Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Hoạt động thu thập chứng cứ của tòa án trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài và thực tiễn giải quyết tại tòa án nhân dân tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

HÀ THANH HƢƠNG

HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA TOÀ ÁN TRONG
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CÓ YẾU TỐ
NƢỚC NGOÀI VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TẠI TOÀ ÁN
NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

HÀ THANH HƢƠNG

HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA TOÀ ÁN TRONG
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CÓ YẾU TỐ


NƢỚC NGOÀI VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TẠI TOÀ ÁN
NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)
Chuyên ngành : Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số

: 8380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TRIỀU DƢƠNG

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn
đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hà Thanh Hƣơng


LỜI CẢM ƠN
Khi tham gia học chương trình Thạc sỹ tại Trường Đại học Luật Hà Nội, tôi đã

có cơ hội được học tập và nghiên cứu chuyên sâu về khoa học pháp lý thông qua các
môn học cụ thể trong chương trình học tập. Với vốn kiến thức thu được trong quá
trình học tập và qua tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu, văn bản quy định của pháp luật,
các bài báo, bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, cùng với sự chỉ bảo tận tình của
giảng viên hướng dẫn, nhưng do thời gian nghiên cứu có hạn, vấn đề nghiên cứu
tương đối rộng và phức tạp, sự hiểu biết của bản thân còn hạn chế nên bài viết chắc
chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự góp ý
chia sẻ của các thầy giáo, cô giáo và những người quan tâm đến lĩnh vực đầu tư xây
dựng để đề tài nghiên cứu của tôi được hoàn thiện hơn.
Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Nhà trường, giảng viên
hướng dẫn đã tận tình giúp đỡ tác giả hoàn thiện luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTDS

Điều ƣớc quốc tế

ĐƢQT

Tòa án nhân dân

TAND

Tố tụng dân sự


TTDS

Ủy thác tƣ pháp

UTTP

Vụ án dân sự

VADS


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ........................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................................. 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ............................................................................ 3
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài ................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................ 4
6. Bố cục của Luận văn ....................................................................................................... 4
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ
CỦA TÕA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CÓ YẾU
TỐ NƢỚC NGOÀI ................................................................................................................... 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong
giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài .............................................. 5
1.1.1. Khái niệm hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài ................................................................................................................5
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ án hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài ..........................................................................................................8
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ án hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài ........................................................................................................13


1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết
vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ............................................................. 16
1.2.1. Yếu tố khách quan ................................................................................................................16
1.2.2. Yếu tố chủ quan ....................................................................................................................21

1.3. Sơ lược quá trình phát triển của các quy định pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài .............................................................................................................. 22
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 .................................................................................22
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1988 .................................................................................24
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2003 .................................................................................24
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2014 .................................................................................25
1.3.5. Giai đoạn từ năm 2015 đến nay ...........................................................................................26

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ....................................................................................................... 27
Chƣơng 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HIỆN HÀNH VỀ HOẠT ĐỘNG
THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA TÕA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI...................................................................... 28
2.1. Điều kiện để Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ trong vụ án hôn nhân và gia đình
có yêu tố nước ngoài ......................................................................................................... 28
2.1.1. Hoạt động chủ động thu thập chứng cứ của Tòa án .............................................. 28


2.1.2. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án theo yêu cầu của đương sự .................. 31
2.2. Các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trong vụ án hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài .............................................................................................................. 33
2.2.1. Lấy lời khai của đương sự ..................................................................................................33
2.2.2. Lấy lời khai của người làm chứng......................................................................................36
2.2.3. Thu thập chứng cứ thông qua biện pháp đối chất ..............................................................38

2.2.4. Xem xét, thẩm định tại chỗ .................................................................................................39
2.2.5. Trưng cầu giám định ..........................................................................................................41
2.2.6. Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản ..............................................................................44
2.2.7. Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ....................................................................47
2.2.8. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ ........................................52
2.2.9. Biện pháp thu thập chứng cứ thông qua xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự
tại nơi cư trú ...................................................................................................................................54

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ....................................................................................................... 55
Chƣơng 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CÓ YẾU TỐ NƢỚC
NGOÀI TẠI TÕA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH – KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN ..................................................................................................................................... 56
3.1. Thực tiễn thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ trong giải quyết vụ án hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh. .............................. 56
3.1.1. Kết quả đạt trong thực tiễn thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ trong giải quyết vụ án
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh. .....................56

3.1.2. Một số tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ trong
giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài tại Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh. ...................................................................................................................... 59
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về hoạt động thu thập
chứng cứ trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài tại Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Ninh. ............................................................................................... 69
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ....................................................................................................... 74
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 76


1


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Theo số liệu thống kê tại báo cáo số BC-T NDTC của Tòa án nhân dân tối cao,
tính trung bình m i năm các Tòa án nhân dân đ giải quyết trên
.
vụ việc dân sự,
hôn nhân và gia đình; trên .
vụ việc về kinh doanh, thương mại; trên .
vụ việc về
lao động; t lệ các vụ việc mà Tòa án phải giải quyết hàng năm tăng khoảng
. Trong
bối cảnh các điều kiện về kinh tế - x hội ngày càng phát triển tại Việt Nam, đồng thời
cùng với sự hội nhập quốc tế, việc xảy ra các tranh chấp trong quan hệ dân sự giữa các
chủ thể dễ dàng xảy ra hơn bao giờ hết, đặc biệt là các quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài. Pháp luật Tố tụng Dân sự của nước Cộng hòa X hội chủ nghĩa Việt
Nam ra đời với mục tiêu góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Để góp phần đạt được
những mục tiêu như nêu trên, Tòa án là cơ quan có vai trò khách quan nhất nhằm phân xử,
giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể. Để có thể đưa ra những bản án, quyết định đúng
đắn phù hợp với hiện thực khách quan của vụ việc dân sự xảy ra trên thực tế, hoạt động
thu thập chứng cứ của Tòa án là vấn đề pháp lý cần được đặt ra tiên quyết, là hoạt động
đặc biệt quan trọng trong tố tụng dân sự. Việc thu thập chứng cứ đầy đủ, chính xác là cơ
sở để Tòa án có kết luận khách quan và toàn diện nhất về các tình tiết, sự kiện của vụ việc,
đặc biệt là trong vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, khi mà việc thu thập
chứng cứ gặp phải những rào cản về ngôn ngữ, địa lý, kinh tế, x hội…
Thực tiễn cho thấy vấn đề thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự đ được quy
định khá cụ thể và đầy đủ trong Bộ luật Tố tụng Dân sự
. Tuy nhiên, khi Tòa án
thực hiện thu thập chứng cứ trong các vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài

cho thấy vẫn bộc lộ nhiều những vướng mắc, bất cập chẳng hạn như BLTTDS 2015
chưa quy định biện pháp, cơ chế nào để nâng cao hiệu quả của biện pháp yêu cầu cơ
quan, tổ chức cung cấp chứng cứ cho Tòa án. Mặt khác, tại tỉnh Quảng Ninh, nơi mà
các vụ án liên quan đến hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài xảy ra với mật độ
nhiều hơn ở những địa phương khác do đặc điểm tại Quảng Ninh tốc độ đô thị hóa
đang phát triển rất nhanh, kèm theo đặc điểm địa lý là nơi giao thương, tập trung rất
nhiều người nước ngoài. Trong khi đó, trình độ dân trí không đồng đều, công tác quản
lý hồ sơ, tài liệu trong nhiều lĩnh vực còn bất cập. Hệ quả tất yếu khi xảy ra vụ án hôn
nhân và gia đình, việc thu thập chứng cứ của Tòa án gặp phải rất nhiều khó khăn. Đây
là những trở ngại lớn trong quá trình giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài tại địa phương.


2

Trước tình hình đó, việc nghiên cứu và tìm hiểu pháp luật về hoạt động thu thập
chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ án hôn nhân có yếu tố nước ngoài trở thành
một nhiệm vụ quan trọng và cần thiết nhằm tạo điều kiện phân tích chỉ ra những điểm
mạnh cần phát huy và một số bất cập của pháp luật, cung cấp luận cứ khoa học để
hoàn thiện các chế định của pháp luật. Bên cạnh đó, việc phân tích và nghiên cứu các
quy định pháp luật cũng cần phải đi liền với việc đối chiếu thực tiễn thực hiện hoạt
động thu thập chứng cứ tại Tòa án địa phương trong vụ việc hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài, từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt
động thu thập chứng cứ của Tòa án. Xuất phát từ những yêu cầu về thực tiễn nêu trên,
tác giả xin lựa chọn đề tài “Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải
quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài và thực tiễn giải quyết tai
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh” để làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ án
dân sự trong thời gian qua đ có một số công trình nghiên cứu có liên quan như:


2.

- “Hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt Nam” Luận văn thạc sỹ luật học, tác giả Nguyễn Minh Hằng; năm
2; TS. Đinh
Ngọc Hiện hướng dẫn;
- “Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự” Luận văn thạc sỹ luật học, tác giả Bùi Thu Huyền; năm
; TS. Đinh Ngọc
Hiện hướng dẫn;
- “Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự Việt Nam” Luận văn thạc sỹ luật học, tác giả Phạm Thị Hương; năm
; TS. Trần Anh
Tuấn hướng dẫn.
- “Hoạt động thu thập chứng cứ trong Bộ luật tố tụng dân sự tại Tòa án nhân
dân huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp” - Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật, Đại học
Cần Thơ, Cần Thơ, tác giả Nguyễn Thị Thanh Kiều; năm
; Giảng viên Thân
Thị Ngọc Bích hướng dẫn.
- “Thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự của Tòa án
cấp sơ thẩm”, Luận văn thạc sỹ luật học, tác giả Nguyễn Kim Lượng; năm
;
TS. Nguyễn Công Bình hướng dẫn.
- “Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án từ thực tiễn giải quyết các vụ án dân
sự của Tòa án cấp huyện thành phố Hải Phòng”, Luận văn thạc sỹ luật học, tác
giả Nguyễn Thị Liên; năm
; TS. Bùi Thị Huyền hướng dẫn.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Một số vấn đề lý luận về chứng minh


3


trong tố tụng dân sự” do TS. Nguyễn Công Bình làm chủ nhiệm năm

;

Ngoài ra còn có một số sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu có liên quan tới
một số khía cạnh pháp lý của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết
vụ án, như “Vai trò của Thẩm phán trong thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ giải quyết
vụ án dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Hạnh, đăng tải tại Tạp chí nghiên cứu lập pháp;
“Một số ý kiến về trách nhiệm thu thập chứng cứ của tòa án trong tố tụng dân sự”, của
tác giả Hà Thái Thơ – đăng tải tại tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp, Số 5/2013, tr.
19 – 21...
Đề tài mà tác giả lựa chọn về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải
quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là chủ đề không quá mới,
nhưng các tài liệu, bài báo, công trình nghiên cứu viết về vấn đề này mới chỉ là những
nghiên cứu chung về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự nói
chung. Các vấn đề chuyên sâu và thực tiễn về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
trong giải quyết vụ án đặc thù là vụ án về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
trong thời gian gần đây theo tác giả tìm hiểu là chưa có sách chuyên khảo hay công
trình nghiên cứu nào cụ thể chi tiết về vấn đề này.
Như vậy, cho đến thời điểm hiện tại, chưa có đề tài nào thực sự đi sâu vào việc
nghiên cứu pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ
án về hôn nhân và gia đình, đặc biệt là vụ án có yếu tố nước ngoài. Chính vì vậy, việc
lựa chọn đề tài nêu trên để làm đề tài luận văn thạc sỹ là không trùng lặp với các công
trình khoa học đ được công bố.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ và phân tích một cách có hệ thống các
quy định của pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ của Toà án trong giải quyết vụ
án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Trên cơ sở các vấn đề lý luận, tác giả
đem so sánh, đối chiếu với thực trạng và thực tiễn thực hiện tại một Toà án nhân dân
cụ thể (Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh). Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được đặt

ra là:

3.

-

Tìm hiểu khái quát về hoạt động thu thập chứng cứ của Toà án trong giải quyết
vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài;

-

Phân tích nội dung chủ yếu của pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ của
Toà án trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài;

-

Từ thực tiễn thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ của Toà án nhân dân Tỉnh
Quảng Ninh trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài,
luận văn chỉ ra một số bất cập, đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và


4

nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ của Toà án
trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.
Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu đối tượng là các vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt
động thu thập chứng cứ của Toà án trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu

4.


tố nước ngoài theo pháp luật của Việt Nam được quy định tại Bộ luật Tố tụng Dân sự
và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đề tài không nghiên cứu các vấn đề liên
quan tới vấn đề kinh tế - x hội, văn hóa, truyền thống, trừ khi tác giả Luận văn chủ
động đề cập tới nhằm mục đích nghiên cứu nói trên.
Đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi pháp luật hiện hành ở Việt Nam mà không
nghiên cứu sâu về lịch sử của lĩnh vực pháp luật này trừ khi cần xử lý những thông tin
liên quan để đáp ứng mục đích nghiên cứu của đề tài theo sự lựa chọn của tác giả Luận
văn. Phạm vi nghiên cứu của tác giả trong luận văn giới hạn trong khuôn khổ pháp luật
Việt Nam; thực tiễn tìm hiểu của tác giả nằm trong phạm vi không gian nghiên cứu tại
địa bàn tỉnh Quảng Ninh - nơi tác giả đang trực tiếp công tác, tập trung nghiên cứu vào
các vụ việc tranh chấp phát sinh trong thời gian gần nhất với thời điểm tác giả nghiên
cứu tài liệu của luận văn.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên nền tảng phương pháp luận là phép duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam
về Nhà nước và pháp luật. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là

5.

phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh và phương pháp khái quát hoá.
Bố cục của Luận văn
Đề tài có cơ cấu gồm: lời nói đầu, phần nội dung, phần kết luận và tài liệu tham
khảo. Phần nội dung của đề tài được kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động thu thập chứng cứ của Toà án
trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.

6.

Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hiện hành về hoạt động thu thập

chứng cứ của Toà án trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ trong giải quyết vụ
án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài tại Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh –
Kiến nghị hoàn thiện.


5

Chƣơng 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ
CỦA TÕA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa
án trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài

1.1.

1.1.1. Khái niệm hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ án
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Để tìm hiểu về khái niệm của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải
quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trước tiên chúng ta cần tìm
hiểu rõ về một số khái niệm cơ bản, cụ thể như sau:
 Chứng cứ
Theo Từ điển tiếng Việt, “chứng cứ được hiểu là những cái cụ thể như lời nói,
việc làm, vật chứng, tài liệu tỏ rõ điều gì đó có thật” 1. Đây là cách hiểu thông thường,
đơn giản nhất về chứng cứ. Ở góc độ pháp lý, có nhiều khái niệm về chứng cứ trong hệ
thống pháp luật của một số nước trên thế giới chẳng hạn như: Luật TTDS Liên Bang
Nga có quy định:“Chứng cứ trong tố tụng dân sự là những sự thật khách quan mà
theo đó Tòa án có cơ s để giải quyết các vụ án dân sự” 2; trong Luật TTDS của Nhật

Bản đưa ra khái niệm: “Chứng cứ là một tư liệu thông qua đó là tình tiết được pháp
luật công nhận và là một tư liệu, cơ s thông qua đó Tòa án được thuyết phục là một
tình tiết nhất định tồn tại hay không” 3. Chứng cứ trong vụ việc dân sự theo quy định
tại Điều 9 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 là những gì có thật được đương sự và cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng
hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được
Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như
xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.
Như vậy, có thể thầy rằng các khái niệm về chứng cứ trong hệ thống pháp luật
của các quốc gia trên thế giới đều mang điểm chung và đó được coi là bản chất của
chứng cứ, theo đó chứng cứ là căn cứ để Tòa án giải quyết vụ án theo một cách đúng
1

Hoàng Phê (1996), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 86

2

Bùi Ngọc Khánh (2002), Luật tố tụng dân sự Liên Bang Nga, , Nxb Tư Pháp, Tr.178 


3

Nông Xuân Trường, Luật tố tụng dân sự Nhật Bản, VKH kiểm sát VKSNDTC, Tr.254.


6

đắn nhất. Để phục vụ cho yêu cầu này, Tòa án cần phải có những giấy tờ, tài liệu hoặc
thông tin có đầy đủ độ tin cậy, chính xác để xác minh sự khách quan của vụ việc.
Trong một vụ việc dân sự thông thường có các tình tiết, sự kiện khác nhau mà quan hệ
pháp luật giữa các bên đương sự phụ thuộc vào nó. Những tình tiết, sự kiện đó bao

gồm các nguồn thông tin, tư liệu được thể hiện bằng hình thức nhất định và được Tòa
án xem xét sử dụng để làm cơ sở giải quyết vụ việc dân sự. Từ những quan niệm
chung và quy định của một số quốc gia trên thế giới và pháp luật Việt Nam, chúng ta
có thể hiểu: “Chứng cứ là những gì phản ánh sự thật khách quan, được đương sự và
cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được
theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự quy định”.
Để xác định được đâu là chứng cứ của vụ việc dân sự cần dựa vào các đặc tính
của chứng về: (i) tính khách quan: chứng cứ trước hết phải là những gì có thật tồn tại
khách quan không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người; (ii) tính liên quan:
chứng cứ là những sự kiện thực tế tồn tại khách quan và liên quan đến vụ việc mà Tòa
án dựa vào đó để giải quyết; (iii) tính hợp pháp: các sự kiện, tình tiết để trở thành
chứng cứ trong vụ việc phải được rút ra từ nguồn nhất định và phải được thu thập, bảo
quản, củng cố và nghiên cứu, đánh giá theo thủ tục do luật quy định.
 Thu thập chứng cứ
Về nguyên tắc, các đương sự khi tham gia tố tụng tại Tòa án phải có nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, do
đó các đương sự phải tiến hành các hoạt động tự mình thu thập chứng cứ để cung cấp
cho Tòa án. Theo đó Tòa án có trách nhiệm xem xét tình tiết của vụ án dựa trên các
chứng cứ mà các đương sự đ cung cấp, căn cứ vào quy định của pháp luật để giải
quyết vụ án theo hướng chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của đương sự. Tuy
nhiên, nếu xét thấy các chứng cứ do các đương sự cung cấp còn thiếu, không đủ cơ sở
giải quyết hoặc các đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ mà có yêu
cầu thì Tòa án tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ.
Trong nghiên cứu khoa học pháp lý nhiều tác giả đ đưa ra những khái niệm
khác nhau về thu thập chứng cứ nói chung và của Tòa án nói riêng. Theo tác giả
Tưởng Duy Lượng thì thu thập chứng cứ là một hành vi tố tụng của Tòa án trong việc
tiếp nhận các tài liệu, chứng cứ do đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp, hoặc
do chính Tòa án trực tiếp sử dụng các biện pháp để thu thập 4. Trong khi đó, tác giả
4


Tưởng Duy Lượng (
),“Chứng cứ và chứng minh – Sự thay đổi nhận thức trong Pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam”, Đặc san Nghề Luật, ( ), Hà Nội, tr .


7

Nguyễn Minh Hằng cho rằng hoạt động thu thập chứng cứ được hiểu là hoạt động tố
tụng dân sự của các chủ thể chứng minh trong việc phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo
quản chứng cứ bằng các phương pháp, biện pháp theo một trình tự, thủ tục do pháp
luật tố tụng dân sự quy định 5. Từ những quan điểm nêu trên, tác giả nhận thấy rằng
bản chất của thu thập chứng cứ là: (i) hoạt động tố tụng dân sự của các chủ thể chứng
minh; và (ii) được tiến hành theo trình tự thủ tục được pháp luật tố tụng dân sự quy
định. Theo Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội
thì “Thu thập chứng cứ là việc phát hiện tìm ra các chứng cứ, tập hợp, đưa vào hồ sơ
vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ việc dân sự” 6.
Hoạt động thu thập chứng cứ là hoạt động có sự tham gia của nhiều chủ thể bao
gồm: đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự, người đại diện, Viện
kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án chủ
yếu dựa trên khả năng cung cấp chứng cứ của đương sự. Khi đương sự trình bày sự
kiện, xuất trình giấy tờ, yêu cầu của mình và liên hệ trực tiếp đến yêu cầu đó bằng
những chứng cứ, kết quả sẽ tùy thuộc vào việc có hay không những bằng chứng cụ
thể. Để đảm bảo tính khách quan giải quyết vụ án, phán quyết đưa ra công bằng với cả
hai bên, Tòa án cần có những biện pháp thu thập chứng cứ hiệu quả. Tòa án có thể
thực hiện việc thu thập chứng cứ bằng các phương thức trực tiếp trong phạm vi l nh
thổ Việt Nam hoặc gián tiếp thông qua hoạt động UTTP cho các cơ quan nằm ngoài
l nh thổ Việt Nam, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài.
Như vậy, khái niệm thu thập chứng cứ của Tòa án có thể hiểu: là hoạt động
mang tính quyền lực của nhà nước do Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử tiến hành một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm tập hợp, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ

liên quan đến vụ việc dân sự theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, với mục đích
hỗ trợ đương sự trong việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và bảo đảm cho việc
giải quyết vụ việc dân sự được chính xác, khách quan đúng thời hạn luật định.
 Vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Yếu tố nước ngoài là thuật ngữ dùng để chỉ những yếu tố cấu thành của quan hệ
pháp luật mà những yếu tố đó có liên quan đến nước ngoài. Theo quy định tại Điều
66 Bộ luật Dân sự
và khoản Điều 6 BLTTDS
, quan hệ dân sự có yếu
5

Nguyễn Minh Hằng (

), Chế định chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận án

tiến sĩ luật học, Trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội, tr 6 .
6
Nguyễn Công Bình (2017), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Trường Đại học Luật
Hà Nội.


8

tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Có ít nhất
một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; b) Các bên tham gia đều
là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện
hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài; c) Các bên tham gia đều là công dân
Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.
Theo quy định tại khoản Điều Luật Hôn nhân và gia đình năm
nhận

định hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn. Theo quy định tại khoản
Điều Luật Hôn nhân và gia đình năm
định nghĩa về quan hệ hôn nhân có
yếu tố nước ngoài như sau: “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là
quan hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người
Việt Nam định cư nước ngoài; quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các bên tham gia
là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo
pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó
nước ngoài”. Vụ án hôn nhân và gia đình được xác định có yếu tố nước ngoài trong
trường hợp một bên đương sự phải là người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư
ở nước ngoài; hoặc các đương sự đều là công dân Việt Nam nhưng căn cứ xác lập,
thay đổi, chấm dứt quan hệ hôn nhân của các đương sự lại theo pháp luật nước ngoài
hoặc phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ hôn nhân của các
đương sự đó ở nước ngoài.
Như vậy, có thể tổng kết hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải
quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là: hành vi tố tụng của Tòa án
trong việc tiếp nhận, chọn lọc, tập hợp các tài liệu, chứng cứ có nội dung liên quan
đến quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài do các đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ
chức cung cấp hoặc do trực tiếp Tòa án tiến hành áp dụng một số biện pháp để thu
thập nếu thấy cần thiết theo đúng trình tự pháp luật tố tụng, nhằm tập hợp, ghi nhận,
thu giữ và bảo quản chứng cứ liên quan đến vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước
ngoài, với mục đích hỗ trợ đương sự trong việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
và bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài được
chính xác, khách quan đúng thời hạn luật định, đảm bảo công bằng và trật tự xã hội.

1.1.2. Đặc điểm của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ
án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Ở Việt Nam cũng như hầu hết các quốc gia trên thế giới, Tòa án là cơ quan duy
nhất có quyền giải quyết, xét xử các vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài.
Khi giải quyết các vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài, Tòa án phải thực

hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Tòa án tiến hành các hoạt động tố tụng theo


9

trình tự, thủ tục và những nguyên tắc cơ bản được quy định trong luật tố tụng dân sự
như nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng 7. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa
án trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài mang một số
điểm đặc trưng như sau:
Thứ nhất, pháp luật áp dụng trong hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án khi
giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài không chỉ bị chi phối bởi
hệ thống pháp luật Việt Nam mà còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc tế.
Khác với những VADS thông thường, vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước
ngoài mang đặc điểm là những vụ việc này bị chi phối bởi hệ thống pháp luật vượt ra
ngoài phạm vi l nh thổ Việt Nam. Các vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài
chịu sự điều chỉnh không chỉ của pháp luật Việt Nam mà còn chịu sự điều chỉnh của
pháp luật quốc tế trên cơ sở các hiệp định tương trợ tư pháp thông qua quan hệ ngoại
giao giữa Việt Nam và các quốc gia khác theo nguyên tắc có đi có lại.
Để đảm bảo giá trị pháp lý của chứng cứ do Toà án tiến hành thu thập để làm căn
cứ giải quyết vụ án dân sự, pháp luật TTDS Việt Nam quy định chi tiết về trình tự, thủ
tục khi Toà án tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ. Sở dĩ pháp luật quy định
trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ của Toà án phải được thực hiện khắt khe như vậy để
ngăn ngừa các hành vi gây tổn hại đến quyền lợi của các bên đương sự như việc Thẩm
phán cố tình tạo chứng cứ có lợi cho một bên đương sự do có thoả thuận ngầm từ
trước. Các chứng cứ do Toà án thu thập phải được bảo quản, nghiên cứu, củng cố và
đánh giá theo thủ tục mà pháp luật quy định. Các quy trình khép kín này nhằm đảm
bảo giá trị chứng minh của chứng cứ, giúp quá trình tiến hành tố tụng được thận trọng,
khách quan, đảm bảo độ tin cậy. Từ đó, Toà án mới có thể đưa ra các phán quyết có
sức thuyết phục cao, đảm bảo tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật tố tụng dân

sự. Tuy nhiên, khi giải quyết các vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài, Tòa án
ngoài việc phải tiến hành theo trình tự, thủ tục được quy định trong pháp luật tố tụng
dân sự của Việt Nam, một mặt phải đảm bảo lợi ích của chủ thể tham gia quan hệ đó,
một mặt vừa phải đảm bảo thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, bảo đảm việc mở rộng và phát triển quan hệ hợp tác quốc tế tốt đ p giữa
nước ta với các nước khác. Vì vậy, việc tiến hành các bước tố tụng của Tòa án nói
chung và việc thu thập chứng cứ nói riêng cho đương sự ở nước ngoài còn phải được
7

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân do Quốc hội nước Cộng hòa X hội chủ nghĩa Việt Nam ban
hành ngày tháng năm
, Điều .


10

thực hiện tuân theo con đường ngoại giao, cụ thể là Tòa án tuân thủ các quy định
chung của Tư pháp quốc tế. Việc giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài được thực
hiện trên nguyên tắc tôn trọng các ĐƯQT mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia; người
nước ngoài tại Việt Nam được hưởng các quyền và có nghĩa vụ tố tụng như công dân
Việt Nam, bên cạnh đó nhà nước ta cũng bảo hộ quyền lợi ích hợp pháp của công dân
Việt Nam, pháp luật của nước sở tại và tập quán quốc tế trên cơ sở bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các đương sự trong quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài.
Thứ hai, chủ thể mà Tòa án thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ trong các vụ
án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài thường là các đương sự là người nước
ngoài. Ở nước ta, vấn đề xác định “yếu tố nước ngoài” trong khoa học pháp lý nói
chung và tư pháp quốc tế nói riêng là một vấn đề rất quan trọng và cần thiết, vấn đề
này đ được quy định trong các văn bản pháp luật. Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng
Dân sự năm
, một vụ việc dân sự được xác định có “yếu tố nước ngoài” nếu thuộc

một trong các trường hợp: “Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, cơ
quan, tổ chức nước ngoài; Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt
Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại
nước ngoài; Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng đối
tượng của quan hệ dân sự đó nước ngoài” 8. Đối với vụ việc hôn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài, do đặc trưng của quan hệ hôn nhân và gia đình nên chủ thể trong
quan hệ này được thu h p lại chỉ là cá nhân, dấu hiệu để xác định có “yếu tố nước
ngoài” cũng được quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình năm
như sau: “Quan
hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình mà ít
nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư nước ngoài;
quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn
cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại
nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó nước ngoài”. Như vậy, một vụ án
hôn nhân gia đình được xác định có yếu tố nước ngoài thì đương sự trong vụ án phải
là người nước ngoài (bao gồm người không quốc tịch hoặc người có quốc tịch nước
ngoài) 9. Trong trường hợp đương sự đều là người Việt Nam nhưng định cư ở nước
ngoài hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ hôn nhân và gia đình theo
8

Bộ luật Tố tụng Dân sự do Quốc Hội Nước Cộng hòa X hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành

ngày 25 tháng 11 năm
, Điều 64.
9
Luật Hôn nhân và gia đình do Quốc hội nước Cộng hòa X hội chủ nghĩa Việt Nam ban
hành ngày 19 tháng 06 năm
4, khoản
Điều .



11

pháp luật nước ngoài hoặc quan hệ hôn nhân và gia đình phát sinh ở nước ngoài hoặc
tài sản liên quan đến quan hệ hôn nhân gia đình ở nước ngoài thì cần thiết phải tiến
hành hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự được thực hiện trên cơ sở yêu cầu của cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thông
qua hình thức ủy thác tư pháp, hình thức này được thừa nhận rộng r i trong thông lệ
quốc tế cũng như trong các hiệp định tương trợ tư pháp song phương. Hoạt động thu
thập chứng cứ của Tòa án trong vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài có thể
do Tòa án trực tiếp thu thập chứng cứ hoặc gián tiếp thu thập chứng cứ thông qua hoạt
động ủy thác tư pháp cho các cơ quan nằm ngoài l nh thổ Việt Nam, cơ quan đại diện
Việt Nam ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài.
Thứ ba, hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong vụ án hôn nhân gia đình
có yếu tố nước ngoài mang những đặc điểm riêng biệt về không gian và thời gian. Các
vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài thì việc thu thập chứng cứ không chỉ
được thực hiện trong phạm vi l nh thổ Việt Nam mà còn được thực hiện tại các vùng
l nh thổ khác. Khi Tòa án cần thu thập chứng cứ của vụ án dân sự phải tiến hành ở
nước ngoài thì Tòa án làm thủ tục ủy thác thông qua cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài mà nước đó và Cộng hòa x hội chủ
nghĩa Việt Nam cùng là thành viên của điều ước quốc tế có quy định về vấn đề này.
Đặc điểm về không gian như vậy dẫn tới hệ quả hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa
án trong vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài mang những đặc điểm riêng
biệt về thời gian thu thập chứng cứ. Bởi lẽ, đối với những vụ việc mà đương sự còn
sinh sống, làm việc tại Việt Nam hay các tình tiết, sự kiện là chứng cứ có thể được thu
thập tại Việt Nam thì Tòa án sẽ nhanh chóng trực tiếp thu thập chứng cứ phục vụ cho
việc giải quyết vụ án. Còn nếu việc thu thập chứng cứ buộc phải thực hiện tại nước
ngoài thì Tòa án sẽ ủy thác cho các cơ quan có thẩm quyền khác thực hiện thay mình.
Việc gián tiếp thu thập chứng cứ như vậy sẽ gây mất nhiều thời gian hơn để giải quyết
vụ án dân sự nói chung, vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài nói riêng.

Thứ tư, để thu thập chứng cứ trong vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài
thì biện pháp ủy thác tư pháp ra các nước ngoài l nh thổ Việt Nam được sử dụng
thường xuyên hơn các vụ án dân sự thông thường.
Theo quy định tại Luật Tương trợ tư pháp năm
, ủy thác tư pháp được hiểu
là: “yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có
thẩm quyền của nước ngoài về việc thực hiện một hoặc một số hoạt động tương trợ tư
pháp theo quy định của pháp luật nước có liên quan hoặc điều ước quốc tế mà Việt


12

Nam là thành viên”

10

. Và tại Thông tư liên tịch số

6 TTLT-BTP-BNG-

TANDTC ngày 9
6 quy định về trình tự thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh
vực dân sự có quy định “Ủy thác tư pháp của Việt Nam là yêu cầu bằng văn bản của
cơ quan có thẩm quyền Việt Nam đề nghị cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thực hiện
một hoặc một số hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự” 11. Việc ủy thác tư pháp được
thực hiện trên cơ sở điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc gia nhập. Trường hợp
Việt Nam và quốc gia cần ủy thác tư pháp chưa có hiệp định tương trợ tư pháp thì việc
ủy thác tư pháp được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái pháp luật
Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế. Do đó, bằng hình thức ủy thác
tư pháp, cơ quan có thẩm quyền Việt Nam có thể gửi văn bản yêu cầu cho cơ quan đại

diện nước Cộng hòa x hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có
thẩm quyền của nước ngoài để tiến hành một số hoạt động tố tụng dân sự trên l nh thổ
quốc gia được yêu cầu. Ví dụ trong vụ án hôn nhân và gia đình cần phải tiến hành thủ
tục ủy thác tư pháp, Tòa án có thể thông qua Bộ Tư pháp hoặc trực tiếp gửi văn bản
yêu cầu cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa x hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài,
cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài để thực hiện một số hoạt động tố
tụng như tống đạt tài liệu, hồ sơ (công văn, thông báo thụ lý, quyết định đưa vụ án ra
xét xử, giấy triệu tập tham gia phiên họp, phiên tòa, bản án…) hay thu thập, cung cấp
tài liệu, chứng cứ,… để Tòa án có căn cứ xem xét giải quyết vụ án.
Thứ năm, đa số các vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài do Tòa án
cấp tỉnh thực hiện. Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
, hệ thống Tòa án
được phân cấp thành Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị x , thành
phố thuộc tỉnh và tương đương và Tòa án quân sự 12. M i cấp Tòa án có thẩm quyền
đặc trưng và được quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật. Đối với các vụ án hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói riêng, không phải cấp Tòa án nào cũng có
thẩm quyền thụ lý giải quyết.
Theo quy định tại khoản , Điều , điểm c khoản Điều
Bộ luật tố tụng
dân sự năm
và khoản Điều
Luật hôn nhân và gia đình năm
thì trừ
trường hợp việc yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các
10

Luật Tương trợ tư pháp năm
, do Quốc hội nước Cộng hòa X hội chủ nghĩa Việt Nam
ban hành ngày 21 tháng 11 năm 007, khoản Điều 6.

11
Thông tư liên tịch số
6 TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 19/10/2016 quy định về
trình tự thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, khoản Điều .
12
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, do Quốc Hội nước Cộng hòa X hội chủ nghĩa Việt Nam
ban hành ngày 24 tháng năm 14, Điều 3.


13

tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha m và con, về nhận cha, m , con,
nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công
dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam thuộc thẩm
quyền giải quyết Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam thì các
vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài đều thuộc thẩm quyền phân cấp giải
quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh trở lên.
Thứ sáu, hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong vụ án hôn nhân gia đình
có yếu tố nước ngoài có tác động tới vấn đề an ninh quốc gia, an ninh biên giới, vấn đề
chủ quyền của quốc gia. Các hoạt động thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án hôn
nhân gia đình có yếu tố nước ngoài nhằm mục đích đảm bảo công bằng và trật tự x
hội. Vì vậy, các hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án cũng cần đảm bảo an ninh
quốc gia, an toàn cho chủ quyền của đất nước. Chẳng hạn hiện nay tình trạng nhiều
phụ nữ sang các quốc gia như Hàn Quốc, Trung Quốc lấy chồng. Khi xảy ra tranh
chấp liên quan tới hôn nhân gia đình, thống kê từ Tòa án nhân dân tỉnh cho thấy một
thực trạng là các vụ ly hôn có yếu tố nước ngoài, nhất là với người Hàn Quốc, rất ít khi
giải quyết được. Nguyên nhân chính là do khi toàn bộ hồ sơ được gửi ủy thác bằng
đường ngoại giao qua nước bạn thì không thể tìm được người chồng hoặc người vợ do
địa chỉ giả. Theo quy định của pháp luật, thời hạn xử lý vụ án hôn nhân gia đình là
tháng, riêng có yếu tố nước ngoài phức tạp sẽ cộng thêm thời hạn tháng. Sau khoảng

thời gian này, Bộ Ngoại giao không gửi kết quả cho Tòa án, thì Tòa án sẽ tạm đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự và chờ kết quả ủy thác tư pháp. Và khoảng thời gian chờ đợi
này có thể sẽ kéo dài rất lâu. Khi những tranh chấp chưa được Tòa án giải quyết triệt
để, việc các đương sự có những hành vi thiếu suy nghĩ gây ảnh hưởng tới trật tự x
hội, an ninh quốc gia, an ninh biên giới… và mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam
và các quốc gia khác là điều luôn luôn tiềm ẩn. Chính vì lẽ đó, hoạt động thu thập
chứng cứ của Tòa án góp phần tác động không nhỏ tới các vấn đề về an ninh quốc gia,
an ninh biên giới và chủ quyền của Việt Nam.

1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ án
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Hoạt động thu thập chứng cứ của Toà án trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài nhằm mục đích tái hiện lại vụ việc hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài đ xảy ra trong quá khứ một cách chính xác, chi tiết nhất. Nhờ các
chứng cứ đó, Toà án có thể khẳng định có hay không các sự kiện, tình tiết khách quan
làm cơ sở cho yêu cầu hay phản tố yêu cầu của các bên đương sự trong vụ việc. Vì
vậy, nhiệm vụ của Toà án trong thu thập chứng cứ là rất quan trọng, là nhiệm vụ


14

xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài. Cụ thể,
ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ án hôn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngoài được thể hiện ở những khía cạnh như sau:
 Đối với việc giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Do tính chất phức tạp của các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung
cũng như các vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói riêng nên việc
đương sự chủ động thực hiện nghĩa vụ chứng minh, thu thập tài liệu chứng cứ là tương
đối khó khăn do hoạt động thu thập chứng cứ không còn nằm trong phạm vi lãnh thổ
Việt Nam, mà nếu đương sự có thể thực hiện được việc thu thập chứng cứ thì những

tài liệu chứng cứ do m i bên đương sự cung cấp cho Tòa án sẽ ít nhiều có sự thiên
lệch về phía mình để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của bản thân. Vậy nên tỉ lệ giải
quyết các vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài dựa trên chứng cứ và việc
tự chứng minh của các đương sự là tương đối thấp, phần lớn các vụ án giải quyết được
đều do Tòa án chủ động xác minh, thu thập chứng cứ. Các biện pháp thu thập chứng
cứ của Tòa án có tác dụng to lớn trong việc xây dựng hồ sơ vụ án, củng cố, chọn lọc,
sắp xếp các chứng cứ quan trọng, từ đó, Tòa án sẽ có thêm cơ sở và căn cứ để giải
quyết vụ án một cách minh bạch và công bằng nhất.
Đồng thời, hoạt động thu thập chứng cứ của Toà án trong vụ án hôn nhân gia
đình có yếu tố nước ngoài giúp cho việc giải quyết vụ án được đúng thời hạn và chính
xác. Mặc dù pháp luật tố tụng dân sự đề cao vai trò chứng minh của đương sự, nhưng
thực tiễn thực hiện cho thấy việc giải quyết các vụ án dân sự tại Việt Nam, đặc biệt là
các vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài thì hoạt động thu thập chứng cứ của
Toà án vẫn giữ vai trò là một hoạt động tiền đề quan trọng trong quá trình chứng minh
vụ việc dân sự bởi lẽ Toà án (mà trực tiếp là Thẩm phán được giao giải quyết vụ việc)
là người được trực tiếp tiếp xúc với chứng cứ, với các đương sự trong vụ án. Từ đó,
Thẩm phán là người hiểu rõ nhất những khúc mắc của vụ án, những vấn đề cần phải
làm rõ, đưa ra các phương hướng, các vấn đề cần phải chứng minh, qua đó yêu cầu
đương sự cung cấp hoặc tự mình thu thập chứng cứ chứng minh. Do vậy, hiệu quả
chứng minh sẽ cao hơn, tránh tình trạng thu thập chứng cứ tràn lan, không có trọng
tâm dẫn đến chứng cứ thu thập không có giá trị sử dụng.
 Đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Hiện nay, BLTTDS 2015 quy định đương sự phải có nghĩa vụ chứng minh, tuy
nhiên đối với những vụ án có yếu tố nước ngoài, việc đương sự tự mình thu thập
chứng cứ (có thể tại các quốc gia khác nhau) gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, để tạo


15

điều kiện thuận lợi cho đương sự được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình,

đương sự có quyền yêu cầu Tòa án h trợ thu thập tài liệu chứng cứ khi đương sự
không thể tự mình thực hiện được. Tòa án có thể tiến hành một số hoạt động tư pháp
cụ thể để thu thập tài liệu, chứng cứ từ đương sự ở nước ngoài hoặc thông qua Cơ
quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ
quan có thẩm quyền của nước ngoài bằng hình thức ủy thác tư pháp. Như vậy, hoạt
động thu thập chứng cứ của Tòa án cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Việt Nam với đặc thù là một quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, mặt bằng về
thu nhập chung của người dân còn thấp, kéo theo những hiểu biết pháp luật còn rất mơ
hồ. Mặc dù pháp luật đề cao vai trò của đương sự trong việc tự thu thập chứng cứ
chứng minh, tuy nhiên vai trò của Toà án trong việc h trợ đương sự thu thập chứng
cứ trong vụ án dân sự là điều vẫn rất cần thiết tại Việt Nam hiện nay. Sở dĩ có tình
trạng này do đương sự nếu tự mình thu thập chứng cứ thì sẽ gặp nhiều khó khăn do
hiểu biết pháp lý còn hạn chế, họ không tự xác định được chứng cứ nào cần thiết cho
vấn đề cần chứng minh, hơn thế nữa, có nhiều chứng cứ do các cá nhân, cơ quan, tổ
chức nắm giữ, quản lý thì để đương sự tự thu thập e rằng rất khó khăn. Cùng với đó,
hiện nay khả năng tự bảo vệ của đương sự là rất yếu, đặc biệt là đương sự sinh sống tại
các cùng nông thôn, miền núi không có điều kiện để mời luật sư bảo vệ, cũng không
cung cấp được chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Hoạt động thu thập chứng cứ của Toà án trong vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước
ngoài sẽ giúp đương sự trong việc định hướng các nguồn chứng cứ, thu thập những
chứng cứ mà đương sự không có khả năng thu thập. Chính vì thế, đương sự có quyền
yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ khi có căn cứ chứng minh mình không thể tự thu
thập được các chứng cứ. Khi đó, căn cứ theo yêu cầu của đương sự, Toà án sẽ tiến
hành các hoạt động như đối chất, trưng cầu giám định… để tiến hành thu thập chứng
cứ giúp đương sự. Qua đó, Toà án đ thực hiện được vai trò giúp đương sự thực hiện
các quyền lợi và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình
theo đúng pháp luật tố tụng dân sự hiện hành.
 Đối với xã hội.
Theo Hiến pháp

, Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của


16

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân 13. Đối với các quan hệ dân
sự nói chung và các quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình nói riêng, Tòa án nắm vai
trò điều chỉnh và tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, công bằng để các quan hệ phát
triển. Do đó, việc Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ là một trong các biện pháp đảm
bảo trật tự, công bằng của xã hội, thực hiện chức năng x hội của Nhà nước, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi tham gia các quan hệ pháp luật.
Hoạt động thu thập chứng cứ của Toà án giúp Toà án thực hiện vai trò là cơ quan
bảo vệ công lý, giúp đảm bảo sự công bằng cho toàn xã hội. Tại Việt Nam, Toà án là
cơ quan có trách nhiệm thực thi công lý, bảo vệ pháp chế và chế độ xã hội chủ nghĩa,
quyền làm chủ của công dân, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của
công dân. Ở nước ta, các đương sự của vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài
có thể tự thu thập chứng cứ chứng minh là rất hạn chế. Hơn nữa, các bên đương sự khi
tự thu thập chứng cứ thường sẽ chỉ chủ động cung cấp những chứng cứ có lợi cho
mình dẫn tới việc Toà án có khả năng đánh giá sai về chứng cứ, từ đó giải quyết vụ án
hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài thiếu chính xác, công bằng, công tâm. Vì lẽ
đó, hoạt động tự thu thập chứng cứ của Toà án trong vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố
nước ngoài giữ vai trò bảo vệ lẽ phải, đảm bảo tính công bằng cho toàn xã hội.
Mặt khác, hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án mang ý nghĩa quan trọng
trong việc bảo vệ giữ gìn và nâng cao quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các quốc
gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia trong khu vực ASEAN và khu vực châu Á.
Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án có ảnh hưởng chung đến mối quan hệ hợp tác
quốc tế nói chung giữa các quốc gia với nhau. Giải quyết vụ án hôn nhân gia đình có
yếu tố nước ngoài phải được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng các Điều ước quốc tế

mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, tôn trọng các tập quán quốc tế. Khi giải quyết vụ
án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài, Tòa án phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân nước ngoài, góp phần bảo đảm quan hệ ngoại giao gữa Việt Nam
với các đối tác nước ngoài. Có như vậy, công dân Việt Nam sinh sống và làm việc tại
nước ngoài mới nhận được sự đối xử đúng theo nguyên tắc có đi có lại của quốc gia
nước ngoài mà họ đang sinh sống, làm việc.

1.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong
giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài
1.2.1. Yếu tố khách quan
13

Hiến pháp nước Cộng hòa x hội chủ nghĩa Việt Nam do Quốc hội nước Cộng hòa x hội
chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 8 tháng năm
, Điều
.


17

Những yếu tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa
án bao gồm: vị trí địa lý, dân cư; điều kiện kinh tế và chính trị x hội.
 Vị trí địa lý và dân cư
Vị trí địa lý và dân cư là những yếu tố khách quan có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt
động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngoài. Chẳng hạn, đối với những khu vực thành thị, nơi mà trình độ dân trí và
hiểu biết pháp luật đồng đều hơn so với khu vực nông thôn, khi đương sự có thể thuận
tiện, dễ dàng và có ý thức hơn trong việc cung cấp chứng cứ chứng minh cho Tòa án
thì trách nhiệm thu thập chứng cứ của Tòa án sẽ bớt nặng nề hơn. Ngược lại, tại các
vùng nông thôn, khi mà các đương sự còn chưa hiểu hết về các thủ tục tố tụng, không

biết việc thu thập chứng cứ để chứng minh, bảo vệ quyền lợi cho mình phải thực hiện
theo cách nào, tại đâu thì khi đó trách nhiệm thu thập chứng cứ của Tòa án để làm
sáng tỏ được sự thật khách quan của vụ án là điều hết sức quan trọng. Đặc trưng địa lý
l nh thổ Việt Nam gồm hai bộ phận đất liền và biển, phần đất liền trải rộng hình chữ S
tiếp giáp với các vùng biển. Việt Nam có vùng biển rộng thuận lợi phát triển các ngành
kinh tế biển, nằm trên ng tư đường hàng hải và hàng không quốc tế quan trọng, tạo
điều kiện thuận lợi cho nước ta giao lưu với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nước ta còn là cửa ngõ mở lối ra biển thuận lợi cho các nước Lào, Đông bắc Thái Lan,
Campuchia và khu vực Tây Nam Trung Quốc. Vị trí địa lí thuận lợi như vậy có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển các ngành kinh tế với các vùng l nh thổ, tạo
điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với các nước trên thế giới. Chính
những đặc điểm về vị trí địa lí như nêu trên đ tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta có
thể tạo dựng mối quan hệ hợp tác hữu nghị và cùng phát triển với nhiều nước, đặc biệt
là với các nước láng giềng và các nước trong khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, vị trí
địa lý của Việt Nam cũng đi kèm những khó khăn riêng của nó, điển hình là việc có
đường biên giới dài, vùng biển rộng lớn, tiếp giáp với nhiều quốc gia khác nhau trong
khu vực kéo theo tại các vùng biên giới và tiếp giáp các quốc gia nước ngoài thì mật
độ dân cư cư trú luôn đông đúc, kèm theo sự giao thoa về văn hóa, kinh tế, x hội, các
mối quan hệ có yếu tố nước ngoài sẽ được hình thành rộng r i. Các mối quan hệ có
yếu tố nước ngoài được phát triển mạnh hơn, nhanh chóng hơn đặc biệt là các quan hệ
hôn nhân gia đình. Mặc dù việc giao lưu văn hóa được sâu rộng, tuy nhiên sự bất đồng
về văn hóa dẫn tới số lượng những vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài tăng
lên. Yêu cầu đặt ra là việc giải quyết vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài rất
cần đến vai trò của Tòa án, mà trong đó hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giải quyết vụ án.


18

Theo thống kê tại Việt Nam hiện nay, số lượng phụ nữ kết hôn với người nước

ngoài chiếm t lệ cao hơn so với nam giới nhiều nhất là kết hôn với công dân Đài
Loan, Trung Quốc. Trung bình m i năm có khoảng 8.
người Việt Nam kết hôn
với người nước ngoài. Trong đó, tại các tỉnh giáp với biên giới nước ngoài như Quảng
Ninh, thống kê cho thấy những phụ nữ kết hôn với người nước ngoài chủ yếu là phụ
nữ ở những gia đình nghèo, thiếu việc làm, trình độ học vấn thấp… và đa số đều
không đăng ký với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc Trung Quốc.14
Từ những thống kê về vị trí địa lý và dân cư như nêu trên cho thấy, tại các địa
phương có tập trung nhiều người nước ngoài thì số lượng các đôi vợ chồng kết hôn có
yếu tố nước ngoài có xu hướng tăng cao hơn so với các địa phương khác và số lượng
các vụ tranh chấp cũng t lệ thuận với số người kết hôn. Cùng với sự phân bố dân cư
không đồng đều giữa các địa phương và nhận thức pháp lý khác nhau của m i người
dân, hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án cũng gặp phải những ảnh hưởng và tác
động nhất định như tác giả đ phân tích ở trên.
 Điều kiện kinh tế và chính trị xã hội
Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố
nước ngoài còn bị ảnh hưởng bởi các điều kiện kinh tế và chính trị x hội. Tại địa
phương có nền kinh tế phát triển, điều kiện chính trị x hội ổn định thì hoạt động thu
thập chứng cứ của Tòa án sẽ dễ dàng hơn tại những địa phương có nền kinh tế kém
phát triển, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng không ổn định, gặp tình trạng
chồng chéo, không phân định rõ ràng trách nhiệm. Theo nghiên cứu của tác giả, Việt
Nam đang trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng, nền kinh tế đang ngày một phát
triển để bắt kịp với thời kỳ cách mạng công nghiệp . . Với những điều kiện kinh tế
phát triển như vậy, bộ máy chính trị của nước ta được vận hành ổn định, vì vậy hoạt
động thu thập chứng cứ của Tòa án có thể kỳ vọng đạt được những thuận lợi khi xử lý
các vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, tại Việt Nam gặp phải
một thực trạng là nền kinh tế không được phân hóa đồng đều cho toàn bộ dân cư, kéo
theo sự hiểu biết pháp luật của người dân còn rất hạn chế, sự chênh lệch tại các vùng
miền là rất lớn, đặc biệt là tại các địa phương có tình hình kinh tế khó khăn, trình độ
dân trí thấp. Đối với các vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài, khi mà rào cản

về mặt ngôn ngữ, tri thức có thể dễ dàng được nhận thấy thì khả năng thu thập chứng
cứ của đương sự sẽ càng bị hạn chế. Thực tiễn thực hiện cho thấy đa số các cặp vợ
chồng kết hôn có yếu tố nước ngoài đều không đăng ký với cơ quan có thẩm quyền
14

/>

×