Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Kiểm soát điều kiện giao dịch chung trong hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân của các ngân hàng thương mại theo pháp luật việt nam và thực tiễn thi hành tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.29 MB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM TÚ ANH

KIỂM SOÁT ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI KHÁCH
HÀNG CÁ NHÂN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN
THI HÀNH TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hướng ứng dụng

HÀ NỘI – 2018
A


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM TÚ ANH

KIỂM SOÁT ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI KHÁCH
HÀNG CÁ NHÂN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN
THI HÀNH TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM
Chuyên ngành :

Luật Kinh tế

Mã số

8380107

:

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hướng ứng dụng

Người hướng dẫn khoa học: TS.Nguyễn Văn Tuyến

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

PHẠM TÚ ANH



LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn bên
cạnh ủng hộ, khuyến khích trong suốt quá trình thực hiện Luận văn.
Em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy, cô giáo và các
cán bộ đang giảng dạy, công tác tại Đại học Luật Hà Nội đã giúp đỡ và tạo
điều kiện thuận lợi cho em cũng như các học viên khác trong suốt quá trình
học tập, nghiên cứu tại trường.
Em xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến Giảng viên hướng dẫn TS. Nguyễn
Văn Tuyến đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo giúp đỡ em trong quá trình bổ
sung kiến thức và hoàn thành Luận văn này.
Trong quá trình thực hiện Luận văn, chắc chắn không tránh khỏi những
thiếu sót và hạn chế. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các
thầy cô giáo và các bạn quan tâm.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 31 tháng 8 năm 2018
Tác giả

Phạm Tú Anh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Ý nghĩa

Viết tắt
BLDS

Bộ luật dân sự

BVQLNTD


Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

ĐKGDC

Điều kiện giao dịch chung

HĐTM

Hợp đồng theo mẫu

NTD

Người tiêu dùng

QLCT

Quản lý cạnh tranh

VCCI

Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

Trang 1

Chương 1 KHÁI NIỆM VÀ KHUNG PHÁP LÝ VỀ KIỂM

SOÁT ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG TRONG HOẠT
ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái niệm về kiểm soát điều kiện giao dịch chung trong
hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân của ngân hàng
thương mại
1.1.1. Khái niệm về điều kiện giao dịch chung trong hoạt
động cho vay đối với khách hàng cá nhân của ngân hàng
thương mại
1.1.2. Khái niệm kiểm soát điều kiện giao dịch chung trong
hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân của ngân
hàng thương mại

Trang 7

Trang 7

Trang 7

Trang 16

1.2. Khung pháp lý cho việc kiểm soát điều kiện giao dịch
chung trong hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân
của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
1.2.1. Sự cần thiết phải xây dựng khung pháp lý cho việc
kiểm soát điều kiện giao dịch chung trong hoạt động cho
vay đối với khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại
1.2.2. Nội dung cơ bản của khung pháp lý về kiểm soát
điều kiện giao dịch chung trong hoạt động cho vay đối với
khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại


Trang 19

Kết luận chương 1

Trang 29

Trang 19

Trang 23


Chương 2 THỰC TIỄN THỰC HIỆN KIỂM SOÁT ĐIỀU
KIỆN GIAO DỊCH CHUNG TRONG HOẠT ĐỘNG CHO
VAY ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN TẠI NGÂN
HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
VIỆT NAM (AGRIBANK) VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
2.1. Thực tiễn thực hiện kiểm soát điều kiện giao dịch chung
trong hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân tại Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
(Agribank)
2.1.1. Thực trạng pháp luật về kiểm soát điều kiện giao dịch
chung trong hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân
của ngân hàng thương mại
2.1.2. Những kết quả đạt được trong thực tiễn kiểm soát
điều kiện giao dịch chung trong hoạt động cho vay đối với
khách hàng cá nhân của Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn Việt Nam
2.1.3. Những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn kiểm
soát điều kiện giao dịch chung trong hoạt động cho vay đối

với khách hàng cá nhân của Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn Việt Nam

Trang 30

2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát điều
kiện giao dịch chung trong hoạt động cho vay đối với khách
hàng cá nhân của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
2.2.1. Hoàn thiện khung pháp lý cho việc kiểm soát điều
kiện giao dịch chung trong hoạt động cho vay khách hàng
cá nhân của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
2.2.2. Thành lập “Trung tâm bảo vệ người tiêu dùng sử
dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính”
2.2.3. Nhà nước cần tạo cơ chế tăng cường xã hội hóa bảo
vệ người tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ tài chính
2.2.4. Xây dựng và hoàn thiện quy trình giải quyết khiếu nại

Trang 52

Trang 30

Trang 30

Trang 40

Trang 50

Trang 52

Trang 59

Trang 67
Trang 67


của khách hàng cá nhân trong nội bộ ngân hàng thương mại
2.2.5. Xây dựng cơ chế kiểm soát thống nhất, chặt chẽ đối
với việc xây dựng, ban hành và áp dụng các điều khoản
giao dịch chung trên toàn hệ thống của chính ngân hàng
thương mại
2.2.6. Tăng cường biện pháp tuyên truyền nhằm nâng cao
nhận thức pháp luật cho người tiêu dùng các sản phẩm dịch
vụ tài chính
Kết luận chương 2
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang 70

Trang 71

Trang 75
Trang 76


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong suốt 30 năm đổi mới và hội nhập của đất nước, Việt Nam đã từ
một trong những nước nghèo và khó khăn nhất thế giới trở thành quốc gia có

thu nhập trung bình, tăng trưởng GDP thuộc nhóm tăng trưởng nhanh nhất thế
giới từ năm 1990 đến nay, nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới và khu vực. Góp phần không nhỏ trong thành công chung của
đất nước, Ngành ngân hàng đã thực hiện mục tiêu tăng trưởng, ổn định kinh tế
vĩ mô, kiểm soát lạm phát thông qua điều hành chính sách tiền tệ: trong từng
thời kỳ, trước những diễn biến phức tạp của nền kinh tế, căn cứ định hướng
mục tiêu điều hành của Chính Phủ. Đặc biệt trong nền kinh tế hiện nay Ngân
hàng là một bộ phận không thể thiếu được và nó luôn giữ vị trí quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân với hoạt động chủ yếu là tiền tệ, tín dụng và thanh
toán trong đó thanh toán giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Ngân hàng được coi
là huyết mạch của nền kinh tế, hoạt động của nó bao trùm lên tất cả các hoạt
động kinh tế xã hội, đây là hoạt động trung gian gắn liên với sự vận động của
toàn bộ nền kinh tế.
Tín dụng được xem như là xương sống của ngân hàng, nó quyết định sự
tồn tại phát triển của mọi ngân hàng thương mại (NHTM). Một NHTM chỉ có
thể tồn tại và phát triển khi xác định được phạm vi, giới hạn và mức độ tín
dụng phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng. Đảm bảo tính cạnh tranh
trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng thời hạn và có lãi. Mặt khác tín
dụng ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến vị thế của ngân hàng. Nó là một
trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định vị thế của ngân hàng.
Vì những lý do trên, cùng với nhận định là một ngân hàng thương mại
lớn nhất cả nước, với mạng lưới Chi nhánh, Phòng giao dịch và số lượng
khách hàng lớn, có thực tiễn hoạt động cho vay với khách hàng cá nhân
phong phú, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam luôn


2

định hướng trong thúc đẩy hoạt động cho vay cá nhân, phát triển nông
nghiệp, nông thôn. Tôi nhận thấy, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển

Nông thôn Việt Nam nói riêng và các NHTM nói chung luôn cần cẩn trọng
đối với việc giao kết hợp đồng trong hoạt động cho vay đối với khách hàng
cá nhân để đảm bảo sự an toàn không chỉ bởi số lượng khách hàng cá nhân
rất lớn mà còn bởi hoạt động cho vay vốn dĩ là hoạt động tiềm ẩn rất nhiều
rủi ro. Với xu thế phát triển bùng nổ của các Điều kiện giao dịch chung, Hợp
đồng theo mẫu hiện nay, tôi lựa chọn đề tài “Kiểm soát điều kiện giao dịch
chung trong hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân của các Ngân
hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam và thực tiễn thi hành tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn” để làm đề tài luận văn cao học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân tại các
NHTM, dưới góc độ nghiên cứu pháp luật, hiện đã có một số nghiên cứu
được công bố, tiêu biểu như:
- Luận văn Thạc sĩ luật học “Hợp đồng vay tiền của Hộ gia đình tại
Ngân hàng thương mại” của tác giả Đào Hoàng Thắng, người hướng dẫn
khoa học: PGS.TS Đinh Văn Thanh năm 2006 của Trường Đại học Luật Hà
Nội.
- Luận án Tiến sĩ luật học “Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng
với thương nhân ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Trọng Điệp, người
hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thanh Mai, PGS.TS Bùi Nguyên Khánh của
Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.
- Luận văn Thạc sĩ luật học “Kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện
giao dịch chung trong giao dịch giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh với người
tiêu dùng” của tác giả Trần Diệu Loan, người hướng dẫn khoa học:
TS.Nguyễn Văn Cương năm 2016 của Trường Đại học Luật Hà Nội.


3


Thực tiễn, những vấn đề liên quan đến pháp luật về kiểm soát điều kiện
giao dịch chung về cho vay cá nhân của NHTM hiện nay chưa có công trình
nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu cũng như khai thác thực tiễn thi hành pháp
luật về kiểm soát điều kiện giao dịch chung về cho vay cá nhân tại một
NHTM cụ thể. Thực tế đó cho thấy, việc nghiên cứu đề tài “Kiểm soát điều
kiện giao dịch chung trong hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân
của các Ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam và thực tiễn thi
hành tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn” là khả thi, cần
thiết, hữu ích và có tính ứng dụng cao trên thực tế.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Với đề tài: “Kiểm soát điều kiện giao dịch chung trong hoạt động cho
vay đối với khách hàng cá nhân của các Ngân hàng thương mại theo pháp
luật Việt Nam và thực tiễn thi hành tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn”, tác giả đi sâu vào phân tích thực trạng pháp luật về kiểm soát
điều kiện giao dịch chung đối với hoạt động vay vốn của khách hàng cá nhân
hiện nay ở Việt Nam cũng như những bất cập còn tồn tại, những thiếu sót
và thực tiễn thi hành tại Việt Nam. Từ đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật tại
Agribank.
Nhằm đạt được mục tiêu tổng quát trên, luận văn đặt ra các mục tiêu,
nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận về Kiểm soát điều kiện giao
dịch chung trong hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân của NHTM.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về kiểm soát điều kiện giao
dịch chung trong hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân của NHTM ở
Việt Nam và thực tiễn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Việt Nam.


4


- Qua đó đưa ra một số ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát điều
kiện giao dịch chung trong hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân của
NHTM ở Việt Nam
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành có
liên quan đến hoạt động kiểm soát điều kiện giao dịch chung tại NHTM,
trong đó tập trung vào quy định tại các văn bản: Bộ luật dân sự năm 2015;
Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật
các tổ chức tín dụng năm 2017; Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm
2010; Nghị định 99/2011/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 27/10/2011 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng; Quyết định 35/2015/QĐ-TTg ngày 20/8/2015 của Thủ tướng
Chính Phủ về sửa đổi, bổ sung Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg ngày 13
tháng 01 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Danh mục
hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao
dịch chung; Thông tư 39/2016/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước quy
định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài đối với khách hàng.
Kết hợp với việc tìm hiểu, đánh giá thực tiễn thi hành các quy định đó
tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, luận văn sẽ
phân tích những mặt tích cực, hạn chế của những quy phạm pháp luật có liên
quan. Từ đó, luận văn đưa ra những đánh giá về thực trạng các quy định của
pháp luật Việt Nam và đưa ra những kiến nghị, phương hướng góp phần
hoàn thiện pháp luật về kiểm soát điều kiện giao dịch chung đối với hoạt
động cho vay đối với khách hàng cá nhân của các NHTM.
b) Phạm vi nghiên cứu



5

- Xét một cách toàn diện, pháp luật về vay vốn cá nhân bao gồm rất
nhiều nội dung như: chủ thể tham gia quan hệ nhận vay vốn; quyền và nghĩa
vụ của các bên trong quan hệ vay vốn; thủ tục liên quan đến vay vốn của cá
nhân; quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân vay vốn; giải quyết tranh
chấp phát sinh;…. Tuy nhiên, Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích
các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về kiểm soát các điều kiện
giao dịch chung trong hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân tại
NHTM và thực tiễn tại Agribank, đánh giá thực trạng những quy định này
dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn và đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu và thực hiện dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các chủ trương đường lối chính sách
của Đảng, pháp luật và nhà nước.
Phương pháp nghiên cứu và tiếp cận của Luận văn dựa trên nguyên tắc
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đi từ cái chung đến cái riêng, cái cụ
thể; khảo sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để
thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
So với các công trình nghiên cứu trước đây, luận văn có tính mới, thể
hiện ở những điểm sau đây:
- Làm rõ hệ thống những văn bản quy phạm pháp luật, những quy
định mới nhất điều chỉnh về Kiểm soát điều kiện giao dịch chung trong
hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân tại các NHTM.
- Đi sâu tìm hiểu từ thực tế, phân tích thực tiễn thực thi những quy
định pháp luật về Kiểm soát điều kiện giao dịch chung trong hoạt động
cho vay đối với khách hàng cá nhân tại các NHTM.
- Trên cơ sở phân tích những tồn tại, bất cập, luận văn nêu ra một số



6

kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của việc
Kiểm soát điều kiện giao dịch chung trong hoạt động cho vay đối với
khách hàng cá nhân tại các NHTM.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của Luận văn được chia làm hai chương, cụ thể:
Chương 1: Kiểm soát điều kiện giao dịch chung trong hoạt động cho vay
đối với khách hàng cá nhân của NHTM theo pháp luật Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện kiểm soát điều kiện giao dịch chung
trong hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân tại Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam và một số kiến nghị.


7

Chương 1
KHÁI NIỆM VÀ KHUNG PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT ĐIỀU KIỆN
GIAO DỊCH CHUNG TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI
KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm về kiểm soát điều kiện giao dịch chung trong hoạt
động cho vay đối với khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm điều kiện giao dịch chung trong hoạt động cho vay
đối với khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại
Để hiểu đúng về bản chất của điều kiện giao dịch chung trong hoạt
động cho vay đối với khách hàng cá nhân của NHTM, thiết nghĩ cần bắt đầu
từ việc làm rõ khái niệm “người tiêu dùng” và khái niệm “khách hàng cá

nhân” trong hoạt động ngân hàng, cũng như làm rõ sự tương quan giữa khái
niệm “khách hàng cá nhân” với khái niệm “người tiêu dùng” trong pháp luật
về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
* Về khái niệm “người tiêu dùng”
Trong văn bản hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người tiêu
dùng ban hành năm 1985, sửa đổi năm 1999 dù không đưa ra một khái niệm
rõ ràng về “người tiêu dùng” nhưng trên cơ sở diễn giải của CI (Consumers
International), khái niệm người tiêu dùng được cá thể hóa bởi 8 quyền năng
cơ bản bao gồm:
(i) Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản;
(ii) Quyền được an toàn;
(iii) Quyền được thông tin;
(iv) Quyền được lựa chọn;
(v) Quyền được lắng nghe;
(vi) Quyền được khiếu nại và bồi thường;
(vii) Quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng; và
(viii) Quyền được có môi trường sống lành mạnh bền vững.


8

Trong pháp luật nội địa của các quốc gia cũng có sự khác nhau khi quy
định về khái niệm “người tiêu dùng”. Ở mức độ khái quát, có thể thấy rằng
các quy định về vấn đề này thể hiện một số trường phái sau đây:
Thứ nhất, quy định về khái niệm “người tiêu dùng” theo đối tượng:
Điều 1(e) Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Bang Quebec, Điều 1 Luật Bảo
vệ người tiêu dùng và các hành vi kinh doanh của Bang British Columbia
quy định rõ “người tiêu dùng là tự nhiên nhân (thể nhân)” không có quan hệ
mua hàng theo hợp đồng với nhà sản xuất, kinh doanh mà chỉ là người sử
dụng và thụ hưởng hàng hóa dịch vụ. Khác với luật pháp các quốc gia, nội

hàm khái niệm người tiêu dùng lại được làm rõ trong một phán quyết của
Tòa án Công lý Châu Âu năm 1991, trong đó cùng với việc bác bỏ đề nghị
ghi nhận doanh nghiệp mua sản phẩm, dịch vụ vì mục đích phi lợi nhuận là
một dạng “người tiêu dùng”, khẳng định rõ “người tiêu dùng là bất cứ tự
nhiên nhân (thể nhân) nào…” tại Chỉ thị số 1999/44/EC về mua bán hàng
hóa tiêu dùng và các bảo đảm có liên quan.
Thứ hai, quy định về khái niệm “người tiêu dùng” theo mục đích: Luật
bảo vệ người tiêu dùng Đài Loan ban hành ngày 11/01/1994 (bổ sung, sửa đổi
năm 2005) ghi nhận: Người tiêu dùng là “người tham gia vào các giao dịch, sử
dụng hàng hóa hoặc dịch vụ vì mục đích tiêu dùng”, không phân biệt thể nhân
hay pháp nhân. Tương tự, Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Ấn Độ năm 1986
cũng có quy định tại Điều 2 (1d): Người tiêu dùng là bất cứ người nào mua…
hàng hóa… mà không có mục đích để bán lại hoặc vì mục đích thương mại
khác và Điều 2(1m) giải thích chữ “người” (nhân) ở đây được hiểu bao gồm:
hãng (doanh nghiệp), cá nhân, hộ gia đình, hợp tác xã, tổ chức xã hội. Một cách
cụ thể hơn, Luật bảo vệ người tiêu dùng Malaysia năm 1999 ghi nhận các đối
tượng là người tiêu dùng khi tiếp nhận hàng hóa dịch vụ vì mục đích sử dụng
cá nhân, hộ gia đình, không vì mục đích thương mại, sản xuất. Pháp luật Việt
Nam cũng lựa chọn phương thức này để điều chỉnh khái niệm người tiêu dùng.


9

Cụ thể, Luật BVQLNTD năm 2010 quy định: Người tiêu dùng là người mua,
sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia
đình, tổ chức.1
Như vậy về cơ bản, khái niệm “người tiêu dùng” trong quan hệ pháp luật
tiêu dùng tuy khác nhau về chủ thể là pháp nhân hay thể nhân, nhưng đều
thống nhất về quan điểm là đối tượng thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ cuối cùng vì
nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt riêng, không vì mục tiêu thương mại. Người tiêu

dùng không nhất thiết phải là người mua hàng trực tiếp để sử dụng vào mục
đích sinh hoạt cá nhân mà có thể là người thụ hưởng gián tiếp hàng hóa, dịch
vụ do người khác mua. Ví dụ, người sử dụng hàng hóa, dịch vụ do người trong
gia đình mua sắm cũng được coi là người tiêu dùng. Quan điểm này tách người
tiêu dùng ra khỏi chuỗi phân phối hàng hóa, dịch vụ, chỉ đóng vai trò là điểm
cuối cùng và mục tiêu của chuỗi phân phối, đồng thời tạo cơ sở phân biệt quan
hệ pháp luật tiêu dùng với các quan hệ pháp luật thương mại khác.
* Về khái niệm “khách hàng cá nhân” trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại
Cho vay là hoạt động kinh doanh ngân hàng truyền thống và lâu đời
nhất của NHTM và thường chiếm tỷ trọng cao nhất trong tỷ trọng tổng tài
sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro nhất.
Đây là một hình thức cấp tín dụng mà theo đó NHTM giao cho khách hàng sử
dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo
thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Theo định nghĩa của nhà làm luật tại Thông tư số 39/2016/TT-NHNN
ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt động cho vay
của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng:
“Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao hoặc cam
kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định
1

Khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.


10

trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả
gốc và lãi”.
“Cho vay phục vụ nhu cầu đời sống là việc tổ chức tín dụng cho vay

đối với khách hàng là cá nhân để thanh toán các chi phí cho mục đích tiêu
dùng, sinh hoạt của cá nhân đó, gia đình của cá nhân đó”.2
Trên thực tế, khách hàng vay vốn của NHTM có thể bao gồm các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, khách hàng cá nhân và hộ gia đình, trong
đó khách hàng cá nhân và hộ gia đình ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong
hoạt động cho vay của NHTM. Các cá nhân và hộ gia đình vay tiền từ NHTM
để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng hoặc đầu tư cho mục đích kinh doanh sản
xuất của mình. Để phù hợp với Bộ luật dân sự 2015, theo quy định tại Thông
tư số 39/2016/TT-NHNN, khách hàng vay vốn tại tổ chức tín dụng chỉ bao
gồm hai hoại chủ thể là pháp nhân và cá nhân, cụ thể:
(i) Pháp nhân được thành lập và hoạt động tại Việt Nam, pháp nhân
được thành lập ở nước ngoài và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam;
(ii) Cá nhân có quốc tịch Việt Nam, cá nhân có quốc tịch nước ngoài.
Xét về phương diện mục đích vay vốn, các khách hàng cá nhân vay vốn
NHTM có thể được phân loại như sau:
- Khách hàng vay vốn của NHTM để thỏa mãn nhu cầu đời sống hàng
ngày. Trong trường hợp này, tổ chức tín dụng cho vay đối với khách hàng là
cá nhân để thanh toán các chi phí cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá
nhân đó, gia đình của cá nhân đó. Ví dụ: cá nhân vay vốn cho con đi du học,
vay tiền để chữa bệnh, vay mua sắm hàng hóa, dịch vụ để tiêu dùng, vay thẻ
tín dụng, vay thấu chi thẻ ghi nợ… cũng được xếp vào nhóm này.
- Khách hàng vay vốn phục vụ khu cầu sản xuất, kinh doanh. Trong
trường hợp này, tổ chức tín dụng cho vay đối với khách hàng cá nhân nhằm

Khoản 1, 4 Điều 2 Thông tư 39/2016/-TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước quy đinh về
hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.
2


11


đáp ứng nhu cầu vốn của cá nhân đó và nhu cầu vốn của hộ kinh doanh,
doanh nghiệp tư nhân mà cá nhân đó là chủ hộ kinh doanh, chủ doanh nghiệp
tư nhân. Ví dụ như khách hàng là các hộ nông dân vay vốn sản xuất nông
nghiệp, ngư dân vay vốn đóng tàu, chủ hộ kinh doanh vay vốn mở cửa hàng
kinh doanh… cũng được xếp vào nhóm này.
Như vậy, có thể định nghĩa “khách hàng cá nhân” trong hoạt động cho
vay của các NHTM3 là cá nhân giao kết hợp đồng tín dụng với ngân hàng
thương mại nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng hoặc hoạt động sản xuất, kinh
doanh.
* Về mối tương quan giữa khái niệm “khách hàng cá nhân” với
khái niệm “người tiêu dùng” trong pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng
Trong tương quan với khái niệm người tiêu dùng, chỉ khách hàng cá
nhân vay vốn phục vụ mục đích tiêu dùng mới thuộc nội hàm của khái niệm
“người tiêu dùng” theo Luật BVQLNTD 2010, trong khi đó, các khách hàng
cá nhân vay vốn phục vụ mục đích sản xuất, kinh doanh không thuộc phạm vi
của khái niệm “người tiêu dùng” và do đó quyền lợi của họ trong giao dịch
vay vốn với ngân hàng cũng không được pháp luật về BVQLNTD điều chỉnh,
bảo vệ.
Từ các định nghĩa trên đây, có thể cho rằng khái niệm “khách hàng cá
nhân” trong quan hệ cho vay của NHTM không hoàn toàn đồng nhất với khái
niệm “người tiêu dùng” trong pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Điều này được thể hiện ở một số dấu hiệu đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, khái niệm “khách hàng cá nhân” vay vốn NHTM có nội hàm
rộng hơn so với khái niệm “người tiêu dùng” trong pháp luật về bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng, bởi lẽ: như đã đề cập ở trên, khách hàng cá nhân vay vốn
ngân hàng có thể để thỏa mãn nhu cầu kinh doanh hoặc tiêu dùng, trong khi
3


Khoản 3 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.


12

về bản chất thì khái niệm “người tiêu dùng” chỉ liên quan đến việc thỏa mãn
nhu cầu tiêu dùng. Đặc điểm này cho thấy chỉ các đối tượng vay vốn để thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng là các cá nhân thì mới được coi là “người tiêu dùng”
trong quan hệ vay vốn ngân hàng.
Không giống như đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp và tổ chức
kinh tế khác, khách hàng cá nhân thường có số lượng rất lớn, nhu cầu vay vốn
rất đa dạng song không thường xuyên và chịu sự ảnh hưởng nhiều của môi
trường kinh tế, văn hóa – xã hội. Chính vì vậy, ở mỗi khu vực khác nhau, nhu
cầu vay vốn của khách hàng cá nhân cũng rất khác nhau. Xét về khía cạnh thị
trường, có thể nhận thấy đây là mảng thị trường đầy tiềm năng đối với các
NHTM do khối lượng khách hàng vay vốn là cá nhân thường rất đông và nhu
cầu vay vốn của khách hàng cũng có xu hướng ngày càng tăng lên, rất đa
dạng nhờ xu hướng hiện đại hóa đời sống tiêu dùng và mức thu nhập của
người dân ngày càng tăng. Bên cạnh đó, đối tượng khách hàng cá nhân
thường mang lại cơ hội đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ phi ngân hàng
và đặc biệt dịch vụ khách hàng cá nhân lại mang tính xã hội hóa cao hơn so
với các dịch vụ khách hàng doanh nghiệp do tính đông đảo của đối tượng
khách hàng.
Thứ hai, khách hàng cá nhân thường có quy mô vay vốn không lớn, do
nhu cầu vay vốn chủ yếu của đối tượng khách hàng này là để thỏa mãn nhu
cầu tiêu dùng của cá nhân hoặc hộ gia đình. Mặt khác, nhu cầu vay vốn của
đối tượng khách hàng cá nhân thường không có tính lặp lại, ví dụ như, họ chỉ
mua nhà một lần nên chỉ vay một lần để mua nhà chứ không thể thường
xuyên vay tiền của ngân hàng giống như nhu cầu vay vốn lưu động của doanh
nghiệp. Vì vậy, muốn có hiệu quả thì ngoài việc tăng số lượng khách hàng,

NHTM cần xây dựng một hệ thống dịch vụ có tính tích hợp cao, kết hợp việc
cung ứng nhiều sản phẩm cho một khách hàng.
Thứ ba, việc cung ứng dịch vụ tín dụng cho khách hàng cá nhân thường


13

phải sử dụng khoa học công nghệ hiện đại. Sở dĩ như vậy là bởi vì, các khách
hàng của loại dịch vụ này thường không phân bố tập trung trên khu vực địa lý
rộng, họ vừa muốn sử dụng các dịch vụ ngân hàng nhưng cũng muốn tiết
kiệm thời gian, chi phí đi lại, họ muốn sử dụng các dịch vụ một cách dễ dàng
và nhanh chóng nhưng yêu cầu chính xác và an toàn. Chính vì vậy, dịch vụ
khách hàng cá nhân đòi hỏi phải dựa trên nền tảng công nghệ thông tin hiện
đại mới có thể đáp ứng được.
* Về khái niệm điều kiện giao dịch chung đối với khách hàng cá
nhân trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Khái niệm ĐKGDC lần đầu tiên được định nghĩa trong Luật
BVQLNTD 2010 và đến năm 2015 tiếp tục được các nhà làm luật đề cập đến
trong BLDS 2015. Thật vậy, lần đầu tiên trong Luật BVQLNTD năm 2010,
nhà làm luật đã đề cập đến khái niệm “ĐKGDC” theo đó: “Điều kiện giao
dịch chung là những quy định, quy tắc bán hàng, cung ứng dịch vụ do tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ công bố và áp dụng đối với
người tiêu dùng”4.
Tiếp tục kế thừa và phát triển khái niệm về điều kiện giao dịch chung
trong đạo luật nêu trên về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, trong BLDS năm
2015 nhà làm luật đã đưa ra định nghĩa về điều kiện giao dịch chung như sau:
“Điều kiện giao dịch chung là những điều khoản ổn định do một bên
công bố để áp dụng chung cho bên được đề nghị giao kết hợp đồng, nếu bên
được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng thi coi như chấp nhận các điều
khoản này”.5

Từ định nghĩa nêu trên về điều kiện giao dịch chung, có thể đưa ra định
nghĩa về điều kiện giao dịch chung trong hoạt động cho vay đối với khách
hàng cá nhân của NHTM như sau:

4
5

Khoản 5 Điều 4 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.
Điều 406 Bộ luật Dân sự năm 2015.


14

“Điều kiện giao dịch chung trong hoạt động cho vay đối với khách
hàng cá nhân của ngân hàng thương mại là những điều khoản ổn định do
ngân hàng thương mại công bố để áp dụng chung cho khách hàng cá nhân –
với tư cách là bên được đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng, nếu bên được đề
nghị chấp nhận giao kết hợp đồng thi coi như chấp nhận các điều khoản
này”.
Có thể khẳng định các định nghĩa nêu trên về điều kiện giao dịch chung
trong Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và Bộ luật dân sự năm
2015 đã cho thấy điều kiện giao dịch chung (trong đó bao gồm các điều kiện
giao dịch chung trong hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân của
NHTM) có một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, điều kiện giao dịch chung có bản chất là những quy định, quy
tắc, điều kiện giao dịch do thương nhân đơn phương ban hành để áp dụng
chung cho tất cả các khách hàng của mình (gọi là bên được đề nghị giao kết
hợp đồng).
Đây có thể coi là đặc điểm nổi bật nhất của ĐKGDC. Những quy tắc,
quy định này thường được ban hành một cách đơn phương bởi thương nhân

mà không có bất kỳ sự thương thảo nào giữa thương nhân với những người
tiêu dùng – người được đề nghị giao kết hợp đồng với tư cách là khách hàng
của thương nhân. Vì vậy, có thể nhận thấy ĐKGDC thường thể hiện ý chí độc
đoán và áp đặt đơn phương của thương nhân vì mục tiêu dành lấy phần lợi
nhuận và an toán pháp lý cho mình, đồng thời mọi bất lợi thường có xu hướng
chuyển cho khách hàng gánh chịu.
Thứ hai, các điều kiện giao dịch chung thường được áp dụng chủ yếu
cho đối tượng giao dịch là người tiêu dùng. Điều này thể hiện ở chỗ, mục đích
của thương nhân khi ban hành các ĐKGDC là để tạo điều kiện thuận lợi cho
họ trong quá trình giao dịch với người tiêu dùng. Do vậy, đối tượng áp dụng
chủ yếu của ĐKGDC là người tiêu dùng. Thương nhân khi ban hành các


15

ĐKGDC không hướng đến các đối tượng khác như các nhà cung cấp nguyên
liệu, phụ kiện, các khách hàng lớn mà chủ yếu là để áp dụng cho đối tượng là
người tiêu dùng nhỏ lẻ. Điều này xuất phát từ thực tiễn kinh doanh của
thương nhân khi số lượng người tiêu dùng của họ là quá lớn, không có điều
kiện để áp dụng phương thức giao dịch truyền thống là hai bên trực tiếp gặp
nhau để đàm phán các điều khoản của hợp đồng dựa trên nguyên tắc tự do, tự
nguyện. Về phương diện này, ĐKGDC sẽ là công cụ quan trọng để cải tiến và
hợp lý hóa phương thức bán hàng hiện đại.
Thứ ba, các điều kiện giao dịch chung áp dụng cho nhiều người tiêu
dùng và sử dụng nhiều lần trong một khoảng thời gian nhất định. Các quy tắc,
quy định mà thương nhân ban hành không phải hướng đến một người tiêu
dùng nào cụ thể hay một trường hợp nào cụ thể mà nó như một luật riêng mà
thương nhân áp dụng cho nhiều người tiêu dùng và sử dụng một cách lâu dài.
Phương thức bán hàng truyền thông dựa trên cơ sở hợp đồng được giao kết
với từng đối tượng theo cách thức khác nhau và các quyền, nghĩa vụ cũng có

thể có sự khác nhau trên cơ sở thương lượng, thỏa thuận giữa thương nhân và
người tiêu dùng. Tuy nhiên, khi sử dụng ĐKGD, dường như không có bất kỳ
sự phân biệt nào giữa các người tiêu dùng với nhau, hay nói cách khác là các
quy tắc, quy định mặc nhiên áp dụng cho tất cả người tiêu dùng khi xác lập
giao dịch với thương nhân. ĐKGDC được thiết lập dưới nhiều hình thức đa
dạng, bao gồm cả hình thức “HĐTM” và “ĐKGDC” như được đề cập trong
BLDS 2015 và Luật BVQLNTD.
Sự khác biệt giữa HĐTM và ĐKGDC thể hiện ở hai góc độ: (i) HĐTM
cần sự tuyên bố ý chí của chủ thể tham gia thông qua việc ký kết hợp đồng
còn ĐKGDC chỉ cần sự chấp thuận ý chí và (ii) HĐTM cần xác định chủ thể
tham gia còn ĐKGDC không cần xác định chủ thể. Theo đó, các ĐKGDC
thông thường không nằm ngay trong bản hợp đồng, mà được quy định trong
các văn bản riêng miễn là được bên cung cấp dịch vụ công bố công khai.


16

Mặc dù có sự khác biệt giữa khái niệm HĐTM và ĐKGDC theo quy
định của pháp luật Việt Nam, nhưng cả hai khái niệm này đều cùng chỉ đến
một hiện tượng khi mà các HĐTM, ĐKGDC do một bên đơn phương soạn
thảo hoặc công bố và được sử dụng trên thực tế với đối tác mà không cần có
sự thỏa thuận, mặc cả về nội dung của HĐTM, ĐKGDC đó. Bên còn lại
không có khả năng đàm phán thay đổi nội dung mà chỉ có khả năng chấp
thuận hoặc từ chối điều khoản (take it or leave it).
1.1.2. Khái niệm kiểm soát điều kiện giao dịch chung trong hoạt động
cho vay đối với khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại
Theo nghĩa chung nhất, kiểm soát được hiểu là xem xét một hành vi
nào đó có làm theo đúng quy tắc, kỷ luật hay pháp luật không hoặc xem xét
để phát hiện, ngăn chặn những gì trái quy định, bao gồm các hoạt động theo
dõi, xem xét, đánh giá hoạt động nhằm phát hiện sự vi phạm và áp dụng các

biện pháp cần thiết nhằm tối thiểu hóa vi phạm bảo đảm thực hiện các mục
tiêu đặt ra.
Bên cạnh sự kiểm soát mang tính chất nội bộ trong doanh nghiệp, Nhà
nước còn áp dụng những biện pháp kiểm soát đối với điều kiện giao dịch
chung thông qua cơ chế hành chính và các cơ chế khác. Việc kiểm soát
ĐKGDC của các tổ chức, cá nhân kinh doanh được quy định trong Luật
BVQLNTD là một trong những cơ chế như vậy. Thông qua sự kiểm soát, Nhà
nước hướng đến mục tiêu ngăn ngừa nguy cơ các chủ thể kinh doanh lạm
dụng quyền áp dụng điều kiện giao dịch chung để gây bất lợi cho khách hàng
trong quá trình xác lập giao dịch và thực hiện giao dịch.
Xét về phương diện lý thuyết, quá trình kiểm soát này được cấu thành
bởi các yếu tố sau:
- Chủ thể kiểm soát: Bao gồm các cơ quan quản lý nhà nước các cấp về
bảo vệ người tiêu dùng (ví dụ: Bộ Công thương; Cục QLCT, Sở Công
thương);


17

- Đối tượng kiểm soát: Bao gồm tổ chức, cá nhân kinh doanh có ban
hành các ĐKGDC trong giao dịch với người tiêu dùng;
- Khách thể kiểm soát: Đảm bảo rằng việc thiết lập và thực hiện các
ĐKGDC trong giao dịch giữa chủ thể kinh doanh với người tiêu dùng không
gây ra các bất lợi cho người tiêu dùng;
- Mục tiêu: bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng khi tham
gia giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh: giảm thiểu tranh chấp phát sinh
từ việc giao kết/tham gia ĐKGDC, bảo đảm trật tự chung của toàn xã hội và
môi trường kinh doanh lành mạnh, bền vững;
- Cơ chế kiểm soát: (i) tiền kiểm (pháp luật yêu cầu đăng ký ĐKGDC
đối với một số hàng hóa, dịch vụ theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ

trước khi áp dụng với người tiêu dùng); (ii) hậu kiểm đối với những ĐKGDC
không thuộc phạm vi phải đăng ký, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền yêu cầu
tổ chức, cá nhân kinh doanh loại bỏ điều khoản vi phạm trong các ĐKGDC
trong quá trình áp dụng với người tiêu dùng; (iii) kết hợp giữa tiền kiểm với
hậu kiểm, cơ quan có thẩm quyền xét duyệt hồ sơ đăng ký, đồng thời kiểm tra
việc áp dụng ĐKGDC đã được chấp nhận trên thực tế.
Trong hoạt động cho vay của NHTM, các NHTM cũng có xu hướng
ban hành các điều kiện giao dịch chung để áp dụng chung đối với tất cả các
khách hàng vay vốn, trong đó có khách hàng vay vốn là cá nhân.
Xuất phát từ khái niệm chung mang tính bản chất về kiểm soát điều
kiện giao dịch chung đã được phân tích ở trên, có thể đưa ra định nghĩa về
kiểm soát điều kiện giao dịch chung đối với khách hàng cá nhân trong hoạt
động cho vay của NHTM như sau:
Kiểm soát điều kiện giao dịch chung đối với khách hàng cá nhân trong
hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại là việc Nhà nước sử dụng các
biện pháp khác nhau theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người tiêu dùng – khách hàng cá nhân trong quan hệ tín


×