thức do sự không đồng thuận của người dân về phương án
bồi thường. Nhận thức được tầm quan trọng, ý nghĩa thực tiễn và lý luận của vấn đề
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, đến nay đã có một số công trình nghiên cứu
về vấn đề này dưới nhiều góc độ khác nhau. Cụ thể:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở: “Nghiên cứu, đánh giá thực trạng
công tác bồi thường, hỗ trợ đối với các khu vực thu hồi đất để phát triển công
nghiệp trên địa bàn huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương nhằm đề xuất một số giải
pháp góp phần hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ cho người có đất bị thu
hồi”, ThS Nguyễn Văn Chiến - Viện Nghiên cứu quản lý đất đai năm 2009.
- “Pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường và giải phóng mặt
bằng và những vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp dụng”, TS. Nguyễn Thị Nga,
Tạp chí Luật học, năm 2010.
- “Những tồn tại, vướng mắc phát sinh trong quá trình áp dụng bồi thường
khi nhà nước thu hồi đất” của TS. Nguyễn Thị Nga, tạp chí Luật học, năm 2011.
- Chuyên đề “Bình luận và góp ý đối với các quy định bồi thường về đất, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong Dự thảo Luật đất đai sửa đổi”,
TS. Nguyễn Quang Tuyến, Báo Nhà nước và pháp luật của Viện Hàn Lâm khoa học


3

xã hội Việt Nam, năm 2013.
- “Pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất - thực
trạng và hướng hoàn thiện” TS. Nguyễn Thị Nga, Đề tài khoa học cấp Trường Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2013.
- Luận án Tiến sỹ Luật học, Phạm Thu Thủy, “Pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam”, 2014, Đại học Luật Hà Nội.
- Luận văn thạc sỹ luật học, Lý Ngọc Phương Thảo, “Pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thi hành tại quận

Thủ Đức – Thành phố Hồ Chí Minh”, Hà Nội, năm 2016.
- Luận văn thạc sỹ luật học, “Pháp luật và bồi thường, giải phóng mặt bằng
khi Nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn thi hành tại quận Đống Đa, Thành phố Hà
Nội”, năm 2016, Bùi Thế Hùng.
- Luận văn thạc sỹ luật học, Nguyễn Thu Thảo, “Pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thi hành tại Thành phố Thái Bình”, năm 2017.
Ngoài ra có một số luận văn, bài viết khác nghiên cứu về vấn đề bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất. Những nghiên cứu trên đã có những phân tích, đánh giá
chính sách, pháp luật về bồi thường của Việt Nam qua các thời kỳ; phản ánh tương
đối rõ nét vấn đề bồi thường từ góc độ lý luận và thực tiễn; từ đó đề xuất được các
giải pháp góp phần hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất. Trên cơ sở đó, việc lựa chọn thực hiện đề tài: “Pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thi hành tại thành phố Hưng Yên,
tỉnh Hưng Yên” nhằm hệ thống, kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đó và tiếp tục
tìm hiểu những vấn đề phát sinh và cần hoàn thiện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Từ thực tiễn thực hiện pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đối với
các dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng
Yên, đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất.
- Nhiệm vụ:


4

+ Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết của chính sách, pháp luật về bồi thường Nhà
nước thu hồi đất;
+ Tổng hợp thực tiễn thực hiện chính sách, pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên;

+ Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại vướng mắc từ
thực tiễn áp dụng chính sách, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất;
+ Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Các quan điểm đường lối, chính sách
của Đảng về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; các quy định của pháp luật đất
đai hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; chính sách, pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn áp dụng chính sách bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất tại thành phố Hưng Yên.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên, trong đó khảo
sát chi tiết việc thực hiện chính sách bồi thường tại một số dự án có bồi thường giải
phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất ở thành phố Hưng Yên;
+ Phạm vi thời gian: Đề tài đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật về
bồi thường đối với các dự án được triển khai trong giai đoạn từ năm 2013 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê và xử lý số liệu
Xử lý số liệu thô để loại bỏ các số liệu sai và thiếu chính xác. Sau đó sử dụng
phần mềm Excel để nhập và tổng hợp số liệu thành các bảng biểu để phục vụ cho
mục đích nghiên cứu.
- Phương pháp đánh giá, phân tích và so sánh
Làm rõ thực trạng công tác BT, HT&TĐC của dự án và tìm ra nguyên nhân, từ
đó đề xuất các giải pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thực hiện BT,
HT&TĐC trên địa bàn nghiên cứu.


5

- Phương pháp điều tra, khảo sát thu thập thông tin, số liệu thứ cấp: phục vụ

cho mục đích nghiên cứu như: điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, báo cáo về kết
quả thực hiện BT, HT&TĐC tại các dự án nghiên cứu; các văn bản pháp lý có liên
quan,
+ Điều tra, khảo sát, thu thập thông tin, số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế
- xã hội; số liệu về hiện trạng sử dụng đất; số liệu về thu hồi đất, bồi thường trên địa
bàn thành phố Hưng Yên từ năm 2013 đến nay.
+ Các số liệu trên được điều tra, thu thập tại Uỷ ban nhân dân thành phố
Hưng Yên; Phòng Tài nguyên và Môi trường; Ban Giải phóng mặt bằng tỉnh Hưng
Yên; Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hưng Yên.
- Phương pháp kế thừa:
+ Kế thừa các tài liệu sẵn có tại địa phương như báo cáo quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội; phương án bồi thường của các dự án đã được cấp có thẩm
quyền phê duyệt...;
+ Kế thừa các tư liệu nghiên cứu trước đây về lĩnh vực bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố hoặc một số địa bàn lân cận.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Hệ thống các quy định của pháp luật về bồi thường Nhà
nước thu hồi đất; đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất.
- Ý nghĩa thực tiễn: Tổng hợp thực tiễn thực hiện chính sách, pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên; phân
tích, đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại vướng mắc từ thực tiễn áp
dụng chính sách, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất từ đó đề xuất
giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất.
7. Kết cấu của Luận văn
Nội dung chủ yếu của đề tài gồm có 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất



6

- Chương 2: Thực trạng pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất và
thực tiễn thi hành tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên
- Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nhìn từ thực tiễn thi hành tại
thành phố Hưng Yên


7

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƢỜNG KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI
ĐẤT VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Tổng quan về bồi thƣờng khi Nhà nƣớc thu hồi đất
1.1.1. Khái niệm “thu hồi đất”, “bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất”
a, Khái niệm “thu hồi đất”
Theo Từ điển tiếng Việt thì thu hồi được hiểu như sau: “Thu hồi là thu về,
lấy lại cái trước đó đã đưa ra, đã cấp phát hoặc bị mất vào tay kẻ khác”.1
Theo Từ điền giải thích Luật học thu hồi đất được hiểu là: “Thu hồi đất là
việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thu hổi quyền sử dụng đất của người vi phạm
quy định về sử dụng đất để Nhà nước giao cho người khác sử dụng hoặc trả lại cho
chủ sử dụng đất hợp pháp bị lấn chiếm. Trường hợp cần thiết, Nhà nước thu hồi đất
đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh,
lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng”.2
Theo quy định của Luật đất đai 1987 và Luật đất đai năm 1993 đã đề cập vấn
đề thu hồi đất, nhưng chưa định nghĩa rõ thế nào là thu hồi đất mà chỉ liệt kê các
trường hợp bị thu hồi đất. Khái niệm thu hồi đất lần đầu tiên được Luật Đất đai năm
2003 quy định tại Khoản 5 Điều 4: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định
hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy

ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của luật này”. Tuy nhiên
khái niệm này chưa thể hiện được sự bao quát được nguồn gốc của tất cả các loại
đất của những người đang sử dụng đất, cũng như chưa tính hết được các nguyên
nhân, lý do của việc thu hồi đất. Để phù hợp hơn, tại khoản 11 Điều 3 Luật Đất đai
năm 2013 quy định :”Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại
quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất
đai”.

1

Trung tâm Từ điển học (2011), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Hà Nội, trang 759
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật pháp quốc tế , NXB Công an nhân
dân, trang 132
2


8

Với khái niệm này cho thấy, bằng quyền lực của Nhà nước với vai trò chủ sở
hữu, Nhà nước có quyền thu lại quyền sử dụng đất của tất cả các chủ thể sử dụng
đất mà trước đó Nhà nước đã trao quyền sử dụng đất cho họ như: giao đất, cho thuê
đất, cho phép nhận chuyển quyền sử dụng đất hợp pháp từ người khác, hay được
Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, để đảm bảo tính pháp chế, sự
nghiêm minh trong việc thực thi pháp luật đất đai, Nhà nước có quyền chấm dứt
quyền sử dụng đất đối với các hành vi vi phạm pháp luật đất đai. Thu hồi đất là hoạt
động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của Nhà
nước và xã hội hoặc xử lý các vi phạm về pháp luật đất đai của người sử dụng đất
thông qua quyết định hành chính nhằm chấm dứt mối quan hệ đất đai giữa Nhà
nước và chủ thể bị thu hồi.
b, Khái niệm “bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất”

Thuật ngữ “bồi thường” trong pháp luật đất đai ở Việt Nam đã được ghi nhận
trong các văn bản pháp luật về đất đai, kể từ trước khi có Luật Đất đai 1987. Luật
đất đai 1987 ra đời, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 186/ HĐBT
ngày 31/5/1990 quy định về đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất rừng khi chuyển
sang sử dụng vào mục đích khác; và Luật Đất đai năm 1993, Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và theo các văn bản quy định, hướng dẫn thi
hành thì thuật ngữ “bồi thường” được thay thế bằng thuật ngữ “đền bù thiệt hại”.
Mặc dù pháp luật không đưa ra giải thích chính thức song có thể hiểu “đền bù thiệt
hại” khi Nhà nước thu hồi đất là việc trả lại những thiệt hại do việc thu hồi đất gây
ra, tương xứng với giá trị hoặc công lao mà người sử dụng đất đã đầu tư vào đất
trong quá trình sử dụng. Khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai
2001 được Quốc hội ban hành thì thuật ngữ “bồi thường” được sử dụng trở lại và
tiếp tục xuất hiện trong Luật Đất đai 2003 và các văn bản quy định , hướng dẫn thi
hành.
Khoản 6, Điều 4 Luật Đất đai 2003 quy định “Bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu
hồi cho người bị thu hồi đất”. Kế thừa và hoàn thiện khái niệm này, Khoản 12 Điều


9

3 Luật Đất đai 2013 giải thích “Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị
quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất”.
Như vậy, khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà nước có nghĩa vụ bồi thường cho
người sử dụng đất hợp pháp bị thu hồi những giá trị, thiệt hại hợp lý về đất và tài
sản trên đất, việc bồi thường được thực hiện theo những quy định của pháp luật về
đất đai.
1.1.2. Phân biệt bồi thường trong đất đai và bồi thường trong dân sự
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có những đặc trưng sau:
Thứ nhất, đối tượng được bồi thường là chủ thể sử dụng đất như hộ gia đình,

cá nhân, tổ chức trong nước, tổ chức nước ngoài, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo,
người Việt Nam định cư tại nước ngoài đầu tư tại Việt Nam,người nước ngoài định
cư tại Việt Nam.
Thứ hai, về phạm vi bồi thường đó là khi Nhà nước thu hồi đất vào mục đích
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế. Theo
đó, trong từng trường hợp Nhà nước sẽ thực hiện các chính sách hỗ trợ và thực hiện
tái định cư cho người bị thu hồi đất.
Thứ ba, về giá đất bồi thường, Nhà nước chủ động trong việc xác định giá
đất bồi thường dựa trên các căn cứ khoa học và tôn trọng giá đất trên thị trường
trong điều kiện bình thường của thửa đất.
Thứ tư, các phương án tiến hành bồi thường đó là sự kết hợp giữa phương
pháp hành chính và phương pháp thỏa thuận. Ngoài ra, có thể sử dụng tổng hợp
nhiều phương pháp như: tuyên truyền, thuyết phục…
Thứ năm, về tính chất của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Tính phức tạp, đất đai đóng vai trò vô cùng quan trọng trong lịch sử phát
triển lâu dài của đất nước. Với truyền thống canh tác nông nghiệp lâu đời, đất đai là
điều kiện không thể thiếu và không thể tách rời trong sự phát triển kinh tế và xã hội
đặc biệt là đất nông nghiệp. Đất là nguồn sống, là nơi sống, là điều kiện cho sự tồn
tại cuộc sống của nông dân. Đối với đất ở, nhất là khu vực đô thị, đất được xem là


10

quyền tài sản có giá trị lớn, đặc biệt là đối với các chủ thể sản xuất, kinh doanh dịch
vụ.
Vì vậy, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc mang tính chất
phức tạp, nhạy cảm và khó khăn.
Tính đa dạng bởi đất đai vốn đa dạng về điều kiện tự nhiên, về giá trị kinh tế,
trình độ dân trí khác nhau của các chủ sở hữu, các vùng miền và mục đích sử dụng
đất khác nhau. Nên khi Nhà nước thu hồi đất việc xác định bồi thường cũng rất khác

nhau.
Từ những đặc trưng trên có thể thấy giữa bồi thường trong đất đai và bồi
thường trong dân sự có những điểm khác nhau cơ bản sau:
Về chủ thể bồi thường: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là trách nhiệm
của Nhà nước. Ở đây Nhà nước vừa là một tổ chức chính trị, quyền lực vừa là người
đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối
với đất đai. Trong khi đó, chủ thể của bồi thường thiệt hại trong dân sự có phạm vi
rộng hơn, bao gồm bất cứ tổ chức, cá nhân nào có hành vi gây thiệt hại cho người
khác.
Về chủ thể được bồi thường: Chủ thể của bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất là người sử dụng đất hợp pháp bị thu hồi đất.Người sử dụng đất hợp pháp là
người được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong
các loại giấy tờ khác gắn liền với đất hoặc có một trong các loại giấy tờ về quyền sử
dụng đất theo quy định tại Điều 100 Luật Đất đai 2013 mà có đất đang sử dụng bị
Nhà nước thu hồi. Trong khi đó, chủ thể được bồi thường trong dân sự là bất cứ tổ
chức, cá nhân nào có thiệt hại do hành vi vi phạm của chủ thể bồi thường gây ra.
Về nguyên tắc bồi thường: Nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
là: Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi
thường theo quy định tại Điều 75 Luật Đất đai 2013 thì được bồi thường. Việc bồi
thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu
hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ


11

thể của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu
hồi đất.
Ngược lại, nguyên tắc bồi thường áp dụng trong dân sự là nguyên tắc tự
nguyện thỏa thuận giữa người có trách nhiệm bồi thường và người được bồi thường.
Chỉ khi nào các bên không tự thỏa thuận được với nhau thì mới yêu cầu cơ quan

Nhà nước có thẩm quyền can thiệp giải quyết.
Về tính chất bồi thường: Bồi thường thiệt hại trong dân sự chỉ mang tính chất
dân sự giữa cá nhân hoặc tổ chức với nhau. Trong khi đó, bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất lại hàm chứa cả tính chất hành chính và tính chất dân sự. Tính chất hành
chính của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thể hiện trong trường hợp Nhà nước
thu hồi đất vì mục đích an ninh quốc phòng. Tính chất dân sự thể hiện trong các
trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
công cộng, thay vì Nhà nước đứng ra thực hiện việc bồi thường thì có trường hợp
chủ đầu tư tự thương lượng, thỏa thuận với người sử dụng đất về việc bồi thường và
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đồng ý.
Ngoài ra, vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất chỉ đặt ra khi Nhà
nước ban hành một quyết định hành chính (quyết định thu hồi đất) thu hồi đất làm
chấm dứt quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đối với diện tích đất
xác định. Hậu quả thiệt hại do việc thu hồi đất của Nhà nước gây ra chỉ có ý nghĩa
trong việc xác định mức độ bồi thường. Hơn nữa, việc Nhà nước thu hồi đất xuất
phát từ nhu cầu của Nhà nước, của xã hội để sử dụng vì mục đích quốc phòng, an
ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Những thiệt hại của
người sử dụng đất phát sinh trực tiếp từ việc Nhà nước thu hồi đất thì Nhà nước
phải có trách nhiệm bồi thường và thực hiện hỗ trợ ổn định đời sống, di chuyển chỗ
ở, giải quyết tái định cư, đào tạo chuyển đổi nghề và bố trí việc làm mới cho người
trực tiếp sản xuất nông nghiệp có đất bị thu hồi.
Trong khi đó, việc bồi thường thiệt hại trong dân sự được đặt ra khi người có
trách nhiệm bồi thường có hành vi gây thiệt hại cho người khác. Việc bồi thường
xảy ra trong trường hợp này cần căn cứ vào yếu tố lỗi và thiệt hại thực tế xảy ra.


12

1.2. Pháp luật về bồi thƣờng khi Nhà nƣớc thu hồi đất
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất

Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà
nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và được đảm bảo thực hiện
bằng biện pháp cưỡng chế. Pháp luật là một trong những công cụ hiệu quả nhất để
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước. Hệ thống pháp luật mỗi quốc gia được chia
thành những bộ phận cấu thành khác nhau để điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội
riêng biệt, nhưng tác động qua lại với nhau, đảm bảo cho các quan hệ này phát triển
theo đúng quy luật. Trong lĩnh vực đất đai, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất bao gồm những quy định có liên quan đến thu hồi đất như phạm vi bồi
thường, đối tượng bồi thường, nguyên tắc, điều kiện, nội dung, phương thức, trình
tự, thủ tục cũng như việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất.
Như vậy có thể hiểu, “pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là
hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất”.
Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất chịu sự ảnh
hưởng và chi phối bởi hình thức sở hữu toàn dân về đất đai mà Nhà nước là đại diện
chủ sở hữu .
Thứ hai, cơ sở để bồi thường trong pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất không chỉ dựa trên những thiệt hại vật chất thực tế mà người sử dụng đất
phải gánh chịu khi Nhà nước thu hồi đất, mà còn phải tính đến những tổn hại phi
vật chất ở thời điểm thu hồi và trong tương lai họ phải đối mặt. Bởi lẽ, các đối
tượng bị thu hồi đất có các đặc thù riêng, cũng như các loại đất có tính chất và giá
trị khác nhau.
Thứ ba, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cho người có đất bị thu hồi
trong pháp luật hiện hành là sự kết hợp đan xen và hài hòa, hợp lý giữa nhiều biện
pháp khác nhau: biện pháp hành chính, kinh tế, thuyết phục và cưỡng chế…


13


Thứ tư, ở mỗi địa phương khác nhau, khi thực hiện việc bồi thường đối với
người bị thu hồi đất thì bên cạnh việc tuân thủ pháp luật chung thì cần thiết phải chú
trọng tới đặc điểm của yếu tố vùng miền, địa phương để có những định hướng và
giải pháp cho phù hợp, linh hoạt và hiệu quả.
Thứ năm, pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là lĩnh vực pháp
luật mang tính chất luật công, bởi lẽ: Thu hồi đất và bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất là một nội dung của hoạt động quản lý Nhà nước về đất đai do các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Việc bồi thường chỉ được đặt ra trong trường
hợp Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc bồi thường thực hiện theo trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định. Việc bồi thường dựa trên giá đất cụ thể do Ủy ban
nhân dân tỉnh xác định.
1.2.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Thứ nhất, cơ chế điều chỉnh pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất được thể hiện bằng việc Nhà nước sử dụng pháp luật tác động vào hành vi xử sự
của các chủ thể quan hệ bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Thứ hai, nhóm quy định về xử lý vi phạm pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất. Đặc điểm của nhóm quy định này là đưa ra các chế tài xử lý đối
với các hành vi vi phạm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thông
qua các quy định về nguyên tắc, mức xử phạt, thẩm quyền và trình tự, thủ tục xử lý
đối với loại hành vi vi phạm pháp luật này.
Thứ ba, nhóm các quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp liên
quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Đây là các quy định về thẩm quyền,
trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp liên quan đến bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất; quy định về quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố
cáo và của người giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp liên quan đến bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất.
Thứ tư, nhóm các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan đến
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; bao gồm các quy định và quyền và nghĩa vụ



14

của người bị thu hồi đất; các quy định về quyền và nghĩa vụ của Nhà nước trong
thực hiện bồi thường đối với người bị thu hồi đất.
Thứ năm, nhóm các quy định về thực hiện quyền định đoạt đất đai thông qua
việc thu hồi đất và giải quyết hậu quả do việc thu hồi đất gây ra của Nhà nước với
tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai. Nhóm quy định này đề cập những
nội dung trọng tâm của vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; quy định về
nguyên tắc, phạm vi, đối tượng, điều kiện được bồi thường, giá bồi thường, các
chính sách hỗ trợ kèm theo; quy định về tình tự, thủ tục thu hồi đất và bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất.
1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất
Thứ nhất, chủ trương đường lối của Đảng: Ở nước ta, trong điều kiện một
Đảng cầm quyền, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới đất nước, quan điểm, đường lối của Đảng có tác động trực tiếp đến quá trình
xây dựng và hoàn thiện pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nói riêng.
Thứ hai, chế độ sở hữu đất đai toàn dân tác động đến nội dung các quy định
của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất như:
- Trong trường hợp cần thiết, Nhà nước có nhu cầu sử dụng đất vì mục đích
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, Nhà nước sẽ thực hiện việc thu hồi đất có bồi
thường cho người sử dụng đất.
- Việc bồi thường cho người bị thu hồi đất được xác định căn cứ vào khung
giá đất do Nhà nước quy định tại thời điểm thu hồi đất mà không căn cứ vào giá đất
trên thị trường
- Không phải bất cứ người bị thu hồi đất nào cũng được Nhà nước bồi
thường, chỉ những người sử dụng đất có đủ các điều kiện do pháp luật quy định mới

được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
- Không phải cơ quan Nhà nước nào cũng có thẩm quyền thu hồi đất, chỉ
những cơ quan Nhà nước được pháp luật quy định có thẩm quyền thu hồi đất mới
được thu hồi đất.


15

Thứ ba, pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất chịu sự tác động của
cơ quan quản lý kinh tế. Đất đai là loại hàng hóa đặc biệt và được trao đổi trên thị
trường, Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng đất và khung giá đất nên đất đai ngày
càng có giá. Do vậy, Nhà nước cần ban hành các quy định về bồi thường cho phù
hợp với xu thể phát triển xã hội, nhằm duy trì sự ổn định của tình hình kinh tế và
hạn chế các tranh chấp phát sinh khiếu kiện gây ảnh hưởng tình hình chính trị.
Thứ tư, quá trình hội nhập quốc tế tác động không nhỏ đến pháp luật về bồi
thường kkhi Nhà nước thu hồi đất. Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất cần liên tục được sửa đổi, điều chỉnh nội dung để phù hợp với môi trường hội
nhập quốc tế.
1.2.4. Sự cần thiết của việc điều chỉnh pháp luật về vẩn đề bồi thường khi nhà
nước thu hồi đất.
Sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất được lý giải bởi các căn cứ chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, pháp luật là biện pháp hiệu quả nhất để đảm bảo hài hòa lợi ích
giữa các bên trong quan hệ về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Pháp luật mang những đặc trưng mà các biện pháp quản lý khác không có
được; đó là tính quy phạm, tính bắt buộc chung, tính cưỡng chế và tính thích ứng.
Do có những đặc trưng cơ bản trên đây mà pháp luật trở thành biện pháp quản lý xã
hội nói chung cũng như quan hệ về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Thông qua
cơ chế điều chỉnh của pháp luật giúp Nhà nước giải quyết hài hòa mối quan hộ về
lợi ích giữa các bên liên quan trong quan hệ bồi thường: Lợi ích của Nhà nước, của

cộng đồng; lợi ích của người bị thu hồi đất; lợi ích của doanh nghiệp, chủ đầu tư.
Biểu hiện:
Việc pháp luật quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất giúp tạo cơ
sở pháp lý quan trọng cho Nhà nước trong quá trình triển khai thực hiện việc bồi
thường trên thực tế. Việc giải quyết tốt quá trình bồi thường sẽ tạo ra sự nhất trí,
đồng thuận cao của người dân và rộng hơn là của toàn xã hội đối với các chính sách
phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng của Đảng và Nhà nước. Nhờ đó, Nhà nước sẽ


16

có được một quỹ đất hợp lý để xây dựng các công trình quan trọng, phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước
vào Việt Nam. Bên cạnh đó, các quy định pháp luật giúp hài hòa lợi ích các chủ thể,
qua đó hạn chế phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện, góp phần duy trì trật tự an toàn
xã hội, ổn định chính trị.
Pháp luật quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất giúp người dân
nắm được quyền và lợi ích hợp pháp mà mình được hưởng khi Nhà nước thu hồi
đất. Qua đó có sự tham gia, giám sát chủ động, tích cực vào quá trình thực thi pháp
luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đây là một hình thức hiện thực hoá
quyền năng của người sử dụng đất đã được Hiến pháp, pháp luật ghi nhận.
Ngoài ra, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất giúp tạo
cơ chế rồ ràng về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này trong quá trình thực hiện
các dự án. Bên cạnh đó, pháp luật cũng có các chế tài ràng buộc trách nhiệm để
tránh hiện tượng vì lợi ích của mình mà làm phương hại đến lợi ích hợp pháp của
người bị thu hồi đất.
Khi lợi ích giữa các bên trong quan hệ pháp luật bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất được hài hòa sẽ mang lại những hiệu quả to lớn có thể nhận thấy rõ về
mặt kinh tế, chính trị, xã hội, đó là: chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển đổi nghề
nghiệp cho những người bị thu hồi đất, thực hiện tốt công nghiệp hóa - hiện đại hóa

mang lại diện mạo mới cho đất nước.
Thứ hai, pháp luật đảm bảo chế độ sở hữu toàn dân khi Nhà nước thu hồi đất.
Xuất phát từ chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai mà Nhà nước là người
đại diện. Nhà nước thay mặt cho nhân dân thực hiện quyền của chủ sở hữu. Trên cơ
sở đó Nhà nước thực hiện việc giao đất, cho thuê đất hay thu hồi đất...Quyền sử
dụng đất được trao đến tay người sử dụng, được coi là quyền tài sản và phải được
Nhà nước bảo hộ bằng pháp luật. Khi Nhà nước thu hồi đất vào mục đích chung,
làm chấm dứt quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, hơn thế nữa, việc
thu hồi đất đã ảnh hưởng mạnh mẽ và làm xáo trộn đến đời sống, tâm lý của người
nông dân. Vì vậy, Nhà nước phải ban hành pháp luật để điều chỉnh có hiệu quả vấn


17

đề này, chính là gián tiếp đảm bảo chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
Thứ ba, pháp luật đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người có đất bị thu
hồi trong quan hệ bồi thường khi nhà nước thu hồi đất.
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là lĩnh vực khó khăn, phức tạp và nhạy
cảm; bởi nó trực tiếp động chạm đến lợi ích thiết thực của các bên liên quan mà
trước hết của người sử dụng đất. Hon nữa, việc có đất hay mất đất của người dân
còn tiềm ẩn nguy cơ đối với sự ổn định chính trị, trật tự xà hội. Vì vậy, trong thu hồi
đất, điều trước tiên mà Nhà nước phải giải quyết đó là bảo hộ quyền lợi hợp pháp
cho người nông dân thông qua bồi thường.Và khi có pháp luật sẽ đảm báo quyền và
lợi ích hợp pháp của người dân có đất bị thu hồi. Bởi lẽ, pháp luật suy cho cùng là
một khế ước thể hiện sự thỏa hiệp về quyền lợi giữa các giai tầng trong xã hội. Pháp
luật quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong xã hội. Khi tham gia các
quan hệ xã hội, con người phải tuân thủ quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định
nhằm đảm bảo hài hòa các lợi ích khác nhau trong xã hội. Thông qua việc tuân thủ
các quy định của pháp luật, người bị thu hồi đất tự điều chỉnh hành vi ứng xử của
mình, nhằm bảo đảm sự đòi hỏi được bảo hộ lợi ích hợp pháp của mình, không gây

phương hại cho Nhà nước, cho xã hội. Ngược lại, thông qua việc tuân thủ pháp luật
trong việc bồi thường cho người bị thu hồi đất, các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tự điều chỉnh hành vi ứng xử của mình để không làm thiệt hại đến quyền và
lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Như vậy, thông qua pháp luật, quyền và lợi
ích hợp pháp của người có đất bị thu hồi được đảm bảo, nên sẽ không tạo ra những
xung đột, mâu thuần về lợi ích giữa các bên trong bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất.
Thứ tư, pháp luật đảm bảo việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất diễn ra
một cách có trật tự.
Pháp luật quy định cụ thể các nguyên tắc, điều kiện, nội dung, trình tự thủ
tục cũng như giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất. Thông qua việc tuân thủ các quy định này các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xem xét, cân nhắc đưa ra hành vi ứng xử của mình cho phù hợp, nhằm bảo


18

đảm thực hiện đúng những quy định nêu trên. Ớ một khía cạnh khác, thông qua các
quy định cụ thể của pháp luật, người dân và dư luận xã hội theo dõi, giám sát các
hành vi ứng xử của công chức nhà nước, của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
việc thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để lên
án, đấu tranh với các hiện tượng nhũng nhiễu, tham nhũng, tiêu cực hoặc các hành
vi vi phạm pháp luật,... nhằm đảm bảo duy trì kỷ cương, kỷ luật
Kết luận chƣơng 1
Việc thu hồi đất là một yêu cầu tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Thu hồi đất trực tiếp ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng
của người sử dụng đất. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi
đất, chế định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất không chỉ tạo cơ sở
pháp lý mà còn xác định trách nhiệm và bổn phẩn của Nhà nước trong việc bồi
thường những thiệt hại cho người sử dụng đất. Trong phạm vi Chương 1 của luận

văn đã làm rõ một số vấn đề lý luận về bồi thường và pháp luật bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất của người sử dụng đất, tính tất yếu khách quan và cơ sở của việc
bồi thường.


×